Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VN – Chi nhánh Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.63 KB, 77 trang )

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
MỤC LỤC
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT
CKH Có kì hạn
DN Doanh nghiệp
DPRR Dự phòng rủi ro
GTCG Giấy tờ có giá
HĐV Huy động vốn
KKH Không kì hạn
NHTM Ngân hàng thương mại
NH Ngân hàng
QTK Quỹ tiết kiệm
NHNo&PTNT Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
TT Thông tin
TCTD Tổ chức tín dụng
VN Việt Nam
VHĐ Vốn huy động
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 1: Kết quả tài chính của Chi nhánh NHNo&PTNT Hải Phòng .Error: Reference source
not found
Bảng 2: Kết quả huy động vốn trong giai đoạn 2009 -2012 Error: Reference source not found
Bảng 3: Cơ cấu vốn huy động vốn theo đối tượng khách hàng Error: Reference source not
found
Bảng 4: Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn Error: Reference source not found
Bảng 5: Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền Error: Reference source not found
Bảng 6: Cơ cấu VHĐ theo hình thức huy động Error: Reference source not found
Bảng 7: Chí phsi huy động vốn Error: Reference source not found


Bảng 8: Chi phí huy động vốn bình quân Error: Reference source not found
Bảng 9: Kết quả hoạt động sử dụng nguồn vốn của Chi nhánh Error: Reference source not
found
Bảng 10: Hệ số sử dụng vốn qua các năm Error: Reference source not found
Biểu đồ 1: Lợi nhuận của chi nhánh trong giai đoạn 2009 – 2012 Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2: Sự tăng giảm VHĐ trong giai đoạn 2009 – 2012 Error: Reference source not found
Biểu đồ 3: Tỷ trọng vốn huy động theo đối tượng khách hàng Error: Reference source not
found
Biểu đồ 4: Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn Error: Reference source not found
Biểu đồ 5: Cơ cấu vốn huy động theo loại tiền Error: Reference source not found
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền
tệ, tín dụng, một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế.Việc tạo
lập, tổ chức và quản lý vốn của NHTM là một trong những vấn đề được quan tâm
hàng đầu không chỉ riêng đối với bản thân các NHTM mà còn vì sự phát triển chung
của nền kinh tế.
Ở Việt Nam hiện nay, vốn nổ lên là một yếu tố hết sức nóng bỏng và cấp bách
trong thời kì xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vốn là một trong
những yếu tố dầu vào cơ bản trong quá trình hoạt động kinh doanh của mỗi doanh
nghiệp. Chúng ta cần khẳng định rằng không thể thực hiện đươc các mục tiêu kinh tế
xã hội nói chung của đất nước cũng như các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp
nói riêng nếu như không có vốn.
Đối với các Ngân hàng Thương mại là một chê tài trung gian hoạt động trong
lĩnh vực tiền tệ thì vốn lại có một vai trò hết sức quan trọng, nó là cơ sở trong công tác
tín dụng, là nguông gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của ngân hàng.
Quy mô, cơ cấu và các đặc tính của nguồn vốn quyết định hầu hết các hoạt động

của một ngân hàng thương mại, bao gồm quy mô, cơ cấu, thời hạn tài sản và khả nằng
cung ứng dịch vụ cho nền kinh tế và từ đó quyết định khả năng sinh lời. Trong khi
chưa khai thác được số tiền nhàn rỗi trong các ngân hàng, các tổ chức kinh tế và dân
cư, nhiều ngân hàng vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn vay, kể cả vốn vay của các ngân
hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tài sản; dẫn đến chi phí nguồn vốn
cao, sự ổn định và hiệu quả kinh doanh thấp, chưa phát huy nội lực để phát triển một
cách vững chắc. Hầu hết các Ngân hàng Thương mại Việt Nam đều trong tình trạng
thiếu vốn trung và dài hạn cho nhu cầu đầu tư. Việc thu hút nguồn vốn với chi phí cao,
sự ổn định thấp và không phù hợp với sử dụng vốn về quy mô, kết cấu làm hạn chế
khả năng sinh lời, đồng thời đặt ngân hàng trước rủi ro lãi suất, ruit ro thanh khoản và
hơn thế có thể làm mất ổn định trong toàn bộ hệ thống tài chính như nhiều quốc gia
từng lâm vào. Do vậy yêu cầu nâng cao hiệu quả huy động vốn với mức chi phí hợp lý
và ổn định cao được đặt ra hết sức cấp thiết với hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam hiện nay.Trong thời gian tới để phát huy hơn nữa vai trò của hệ thống ngân hàng
trong nền kinh tế, đồng thời đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường thì việc nâng
cao hiệu quản huy động vốn là vẫn đề quan tâm hàng đầu trong quá trình phát triển
của bất kì NHTM nào.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Hòa mình vào công cuộc đổi mới chng của đất nước Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn VN đã không ngừng phát triển và ngày càng khẳng định mình là
một bộ phận không thể thiêu của nền kinh tế. Với lượng vốn huy động được trong xã
hội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VN đã cung cấp một lượng vốn
lướn trong nền kinh tế. Nhờ đó mà hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế
diễn ra một cách thuận lợi. Vị thế cả ngân hàng ngày càng được khẳng định, uy tín
được nâng cao.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hải Phòng trải qua
nhiều năm đã đạt tăng trưởng đáng kể trong việc mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng hoạt động kinh doanh nhưng thực tiễn đang đặt ra những thách thức mới ở phía

trước. Do ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội địa phương, những khó khăn từ môi
trường kinh tê vĩ mô, từ nội tại của chính ngân hàng và cạnh tranh ngày càng tăng bởi
hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng về huy động vốn như : Bỏa hiểm,
quỹ hỗ trợ phát triển, Bưu điện huy động tiền gửi tiết kiệm, Kho bạc huy động trái
phiếu… Mặt khác Hải Phòng là vùng đất rộng lớn, đang bước vào thời kì xây dựng và
phát triển kinh tế, do vậy nhu cầu về vốn trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong bối
cảnh trần lãi suất cho vay ngày cảng giảm thấp và với những đặc điểm riêng của mình
thì hoạt dộng vốn của chi nhánh NH Nông ngiệp và Phât triển Nông thôn Hải Phòng
cần áp dụng những giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn thích hợp.
Với phương châm hoạt động trong thời gian qua : “Mang phồn thịnh đến khách
hàng” chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng
(AgriBank) cần xác định rõ vai trò là Ngân hàng thương mại lớn nhất, giữ vai trò chủ
đạo, trụ cột đối với nền kinh tế đất nước, đặc biệt đối với nông nghiệp, nông dân, nông
thôn; thực hiện sứ mệnh quan trọng dẫn dắt thị trường; đi đầu trong việc nghiêm túc
chấp hành và thực thi các chính sách của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo của Chính phủ
và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về chính sách tiền tệ, đầu tư vốn cho nền kinh tế.
Và vấn đề đặt cho chi nhánh Ngân hàng Nông thôn và Phát triển Nông thôn Hải Phòng
là: Làm thế nào tìm ra được giải pháp tối ưu nhất để khai thác triệt để nguồn vốn nhàn
rỗi nằm trong dân cư và các thành phần kinh tế để phục vụ cho tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước???
Là một sinh viên chuyên ngành tài chính ngân hàng, bằng những vốn kiến thức
đã tiếp thu tại trường cộng với những hiểu biết có hạn chế từ thực tế trong quá trình
thực tập tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn VN – Chi nhánh Hải
Phòng, em mạnh dạn đi sâu và tìm hiểu đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy
động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VN – Chi nhánh
Hải Phòng” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp của mình.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
2
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
2. Mục đích nghiên cứu.

