Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Hoàn thiện chính sách cổ tức tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.32 KB, 78 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1- TTGDCK -Trung tâm giao dịch chứng khoán
2- TMCP -Thương mại cổ phần
3- TP HCM- Thành phố Hồ Chí Minh
4- STB- cổ phiếu ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
5- Sacombank - ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín
6- TSCĐ – Tài sản cố định
7- Vốn CSH – Vốn chủ sở hữu
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 : So sánh tỷ suất cổ tức của hai mã chứng khoán 14
Bảng 1.2 : Mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và từng giai đoạn phát triển 25
của ngân hàng 25
Bảng 2.1 : Tổng hợp mức trả cổ tức của Sacombank từ 2006-2010 41
Bảng 2.2 : Tổng hợp số lượng cổ phiếu phát hành thêm để tăng 47
vốn điều lệ trong giai đoạn 2006 – 2010 47
Bảng 2.3 : Các chỉ số hoạt động kinh doanh giai đoạn 05 năm (2006 – 2010) 51
Bảng 2.4 : Mạng lưới hoạt động của Sacombank giai đoạn 2006 – 2010 53
Bảng 3.1: Ảnh hưởng của thuế thu nhập cá nhân tới thu nhập 61
thực tế của các cổ đông 61
DANH MỤC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ
Biểu đồ 2.1: Mối quan hệ giữa EPS và Hệ số chi trả cổ tức 43
Biểu đồ 2.2: Mối tương quan giữa vốn chủ sở hữu và lợi nhuận trước thuế 52
Đồ thị 3.1: Giá cổ phiếu STB ở mức cao nhất trong tám tháng đầu năm 2011 71
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán là kênh thu hút vốn dài hạn cho nền kinh tế. Mục tiêu
của thị trường chứng khoán là tạo ra một thị trường vốn phục vụ cho các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh.
Khi thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán, ngoài tình hình hoạt động của
doanh nghiệp thì tỷ lệ chi trả cổ tức và hình thức chi trả cổ tức luôn là vấn đề mà các


nhà đầu tư quan tâm để lựa chọn, đánh giá và ra quyết định đầu tư vào doanh nghiệp.
Còn về phía các doanh nghiệp, chính sách cổ tức là một công cụ điều tiết
giữa lợi nhuận phân phối và lợi nhuận giữ lại sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu
vốn đầu tư, phát triển doanh nghiệp, vừa đáp ứng được yêu cầu của cổ đông về tỷ lệ
chia cổ tức. Vậy cần trả cổ tức ở mức nào là hợp lý, chính sách cổ tức có ảnh hưởng
đến giá trị doanh nghiệp hay không là những câu hỏi cần được xem xét trước khi
doanh nghiệp đưa ra các quyết định tài chính.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) thành lập năm 1991 với
số vốn điều lệ 3 tỷ đồng và chính thức niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh ngày 12/07/2006. Đến nay vốn điều lệ của Sacombank là
9179 tỷ đồng. Sacombank hiện là một trong những ngân hàng TMCP tại Việt Nam có
mức chi trả cổ tức tương đối cao và ổn định. Tuy nhiên, ngoài những mặt tích cực có
tác động tốt đối với sự phát triển của ngân hàng, chính sách cổ tức của Sacombank
còn nhiều mặt hạn chế làm giảm mức độ hấp dẫn của cổ phiếu Sacombank trên thị
trường chứng khoán. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn thực hiện đề tài: “Hoàn thiện
chính sách cổ tức tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài nhằm vào ba mục tiêu cơ bản:
 Thứ nhất: đưa ra một số vấn đề lý luận cơ bản về cổ tức và chính sách chi
trả cổ tức của một ngân hàng thương mại cổ phần.
 Thứ hai: từ những vấn đề lý luận cơ bản đó, tác giả phân tích và đánh giá
thực trạng chính sách trả cổ tức của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, rút ra
5
những kết quả đã đạt được và những hạn chế cần giải quyết.
 Thứ ba: đưa ra một số căn cứ để xây dựng một chính sách cổ tức hợp lý và
đề xuất giải pháp để hoàn thiện chính sách cổ tức của ngân hàng trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Chính sách trả cổ tức của Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín (Sacombank)
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách cổ tức của

