Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.55 KB, 21 trang )

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ
VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA NÓ
Tác phẩm Hàn Phi Tử là một tác phẩm độc đáo, và là công trình
quan trọng nhất của chính trị học Trung Hoa, là một trong những tác phẩm
đầu tiên của chính trị học thế giới. Về tư tưởng nó xác lập trường phái pháp
gia, một trong bốn trường phái lớn nhất của Trung Quốc (Nho, Pháp, Mặc,
Đạo). Nó là một trong những công trình cực kỳ hấp dẫn, viết cách đây
2.300 năm nhưng ai cũng giật mình về tính thời sự của nó, ta có cảm tưởng
tác giả là người hiện nay, nói bằng ngôn ngữ và cách lý luận hôm nay về
cách quan hệ giữa người với người, không chỉ ở Trung Hoa mà cả thế giới,
trong đó có Việt Nam. Đó là một con người có đầu óc lỗi lạc của Trung
Hoa và của xã hội loài người. Ngày nay chúng ta nghiên cứu tư tưởng Hàn
Phi vẫn thấy những tác nhân hợp lý của nó, vẫn đầy tính thực tiễn trong đời
sống xã hội, trong ứng xử giữa người với người, trong quản lý và thuật trị
mới. Tư tưởng của ông tồn tại lâu như vậy đó là vì nó có tính giáo dục sâu
sắc, dạy đời, dạy người sống tốt đời đẹp đạo, có lý có tình, trên cơ sở vận
dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn cuộc sống.
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Hàn Phi Tử (280 - 232 TCN). Tiểu sử của ông đã được Tư Mã
Thiên để lại trong bộ sử ký. Hàn Phi là công tử nước Hàn nhưng không
phải là người được nối ngôi. Hoàn cảnh ấy đủ giúp Phi ngay từ bé đã thấy
quan hệ vua tôi và cách trị nước. Sau đó ông theo học Tuân Tử, nhà học giả
lớn nhất thời bấy giờ. Hàn Phi tiếp thu Nho giáo, do đó rất thông thạo về
lịch sử.
Cùng học có Lý Tư sau này là thừa tướng nước Tần. Hàn Phi học
rộng, biết sâu, yêu nước, muốn nước Hàn vững mạnh bằng chủ trương pháp
trị, nhưng không thành. Ông viết sách bàn về việc trị nước, sách được dâng
lên Tần Thủy Hoàng. Vua Tần Thủy Hoàng vô cùng khâm phục nói: "Ta
1
được làm bạn với người này thì có chết cũng không uổng". Hàn Phi được
giao làm sứ giả sang nước Tần làm thuyết khách, để cứu nước Hàn khỏi bị


nước Tần tiêu diệt. Tình hình nước Hàn lúc này đã tuyệt vọng. Không ai
nghe lời Hàn Phi khi ông dâng các bài nghị luận của mình. Bấy giờ Tần sắp
đem quân đánh Hàn làm thế nào để cứu được nước Hàn? Phi dâng vua Tần
bài Bảo tồn nước Hàn, ra sức thuyết phục vua Tần đừng đánh nước Hàn. Vì
bài ấy Hàn Phi bị Lý Tư cho là kẻ chỉ mưu lợi cho Hàn mà làm hại nước
Tần. Ông bị giam vào ngục, biết tình thế không thể nào cứu được nước
Hàn. Phi gửi bài lần đầu yết kiến vua Tần. Vua Tần xem xong rất phục, ra
lệnh thả ngay Hàn Phi. Nhưng Lý Tư vốn ghen cái tài của người bạn mà
ông ta thừa hiểu là con người giỏi nhất về chính trị của thời đại, nên bắt Phi
uống thuộc độc chết trong ngục. Phi đón cái chết thế nào cũng đến với kẻ sĩ
biết đề cao pháp luật và thuật trị nước. Ông gửi tất cả tâm hồn và tinh lực
vào tác phẩm Hàn Phi Tử mà ông tin là sẽ sống mãi với đời.
2. Tư tưởng chính trị pháp trị của Hàn Phi và giá trị lịch sử của

Vào thời Xuân Thu - Trung Quốc chia ra hàng trăm tiểu quốc, quan
hệ giữa quý tộc và nhân dân lao động là trực tiếp, xã hội chia ra đẳng cấp,
tôn ty rõ ràng, sự cai trị dựa trên thứ bậc. Pháp luật chỉ áp dụng cho dân
thường, còn đối với đại phu trở lên nếu có sai lầm chỉ khiển trách mà
không trừng phạt. Việc nắm lấy hình phạt và vận dụng nó là quyền của quý
tộc, dân chỉ biết vâng theo. Cái đó gọi là cai trị theo nhân trị. Nhưng nó tất
yếu dẫn đến sự hủ bại của tầng lớp thống trị, dân oán và nước mất. Trước
tình hình ấy xuất hiện yêu cầu nước giàu dân mạnh để thôn tính các nước
khác, làm bá vương, muốn nước giàu binh mạnh phải đề cao pháp luật, đề
cao kẻ chiến đấu và sản xuất, hạ thấp địa vị quý tộc. Trong Thiên Hữu Độ
ông nói: "Không có nước nào luôn mạnh, cũng không có nước nào luôn
yếu, hễ những người thi hành pháp luật mạnh thì nước mạnh, còn hễ những
người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu".
2
Quản trọng là người đầu tiên làm cho nước Tề TCN sáu thế kỷ trở
thành bá khẳng định: Pháp luật là cái quy tắc của thiên hạ, lấy pháp luật mà