Khóa luận tập trung nghiên cứu vấn đề cơ bản sau:
- Nghiên cứu những vẫn đề cơ bản về huy động vốn của NHTM trong nền kinh
tế thị trường.
- Phân tích thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Hải Phòng.
- Phân tich những tồn tại, nguyên nhân trong công tác huy động vốn và tìm ra
những giải pháp, đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác huy động
vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hải Phòng
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Khóa luận này tập trung nghiên cứu hoạt động huy động vốn của Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hải Phòng trong giai đoạn 2009 –
2012, từ đó tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng trong
những năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, so
sánh, phân tích, tổng hợp và hệ thống bảng biểu, biểu đồ cho các bước nghiên cứu.
5. Kết cấu khóa luận.
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục các cụm từ viết tắt, khóa luận gồm có 3
chương:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn VN – Chi nhánh Hải Phòng.
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VN – Chi nhánh Hải Phòng.
Sau quá trình nghiên cứu lý luận tại trường học và những kiến thức thực tê trong
quas trình thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam –
Chi nhánh Hải Phòng, qua bài viết này em chỉ mong muốn đóng góp them một số ý
kiến nhỏ vào lời bàn nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn của hệ thống Ngân
hàng Thương mại. Vì đây là một đề tài rất rộng và phức tạp, thêm vào đó thời gian
nghiên cứu tìm hiểu còn ngắn, cùng với khả năng nhận thức của bản thân còn hạn chế,

không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự cảm thông, giúp đỡ của các
thầy cô giáo và các đồng nghiệp có quan tâm đến vấn đề này.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
3
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với sự tận tình hướng dẫn chỉ bảo của
cô giáo Lê Thị Thu Trang và toàn thể các thầy cô giáo trong khoa đã giúp đỡ em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin chân thành gửi lời cám ơn Ban lãnh đạo, các cô chú và các anh chị
trong Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VN – Chi nhánh Hải Phòng đã
tạo mọi điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cám ơn!
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
4
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NHTM
1.1. Tổng quan về NHTM.
Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của
nền sản xuất hàng hóa. Trải qua hàng ngàn trăm năm đến nay hoạt động của các ngân
hàng thương mại đã trưở thành một yếu tố không thể thiếu gắn liền với nền kinh tế
của mọi quốc gia trên thế giới.
1.1.1. Khái niệm NHTM.
Hệ thống NHTM hình thành và phát triển trong một quá trình lâu dài gắn liền với
nhiều hình thái kinh tế - xã hội, nó ra đời dựa trên cơ sở sản xuất và lưu thông hàng
hóa phát triển. NHTM được coi như là một định chế tài chính quen thuộc trong đời
sống kinh tế - xã hội. Khi nền kinh tế càng phát triển thì dịch vụ ngân hàng đi sâu vào
tận cùng ngõ ngách cả nền kinh tế và đời sống con người.
Ngày nay, hoạt động của các NHTM đã trở thành nhân tố không thể thiếu, gắn

liền với nền kinh tê của các quốc gia. Mỗi nước có một mô hình riêng về hệ thống
trung tâm tài chính nhưng các NHTM là một định chế tài chính lớn nhất về cả phạm
vi, đối tượng cũng như các quy mô hoạt động giao dịch và dịch vụ. Bản chất, chức
năng các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng hầu như giống nhau song khái niệm về
NHTM lại không đồng nhất giữa các nước trên thế giới. Để đưa ra được một khái niệm
chính xác và tổng quát nhất về NHTM người ta thường dựa vào tính chất và mục đích
hoạt doongj của nó trên thị trường tài chính.
Ví dụ, theo Luật Ngân hàng của Pháp nắm 1941 định nghĩa: “Ngân hàng là
những xi nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận tiền của công chúng
dưới hình thức kí thác hay dưới hình thức khác, số tiền mà họ dùng cho chính họ vào
các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay theo Luật Ngân hàng
Ấn Độ nắm 1959 định nghĩa: “ Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho
vay hay tài trợ đầu tư”. Và theo Luật Ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa:
“Những nhà băng thiết yếu bao gồm các nghiệp vụ nhận tiền kí thác, buôn bán vàng
bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu,
thực hiện các nghiệp vụ chuyển nhân, đứng ra bảo hiểm…”
Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về khái niệm NHTM nhưng
có một cách định nghĩa chung nhất được nhiều nước trên thế giới sử dụng: “NHTM
là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ,
tín dụng”.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
5
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tại Việt Nam theo pháp lệnh số 38/LTC-DDHNN ngày 30/06/1990 ban hành
pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính.Theo đó NHTM được
định nghĩa như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà nội dung chủ yếu là
nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền này để cho
vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Năm 1997, Luật các tổ chức tín dụng ra đời, tại điều 20 nêu rõ: “Tổ chức tín
dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác

của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung
nhận gửi và sử dụng tiền gửi để cung cấp tín dụng và các dịch vụ thanh toán”.
Năm 2010, Luật các tổ chức tín dụng được sửa đổi, theo điều 4 luật này:
1. Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
dộng ngân hàng . Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
2. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,
các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách,
ngân hàng hợp tác xã.
3. Ngần hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm
mục tiêu lợi nhuận.
Cũng theo luật này điều 98 nêu rõ hoạt động của NHTM bao gồm:
- Nhận tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiêt kiệm và các loại tiền
gửi khác. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn
trong nước và nước ngoài.
- Cấp tín dụng dưới các hình thức sau đây: cho vay; chiết khấu, tái chiết khấu
công cụ chuyển nhượng và GTCG khác; bảo lãnh ngân hàng; phát hành thẻ tín dụng;
bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tê đối với các ngân hàng được phép
thực hiện thanh toán quốc tế; các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được ngân hàng
nhà nước chấp nhận.
- Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng.
- Cung ứng các phương tiện thanh toán.
- Cung ứng các dịch vụ thanh toán sau đây: thực hiện dịch vụ thanh toán trong
nước bao gồm séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ
ngân hàng, dịch vụ thu hộ và chi hộ; thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch
vụ thanh toán khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
6

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Như vậy đặc trưng cơ bản để phân biệt NHTM với các tổ chức kinh té tài chính
khác ở chỗ NHTM kinh doanh tiền gửi, trong đó có tiền gửi không kì hạn và tiền gửi
kì hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các nghiệp vụ kinh doanh
khác của ngân hàng. Chính hoạt động đó đã tạo cơ hội cho NHTM có thể tăng bội số
tiền gửi của khách hàng trong hệ thống ngân hàng của mình.
1.1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
NHTM hoạt động với 3 nghiệp vụ cơ bản: nghiệp vụ tài sản nợ,nghiệp vụ tài sản
có và các nghiệp vụ trung gian khác.Ba nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết tác động
hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển tạo nên uy tín, thương hiệu và thế mạnh cạnh
tranh cho ngân hàng. Các nghiệp vụ này đan xen lẫn nhau trong quá trình hoạt động
của NHTM, tạo nên một chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh.
1.1.2.1. Nghiệp vụ tài sản nợ.
Nghiệp vụ tài sản nợi là nghiệp vụ đầu tiên, chiếm vị trí quan trọng trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng. Nghiệp vụ này phản ánh quy trình hình thành vốn cho
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nghiệp vụ tài sản nợ là nghiệp vụ cơ sở chính
của các khoản cho vay và là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển cả ngân
hàng. Với tư cách là một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng,
việc tạo lập vốn của NHTM càng nắm giữ vai trò quan trọng, chỉ khi ngân hàng có
được nguồn vốn ổn định và đủ lớn thì mới có thể mở rộng được hoạt động sẩn xuất
kinh doanh và đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.
Nguồn vốn của NHTM bao gồm:
• Vốn tự có.
Vốn tự có là nguồn vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng, do vốn ban đầu hình thành
và vốn trong quá trình kinh doanh mà ngân hàng tích lũy được từ lợi nhuận. Theo
khoản 10 điều 4, Luật tổ chức tín dụng 2010: Vốn tự có gồm giá trị thực của vốn điều
lệ của tổ chức tín dụng hoặc vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các
quỹ dự trữ, một số tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Vốn tự có chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định