Sacombank từ khi chính thức niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh năm 2006 đến nay. Trong giai đoạn này, Ngân hàng cần phải
công khai, minh bạch mọi thông tin liên quan. Vì vậy, mọi quyết định của Ban quản
trị ngân hàng, nhất là chính sách trả cổ tức sẽ có tác động nhất định đến giá cổ phiếu
của ngân hàng trên thị trường. Từ việc xem xét, đánh giá thực trạng chính sách cổ
tức, đề tài sẽ đề xuất những căn cứ và biện pháp để hoàn thiện chính sách cổ tức của
Sacombank nhằm mục đích vừa làm hài lòng các cổ đông, vừa đảm bảo thu hút vốn
đầu tư cho sự phát triển của ngân hàng trong tương lai.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
− Phương pháp mô tả: nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan về cổ tức và chính
sách cổ tức
− Phương pháp thống kê: nhằm tập hợp các số liệu và đánh giá thực trạng.
− Phương pháp so sánh và tổng hợp: nhằm so sánh, đối chiếu các thông tin
để tìm hiểu nguyên nhân và có các kết luận phù hợp. Từ đó đưa ra những căn cứ và
giải pháp cụ thể giải quyết vấn đề.
5. Kết cấu đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận được chia thành ba chương:
 Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chính sách cổ tức của Ngân hàng TMCP
 Chương 2: Thực trạng chính sách cổ tức tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín
 Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách cổ tức tại Ngân hàng TMCP
Sài Gòn Thương Tín
6
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH CỔ TỨC
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1 Lợi nhuận và cổ tức của ngân hàng thương mại cổ phần
Lợi nhuận
Lợi nhuận là khoản tiền chênh lệch khi lấy doanh thu trừ đi các khoản chi
phí mà ngân hàng bỏ ra để đạt được doanh thu đó trong một thời kỳ nhất định.

Lợi nhuận của ngân hàng bao gồm: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi
nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận khác.
Cổ tức
Lợi nhuận sau thuế của ngân hàng thương mại cổ phần được chia làm hai
phần: một phần lợi nhuận dành để chia cho các cổ đông hiện hành, phần còn lại
được giữ lại để tái đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn trong tương lai của ngân hàng.
Cổ tức là một phần lợi nhuận sau thuế của ngân hàng được trích ra hàng năm
để trả cho mỗi cổ phần mà các cổ đông đang nắm giữ. Cổ tức được tính theo tỷ lệ
phần trăm trên mệnh giá cổ phiếu.
So sánh cơ chế phân phối lợi nhuận của ngân hàng thương mại cổ
phần với công ty cổ phần
Xuất phát từ các chức năng đặc trưng của ngân hàng thương mại mà một
công ty cổ phần thông thường không có: chức năng tạo tiền, thanh toán, huy động
tiết kiệm.
- Chức năng tạo tiền: với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng
thương mại thực hiện các hoạt động tín dụng và đầu tư. Các hoạt động đặc trưng
này của ngân hàng thương mại sẽ làm tăng hoặc giảm cung tiền cho các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh tùy thuộc vào chính sách tiền tệ mà ngân hàng Trung
Ương đưa ra trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Với chức năng tạo tiền,
ngân hàng thương mại đã đáp ứng nhu cầu vốn, thúc đẩy quá trình sản xuất kinh
7
doanh phát triển, từ đó tăng tích lũy cần thiết cho nền kinh tế và cho chính bản thân
ngân hàng.
- Chức năng thanh toán: bên cạnh chức năng tạo tiền, các ngân hàng
thương mại còn thực hiện chức năng thanh toán, có nghĩa là thực hiện việc chuyển
dịch vốn từ một tài khoản này sang một tài khoản khác. Thông qua hệ thống thanh
toán điện tử trong nội bộ một ngân hàng và liên ngân hàng, chức năng thanh toán
của ngân hàng thương mại được thực hiện dễ dàng. Số dư tiền gửi của cá nhân và
doanh nghiệp trên tài khoản thanh toán là một phần trong khoản mục nguồn vốn
của ngân hàng thương mại trên Bảng cân đối kế toán.