trị tội thì dân chịu chết không oán, lấy pháp luật mà định công lao thì dân
được thưởng mà không cho là ân đức. Cho nên quan lại sai khiến dân mà
có pháp luật chống nhau với quan lại. Người dưới lấy pháp luật phục vụ
người trên, bọn dối trá không thể lừa chủ được, bọn ghen ghét không thể có
cái hung ác, bọn xu nịnh không thể khoe cái khéo, ngoài ngàn dặm không
dám làm điều trái.
Đến đời Chiến Quốc, Thương Ưởng ở nước Tần triều đại Tần
Hiếu Công đề cao pháp luật. Luật pháp có từ trước đó nhưng chỉ có tầng
lớp quan lại biết đến, nhưng đến đời Thương Ưởng thì nhà nước cho
công bố rộng rãi và công khai cho mọi người biết trên thân của đỉnh
đồng. Pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng ở nơi của công, hình phạt
chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật,
phạt những kẻ làm trái lệnh. Ông đặt ra quy chế tố cáo lẫn nhau để xét
thực sự, cho các nhà kết thành từng nhóm năm nhà, mười nhà cùng nhau
chịu tội, thưởng hậu mà chắc chắn, hình phạt nặng và dứt khoát. Sử ký
Tư Mã Thiên dùng: "Ưởng sai chia quân thành từng nhóm, năm hộ,
mười hộ, phải kiểm soát nhau vì bị giàng buộc vào nhau. Ai không tố
cáo kẻ gian thì bị chém ngang lưng, ai tố cáo kẻ gian thì cũng được
thưởng ngang với chém đầu quân địch; người che giấu quân gian bị phạt
ngang với người đầu hàng quân địch. Gia đình có hai người con trai trở
lên mà không chia của riêng thì bắt đánh thuế gấp đôi. Ai có công thì cứ
theo bậc mà thưởng, ai đánh nhau về việc riêng thì đều bị hình phạt lớn
hay nhỏ, tùy theo nặng hay nhẹ mà trị. Ai ra sức vào nghề nghiệp gốc,
cày cấy, dệt vải, cung cấp nhiều lúa thì được tha khỏi sưu dịch. Trái lại
ai theo cái lợi trên ngọn (ý nói buôn bán) cùng những người lười và
nghèo thì đều bắt cùng với vợ con làm nô. Định cấp bậc tước trật cao
thấp rõ ràng, ghi tên các ruộng vườn, thần thiếp áo quần theo số liệu
3
từng nhà. Ai có công thì hiển vinh, ai không có công thì tuy giàu có cũng
không được vinh hoa. Như vậy nguyên lý cơ bản của biện pháp Thương

Ưởng: Mọi người bình đẳng trước pháp luật, lấy thưởng phạt làm nguyên
lý trị nước, không cần giáo dục, vì vậy dân chúng dùng sức vất vả mà
không nghĩ ngợi, đuổi theo quân định gặp nguy hiểm mà không lùi. Nhờ
vậy nước giàu, quân mạnh. Đây là mặt tích cực mà chúng ta cần nghiên
cứu phép trị nước, an dân. Có thể nói nó đã tiến bộ so với lúc bấy giờ.
Phái trọng thuật do Thân Bất Hại đề ra. Sử ký Tư Mã Thiên chép: "Thân
Bắt Hại là người đất Kinh, vốn là một viên quan nhỏ ở nước Trịnh, nhờ
có học thuật nên thành thân cận với Hàn Chiều Hầu, Chiêu Hầu dùng
Thân Bất Hại làm tướng quốc. Thân Bất Hại bên trong lo sửa đổi chính
sự, giáo lễ, bên ngoài lo đối phó với chư hầu suốt mười lăm năm cho đến
khi Thân Tử mất, nước được bình yên, binh mạch, không nước nào xâm
lấn nước Hàn. Trong thuật là đề cao mưu thuật chính trị là biết cách làm
thế nào để ông vua điều khiển được quần thần, khống chế được các quan.
Thưởng phạt theo chức trách, làm vượt chức trách cũng bị phạt.
Phái trọng thế do Thận Đáo đề ra. Trọng Thế là đề cao địa vị quyền
lực của vua. Tư tưởng này của Thận Đáo trái với quan điểm của Khổng -
Mạnh, vì hai ông này cho rằng vua là người có tài năng đức độ nhất (Đức
Trị của Nho giáo). Thận Đáo cho rằng không cần đức lắm vì ít có người tài
đức vẹn toàn (xã hội đang đại loạn) mà chỉ cần tài đức trung bình trở lên
nhưng phải cho họ có thế. Ông ví dụ: Con rồng sở dĩ là rồng vì nó ở trên
cao, có mây ngũ sắc nâng đỡ, nên nó rất oai phong và được kính nể, còn
nếu bò dưới đất thì nó chỉ là con rắn thường, không ai biết đến cũng giống
con giun vậy. Tài đức như Khổng Tử mà còn không được làm vua, trong
khi đó tài đức vua nước Lỗ kém xa Khổng Tử nhưng lại làm vua. Như vậy
thế là rất quan trọng, muốn cai trị nước phải có quyền thế, có thực lực.
Thân Tử nói Nghiêu mà là kẻ thất phu thì không cai quản được ba người,
còn Kiệt làm thiên tử thì có thể làm loạn cả thiên hạ. Ta căn cứ vào đó thì
4
biết cái thế và địa vị là đủ để cậy nhờ, còn sự khôn ngoan sáng suốt không
đủ cho ta hâm mộ.

Hàn Phi Tử là người kết hợp cả ba phái: Pháp - Thuật - Thế. Trong
hoàn cảnh xã hội lúc đó Phi đau xót: Các vua chúa, trước hết là nước Hàn
chẳng lo soi sáng pháp chế, nắm lấy cái thế để chế ngự bầy tôi, lo cho nước
giàu dân mạnh, dùng những người tài giỏi, trái lại họ nghe theo bọn sâu
mọt làm hại nước. Ông có sẵn kiến thức vô cùng uyên bác để tiếp thu Tuân
Tử, ông kiểm soát lại tình hình chính trị của các thời đại, lý giải tại sao
nước này mạnh, nước kia yếu, thời kỳ này cường thịnh thời kỳ kia suy đồi.
Ông thấy lý do là rất đơn giản. Những người nhà vua cần dựa vào để bảo
vệ đất nước là những người tài giỏi, binh sĩ, người cày thì vứt bỏ. Trái lại
nhà vua lo nuôi bọn lừa dối, làm hại đến nước, không ai chịu xây dựng một
kỷ cương, pháp luật để làm cho dân giàu nước mạnh và chỉ vâng theo ham
thích nhất thời. Càng hiểu được sự thực ông càng thất vọng. Ông phẫn uất
trong cảnh cô độc, thấy cái khó trong việc nói sự thực. Phi là người có tật,
ông nói ngọng - không thành công trong việc nói, ông dốc hết tâm trí vào
việc viết, mong để lại cho đời sau các học thuyết mà ông tin là sẽ làm cho
dân yên nước mạnh.
Việc pháp gia chọn phương pháp - pháp trị không phải xuất phát từ
ý muốn chủ quan mà xuất phát từ những tiền đề lý luận, tiền đề lịch sử xã
hội quan niệm về đạo đức luân lý nhất định. Đó là bản tính ác của con
người được khởi xướng từ Tuân Tử mà Hàn Phi đã vận dụng phép trị nước
của mình.
Hàn Phi lý luận: Sự thay đổi về dân số và số lượng của cải trong xã
hội. Đàn ông không cần cày cấy vì đã có sản phẩm cây cỏ đủ ăn, đàn bà
không cần dệt vải vì đã có lông chim, da thú để mặc, lúc đó người ít, của
cải dư thừa, mọi người không tranh giành nhau nên không cần thưởng phạt,
lúc ấy con người cai trị tự nhiên. Khi con người đã đông (chúng ta vẫn nói
5
người khôn, của khó) của cải ít đi, mọi người làm việc vất vả mà vẫn không
đủ ăn, cho nên phải tranh giành nhau, cướp giật, gây chiến tranh lúc này
phải cần đến pháp luật.