của vốn tự có nên ngân hàng có thể sử dụng vào các mục đích khác nhau như: tạo nên
tài sản cố định cho ngân hàng, cho vay, tham gia đầu tư góp vốn liên doanh liên kết.
Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được xem là tài sản đảm bảo gây long tin
với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán và là một trong những căn cứ quyết định
đến khả năng và khối lượng vốn huy động của một ngân hàng.
Vốn tự có bao gồm: vốn điều lê, các quỹ dự trữ và các tài sản khác theo quy
định.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
7
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Tùy theo hình
thức sở hữu mà vốn điều lệ của NHTM được hình thành từ các nguông khác nhau.
Đối với NHTM Nhà nước, vốn điều lệ do Ngân sách Nhà nước cấp khi thành lập và
được bổ sung thêm trong quá trình hoạt động. Đối với NHTM cổ phần vốn điều lệ do
các cổ đông đóng góp. Đối với ngân hàng liên doanh thì do các bên liên doanh tham
gia đóng góp.
Vốn điều lệ ít hay nhiều phụ thuộc vào khả năng tài chính của các chủ sở hữu và
quy mô hoạt động của từng ngân hàng nhưng không được thấp hơn mức vốn pháp
định mà luật pháp quy định cho từng loại ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của
ngân hàng có thể tăng thêm vốn điều lệ nhưng phái được sự đồng ý của Ngân hàng
Nhà nước và phải công bố công khai vốn điều lệ mới.
Quỹ dự trữ bao gồm: quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ, quỹ đàu tư phát triển
nghiệp vụ, quỹ dự trữ để bù đắp rủi ro…Việc hình thành các quỹ này làm tăng vốn tự
có, đồng thời đảm bảo góp phần an toàn trong kinh doanh.
Vốn coi như tự có bao gồm: lợi nhuận chưa chi và các quỹ chưa sử dụng như quỹ
phúc lợi, quỹ khen thưởng…
• Vốn huy động.
Đây là lượng vốn mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế - xã hội và
các cá nhân trong xã hội thông qua các nghiệp vụ nhận tiền gửi, tín dụng, thanh toán…
và được dùng để làm vốn kinh doanh. Vốn huy động giữ vai trò rất quan trọng trong

hoạt động kinh doanh của bất kì NHTM nào.
Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền
sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm phải hoàn trả đúng hạn cả gốc
và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn. Vốn huy động chiếm tỉ trọng lớn
nhất trong tổng nguồn vốn và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Để đảm bảo hoạt động kinh doanh của ngân hàng có hiệu quả cao, ngân hàng
phải huy động đủ vốn đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn và làm sao để huy động nguồn
vốn phù hợp với chi phí thấp nhất.
• Vốn khác
Đây là nguồn vốn mà các NHTM có được trong kinh doanh hình thành từ quá
trình làm trung gian thanh toán hay làm đại lý ủy thác.
Đây là loại vốn có chi phí thấp nhất trong các loại vốn tạo cho ngân hàng nhiều
lợi thế. Song nguồn vốn này chiếm tỉ trọng không lớn và phụ thuộc vào các khả năng
cung cấp dịch vụ của các ngân hàng.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
8
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
1.1.2.2. Nghiệp vụ tài sản có.
Ngiệp vụ tài sản có là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của các NHTM
vào các mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn trong kinh doanh và tìm kiếm lợi
nhuận. Nghiệp vụ tài sản có bao gồm các nghiệp vụ cụ thể sau:
• Nghiệp vụ ngân quỹ.
Nghiệp vụ ngân quỹ giúp các ngân hàng thương mại tạo được các dữ liệu đáp
ứng nhu cầu của luật pháp và cầu thanh toans trong kinh doanh. Hay nói cách khác,
hoạt động này phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào đúng mục đích
nhằm đảm bảo an toàn về khả nằng thanh toán và thực hiện về dự trữ bắt buộc do
NHNN quy định. Việc thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ chủ yếu thông qua việc duy trì
hai quỹ: Quỹ dự trữ bắt buộc và Quỹ đảm bảo thanh toán.
Quỹ dự trữ bắt buộc được sử dụng để đảm bảo yêu cầu của pháp luật nhưng đồng

thời cũng đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền. Quỹ đảm bảo thanh toán nhằm duy trì
khả năng thanh toán, chi trả của ngân hàng.
• Nghiệp vụ tín dụng.
Đây là nghiệp vụ quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỉ trọng lớn trong các
tài sản của NHTM. Xét về mặt thuật ngữ thì tín dụng là một qan hệ giao dịch giữa
hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền bạc hoặc tài sản cho bên kia sử dụng
trong một khoảng thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kêt
hoàn trả theo thời hạn đã thỏa thuận. Hay nói cách khác đây là việc ngân hàng sử
dụng vốn của mình để cấp tín dụng cho khách hàng. Ngân hàng có thể cấp tín dụng
cho khách hàng dưới nhiều hình thức khác nhau như: cho vay ngắn hạn, cho vay
trung và dài hạn, cho vay có đảm bảo và cho vay không có đảm bảo, cho vay tiêu
dùng, vho vay doanh nghiệp…
Nghiệp vụ tín dụng đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng nhưng chứa
đựng nhiều rủi ro nhất. Do vây, ngân hàng cần phải tiến hành cho vay một cách an
toàn và hiệu quả.
• Nghiệp vụ đầu tư tài chính.
Đây là nghiệp vụ các ngân hàng thương mại mua, nắm giữa các tài sản tài chính
cụ thể là các giấy tờ có giá nhằm tìm kiếm lợi nhuận thông qua tiền lãi được trả từ giấy
tờ có giá và chênh lệch giữa giá mua và giá bán, giảm thiểu rủi ro, đặc biệt là rủi ro
thanh toán của ngân hàng.
• Nghiệp vụ kinh doanh khác bao gồm:
- Góp vốn liên doanh liên kết
- Đầu tư vào tài sản cố định…
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
9
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
1.1.2.3. Nghiệp vụ khác.
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu
khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ đòi hỏi các
ngân hàng phải nắm bắt được những thông tin đa dạng các nghiệp vụ để đáp ứng nhu