- Chức năng huy động tiết kiệm: Tiết kiệm là hình thức tiền gửi có kỳ hạn
của cá nhân hoặc doanh nghiệp tại các ngân hàng thương mại. Huy động tiết kiệm
là một chức năng quan trọng của ngân hàng thương mại nhằm tạo điều kiện cho
người gửi tiền có khoản thu nhập thông qua lãi suất với mức độ an toàn và tính
thanh khoản cao. Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính dẫn vốn từ những
người có nguồn tiền nhàn rỗi đến những người có nhu cầu sử dụng vốn. Số dư tiền
gửi có kỳ hạn cũng là một khoản mục nguồn vốn trên Bảng cân đối kế toán của
ngân hàng thương mại.
Như vậy, một công ty cổ phần trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông
thường không có những chức năng đặc trưng trên của ngân hàng thương mại nên
các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán của công ty cổ phần có sự khác nhau so
với Bảng cân đối kế toán của ngân hàng thương mại.
Bên trái của Bảng cân đối kế toán tóm tắt tình hình tài sản của công ty, trong
đó bao gồm hai khoản mục tài sản chính: tài sản lưu động và tài sản cố định, được
liệt kê theo thứ tự thanh khoản giảm dần.
Bên phải của Bảng cân đối kế toán trình bày tóm tắt các nguồn vốn mà công
ty sử dụng để tài trợ cho tài sản, gồm có nguồn vốn chủ sở hữu và nợ. Trình tự sắp
xếp nguồn vốn theo thời gian hoàn trả, khoản nào đến hạn trả trước thì được xếp
lên trước. Nguồn vốn chủ sở hữu được xếp cuối cùng, không phải trả lại, trừ khi
công ty giải thể.
8
Ví dụ: Bảng cân đối kế toán của một công ty cổ phần Y
(Đơn vị tính: triệu đồng)
Tài sản
Năm
N
Năm
N-1
Nợ và vốn chủ sở
hữu

Năm
N
Năm
N-1
Tài sản lưu động Nợ ngắn hạn
-Tiền mặt và tiền gửi 100 150 -Phải trả nhà cung cấp 600 300
-Đầu tư ngắn hạn - 650 -Vay ngắn hạn ngân
hàng
1100 600
-Khoản phải thu 3750 3150 -Phải trả khác 1400 1300
-Tốn kho 6150 4150 Tổng nợ ngắn hạn 3100 2200
Tổng TSLĐ 10000 8100 Nợ dài hạn 7540 5800
Tài sản cố định Tổng nợ phải trả 10640 8000
-Nhà xưởng, thiết bị 8000 7000 Vốn chủ sở hữu
-Khấu hao TSCĐ (3200) (2800) -Cổ phiếu ưu đãi 400 400
-TSCĐ vô hình 5200 4500 -Cổ phiếu thường 1300 1000
Tổng tài sản cố định 10000 8700 -Thặng dư vốn 3400 3200
-Lợi nhuận giữ lại 4260 4200
Tổng vốn chủ sở hữu 9360 8800
Tổng tài sản 20000 16800 Tổng nợ và vốn CSH 20000 16800
9
Ví dụ về bảng cân đối kế toán của ngân hàng thương mại X
(Đơn vị tính: tỷ đồng)
Tài sản
Năm
N
Năm
N-1
Nợ và vốn chủ sở
hữu

Năm
N
Năm
N-1
Tiền mặt
1869 1511
Tiền gửi của Kho
bạc nhà nước và
tiền vay NHTW
10.136 6754
Tiền gửi tại NHTW
2607 2205
Tiền gửi của các
TCTD khác
6550 4105
Tiền gửi tại các
TCTD khác
38.128 8.927
Tiền vay các TCTD
khác
5973 3421
Cho vay khách hàng
51.772 48.625
Tiền gửi của khách
hàng
80.340 71.810
Cho vay các TCTD
khác
1194 1068
Vốn tài trợ ủy thác

và đầu tư
120 152
Dự phòng rủi ro tín
dụng
(1078) (994)
Nợ khác
2632 5342
Đầu tư chứng khoán 1245 1125 Tổng nợ phải trả 105.751 91.584
Dự phòng giảm giá
đầu tư chứng khoán
(199) (179)
Vốn chủ sở hữu
Góp vốn liên doanh,
đầu tư dài hạn
5368 4865
-Vốn điều lệ
2538 2434
Dự phòng giảm giá
đầu tư dài hạn
(64) (58)
-Các quỹ
126 121
Tài sản cố định
502 490
-Lợi nhuận chưa
phân phối
1143 1096
Tài sản khác 8214 7650 Tổng vốn CSH 3807 3651
Tổng tài sản
109.558 95.235