Trong pháp luật thì thưởng phạt là công cụ quan trọng nhất, dân dù
đông bao nhiêu cũng trị được đó là lợi thế của pháp trị so với nhân trị.
Ở thời Xuân Thu - Chiến quốc Pháp gia đã hình thành nên 4 phái
cơ bản: Phái Trọng Thực của Lý Khôi, phái Trọng Thế của Thận Đáo,
phái Trọng Thuật của Thân Bất Hại, phái Trọng Pháp và biến pháp của
Thương Ưởng.
Tư tưởng pháp trị được hình thành bởi Hàn Phi. Ông đã tập hợp ba
quan điểm Pháp - Thế - Thuật thành một học thuyết có tính hệ thống trên
nền tảng học thuyết về "đạo", "vô vi" của Lão giáo, tư tưởng "chính danh",
"tôn quân" của Nho gia. Trong đó "Pháp" là nội dung của chính sách cai trị,
"thế" và "thuật" là phương tiện để thực hiện chính sách đó.
Pháp gia kế thừa tư tưởng "chính danh" của Nho gia ở chỗ nếu Nho
gia "chính danh" là danh và thực phải đi với nhau mỗi người đều phải làm
tròn bổn phận của mình, phải có suy nghĩ, việc làm, hành động Đúng với
danh phận. Theo Nho giáo có "Nhân", có "Lễ" và "chính danh" thì là tốt, xã
hội ổn định.
Pháp gia kế thừa "chính danh" trên cơ sở danh và thực phải đi đôi
với nhau. Nhưng ai ở phận nào chỉ được làm tròn ở phận ấy, không được
làm quá bổn phận của mình, ai làm không được hay quá bổn phận đều bị
phạt chỉ được làm đúng chức trách được giao. Pháp gia kế thừa tư tưởng
"vô vi" của Lão Tử ở nhiều lĩnh vực trong pháp, Thuật, Thế. Theo Lão Tử
"Đạo" "Vô vi" là không, hữu là cố, vô là không và ở giữa không và có. Tư
tưởng của Lão Tử vĩ đại ở chỗ. Cai trị, mà không gì không cai trị cả thế
mới là cai trị. Pháp gia kế thừa trong "thế" tức là uy quyền, thế lực làm cho
người khác phải sợ đó là cái "Vô". Còn "thuật" là mưu mẹo là cái giấu kín
ở trong bụng không để người khác biết đó cũng là cái "Vô" trong thuật.
6
Pháp Hàn Phi kế thừa tư tưởng của Lão Tử trong thi hành pháp luật.
Lão Tử nói trị nước như cá củ nhỏ nếu cứ lật đi lật lại thì cá sẽ nát. Phép trị
nước nếu thay đổi liên tục thì dân không biết đâu mà theo, nước sẽ loạn.

Tư tưởng chính trị cơ bản của Hàn Phi có thể tóm tắt theo những
nét chính sau đây:
Thứ nhất; Tư tưởng coi trọng pháp luật
Theo Hàn Phi, việc dùng pháp luật là tất nhiên bởi vì bản tính người
không phải là thiện, số người thiện tuy có nhưng ít, chờ người ta làm điều
thiện không phải là cách cai trị hiệu quả, vừa phải dùng pháp luật để khiến
người ta không làm điều ác. Hàn Phi khẳng định tầm quan trọng của pháp
luật: "Bỏ pháp luật và thuật trị nước mà lấy cái tâm để trị thì Nghiêu cũng
không chỉ chỉnh đốn được một nước. Bỏ cái quy, cái củ mà lấy ý mà đo đạc
bừa thì Hề Trọng (quan coi xe cộ của Hạ Vũ) không thể làm thành một
bánh xe. Bỏ thước tấc để so sánh cái dài, cái ngắn, thì Vương Nhĩ (tên
người vợ khéo ngày xưa) không thể nêu được chỗ ở giữa. Nhưng nếu một
ông vua trung bình nắm lấy pháp luật mà trị nước, một người thợ vụng giữ
cái quy, cái củ, cái thước, cái tấc, thì vạn điều không sai một điều. Kẻ làm
vua chúa nếu có thể bỏ được các điều mà người giỏi cũng không làm được,
để giữ cái mà người vụng làm vạn điều không sai một thì sức người dùng
được hết mà công danh được xác lập" [4, tr. 252] pháp luật phải công khai:
"Pháp luật là cái chép để ở trong sách vở, đặc nơi cửa công, ban bố cho
trăm họ". Đã lập pháp luật thì cả nước đều biết, không ai được tự ý thay
đổi: "Pháp luật không hùa theo người sang. Sợi dây dọi không uốn mình
theo cây gỗ cong. Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không thể từ,
kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ đại thần,
thưởng cái đúng không bỏ kẻ thất phu. Cho nên đều sửa chữa được sự sai
lầm của người trên, trị được cái gian của kẻ dưới, trừ được loạn, sửa được
điều sai, thống nhất đường lối của dân không gì bằng pháp luật" [4, tr. 62].
7
Có pháp luật rồi để khen thưởng hay trừng phạt thì phải xét cái sự
thực đã làm ra (hình) và tên gọi của công việc (danh) có phù hợp với nhau
không. Điều này đã được Hàn Phi nêu rõ: "Bậc làm vua muốn cấm chuyện
gian tà thì phải xét kỹ tên gọi và việc làm xem có hợp với nhau không, phải