cầu ngày càng cao của khách hàng. Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên, ngân hàng có
thực hiện một số nghiệp vụ khác như:
- Dịch vụ tư vấn: ngân hàng sẽ tư vấn cho khách hàng trong việc xác định cơ cấu tài
chính, thẩm định dự án, quản lý vốn lưu động, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
- Dịch vụ thanh toán: ngân hàng sẽ giúp cho khách hàng thanh toán nhanh chóng,
thuận tiện, tiết kiệm chi phí bằng cách cung cấp nhiều hình thức thanh toán như thanh
toán bằng séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thanh toán thẻ…, cung cấp mạng lưới
thanh toán điện tử, liên ngân hàng, thanh toán L/C và cung câp tiền mặt khi khách
hàng cần.
- Dịch vủ ủy thác: ủy thác là việc ủy quyền giao phó môt công việc thuộc quyền
và nghĩa vụ của mình cho người khác thực hiện, cụ thể là khách hàng ủy thác cho ngân
hàng trong việc vay vốn đầu tư.
1.2. Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại.
1.2.1. Khái niệm.
Huy động vốn là một nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm thu hút vốn từ các tổ
chức cá nhân trong nền kinh tế, nhằm phục vụ múc đích kinh doanh của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được hiểu là một phạm trù rộng lớn bao gồm
tiền tệ, tài sản, vật tư, nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, phát minh sáng
chế, trình độ công nhân… Như vậy, vốn là một yếu tố đầu vào đồng thời là kết quả
đầu ra trong quá trình hoạt động của nền kinh tế. khác với vốn của các loại hình kinh
doanh khác, vốn huy động của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập
thông qua việc huy động đi vay để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh khác.
Thực chất vốn huy động của NHTM là một phần thu nhập của quốc dân tạm
thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, kinh doanh, phân phối, tiêu dùng mà người sở
hữu chúng gửi vào ngân hàng với các mục tiêu khác nhau. Như vậy, ngân hàng đã
thực hiện vai trò tập trung và phân phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh
qua trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển.
Đồng thời chính các hoạt động đó tác động trở lại đến việc tồn tại và phát triển của
ngân hàng.

Trần Bích Ngọc – CĐTN1
10
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
1.2.2. Vai trò huy động vốn của NHTM.
Huy động vốn có vai trò quyết định đối với hoạt động kinh doanh cả các ngân
hàng thương mại và sự phát triển của nền kinh tế.
1.2.2.1. Đối với hoạt động kinh doanh của NHTM.
Vốn là cơ sở của ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Đối với bất kì
doanh nghiệp nào muốn hoạt động kinh doanh cũng cần phải có vốn. Riêng đối với
ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là năng lực, thế mạnh
trong kinh doanh, đối tượng kinh doanh của ngân hàng .
Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác cả ngân hàng.
Vốn huy động của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín
dụng. Thông thường các ngân hàng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả thì sẽ có
khoản mục đầu tư đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay của các ngân hàng đó
cũng sẽ cao hơn các ngân hàng khác.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thị
trường. Để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động, các ngân hàng bắt buộc
phải coi uy tín của mình là điều quan trọng. Uy tín đó trước hết thể hiện khả năng sẵn
sàng thanh toán chi trả cho khách hàng, mà khả năng thanh toán của ngân hàng càng
cao đòi hỏi ngân hàng phải có một khối lượng vốn khả dụng lớn. Loại trừ những ảnh
hưởng của nhân tố khác thì khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của
ngân hàng nói chung và vốn khả dụng nói riêng. Uy tín của ngân hàng còn thể hiện ở
việc ngân hàng sẵn sàng cung cấp các dịch vụ mà khách hàng yêu cầu, mà viêc này
cũng đòi hỏi ngân hàng phải có lượng vốn dồi dào, linh hoạt. Mặt khác, khi có lượng
vốn lớn, ngân hàng có thể mở rộng quy mô hoạt động, tiến hành các hoạt động cạnh
tranh có hiệu quả nhằm giữ chữ tín nâng cao danh thế của mình trên thị trường.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Khả năng thu hút vốn là điều
kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành
phần kinh tế xét về cả quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian thời hạn cho

vay, thậm chí quyết định cả mức lãi suất cho vay cho khách hàng. Hơn nữa vốn của
ngân hàng lớn sẽ giúp cho ngân hàng có đủ khả năng tài chính để chủ động đa dạng
hóa các hoạt động kinh doanh, không chỉ cho vay đơn thuần mà còn mở rộng các hình
thức cho vay liên kết, đồng tài trợ, kinh doanh dịch vụ thuê mua và chính các hình
thức kinh doanh này sẽ giúp ngân hàng phân tán rủi ro, thu lợi nhuận cao nhất, đạt
mục tiêu an toàn, sinh lời và tạo thêm vốn cho ngân hàng, đồng thời tăng sức cạnh
tranh của ngân hàng trên thương trường.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
11
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
1.2.2.2. Đối với toàn bộ nền kinh tế.
Việc huy động vốn của ngân hàng sẽ giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối về
vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tiết kiệm và đầu tư là cơ sở nền tảng của nền kinh
tế. Tiết kiệm góp phần thúc đẩy mở rộng quan hệ sản xuất kinh doanh, tăng trưởng đầu
tư và đầu tư cũng góp phần khuyến khích tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản
tiết kiệm thường nhỏ, lẻ và người tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính
là các NHTM. Thông qua các kênh huy động vốn của NHTM, các khoản tiết kiệm sẽ
chuyển thành đầu tư, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thông qua các kênh huy động vốn NHTM luân chuyển vốn từ những người có
vốn nhàn rỗi sang những người cần vốn. Đối với những người có vốn nhàn rỗi, việc
huy động vốn của ngân hàng sẽ giúp cho học có được thu nhập từ việc hưởng lãi hay
được hưởng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng đồng thời giúp cho các khoản tiền
không bị chết, luôn được vận động và quy vòng. Đối với những người cần vốn, học sẽ
có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động
của ngân hàng.
1.2.3. Các hình thức huy động vốn của NHTM.
Với mục tiêu không ngừng khơi tăng quy mô hu động vốn và mở rộng đàu tư các
NHTM luôn đa dạng các hình thức huy động vốn phù hợp với nền kinh tế. Hiện nay
các NHTM đang thực hiện một số hình thức huy động vốn cơ bản sau:
1.2.3.1. Huy động vốn thông qua nghiệp vụ nhận tiền gửi.

Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và là nguồn gốc sâu xa của lợi
nhuận. Mục tiêu chính mà hoạt động tiền gửi luôn nhắm tới là chi phí và quy mô. Tức
là ngân hàng phải luôn tìm được các nguồn vốn và đưa ra được những cách thức để có
thể huy động vốn với chi phí thấp nhất.
Để ra tăng được lượng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn
vốn có chất lượng cao, các ngân hàng phải luôn đưa ra các loại hình tiền gửi khác nhau
phù hợp với nhu cầu đặc điểm riêng của các ca snhaan và tổ chức trong xã hội. Theo
tính chất có 3 loại tiền gửi cơ bản: tiền gửi không kì hạn, tiền gửi có kì hạn và tiền gửi
tiết kiệm.
• Tiền gửi không kì hạn.
Tiền gửi không kì hạn là loại tiền ngân hàng nhận giữ hộ và từ đó thực hiện việc
thanh toán hộ cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Đặc điểm của loại tiền gửi này là
các ngân hàng phải thanh toán ngay lập tức theo lệnh rút tiền của chủ tài khoản, cho
nên đây là loại tiền có sự biến động nhiều nhất, thời gian duy trì của ngân hàng ngắn.
Mục đích của loại tiền gửi này không phải là để lấy lãi mà chủ yếu sử dụng cho
hoạt động thanh toán. Khách hàng gửi tiền chủ yếu là những tổ chức kinh tế, các
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
12
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
doanh nghiệp và các cá nhân làm ăn buôn bán phải thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
liên tục. Hình thức rút tiền có thể là tiền mặt hay lấy qua hình thức thanh toán séc, ủy
nhiệm chi. Đặc biệt, người gửi tiền không cần trực tiếp đến ngân hàng rút tiền mà có
thể rút tiền qua máy tự động ATM.
Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi này trên hai tài khoản:
- Tài khoản thanh toán: là loại tiền gửi mà chủ tài khoản có toàn quyền sử dụng
số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền gửi. Loại tài khoản này luôn
luôn có số dư có.
- Tài khoản vãng lai: là tài khoản có thể dư có hoặc dư nợ, thường được sử dụng
cho cấc tổ chức kinh tế. Sô dư có thể hiện tiền gửi của khách hàng, còn số dư nợ thể
hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay.

