Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa qua Cung oán ngâm và Trao duyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.41 KB, 3 trang )

Từ xưa đến nay, thân phận và bi kịch của người phụ nữ luôn là chủ đề cho các tác
phẩm văn học. Những người phụ nữ là những đối tượng vốn bị coi thường và bị áp
bức nặng nề nhất trong xã hội phong kiến, bị bủa vây bởi những tập tục, những
định kiến khắt khe của lễ giáo phong kiến, không chỉ khổ về theer xác lẫn tinh thần
mà còn bị chà đạp, hắt hủi,… Trong những tác phẩm văn học nói về thân phận
người phụ nữ nói chung, có “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều và “Truyện
kiều” của Nguyễn Du.
Cứ nhắc đến thân phận người phụ nữ là ta không thể không nhắc đến hai chữ “bi
kịch”. Có nhiều nguyên nhân để dẫn đến bi kịch của học. Họ không chỉ khổ vì chế
độ nam quyền trọng nam khinh mà họ còn bị tước đạt tình yêu, hạnh phúc hay đau
khổ vì chế độ đa thê, chế độ cung nữ.
Nhìn một cách khái quát, đó là bi kịch của tài sắc, bi kịch của hạnh phúc lứa đôi dở
dang. Tuy nhên, tình cảnh, số phận, nỗi bất hạnh của họ lại có những biểu hiện
khác nhau xuất phát từ thân phận khác nhau.
Đầu tiên phải nói đến “Cung oán ngâm”. Tác giả Nguyễn Gia Thiều xuất thân
trong một gia đình quyền quý, từ nhỏ được chúa Trịnh Doanh đón vào cung cho
học hành, sau này giữ nhiều chức quan. Có lẽ vì thế mà ông mới tận mắt chững
kiến thói hoang dâm vô độ của vua chúa lúc bấy giờ. Người chịu khổ ở đây không
ai khác là những người cung nữ. Người cung nữ trong “Cung oán ngâm” là một
người tài sắc vẹn toàn, lúc đầu được vua sủng ái nhưng sau bị ruồng bỏ. Bi kịch
của nàng là khao khát hạnh phúc lứa đôi nhưng không thành. Ta có thể hiểu rõ bi
kịch của nàng qua những lời ai oán.
Tình cảnh sống của người cung nữ rất lẻ loi, cô đơn
“Trong cung quế âm thầm chiếc bóng
Đêm năm canh trông ngóng lần lần”
“Lầu đãi nuyệt đứng ngồi dạ vũ
Gác thừa lương thức ngủ thu phong
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng
Gương loan bẻ nửa dải đồng xé đôi”
“Thâm khuê vắng ngắt như tờ
Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo”


“Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông”
Các từ ngữ vừa cụ thể vừa mang tính biểu tượng, thể hiện sự cuộc sống sang trọng,
đầy đủ, xa hoa. Nhưng đi kèm với nó lại là những từ như “âm thầm chiếc bóng”,
“Vắng ngắt”,… cho thấy khung cảnh đối lập với tâm trạng. Người cung nữ lẻ loi,
chiếc bóng, cuộc sống cảm thấy vô cùng lạnh lùng. Nàng càng hi vọng vua đến bao
nhiêu lại thất vọng bấy nhiêu
Từ tình cảnh đó, người cung nữ thể hiện rõ tâm trạng của mình, từ sầu đến oán
trách rồi đến oán hận đối với người đã đem đến bi kịch cho mình
Những hình ảnh như trên chính là tâm trạng sầu của người cung nữ. Nang sống
trong cảnh chờ đợi hết ngày này qua ngày khác. Nàng liền tìm cách giải sầu;
“Mùi hương tịch mịch, bóng đèn âm u”
Nàng đốt hương lên nhưng mùi hương lại càng khiến không gian thêm tịch mịch
vắng vẻ hơn. Nàng thắp đèn lên cho sáng nhưng bóng đèn như soi sáng cuộc đời
tăm tối của nàng. Những việc này với mục đích giải sầu nhưng lại khiến nàng sầu
thêm. Từ sầu nàng chuyển sang oán trách nhà vua bằng các câu cảm thán:
“Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi”
“Hoa này bướm nơ thờ ơ
Để gầy bông thắm để xư nhụy vàng”
Đây là tiếng lòng, tiếng than nhà vua chơi khăm chơi ác, chơi hoa rồi bỏ hoa, bạc
tình bạc nghĩa
Những từ ngữ miêu tả trực tiếp trạng thái tâm lí: một mình, tủi, sầu, than, rầu,
buồn, ngán càng nhấn mạnh rõ bi kịch của người cung nữ
Từ oán trách, người cung nữ chuyển sang oán hận
“Giết nhau chằng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa!
Nàng cho rằng nhà vua không giết nàng bằng gươm sắc mà bằng cách giam hãm
cuộc đời người cung nữ. Sau sự oán thán về thân phận bi thả đó, ta cảm nhận được
có một sự phản kháng trong người cung nữ
“Đang tay muốn dứt tơ hồng

Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”
Nàng muốn dứt, muốn đạp, muốn tháo cũi, sổ lồng, thoát khỏi cuộc sống khăc s
nghiệt, vô nhân đạo này. Chính lúc này đây nàng cung nữ nhận thấy rõ cái bi kịch
của cuộc đời mình là do chế độ cung nữ gây ra. Vì chế độ này mà nàng không
được sống trong hạnh phúc lứa đôi như những người phụ nữ ngoài đời khác mà
phải giam hãm tuổi xuân của minh
Nhưng cái bi kịch khát khao về hạnh phúc lúa đôi không thành đâu chỉ xảy ra ở
một bộ phận phụ nữ nào mà xảy ra với nhiều nười phụ nữ không phải là cung nữ
khác. Ví dụ như nàng Kiều. Qua đoạn trích “Trao duyên” của Nguyễn Du, ta cảm
thấy thương cho số phận của Kiều. Đây là đêm cuối cùng Kiều ở lại với gia đình
trước khi bước vào 15 năm lưu lạc. Đêm hôm đó, Kiều đã khóc “Dầu chong trắng
đĩa lệ tràn thấm khăn”. Nàng khóc vì nghĩ mình đã có lỗi với Kim Trong, đã phụ
chàng và thấy thương cho niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi của mình. Khi thúy
Vân tỉnh dậy, Kiều đã quyết định “trao duyên” cho em. Sau khi lạy em, nàng bắt
đầu mở lời nhờ cậy.
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Đứt gánh” thể hiện một sự gian dở, mà ở đây chỉ mối tình của Kim-Kiều. Vì vậy
Thúy Kiều rất khổ đau khi phải nhờ em “chắp mối tơ thừa”. Sau đó nàng kể vắn tắt
lại mối tình với Kim Trog và kể rõ hoàn cảnh của mình. Bi kịch của Kiều là ở chỗ
phải hi sinh tình yêu để vì chữ hiếu.
Cho thấy Kiều đau đớn đến mức nào
Từ đó cho thấy bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến

×