Tổng nợ và vốn
CSH
109.558 95.235
So sánh hai Bảng cân đối kế toán của công ty cổ phần và ngân hàng thương
mại cổ phần cơ bản giống nhau ở kết cấu đều có hai phần: phần tài sản và phần
nguồn vốn (nợ và vốn CSH). Tổng tài sản luôn bằng tổng nguồn vốn. Tuy nhiên
xuất phát từ các chức năng đặc thù của ngân hàng thương mại như đã đề cập ở trên,
10
một số khoản mục trên Bảng cân đối kế toán của ngân hàng thương mại không có ở
Bảng cân đối kế toán của công ty cổ phần như:
 Phần tài sản: Tiền gửi tại ngân hàng Trung ương, cho vay khách hàng,
cho vay các tổ chức tín dụng khác.
 Phần nợ phải trả: Tiền gửi của Kho bạc nhà nước và tiền vay NHTW,
tiền gửi của khách hàng, tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác.
Từ đó, ta có thể so sánh trình tự và cơ chế phân phối lợi nhuận của công ty
cổ phần và ngân hàng thương mại cổ phần:
Đối với công ty cổ phần Đối với Ngân hàng TMCP
Điể
m
giốn
g
nhau
Công ty cổ phần chỉ được trả cổ tức
cho cổ đông khi công ty đã hoàn
thành:
-Nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp theo luật định
- Đảm bảo thanh toán các khoản nợ
đến hạn và nghĩa vụ tài chính khác
theo quy định của pháp luật.

-Bù đắp đủ các khoản lỗ trước đó.
- Công ty cổ phần có thể chi trả cổ
tức từ lợi nhuận giữ lại trong năm
này và từ lợi nhuận giữ lại của các
năm trước.
Ngân hàng TMCP chỉ được trả cổ
tức cho cổ đông khi đã hoàn thành:
-Nghĩa vụ nộp thuế thu nhập doanh
nghiệp theo luật định
- Đảm bảo thanh toán các khoản nợ
đến hạn và nghĩa vụ tài chính khác
theo quy định của pháp luật.
-Bù đắp đủ các khoản lỗ trước đó.
- Ngân hàng TMCP có thể chi trả cổ
tức từ lợi nhuận giữ lại trong năm
này và từ lợi nhuận giữ lại của các
năm trước.
Điể
m
khác
nhau
Theo điều 93 của Luật Doanh
nghiệp 2005, Lợi nhuận sau khi trừ
thuế, thanh toán các khoản nợ, thực
hiện các nghĩa vụ tài chính và bù
đắp các khoản lỗ sẽ thực hiện:
-Trích quỹ dự phòng tài chính
Theo điều 23, Nghị định
146/2005/NĐ-CP ban hành ngày 23
tháng 11 năm 2005, Lợi nhuận sau

khi trừ thuế, thanh toán các khoản
nợ, thực hiện các nghĩa vụ tài chính
và bù đắp các khoản lỗ sẽ thực hiện:
11
-Trích quỹ đầu tư phát triển
-Trích quỹ khen thưởng, phúc lợi
- Chia cổ tức
Tỷ lệ trích lập các quỹ được thực
hiện theo Điều lệ công ty. Còn tỷ lệ
chia cổ tức hàng năm được Đại hội
cổ đông thông qua.
-Trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn
điều lệ: mức trích lập tối thiểu mà
luật pháp quy định là 5% từ lợi
nhuận sau thuế mỗi năm.
-Trích quỹ dự phòng tài chính: tỷ lệ
10% lợi nhuận sau thuế còn lại sau
khi đã trích lập quỹ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ, số dư tối đa của quỹ này
không vượt quá 25% vốn điều lệ
hiện có của ngân hàng.
-Trích quỹ đầu tư phát triển nghiệp
vụ, quỹ khen thưởng, phúc lợi: sau
khi trích lập 2 quỹ trên, phần lợi
nhuận còn lại sẽ trích lập theo tỷ lệ
do Đại hội cổ đông thông qua trong
từng thời kỳ
- Chia cổ tức: tỷ lệ chia cổ tức hàng
năm được Đại hội cổ đông thông
qua.