Về nguyên tắc, ngân hàng được thu phí và không trả lãi cho tiền gửi không kì
hạn, nhưng để kích thích khách hàng gửi tiền giao dịch nhiều hơn và cạnh tranh với
nhau, một mặt các ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng các
loại tiền gửi thanh toán… mặt khác các ngân hàng thường đưa ra một mức lãi suất cho
khách hàng. Trong thực tế đây thường là loại tiền gửi đưa lại nguồn vốn cho ngân
hàng với chi phí thấp nhất và ít nhạy cảm với biến động của lãi suất.
• Tiền gửi có kì hạn.
Tiền gửi có kì hạn là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân mà người gửi tiền
chỉ có thể rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi.
Đặc điểm của loại tiền gửi này là bao giờ ngân hàng cũng phải chi trả với lãi suất
cao hơn nhiều so với lãi suất của tiền gửi không kì hạn, theo nguyên tắc thời gian tiền
gửi càng dài ngân hàng trả lãi suất càng cao. Người gửi tiền ngoài mục đích sử dụng
các dịch vụ ccuar ngân hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi suất sẽ
có tác động rất nhanh và rõ nét với loại tiền gửi này.
Về nguyên tắc, tiền gửi có kì hạn chỉ được rút ra khi hết kì hạn, tuy nhiên đẻ thực
hiện tốt chính sách khách hàng, các ngân hàng vẫn thường giải quyết cho khách hàng
rút trước hạn nhưng sẽ chỉ nhận được mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất thỏa thuận
ban đầu. Sô dư trên tài khoản tiền gửi này được phép cầm cố vay vốn, hoặc bảo lãnh
cho người thứ 3 vay vốn, hoặc dùng để xác nhận khả năng tài chính cho khách hàng
hoặc thân nhân đi du lịch, học tâp, khám chữa bệnh ở nước ngoài…
So với tiền gửi không kì hạn thì chi phí quản lý và duy trì tài khoản tiền gửi có
kỳ hạn lại cao hơn.Tuy nhiên, tiền gửi có kì hạn tạo cho ngân hàng có nguồn vốn kinh
doanh có tính ổn định cao, thời hạn dài. Cần phải xây dựng một chính sách kinh doanh
hợp lý đối với tiền gửi có kì hạn.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
13
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Để gia tăng loại tiền gửi này các ngân hàng ngoài mức áp dụng một mức lãi suất
cạnh tranh thì phải luôn nghiên cứu đưa ra nhiều hình thức huy động mới để hấp dẫn
khách hàng.

• Tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm,
được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền
gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. Tiền
gửi tiết kiệm có 2 hình thức cơ bản là: không kỳ hạn và có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền chỉ có thể rút
tiền sau một kỳ hạn nhất định theo thỏa thuận với tổ chưc nhận tiền gửi. Khoản tiền
gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Bởi vì ngân hàng có thể chủ động sử dụng
nó cho hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là để cho vay trung và dài hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn là khoản tiền nhàn rỗi mà người dân tạm thời gửi
ngân hàng do không có kế hoạch chi tiêu cụ thể nên họ có thể gửi thêm hay rút tiền
khỏi tài khoản tùy ý. Số dư trên sổ tiết kiệm được ngân hàng tính lãi và nhập gốc vào
ngày làm việc cuối cùng của tháng. Tuy nó là số tiền gửi không kì hạn nhưng không
phải là tài khoản thanh toán nên người gửi tiền không được hưởng các tiện ích thanh
toán. Nguồn vốn này cũng thường xuyên biến động nên ngân hàng cũng phải chủ
độngtrong việc chi trả cho khách hàng. Do vậy lãi suất cho loại tiền gửi này thấp.
1.2.3.2. Huy động từ vốn vay.
Vốn vay là quan hệ vay mượn giữa NHTM với các tổ chức kinh tế xã hội. Trong
quá trình hoạt động của mình, có khi thừa vốn hoặc thiếu vốn tạm thời, để bù đắp phần
thiếu hụt các NHTM có thể vay vốn lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng, vay
tái chiết khấu thế chấp tại NHNN hoặc vay vốn thông qua các tổ chức tài chính tín
dụng khác.
Vay NHNN là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong sự chi trả của
NHTM. Hình thức cho vay chủ yếu trong trường hợp này là chiết khấu hoặc tái cấp
vốn. NHNN điều hành khoản vay mượn này một cách chặt chẽ, tùy thuộc vào chính
sách tiền tệ của từng thời kỳ mà NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm
soát nhất định. Trên thực tế, cho dù NHNN áp dụng lãi suất tái chiết khấu hoặc lãi suất
phạt cao hay thấp thì NHNN vẫn phải cho NHTM vay khi NHTM rơi vào tình trạng
kẹt vốn thanh toán để tránh những cơn khủng hoảng tài chính, thực hiện tốt chức năng
“là người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM.

Đối với NHTM, vay tại NHNN là một dịch vụ hết sức tiện lợi vào những khi
NHNN hà lãi suất chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền tệ nới lỏng để kích thích
đầu tư. Trong trường hợp, NHNN thắt chặt cung ứng để chống lạm phát, lúc đó lãi
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
14
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
suất tái chiết khấu được đưa lên cao các NHTM chỉ miễn cưỡng vay vốn trong trường
hợp cần thiết và sẽ tìm cách trả nợ nhanh nhất. Khi đó các khoản vay này chiếm một
phần rất ít trong tổng tài sản nợ.
Vay các tổ chức tài chính, tín dụng là việc mà các NHTM vay lẫn nhau và vay các
tổ chức tài chính tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Đây
chính là hình thức cho vay nhưng thực chất nó là hình thức tương trợ giữa các ngân
hàng để có sự hợp tác đôi bên cùng có lợi. Các ngân hàng đang vượt mức dự trữ dư thừa
có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao. Ngược lại, các
NHTM đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh toán.
1.2.3.3. Huy động qua phát hành GTCG.
Phát hành GTCG là hình thức phát hành các chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, dài hạn
của NHTM, là chứng nhận của NHTM phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận
nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền nhất định sau một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi
và các cam kết giữa người mua và NHTM. Giấy tờ có giá được các NHTM phát hành
thường mang tính thời vụ và được thể hiện khi có nhu cầu cần thiết cho hoạt động kinh
doanh, nhằm thu hút vốn trung và dài hạn để đàu tư cho nền kinh tế và tăng cường tính
ổn định cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Một số loại GTCG mà các NHTM
thường phát hành: kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi…
Chúng có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền bằng cách bán chuyển nhượng trên thị
trường vốn hoặc chiết khấu tại các ngân hàng.
Trái phiếu ngân hàng là một giấy tờ có giá xác nhận khoản nợ khách hàng của
ngân hàng cam kết sẽ thanh toán một số tiền nhất định với một khoảng thời gian xác
định trong tương lai. Việc phát hành trái phiếu ngân hàng được tiến hành trong toàn hệ
thống, mục đích chủ yếu là để huy động vốn trung dài hạn phục vụ cho những kế