xét xem việc làm có hợp với lời nói không. Bằng lời trình bày lời nói mà
giao công việc, rồi căn cứ vào công việc mà xét kết quả. Nếu kết quả phù
hợp với việc làm, việc làm phù hợp với lời nói thì thưởng. Nếu kết quả
không phù hợp với việc làm, việc làm không phù hợp với lời nói thì phạt" [4,
tr. 65].
Ông vua có hai cái quyền thưởng và phạt Hàn Phi gọi đó là "hai cái
cán" mà ông vua không thể trao cho ai. Cái thế của ông vua là ở đấy. Ông
vua phải thưởng, phạt nghiêm mà giữ lấy cái thế của mình, ông nói: "Bậc
vua sáng suốt sở dĩ lãnh đạo và chế ngự được bầy tôi chẳng qua chỉ nhờ hai
cái cán mà thôi. Hai cái cán ấy là hình và đức" [4, tr. 63]. Hàn Phi đề cao
đến mức tuyệt đối hóa việc thưởng phạt: "Giết chóc gọi là hình phạt, khen
thưởng gọi là ân đức. Kẻ làm tôi sợ bị giết, bị phạt mà có lợi ở chỗ được
khen thưởng. Cho nên kẻ làm vua nếu tự mình dùng hình phạt và ân đức thì
bầy tôi sợ cái uy của nhà vua mà chạy theo cái lợi của họ" [4, tr. 63]. Ông
còn so sánh nếu quyền uy này lọt vào tay của bề tôi, không khác nào hổ
trao nanh vuốt cho chó, khi đó hổ lại phải phục tùng chó. Ông dùng hình
ảnh rất cụ thể, dễ hiểu để nói lên triết lý cuộc sống. Ông vua dùng hình phạt
và ân đức để khống chế bầy tôi, nay ông vua bỏ hình phạt và ân đức của
mình để trao cho bầy tôi sử dụng thì ông vua sẽ bị bầy tôi khống chế. Ông
đưa ra hai ví dụ trong lịch sử để khẳng định hình và đức phải đi đôi với
nhau, người cầm quyền phải giữ được tôn hai quyền ấy nếu không sẽ bị
mất quyền lực.
Ví dụ thứ nhất là vua để cho người khác lấn mình việc khen
thưởng: "Điền Thường ở trên thì xin trước lộc để ban cho quần thần, ở dưới
làm những đấu hộc lớn hơn đấu hộc thưởng để làm ơn với trăm họ (Điền
8
thường cho vay thì dùng đấu lớn, người ta trả thì đong bằng thứ đấu nhỏ
nên người Tề quý ông ta). Thế là Tề Giản Công đã bỏ mất ân đức mà Điền
Thường lại dùng cái ân đức ấy. Cho nên Từ Giản Công bị giết.
Ví dụ thứ hai là một ông vua buông lơi việc kỷ luật, trao vào tay

người khác quyền này mà bị cướp mất ngôi báu: Tử Hãn nói với vua Tống:
"Việc khen thưởng và tăng cấp là điều dân chúng thích xin bệ hạ tự làm
lấy. Việc giết chóc và dùng hình phạt là điều dân chúng ghét, thần xin nhận
làm". Do đó, vua nước Tống bỏ mất hình phạt để giao cho Tử Hãn sử dụng.
Kết quả vua Tống bị cướp ngôi. Điền Thường chỉ dùng ân đức mà Giản
Công bị giết, Tử Hãn chỉ dùng hình phạt mà vua Tống bị cướp ngôi. Như
vậy pháp là căn cứ khách quan để định rõ danh phận, phải trái, công tội từ
đó mọi người biết rõ bổn phận của mình tất cả cứ đúng mực thước, đúng
pháp luật mà làm thì xã hội ổn định.
Thứ hai: Trọng thuật
Hàn Phi phê bình Thương Ưởng rằng, chỉ có pháp luật nhưng
không có thuật thì không biết rõ kẻ gian. Dù pháp luật có tô vẽ giải thích ra
rõ mười phần, người làm tôi vẫn ngược lại dùng nó để làm chỗ dựa để mưu
đồ lợi riêng Do vậy người làm chúa phải có "thuật", theo Hàn Phi
"Thuật" là cái nằm kín đáo trong bụng, để so sánh các đầu mối của sự việc
và ngấm ngầm cai trị các bề tôi. Dùng "Thuật" thì làm cho kẻ thân gần gũi
cũng không ai biết được. Dùng "Thuật" để biết tính trung hay gian của "bầy
tôi", do đó mà điều khiển được "bầy tôi", "bầy tôi" không làm hết trách
nhiệm của mình hay vượt quá trách nhiệm của mình đều bị xử phạt. Dùng
"Thuật" cũng biết được "công", "danh", "lời nói", "việc làm" của "quần
thần". Những cái đó không xứng với nhau cũng bị phạt. Thuật còn là sử
dụng nhân tài của các bậc đế vương. Thực chất "thuật" của Hàn Phi chỉ là
thủ đoạn của "người làm vua" dùng để điều khiển cho các quan lại phải giữ
gìn pháp luật và tuân theo mệnh lệnh. Nhưng thuật của Hàn Phi là phải đi
kèm với tính chất và hiệu lực của pháp luật.
9
Theo Lão Tử: Thuật vô vi là lý thuyết của ông. Nhưng Đạo đức kinh
của Lão Tử thuần túy là tác phẩm tư biện, Hàn Phi đã biến thành tác phẩm
thuần túy thực dụng, chứa đựng toàn mánh khóe mưu mô. Đây cũng là đóng
góp riêng của ông về thuật trị nước. Hàn Phi chỉ rõ "vô vi" là danh từ kép "cái

làm của cái vô", cái vô cũng không có gì bí hiểm, đó là cái lẽ tự nhiên, khách
quan của sự vật, do đó mà thực tế có vẻ như không làm cái gì hết. Con người
là ích kỷ, ham lợi, sợ trừng phạt đó là cái lẽ tự nhiên. Con người "vô vi" chấp
nhận các quan hệ khách quan, không việc gì chống lại nó. Anh ta đạt đến cái
lợi của mình bằng cách sử dụng các quan hệ ấy theo lợi ích của mình. Hàn Phi
viết: "Trời có cái lẽ tự nhiên của nó, con người có cái lẽ tự nhiên của nó. Mùi
thơm, vị ngon, rượu nồng, thịt béo làm ngon miệng nhưng sinh bệnh cái
quyền không nên lộ ra, bản chất của nó là vô vi. Bậch thánh nhân nắm lấy cái
chủ yếu, bốn phương đến phục dịch. Mình hư tâm (không có thành kiến) đối
xử, người ta tự họ thi hành. Bốn biển đã đầy đủ, do âm mà thắng dương.
Những người xung quanh đã xác lập xong, mở cửa để đón tiếp. Nói chung sự
vật đều có chỗ thích nghi của nó, mỗi người đều đứng vào chỗ đứng của mình
cho nên trên dưới vô vi. Khiến con gà gáy sáng, khiến con mèo bắt chuột, mọi
vật đều dùng cái tài của nó cho nên trên dưới vô sự" [4, tr. 67 - 68].
Thuật dùng người: Vua dùng bầy tôi theo cách chính danh, căn cứ
vào đó để thưởng, phạt, tức là lời nói, việc làm của bầy tôi phải tương
xứng. Nói mà không làm cũng như làm mà không nói. Làm không hết chức
trách cũng có tội như làm quá chức trách: "Khi bậc vua sáng nuôi bầy tôi,
bầy tôi không được vượt quá chức quan để có công lao, không được nói
những lời không đúng chỗ, vượt qua chức quan thì chết. Nói những lời
không đúng chỗ thì bị tội. Nếu những người làm quan nói những lời nào
cũng xác thực thì bầy tôi không thể kết bè, kết đảng với nhau được" [4, tr.
66]. Hàn Phi còn nêu rõ bảy thuật làm cho an và sáu đường làm cho nguy.
Ông phân tích từng thuật để thấy rõ từ cái lợi, cái hại của nó. Chẳng
hạn như: Tập hợp sự khôn ngoan. Tập hợp những người khôn để hỏi thì
10
những người không khôn sẽ trở thành khôn. Hiểu sâu một vật thì những
điều kín đáo đều biến mất.
Thứ ba là Trọng Thế
Hàn Phi cho rằng chỉ có hai điều "pháp luật" và "thuật" mà thiếu