1.1.4 Mối quan hệ giữa cổ tức, lợi nhuận giữ lại và giá cổ phiếu
Cổ tức, lợi nhuận giữ lại và giá cổ phiếu có mối quan hệ mật thiết và tác động
qua lại lẫn nhau. Giá trị ước tính của một cổ phần thường là tổng giá trị hiện tại của
các khoản thu nhập mà cổ đông có thể nhận được trong tương lai.
Khi ngân hàng có nhiều cơ hội đầu tư đem lại tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng cao,
ban quản trị ngân hàng sẽ giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư cao và chia cổ tức thấp.
Trong trường hợp này, rủi ro đối với nhà đầu tư cao hơn vì các khoản lợi nhuận
trong tương lai thì không chắc chắn và mức cổ tức thấp làm cho cổ phiếu ngân hàng
kém hấp dẫn, có thể khiến cho giá cổ phiếu giảm.
Ngược lại, nếu ngân hàng trả cổ tức cao trong những năm đầu, giữ lại lợi
12
nhuận với tỷ lệ thấp thì sẽ làm giảm cơ hội tái đầu tư để tăng trưởng thu nhập trong
những năm tiếp theo. Về phía các nhà đầu tư, rủi ro sẽ thấp hơn và mức cổ tức họ
nhận được cao là chắc chắn. Điều này tác động làm tăng giá cổ phiếu trên thị trường.
1.2 Chính sách cổ tức
1.2.1 Khái niệm chính sách cổ tức
Chính sách cổ tức chính là quyết định phân phối lợi nhuận sau thuế của
doanh nghiệp: bao nhiêu được giữ lại để tái đầu tư và bao nhiêu dùng để chi trả
cổ tức cho các cổ đông.
Một chính sách cổ tức bao gồm 3 nội dung cơ bản: công bố mức cổ tức được
chi trả, hình thức chi trả cổ tức và thời gian trả cổ tức.
1.2.2 Mục tiêu của chính sách cổ tức
Mục tiêu của chính sách cổ tức là tạo ra sự cân đối giữa mức cổ tức trả cho
các cổ đông và tỷ lệ lợi nhuận giữ lại sao cho tối đa hóa giá trị cổ phần, cũng như tối
đa hóa lợi ích của các cổ đông.
1.2.3 Các chỉ tiêu đo lường chính sách cổ tức
Để đánh giá một chính sách cổ tức, người ta chủ yếu sử dụng các chỉ tiêu sau:
 Thứ nhất: cổ tức một cổ phần thường, chỉ tiêu này đo lường mức trả cổ
tức tính trên một cổ phần thường mà nhà đầu tư có thể nhận được.
Cổ tức một cổ phần thường =

Lợi nhuận dành để trả cổ tức
Số lượng cổ phần thường đang lưu hành
Thứ hai: tỷ lệ chi trả cổ tức, phản ánh mối quan hệ giữa mức cổ tức cổ
đông nhận được so với thu nhập một cổ phần. Nói cách khác, chỉ tiêu này cho biết
mức cổ tức mà cổ đông nhận được chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong thu nhập của ngân
hàng trong kỳ.
Tỷ lệ chi trả cổ tức =
Cổ tức mỗi cổ phần thường
Thu nhập mỗi cổ phần thường
Đây là một trong những nhân tố quyết định đến thị giá của cổ phiếu.
Ví dụ: Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (mã chứng khoán: STB) công bố mức
chi trả cổ tức năm 2008 là 15% bằng cổ phiếu. Thu nhập mỗi cổ phần trên báo cáo
13
kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008 là 1869 VNĐ. Tỷ lệ chi trả cổ tức của STB
là 1500/1869 = 80.2568% . Điều này cho thấy STB dành tỷ lệ lợi nhuận cao để chi
trả cổ tức.
 Thứ ba: tỷ suất cổ tức, phản ánh mối quan hệ giữa mức cổ tức một cổ
phần thường và giá trị thị trường của cổ phần đó. Chỉ tiêu này đo lường mức sinh
lời thực tế mà cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào cổ phần thường.
Tỷ suất cổ tức =
Cổ tức mỗi cổ phần thường
Giá thị trường mỗi cổ phần thường
Thu nhập của nhà đầu tư gồm hai phần: cổ tức và chênh lệch giá do chuyển
nhượng cổ phần. Một nhà đầu tư quan tâm đến thu nhập cổ tức hơn thu nhập lãi vốn
thì sẽ lựa chọn mã chứng khoán có mức cổ tức cao, nhưng tỷ suất cổ tức thấp hơn.
Ngược lại nhà đầu tư nào quan tâm đến thu nhập lãi vốn, hưởng chênh lệch lớn của
giá cổ phiếu khi giá trị công ty tăng lên thì chấp nhận mức cổ tức thấp nhưng tỷ suất
cổ tức cao hơn để phần lớn lợi nhuận dành cho tái đầu tư, phát triển công ty.
Bảng 1.1 : So sánh tỷ suất cổ tức của hai mã chứng khoán sau
(Đơn vị tính: VNĐ)