hoạch kinh doanh có quy mô lớn và lâu dài.
Kỳ phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn
trong dân cư, chủ yếu dùng để phục vụ cho những kế hoạch kinh doanh xác định của
ngân hàng. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành từng đợt hay còn gọi là kỳ phiếu có
mục đích, phát hành dựa trên tình hình nguồn vốn và nhu cầu sử dụng vốn trong thời
kỳ trước mắt của ngân hàng. Đặc điểm của vốn huy động từ hình thức này là có tính
lỏng cao khá linh hoạt. Lãi suất của kỳ phiếu thường ổn định và hấp dẫn.
Chứng chỉ tiền gửi là một hình thức gửi tiền thường có thời hạn ít nhất là 3 tháng
và dài nhất là 5 năm. Thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Chứng chỉ tiền gửi
thường có lãi suất cao hơn các khoản tiêt kiệm thông thường, nhưng tính thanh khoản
lại thấp hơn tiền gửi tiết kiệm.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
15
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Với việc phát hành GTCG để huy động vốn, NHTM có khả năng tập trung được
một khối lượng vốn trong thời gian dài và chủ động sử dụng. Loại vốn này cố định kỳ
hạn huy động, không được tính lãi nhập vào gốc để tính cho kỳ tiếp theo mà thời gian
quá hạn sẽ được hưởng theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn tại thời điểm rút vốn.
1.3. Hiệu quả công tác huy động vốn của NHTM
1.3.1. Quan niệm về hiệu quả huy động vốn.
Khi đã huy động được vốn thì các ngân hàng luôn theo đuổi một mục tiêu chính
là làm thế nào để sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất đem lại lợi nhuận nhiều nhất.
Sau đây là một số quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn:
• Huy động vốn phải đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn.
Công tác huy động vốn chỉ thực sự hiệu quả khi nguồn vốn huy động được đáp
ứng đủ nhu cầu sử dụng vốn của khách hàng. Nếu ngân hàng có chiến lược huy động
vốn đúng đắn và phù hợp với kế hoach sử dụng vốn trong từng thời kỳ sẽ tạo điều kiện
cho ngân hàng đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa và tăng trưởng nguồn vốn kinh
doanh.
• Cân đối về loại tiền và thời hạn.

Công tác huy động vốn thực sự đạt hiệu quả nếu ngân hàng có các chiến lược
huy động vốn đảm bảo sự cân đối về loại tiền và thời hạn, khi đó ngân hàng sẽ chủ
động hơn trong việc sắp xếp kế hoạch sử dụng vốn tránh tình trạng thời hạn của nguồn
vốn ngắn hơn thời hạn sử dụng vốn.
• Chi phí huy động vốn thấp.
Nguồn vốn huy động của ngân hàng càng có chi phí thấp thì ngân hàng càng đạt
lợi nhuận cao, công tác huy động vốn của ngân hàng càng đạt hiệu quả cao.
• Sử dụng vốn có hiệu quả.
Làm thế nào để luôn đủ vốn – đó là điều quan trọng, nó là tiền đề của mọi hoạt
động kinh doanh, song việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả mới thực là nhân tố quyết
định cho sự tăng trưởng của mỗi ngân hàng. Việc thường xuyên kiểm tra tình hình tài
chính, tiến hành phân tích để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn là nội dung quan trọng
trong công tác tài chính của ngân hàng. Cách đo lường chính xác thể hiện rõ nhất tính
hiệu quả là thước đo tiền tệ để lượng hóa các yếu tố đầu vào và đầu ra. Hiệu quả huy
động vốn phản ánh trình độ sử dụng nguồn lực hiện có. Nó được thể hiện thông qua
kết quả kinh doanhcuar mỗi kỳ hạch toán.
Như vậy, hiệu quả sử dụng vốn của một ngân hàng có thể được hiểu là việc ngân
hàng huy động được một lượng vốn đạt chỉ tiêu đề ra và sử dụng lượng vốn ấy một
cách triệt để, có hiệu quả nhất để tạo ra lợi nhuận là cao nhất. Huy động vốn và sử
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
16
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
dụng vốn có hiệu quả sẽ đảm bảo khả năng an toàn về mặt tài chính cho ngân hàng,
ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
• Sự tăng trưởng của vốn huy động về số lượng và thời gian.
Vốn huy động phải có sự tăng trưởng về số lượng để có thể thỏa mãn các nhu cầu
về khối lượng vốn cho tín dụng, thanh toán cũng như hoạt động kinh doanh khác.
Đồng thời vốn huy động phải có sự ổn định về mặt thời gian. Nếu ngân hàng huy động
được lượng vốn lớn nhưng không ổn định, thường xuyên có khả năng có một dòng tiền

lớn bị rút ra, ngân hàng phải luôn đối đầu với vấn đề thanh toán thì hiệu quả huy động
vốn sẽ không cao.Ngược lại, nếu nguồn VHĐ ổn định thì ngân hàng sẽ yên tâm sử
dụng phần lớn số vốn đó vào các hoạt động mang lại thu nhập cao.
Mức độ tăng trưởng nguồn VHĐ =
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng lên của nguồn VHĐ giữa các năm với nhau.
Chỉ tiêu này có ý nghĩa hết sức quan trọng vì từ đó các ngân hàng sẽ biết được tình
hình biến động của các nguồn vốn qua các năm để từ đó đưa ra những phương án kế
hoạch nhằm nâng cao hiệu quả sự dụng vốn.
• Cơ cấu vốn huy động.
- Tỷ trọng VHĐ ngắn hạn (trung và dài hạn) =
- Tỷ trọng vốn huy động bằng VNĐ (Ngoại tệ) =
Ngân hàng sẽ đạt hiệu quả huy động vốn khi cơ caauss vốn của ngân hàng có sự
hợp lý giữa các nguồn vốn ngắn hàn và nguồn vốn trung, dài hạn, giữa nguồn vốn huy
động bằng ngoại tệ với nguồn vốn huy động bằng VNĐ.
• Chỉ tiêu đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn.
Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng để ngân hàng đánh giá về khả năng đáp ứng
nhu cầu sử dụng vốn, đề ra các kế hoạch sử dụng vốn cũng như kế hoạch cho vay một
cách hợp lý. Công tác huy động vốn không thể hiệu quả khi mà nguồn vốn huy động
được lại không đạt được uy mô nhất định theo kế hoạch huy động của ngân hàng hay
không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho kinh doanh.
• Chi phí huy động vốn bình quân.
Chí phí huy động vốn bình quân =
Chi phí huy động vốn bình quân chính là lãi suất đầu vào bình quân. Lãi suất
luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế. Người gửi tiền muốn một lãi
suất cao để đồng tiền cả mình thu về được nhiều lãi. Ngược lại, người vay tiền lại
muốn lãi suất thấp để tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh nhằm tăng lợi nhuận. Là
trung gian đóng vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên, ngân hàng phải tìm cách dung
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
17
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