quyền lực để cưỡng bức người thì dẫu người làm vua có "thuật" điều khiển
các "bầy tôi", cũng không thể bảo đảm cho "bầy tôi" phục tùng sự cai trị
của vua. Đồng thời dẫu có pháp luật nhưng nhân dân không tuân theo cũng
không thể đảm bảo cho pháp luật được thực hiện có hiệu lực. Cho nên ông
cho rằng "Thế" là điều đặc biệt cần thiết. Quan niệm về "Thế" của Hàn Phi
là một thứ quyền lực đặt ra cho phù hợp với yêu cầu của pháp luật chứ
không phải thứ quyền lực nảy sinh một cách "tự nhiên" trong "chủ nghĩa
nhân trị". "Thế" còn là vị thế, địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu
chính thể, là xu thế của lịch sử. Ông ví Ngựa trở được nặng và đi được xa
là vì sức gân, chúa chinh phục được vì có uy thế.
Mối quan hệ giữa "Thuật" và "Thế":
"Thuật" và "Thế" quan hệ chặt chẽ với nhau: Một nước là gì? là cái
xe của nhà vua, "Thế" là gì? là ngựa của nhà vua. Không có thuật để điều
khiển xe ngựa ấy, dẫu cho thân vất vả, cũng không tránh khỏi loạn, có thuật
để điều khiển xe ngựa ấy, thân vẫn ở nơi an nhàn mà lại được công to bằng
các bậc đế vương. Quan hệ giữa "thế" và "pháp":
Theo Hàn Phi nếu cái thế (quyền lực) nằm trong tay người kém
cũng có thể làm rối loạn pháp luật và gây tai họa cho nước. Cho nên quyền
lực (thế) được đặt ra cho những "người trung bình". "Pháp" và "Thế" không
tách rời nhau. "người trung bình" là người ở giữa người tài giỏi (như
Nghiêu, Thuấn) và người kém (như Kiệt Trụ) và biết giữ gìn "Pháp" và
"Thế" thì nước yên trị, nếu trái "pháp", bỏ "thế" thì nước nổi loạn.
Thưởng phạt là công cụ rất quan trọng. Vì vậy nếu thưởng phạt
không thỏa đáng sẽ không răn được ai và xã hội sẽ loạn. Nhưng để có được
11
thưởng phạt thỏa đáng thì phải có các tiêu chuẩn phải trái, khen chê được
đặt ra như những mực thước quy củ.
Theo Hàn Phi, hình phạt nghiêm khắc sẽ loại bỏ được sáu hạng
người: bọn hàng giặc chạy dài, sợ chết, bọn tự cao học đạo, tự lập ra các học
thuyết và bọn lìa xa pháp luật, bọn ăn chơi xa xỉ, bọn bạo ngược, ngạo mạn,

bọn dung thứ lũ giặc, giấu giếm kẻ gian, bọn nói khéo, khoe khôn dối trá.
Dùng hình phạt nghiêm là để khuyến khích sáu loại người: Những
người lăn mình vào chốn hiểm nghèo, hy sinh thành thực, những người ít
nghe lời bậy, tuân theo pháp luật, những người dốc hết sức mà làm ăn, làm
lợi cho đời, những người trung hậu, thật thà ngay thẳng, hiền lành, những người
trọng mạng mình, những người giết giặc trừ gian, làm sáng tỏ lệnh trên.
Học thuyết pháp trị của Hàn Phi lấy pháp luật làm công cụ trị nước
là phù hợp với xu hướng thống nhất, trên cơ sở thiết lập chế độ phong kiến
chuyên chế Trung ương tập quyền của giai cấp địa chủ phong kiến mới,
phủ định hình thức chính trị địa phương, phân tán và phong tỏa địa phương
của tầng lớp phong kiến cũ. Lý luận này đã có tác động chỉ đạo cả một thời
gian dài trong các chế độ chính trị chuyên chế về sau.
Sở dĩ học thuyết của Hàn Phi có giá trị trong công cuộc trị nước đã
được Tần Thủy Hoàng áp dụng và đã thống nhất được Trung Quốc là vì
ông đã tổng hợp được ba học thuyết Nho, Lão, Pháp mà ở đó Nho là tài
liệu xây dựng, pháp là bản thiết kế, lão là kỹ thuật thi công của ngôi nhà đó.
Trong tác phẩm Hàn Phi Tử có 20 quyển được chia thành 55 thiên,
mỗi thiên có những nội dung khác nhau nhưng đọc và suy nghĩ thì chúng ta
thấy tuy tác phẩm của ông đã viết cách đây 2.300 năm nhưng vẫn còn giá
trị cho đến ngày hôm nay.
Chẳng hạn ở quyển V, thiên XV: Những điềm mất nước Hàn Phi đã
đưa ra 47 điềm cảnh báo, điềm 1 nói chung, khi nước của nhà vua thì nhỏ
mà các nhà riêng thì lớn, quyền mình thì ít mà bầy tôi thế mạnh thì có thể
12
mất nước. Ý nói đến lợi ích cá nhân nhiều hơn việc nước thì mất nước điều
này cũng cho chúng ta liên tưởng đến xã hội của chúng ta hôm nay, khi mà
một số quan chức giàu lên nhanh chóng, số nhân dân lao động nghèo khó
lại tăng lên, nguy cơ cảnh báo xã hội không ổn định, nếu Nhà nước không
có những chính sách hợp lý. Điềm 19 có ghi nước nhỏ mà không chịu nhún
nhường, sức yếu mà không sợ nước mạnh, vô lễ làm nhục nước láng giềng