hòa lợi ích của tất cả các bên, trong đó điều quan trọng là phải đảm bảo lợi nhuận cho
ngân hàng. Vì vậy, mỗi ngân hàng đều phải cố gắng sử dụng mọi biện pháp có thể
nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho chi phí huy động vốn bình quân là nhỏ
nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay với một mức lãi suất có thể chấp nhận được trên
thị trường.
Chi phí huy động thường được đánh giá chủ yếu bởi mức lãi suất huy động từng
nguồn, lãi suất huy động bình quân (tính bằng bình quân gia quyền của lãi suất các
nguồn theo khối lượng từng nguồn), chênh lệch đầu vào và đầu ra.
Mặt khác, cùng với một mức chi phí trả lãi bình quân, sự đa dạng trong lãi suất
cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết. Sự đa dạng hóa lãi suất làm
tăng hiệ quả của chính sách lãi suất mà ngân hàng đặt ra, nếu chính sách lãi suất đúng
đắn, ngân hàng sẽ tối hiệu hóa được chi phí trong khi vẫn hoàn thành kế hoạch về
nguồn vốn.
Bên cạnh chi phí lãi suất trong quá trình huy động vốn còn có chi phí khác như
chi phí tiền lương của cán bộ huy động, chi phí in ấn phát hành, chi phí cơ sở vật chất,
chi phí giao dịch, quảng cáo… Tuy các loại chi phí này chiếm tỉ trọng tương đối nhỏ
nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân hàng.
Mặt khác, nếu ngân hàng giảm chi phí huy động vốn bằng cách hạ lãi suất thì
việc huy động vốn sẽ rất khó khăn vì nó không khuyến khích được người dân gửi tiền
vào và không cạnh tranh được với những ngân hàng có lãi suất cao hơn. Do đó, việc
giẩm chi phí huy động vốn bằng cách hạ lãi suất huy động là rất khó mà buộc các ngân
hàng phải cắt giảm các chi phí có liên quan.
• Mức độ hoạt động của vốn huy động.
Mức độ hoạt động của vốn huy động được đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử dụng
vốn. Hệ số sử dụng vốn được sử dụng bằng công thức sau đây:
Hệ số sử dụng vốn =
Hệ số sử dụng vốn càng tiến đến 1 thì càng tốt (trong điều kiện vẫn đảm bảo các
giới hạn an toàn trong hoạt động kinh doanh), điều này thể hiện nguồn vốn huy động
được sử dụng tối đa.
• Sự đa dạng các hình thức huy động và các loại tiền tệ sử dụng.

Đó là khả năng huy động các nguồn vốn với các kỳ hạn khác nhau, trong đó có cả
nột tệ và ngoại tệ, với mức lãi suất khác biệt tương ứng, sao cho người gửi tiền chấp
nhận được và cảm thấy hợp lý. Nhờ đó, ngân hàng đạt được cơ cấu về kỳ hạn và loại
tiền mong muốn để đáp ứng tối đa các nhu cầu sử dụng vốn, tránh tình trạng thừa vốn
ngắn hạn trong khi thiếu vốn trung dài hạn, thừa vốn nội tệ nhưng lại thiếu vốn ngoại tệ.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
18
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Trên đây là một số chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn. Tuy
nhiên một số chỉ tiêu thì không thể đánh giá đầy đủ mà phải kết hợp đồng bộ nhiều chỉ
tiêu thì mới đánh giá đúng và thực chất hiệu quả công tác huy động vốn tại một
NHTM.
1.3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả huy động vốn.
1.3.3.1. Đối với nền kinh tế.
Vốn có vai trò quan trọng đối với việc mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nó tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Trong
quá trình phát triển nền kinh tế, nguồn vốn huy động giữ vai trò quyết định đến sự phát
triển lâu dài và vững chắc của đất nước.Sự chi viện, giúp đỡ từ nước ngoài chỉ là tạm
thời trước mắt. Thực tế dã chứng minh muốn phát triển kinh tế thì không thể dựa vào
nguồn vốn bên ngoài mà phải tăng cường huy động vốn từ nền kinh tế trong nước. Để
đạt được điều đó thì Nhà nước phải kết hợp đồng bộ các giải pháp kinh tế, tổ chức,
tiền tệ, trong đó giải pháp tăng cường khả năng huy động vốn thông qua hệ thống
NHTM là quan trọng .
1.3.3.2. Đối với NHTM.
Đối với các NHTM – tổ chức kinh doanh tiền tệ - mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, cho vay từ số tiền huy động được và
làm các dịch vụ ngân hàng thì vai trò của nguồn vốn huy động càng trở nên quan
trọng.
Quy mô, cơ cấu và đặc tính cả nguồn vốn quyết định hầu hết các hoạt động của
một NHTM, bao gồm quy mô, cơ cấu, thời hạn tài sản và khả năng cung ứng dịch vụ

cho nền kinh tế và từ đó quyếtt định khả năng sinh lời. NHTM thực hiện chức năng
kinh tế nòng cốt trong việc trích dẫn vốn từ những nơi tạm thời thừa vốn sang những
nơi tạm thời thiếu vốn, cho nên việc tăng cường khả năng huy động vốn sẽ góp phần
tạo ra nguồn vốn có chi phí giá bình quân đầu vào thấp và co tính ổn định phù hợp với
kết cấu sử dụng vốn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Mặt khác, trong khi chưa khai thác được lượng tiền nhàn rỗi trong các tổ chức
kinh tế và dân cư, ngân hàng sẽ phải phụ thuộc vào nguồn vốn vay để đáp ứng nhu
cầu tăng trưởng tài sản. Điều này sẽ dẫn tới chi phí nguồn vốn cao, sự ổn định và hiệu
quả kinh doanh thấp, chưa phát huy được nội lực để phát triển một cách vững chắc.
1.3.3.3. Đối với khách hàng.
Việc tăng cường khả năng huy động vốn không chỉ quan trọng đối với NHTM,
mà còn quan trọng đối với khách hàng gửi tiền và khách hàng vay vốn. Trong trường
hơp thiếu vốn, các NHTM đồng loạt tăng lãi suất huy động thì người gửi tiền càng có
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
19
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
nhiều cơ hội lựa chọn ngân hàng giao dịch. Ngoài ra ngân hàng không chỉ đơn thuần là
cất giữ và kiếm lời từ lãi suất mà họ còn mong muốn được cung ứng các dịch vụ thuận
tiện khi sử dụng các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng.
Với chức năng là trung gian tín dụng “đi vay để cho vay”, NHTM đã góp phần
giải quyết khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, cá nhân mà bản thân họ không phải lúc
nào cũng có thể tập trung đầy đủ, kịp thời về vốn. Đồng thời, NHTM còn giúp cho các
cá nhân, doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, tăng thu nhập. Việc nâng cao
hiệu quả huy động vốn đòi hỏi các NHTM phải đẩy mạnh hoạt động marketing để
khách hàng có điều kiện tiếp xúc và biết đến các hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh
đó, ngân hàng cũng cần xây dựng định hướng, chiến lược huy động vốn sao cho phù
hợp trên cơ sở sự phát triển của nền kinh tế, xu hướng phát triển của ngân hàng và
thông tin của khách hàng mang lại.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của NHTM.
1.4.1. Nhân tố khách quan.