lớn; tham lam bướng bỉnh lại vụng giao thiệp thì có thể mất. Điều này cũng
giúp chúng ta vận dụng trong chính sách ngoại giao hiện nay nhất là chính
sách đối với các nước lớn. Nếu chúng ta không linh hoạt, mềm dẻo thì
những vấn đề bất lợi vẫn có thể xảy ra. Trong những năm gần đây nước ta
đã có sách lược ngoại giao mềm dẻo, Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả
các nước trên thế giới. Quan hệ với Trung Quốc chúng ta thực hiện 16 chữ
vàng. Song đất nước ta còn khó khăn do ảnh hưởng của hai cuộc chiến
tranh kéo dài, việc phát triển kinh tế là rất cần thiết đòi hỏi chúng ta cần
phải có những quyết sách đúng đắn hơn nữa.
Điềm 41 ghi kho nhà nước trống rỗng mà quan đại thần nhiều của
cải. Các hộ dân trong nước nghèo mà dân trú ngụ giàu. Kẻ sĩ lo cày và
chiến đấu thì nghèo, dân làm nghề ngọn được lợi thì có thể mất. Câu này
liên tưởng đến chúng ta hiện nay, với 80% nhân dân lao động của chúng ta
còn khó khăn, vất vả đầu tắt mặt tối nhưng chỉ tạm đủ ăn, trong khi chi phí
tiêu dùng lại quá lớn, tiền con cái học hành, ốm đau trong khi đó một bộ
phận nhỏ cán bộ làm ở vị trí hậu hĩnh lại giàu có, làm nhức nhối trong xã
hội, một số doanh nghiệp thì chỉ lo bóc tách của nhà nước chứ không lo sản
xuất hàng hóa đây cũng là điều chưa tốt cho xã hội chúng ta hôm nay.
Trên đây chỉ là một vài điểm được minh chứng để làm rõ thêm tư
tưởng của Hàn Phi về những điềm ông đã cảnh báo. Những điềm mất nước
đó không phải là nói rằng thế nào cũng mất nước, mà là có thể mất. Hai
Nghiêu không thể cùng làm cho nhau thành vương. Hai Kiệt không thể làm
13
cho nhau mất. Cái then chốt khiến cho nhà vua mất nước là ở chỗ nơi trị
nơi loạn, nơi mạnh nơi yếu khác xa nhau.
Cây gỗ bị gãy thế nào cũng có mọt ở trong. Cái tường bị đổ thế nào
cũng có lỗ hở ở trong. Thế nhưng cây gỗ tuy bị mọt nhưng không có gió
mạnh thì không gãy. Cái tường tuy có chỗ hở nhưng không có mưa to thì
không đổ. Bậc vua chúa có muôn cỗ xe, biết dùng thuật trị nước thi hành
pháp luật để làm mưa làm gió đối với những ông vua có điềm mất nước thì

việc thôn tính thiên hạ là không khó vậy.
Cũng ở Quyển V thiên XVI ông có nói ba điều phải giữ. Ba điều
này ông cảnh báo cho nhà cầm quyền phải giữ nếu không trọn vẹn thì ba
điều ức hiếp nảy sinh. Ba điều phải giữ đầy đủ thì ba điều ức hiếp bị ngừng
lại. Ba điều ức hiếp bị ngừng lại thì làm vương vậy.
Quyển V thiên XVII đề phòng bên trong có ý nêu bậc vua sáng
không làm những việc mà mình không kiểm tra được, không ăn thức ăn
khác thường, nghe và nhìn gần để xem xét những sai sót bên trong và bên
ngoài. Xét những lời giống nhau và khác nhau để phân biệt bè đảng. Xét
điều xiên điều không nên để biết được sự thực trong việc trình bày, nắm lấy
cái sau để cho ứng với cái trước. Dựa vào pháp luật để cai trị mọi người.
Tập hợp cái điều mới để xem xét. Không thưởng kẻ sĩ vì mình yêu. Không
thưởng vượt quá việc đã làm, giết thì phải cho đúng. Kẻ có tội thì không
tha. Như vậy thì bọn gian tà mới không có cách nào che giấu điều riêng tư
của họ được.
Sưu dịch nhiều thì khổ sở. Đâu khổ sở thì kẻ có quyền thế nổi lên.
Kẻ có quyền thế nổi lên thì việc sưu dịch càng nặng. Việc sưu dịch càng
nặng thì kẻ sĩ càng giàu sang, làm dân khổ sở mà những kẻ giàu sang nổi
lên, trao cái thế cho bọn bầy tôi, đó không phải là cái lợi lâu dài của thiên hạ.
Nước thắng được lửa, điều đó đã rõ, nhưng lấy cái nồi để ngăn
nước lại thì ở trên nước sôi, bốc hơi cho đến cạn, nhưng ở dưới lửa vẫn cứ
14
cháy rần rật, vì nước không có cái thế để thắng lửa. Nay việc cai trị thì
thắng bọn gian tà, điều đó càng rõ hơn nữa. Nhưng những bầy tôi giữ pháp
luật lại làm thành cái nồi cho nên pháp luật chỉ sáng rõ ở trong bụng mà bỏ
mất cái thế ngăn cấm gian tà.
Theo những lời thượng cổ để lại, những lời sách Xuân Thu chép thì
những kẻ phạm pháp, làm chuyện bạo nghịch thành bọn đại gian xưa nay
đều xuất phát từ những bầy tôi được tôn quý. Thế mà những kẻ pháp lệnh
đề phòng, hình phạt giết chết, thường là ở địa vị thấp hèn. Cho nên dân

chúng tuyệt vọng, không biết kêu vào đâu. Điều này vẫn còn có ý nghĩa hết
sức thực tiễn đối với việc sử dụng con người hiện nay, nhất là chọn những
người vào những công việc quan trọng. Trong công tác tổ chức cán bộ của
chúng ta hiện nay đã có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bổ nhiệm, về lý
thuyết thì tốt nhưng trong thực tế thì còn phải làm tốt hơn.
Các quan đại thần bè đảng với nhau, bên trong cùng nhau che đậy
nhà vua, làm lợi cho nhau, bên ngoài thì giả vờ ghét nhau để tỏ ra vô tư,
cùng làm tai mắt cho nhau để rình mò chỗ sơ hở của nhà vua. Nhà vua bị
che đậy không có cách nào nghe được, tuy có cái tiếng là chủ nhưng không
có cái thực, bầy tôi nắm lấy pháp luật mà thi hành. Tình hình thiên tử nhà
Chu là như thế. Nếu cho mượn quyền thế của mình thì trên và dưới. Thay
đổi địa vị cho nên nói không thể cho bầy tôi mượn quyền thế.
Bậc vua sáng vững chắc ở bên trong cho nên không sai sót ở bên
ngoài. Sai lầm về cái ở gần nhà mà lại không mất cái ở xa là điều không có.
Cho nên nhà Chu cướp được nhà Ân là vì sự sai lầm của triều đình. Ví thử
nhà Ân không có lỗi ở triều đình thì nhà Chu sẽ không dám nhòm ngó đến
sợi lông mùa thu ở biên giới. Còn nói gì đến việc thay đổi địa vị? Đạo của
bậc vua sáng là đúng với pháp luật, pháp luật của ông ta hợp với lòng
người. Cho nên khi cai trị thì theo đúng pháp luật. Liên hệ với chúng ta
hiện nay luật của chúng ta cũng đã có tương đối đầy đủ, nhưng việc thi
15
hành pháp luật thì chưa nghiêm. Nhiều vụ án xử thế nào cũng đúng, các
văn bản dưới luật còn nhiều, còn chồng chéo nhau, tạo ra kẽ hở cho pháp
luật.
Trong Thiên XXVI. Đạo giữ nước
Cái thiện sinh ra như cây cỏ mùa xuân, cái ác chết đi như cây cỏ
mùa thu. Cho nên dân được khuyến khích dốc hết sức mà vui vẻ trong việc
tận tình làm việc. Pháp luật rõ ràng thì người hiền không cướp của kẻ kém,
người mạnh không thể hiếp kẻ yếu. Người đông không thể hung bạo với kẻ
ít. Gửi thiên hạ cho cái phép tắc của Nghiêu thì kẻ sĩ thẳng thắn không bỏ

mất chức phận của mình, kẻ gian không dám cầu mong.
Bậc vua chúa người mà lập ra những điều khó làm để trị tội những
người không làm được thì cái oán giận riêng sẽ sinh ra. Bầy tôi bỏ mất cải
sở trường mà phải phục vụ những việc khó làm thì nỗi oán giận kín đáo
tích tụ lại. Người khó nhọc vất vả không được vỗ về, người buồn bã lo lắng
không được thương xót, khi vui thì khen kẻ tiểu nhân, người hiền và kẻ hư
hỏng đều được thưởng. Khi giận thì hủy báng người quân tử, khiến cho Bá
Di và Đạo Chính đều bị nhục. Cho nên có bầy tôi phản chúa.
Để đánh giá một tác phẩm chúng ta phải xét ở thời điểm đó, xem nó
có những gì đột phá và tiến bộ so với trước đó, nó gợi ý gì cho đời sau, chứ
không nên nói nó đúng hay sai ở ngày hôm nay. Tuy nhiên để đánh giá
khách quan thì ngoài những giá trị tích cực của học thuyết Hàn Phi chúng
ta cần phải xem xét một số hạn chế trong tư tưởng của công.
Một số số hạn chế trong tư tưởng pháp trị của Hàn Phi:
1. Pháp gia chỉ chú trọng đến hành chính, pháp luật và làm thế nào
để quốc gia phú cường chứ không giáo dục dân, bất chấp nguyện vọng của
dân, ông bảo vệ người giàu có và giai cấp quý tộc.
16
2. Ông chỉ nhìn thấy con người ở góc độ vụ lợi, cho đến nhà nước,
theo ông cũng chỉ quy về chủ nghĩa thực dụng, không thấy được lý tưởng
cao đẹp và sẵn sàng quên mình cho lý tưởng ấy của những con người có
tâm có đức.
3. Ông tuyệt đối hóa pháp luật ở những khía cạnh biểu hiện cụ thể
của nó, mà không thấy được còn có những công cụ khác kết hợp để trị
nước, nói như người phương Đông là "thấu tình, đạt lý".
4. Lý thuyết của ông không thể thực hiện được nguyên nghĩa của
nó, khi mà xã hội còn tổ chức theo kiểu quân chủ chuyên chế, vì theo Hàn
Phi, hình phạt không áp dụng đối với vua và thiên tử. Vì vậy Hàn Phi cũng
không thể tìm ra được cơ chế bắt buộc nhà vua phải đề phòng cái họa mà
ông thấy từ trước.

Lý thuyết Hàn Phi được Tần Thủy Hoàng dùng để thống nhất
Trung Quốc. Ở thời Chiến Quốc Trung Quốc bị chia ra hàng trăm tiểu
quốc, xâu xé lẫn nhau chiến tranh đẫm máu. Thanh gươm chuyên chế để
thống nhất Trung Quốc là điều cần thiết để lập lại trật tự xã hội, do vậy
phải giết một người để cứu triệu người là lẽ tất nhiên.
Nước Tần lúc đó không phải là vùng đất trù phú, không phải ở vị trí
trung tâm, không phải là nơi có văn hóa phát triển. Nhưng trong mấy thế kỷ
từ thời Tần Hiếu Công cho tới cuối thời chiến quốc. Nhà Tần lại hội đủ các
điều kiện để chuyển lên chế độ phong kiến Trung ương tập quyền. Về kinh
tế nhà Tần phát triển tư hữu về tư liệu sản xuất, thống nhất đo lường, đặt ra
ngạch thuế khóa thích hợp, do đó kích thích được sản xuất. Về chính trị
thực hiện hai lần biến pháp, tổ chức hành chính theo chế độ quận huyện,
chủ trương mọi quyền tập trung vào ông vua, thực hành chế độ, pháp trị
nghiêm ngặt, làm cho nước có kỷ cương, trật tự, chính quyền có hiệu lực.
Về văn hóa tư tưởng, chủ trương quán triệt văn hóa tư tưởng thực dụng và
bá quyền của phái pháp gia làm cho ai đó cũng thấy chỉ có nỗ lực thì mới
17
có quyền lợi và địa vị. Chính điều đó đã làm cho nhà Tần có sức mạnh và
chuyển lên chế độ phong kiến Trung ương tập quyền. Thống nhất Trung
Quốc về một mối đó chính là hiệu pháp của pháp gia mà nhà Tần đã áp
dụng để Trung Quốc thống nhất trong thời gian (221 - 206 TCN).
Ở Việt Nam sau khi đánh đuổi giặc Minh, giành được độc lập dân
tộc, triều Lê trọng đãi công thần. Các công thần này đại đa số là những
người hiếu học hay ít học, họ nắm giữ trọng trách, mâu thuẫn gay gắt giữ
phái dân sự và phái quân sự. Họ lộng hành và tàn sát lẫn nhau. Vua Thái
Tông, Nhân Tông không đủ khả năng kiềm chế tệ hưởng thụ, tham ô, hối
lộ, lợi dụng chức quyền để trục lợi riêng, diễn ra khá phổ biến trong cả trăm
quan trong điều đình lúc ấy. Trong bối cảnh đó vua Lê Thánh Tông lên
ngôi năm 1460. Ông là vị vua anh hùng tài lược, ông chủ trương và dày
công xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế, đề cao uy quyền và