• Thứ nhất là môi trường pháp lý.
Nền kinh tế là một hệ thống gồm nhiều hoạt động kinh tế có liên quan biện
chứng và tác động lẫn nhau. Sự biến động của một hoạt động kinh tế đều ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực còn lại. Như chúng ta đã biết hoạt động của
ngân hàng có ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế củ bất cứ quốc gia nào.
Cụ thể, việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến
tăng trưởng kinh tế, tốc độ chu chuyển vốn, thu nhập của các chủ thể, tình trạng thất
nghiệp, tỉ lệ lạm phát. Chính vì vậy mà hoạt động của các NHTM phải chịu sự quản lý
gắt gao hơn so với doanh nghiệp khác. Trên thực tế là ngân hàng phải chịu sự điều
chỉnh của rất nhiều chính sách, các quy định của Chính phủ, của NHNN: Luật các tổ
chức tín dụng, luật kinh tế, luật dân sự và hàng loạt các quy định về lãi suất, hạn mức,
tỉ lệ dự trữ trong từng thời kì cụ thể.
Trong sự ràng buộc về pháp luật này thì các hoạt động của nghiệp vụ huy động
vốn chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và kết quả này sẽ ảnh hưởng đến quy mô và hiệu quả
của hoạt động huy động vốn.
• Thứ hai là môi trường kinh tế xã hội.
Hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động huy động vốn nói
riêng không thể thoát ly khỏi môi trường kinh doanh, đặc biết là môi trường kinh tế -
xã hội.
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn
luôn chịu sự tác động của các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng, thu nhập, tỷ lệ
lạm phát, tình trạng thất nghiệp. Khi nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển sẽ tạo
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
20
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
điều kiện tích lũy nhiều hơn dẫn đến việc ngân hàng thuận lợi hơn trong việc thu hút
vốn. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng làm cho môi trường đầu tư của
ngân hàng bị thu hẹp khiến quá trình tạo vốn của ngân hàng gặp khó khăn.
• Thứ ba là môi trường văn hóa.
Môi trường văn hóa là yếu tố quyết định đến tập quán, thói quen, tâm lý trong

việc sử dụng tiền của dân cư vầ những tập quán tiêu dùng này sẽ ảnh hưởng đến quá
trình tạo vốn của ngân hàng. Nếu ở những vùng mà người dân quen sử dụng số tiền
nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ thì việc huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp nhiều khó
khăn. Hơn nữa, mức độ chấp nhận rủi ro của xã hội cũng ảnh hưởng đến quyết định
của những thành viên trong xã hội về phương thức tiêu dùng và tiết kiệm.
1.4.2.Nhân tố chủ quan.
• Chính sách lãi suất cạnh tranh.
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền có được so với số tiền gốc mà người gửi
tiền nhận được từ ngân hàng. Thông thường, một mức lãi suất cao sẽ giúp cho ngân
hàng mở rộng được quy mô tiền gửi. Tuy nhiên, do lãi suất tiền gửi là thu nhập của
người gửi tiền nhưng lại là chi phí chủ yếu của ngân hàng cho nên trong việc đưa ra lãi
suất huy động các ngân hàng phải giải quyết sự xung đột về quyền lợi này. Một mặt,
ngân hàng cần đưa ra lãi suất cao để thu hút khách hàng gửi tiền, cạnh tranh với các
ngân hàng khác, mặt khác cần giảm lãi suất để tăng lợi nhuận cho mình. Mức lãi suất
tiền gửi mà ngân hàng đưa ra cần đảm bảo cho ngân hàng có thể kinh doanh đạt mức
lợi nhuận mục tiêu tuy nhiên phải được thị trường chấp nhận.
Tuy vậy, cạnh tranh bằng lãi suất là cạnh tranh có giới hạn. Một ngân hàng nếu
không bị khống chế bởi lãi suất huy động “trần” và lãi suất cho vay “sàn” của NHNN
thì cũng bị khống chế bởi chính lợi nhuận và sự tồn tại của ngân hàng.
• Các dịch vụ do ngân hàng cung ứng.
Hình thức huy động vốn của ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng, linh
hoạt và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn.Chính sự đa
dạng hóa của hình thức huy động vốn của ngân hàng đã giúp mỗi người dân, mỗi
doanh nghiệp tìm được cho mình một hình thức đầu tư hợp lý nhất.
Khi các NHTM đưa ra các hình thức huy động vốn ngày càng đa dạng, hợp lý
cùng với sự phát triển của hệ thống mạng lưới hoạt động và nâng cao chất lượng hoạt
động các dịch vụ khác để từ đó thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng
tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc huy động vốn. Ngược lại, khi các
hình thức huy động vốn của ngân hàng chưa đa dạng, phong phú, chất lượng hoạt
động chưa cao, hệ thống mạng lưới còn ít sẽ ảnh hưởng xấu tới hoạt động huy động

vốn.
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
21
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Hoạt động ngân hàng là kinh doanh kiếm lời và cạnh tranh ngày càng tăng giữa
các ngân hàng với nhau. Khi cạnh tranh tăng lên thì ngân hàng sẽ vấp phải khó khăn
ngày càng nhiều trong việc tìm kiếm lợi nhuận. Điều này khiến cho các ngân hàng
không ngừng tìm tòi những hình thức dịch vụ mới nhằm mở rộng kinh doanh. Một
ngân hàng có dịch vụ tốt, đa dạng hiển nhiên có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng
có dịch vụ hạn chế. Khác với cạnh tranh về lãi suất, cạnh tranh về dịch vụ ngân hàng
là cạnh tranh không có giới hạn. Trong nền kinh tế hiện đại, các ngân hàng cạnh tranh
với nhau chủ yếu bằng con đường này.
• Chính sách khách hàng.
Đối với chính sách khách hàng, ngân hàng cần phân loại khách hàng thành nhiều
nhóm khác nhau để có phương thức ứng xử phù hợp. Đối với những khách hàng lâu
năm, có số dư tiền gửi lớn, thường xuyên giao dịch, có sự tín nhiệm thì ngân hàng nên
có chính sách ưu đãi về lãi suất, kỳ hạn, tỷ lệ hoa hồng, chi phí dịch vụ… Đối với
những khách hàng tiềm năng mới đến với ngân hàng thì ngân hàng nên giới thiệu các
dịch vụ tiện ích của ngân hàng để khách hàng có điều kiện hiểu biết, tiếp xúc với các
dịch vụ đó. Có như vậy ngân hàng mới có khả năng thu hút các khách hàng và tăng
khả năng hoạt động vốn của mình.
Để xây dựng được chính sách khách hàng đúng đắn thì ngân hàng cần tìm hiểu
động cơ thói quen của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng thông qua
phân tích lợi ích của khách hàng. Trên cơ sở thông tin của khách hàng, ngân hàng có
thể đưa ra một hệ thống chính sách và biện pháp để có được quy mô và chất lượng
nguồn vốn mong muốn.
• Uy tín của ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động, mỗi ngân hàng sẽ tạo dựng một hình ảnh riêng trong
lòng khách hàng. Một ngân hàng có uy tín sẽ có lợi thế trong việc huy động vốn. Có
thể gọi đây là tài sản vô hình của ngân hàng. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ có được

sự ổn định khối lượng huy động vốn và tiết kiệm chi phí huy động. Thậm chí trong
điều kiện lãi suất huy động thấp hơn, nhưng người gửi tiền vẫn lựa chọn ngân hàng có
uy tín để gửi tiền vì họ tin rằng đồng vốn của mình được an toàn.
• Chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể. Chiến
lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện tại của
mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, dự đoán được sự thay
đổi của môi trường kinh doanh. Thông qua chiến lược kinh doanh ngân hàng sẽ có thể
quyết định thu hepjhay mở rộng quy mô nguồn vốn huy động. Mặt khác, nếu chiến
Trần Bích Ngọc – CĐTN1
22

×