quyền hành thực tế của ông vua, tăng cường sự chi phối quyền lực của triều
đình xuống địa phương, thực chất là đường lối mà Lê Thánh Tông thực
hiện là "Nội pháp, ngoại Nho". Để củng cố chính quyền, mở mang bờ cõi
thì ông dùng pháp trị, để ổn định trật tự xã hội ông dùng Nho giáo.
Sau mười năm trị vì ngôi báu (1460 - 1470), bằng những biện pháp
trong đó có những biện pháp mang tính cải lương của mình, Lê Thánh
Tông đủ từng bước tập trung được quyền hành, tạo nên sự thay đổi lớn cho
đất nước. Năm 1471 Lê Thánh Tông ban hành hiệu định quan chế, thực
hiện cải cách hành chính triệt để. Cuộc cải cách hành chính này nhằm mục
đích tăng cường quyền lực cho chính quyền Trung ương, xây dựng hệ
thống quyền lực ở các cấp, tăng cường quản lý nhà nước đối với làng xã.
Lê Thánh Tông đề cao tư tưởng pháp trị, thể chế hóa lễ trị. Đi đôi
với việc củng cố bộ máy nhà nước, ông rất coi trọng thể chế pháp luật, ông
chủ trương dùng pháp luật để cai trị đất nước và quản lý xã hội. Năm 1464
ông dụ các quan: "Pháp luật là phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi
phải tuân theo". Về điểm này tư tưởng của ông đã vượt xa tư tưởng của
18
Hàn Phi. Phi cho rằng vua là Thiên tử, là người điều hành pháp luật. Sống
trên pháp luật, luật chỉ áp dụng đối với thần dân. Còn đối với Lê Thánh
Tông thì vua cũng phải tuân theo pháp luật.
Năm 1471 khi ban hành cải cách hành chính, ông có lời dụ: "để cho
lớn nhỏ cùng giàng buộc với nhau, kính trọng cùng kiềm chế nhau, uy
quyền không bị lợi dụng, thế nước vậy là khó lay. Thành thói quen theo
đạo, giữ phép không có lỗi trái nghĩa phạm hình".
Năm 1474 vua lại khẳng định "đặt luật là để trừ gian sao dung được
bọn coi thường pháp luật".
Trong 38 năm cầm quyền của ông là 38 năm "triệu dân vỗ yên, trăm
việc chấn chỉnh, văn hóa rộng ban, vũ công đại định" "mở mang đất đai"
"sáng lập chế độ" như các sử gia phong kiến đã đánh giá trong đại Việt sử
ký toàn thư. Lê Thánh Tông đã ban hành 83 sắc chỉ, chỉ dụ liên quan đến

việc hành chính và thể chế quan chức, mười sắc chỉ về quy định khiếu kiện,
tám sắc chỉ liên quan đến quyền, nghĩa vụ của quan lại trông coi pháp luật,
mười một sắc chỉ về chống tham nhũng, buôn lậu, hối lộ và móc ngoặc.
Năm 1942 đúng vào dịp 500 năm ngày sinh Lê Thánh Tông Bác Hồ
viết cuốn lịch sử nước ta đã ca ngợi ông:
"Vua hiền có Lê Thánh Tông
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành"
Đỉnh cao nhất là năm 1483, bộ quốc triều hình luật mà ta quen gọi
là bộ luật Hồng Đức được chính thức ban hành. Đây là bộ luật tổng hợp
nhiều loại luật (hình sự, dân sự, hôn nhân, tố tụng và gia đình). Nhưng hầu
hết các quy phạm trong bộ luật dù có thuộc lĩnh vực nào cũng được xây
dựng dưới dạng các quy phạm pháp luật hình sự và áp dụng chế tài hình sự.
Bộ luật này có giá trị điều chỉnh các quan hệ xã hội căn bản nhất, trụ cột
nhất tạo nên cơ sở chính trị - xã hội, kinh tế - văn hóa của chế độ nhà Lê
trong một thời gian dài suốt 3 thế kỷ sau đó. Đối với thời Lê Thánh Tông
19
bộ luật tạo ra sự ổn định trật tự xã hội, tăng cường kỷ cương phép nước,
bảo đảm an dân, tạo điều kiện cho sự phát triển đất nước.
3. Kết luận
Học tập nghiên cứu tư tưởng chính trị Hàn Phi chúng ta thấy có
nhiều tác nhân hợp lý có thể vận dụng trong công cuộc đổi mới của đất
nước ta hôm nay. Tác phẩm của ông vẫn còn một số hạn chế do điều kiện
lịch sử lúc đó quy định. Đánh giá một cách khách quan những tác nhân
hợp lý đó, nó đã đóng góp nhiều cho tư tưởng nhân loại. Tư tưởng "Trọng
thế" nhắc chúng ta trong việc giành, giữ thực thi quyền lực chính trị,
"Trọng thuật" nhắc chúng ta khôn khéo, linh hoạt, mềm dẻo trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, cũng như trong đối ngoại, đó cũng là chiến
lược, sách lược ứng xử, trong quan hệ, "Trọng pháp" là mọi người phải
được sống trong một xã hội được điều hành bằng pháp luật, đó là xã hội
văn minh, là xã hội con người đang vươn tới. Mọi người phải được sống

và làm việc theo hiến pháp về pháp luật. Pháp luật càng đầy đủ đồng bộ
thì đất nước đó càng văn minh và người dân ở đó càng được tự do phát
huy những quyền cá nhân và lợi ích hợp pháp của mình. Trong sự nghiệp
đổi mới của đất nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, cùng
với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng đất nước
ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, đời sống và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc. Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh thì chúng ta phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
và nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vững mạnh, làm nền tảng cho
sự phát triển đất nước. Do vậy việc nghiên cứu, tiếp thu kế thừa có chọn
lọc những tư tưởng hình pháp của ông cha ta nói riêng và nhân loại nói
chung. Trong đó có tư tưởng pháp trị của Hàn Phi là một trong những việc
làm có ý nghĩa cần thiết.
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luận ngữ của Khổng Tử.
2. Đạo đức Kinh của Lão Tử.
3. Mặc Tử.
4. Tinh thần pháp luật của Montexkiơ.
5. Khế ước xã hội của Rutxo.
6. Giáo trình chính trị học (Hệ cao cấp lý luận) của Học viện CTQG
Hồ Chí Minh.
7. Thông tin triết học số 8 (135) tháng 8-2002.
8. Thông tin chính trị học số 16, 17, 18, 19 năm 2003.
21

×