chứn
g
khoá
n
Tên công ty Cổ tức
Giá thị trường
ngày 31/12/09
Tỷ suất
cổ tức
KBC Công ty CP phát triển đô thị
Kinh Bắc
3000 59.500 5.04%
STB Ngân hàng TMCP Sài Gòn
Thương Tín
1500 24.000 6.25%
Như vậy, ta có thể thấy Công ty cổ phần phát triển đô thị Kinh Bắc (KBC) trả
cổ tức ở mức 30% trên mệnh giá cao hơn so với mức 15% trên mệnh giá của NH
TMCP Sài Gòn Thương Tín (STB). Nhưng tính tỷ suất cổ tức thì KBC có tỷ suất
cổ tức 5.04% thấp hơn mức 6.25% của STB. Với cùng vốn đầu tư 100.000.000
VNĐ, nếu đầu tư vào cổ phiếu KBC nhận được 5.040.000 VNĐ thu nhập hàng
năm, còn nếu đầu tư vào cổ phiếu STB nhận được thu nhập hàng năm là
6.250.000VNĐ. Nếu một nhà đầu tư quan tâm thu nhập cổ tức hơn thu nhập lãi
14
vốn trong tương lai
thì
sẽ lựa chọn cổ phiếu KBC
. Còn nhà đầu tư nào quan tâm
đến thu nhập lãi vốn thì sẽ chọn cổ phiếu STB.
Tóm lại, những chỉ tiêu trên là cơ sở để các nhà đầu tư cân nhắc và ra quyết

định đầu tư, đồng thời có tác động đến giá thị trường của cổ phiếu.
1.2.4 Các mô hình chính sách trả cổ tức
Để xác định mức trả cổ tức, nhà quản trị tài chính của ngân hàng thường sử
dụng ba mô hình sau:
 Mô hình chính sách trả cổ tức bằng tiền mặt ổn định: các ngân hàng
thương mại cổ phần áp dụng chính sách cổ tức này đều công bố chi trả cổ tức hàng
năm theo một tỷ lệ nhất định tính trên mệnh giá và mức tỷ lệ này gần như không đổi
qua các năm. Việc duy trì một tỷ lệ chi trả cổ tức ổn định sẽ có tác dụng tốt đối với
tâm lý cổ đông, nhất là những cổ đông coi việc mua cổ phiếu như một hình thức gửi
tiết kiệm, có thu nhập ổn định từ cổ tức.
 Mô hình chính sách cổ tức thấp, ưu tiên cho việc tái đầu tư: khi ngân hàng
có nhiều cơ hội đầu tư đem lại lợi nhuận kỳ vọng cao hơn mức cổ tức mong đợi của
các cổ đông thì ngân hàng sẽ giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư và chia cổ tức ở một tỷ
lệ thấp. Nhiều ngân hàng thương mại cổ phần có thể chi trả cổ tức theo tỷ lệ thay
đổi qua các năm tùy thuộc vào cơ hội đầu tư mà ngân hàng có được.
 Mô hình chính sách trả cổ tức bằng tiền mặt kết hợp với trả cổ tức bằng cổ
phiếu: thông qua chính sách này, ban quản trị ngân hàng có thể linh hoạt giữ lại lợi
nhuận khi cần mà vẫn thỏa mãn được nhu cầu của nhà đầu tư muốn nhận được một
mức cổ tức đảm bảo hàng năm. Khi ngân hàng có lợi nhuận thấp, các nhà đầu tư
vẫn nhận được mức chi trả cổ tức đều đặn. Còn khi ngân hàng có lợi nhuận cao, cần
tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư, ngoài việc chi trả cổ tức bằng tiền mặt,
ngân hàng có thể kết hợp chi trả cổ tức bằng cổ phiếu.
1.2.5. Các phương thức trả cổ tức
1.2.5.1 Cổ tức trả bằng tiền mặt
Cổ tức tiền mặt là số đơn vị tiền tệ từ khoản lợi nhuận sau thuế mà ngân hàng
trả trực tiếp cho cổ đông hiện hành.
15
Trả cổ tức bằng tiền mặt là việc chuyển dịch một phần tài sản của ngân hàng
sang các cổ đông dưới hình thức tiền mặt, khi đó làm giảm tài sản và giảm lợi
nhuận chưa

phân
phối trên bảng cân đối kế toán, tức giảm nguồn vốn chủ sở
hữu của ngân hàng. Như vậy, giá trị sổ sách của một cổ phần sẽ giảm xuống so với
trước khi trả cổ tức. Hình thức chi trả cổ tức bằng tiền mặt có tác động hai mặt đến
ngân hàng, cụ thể:
* Mặt tích cực: Cổ tức được chi trả bằng tiền mặt sẽ tạo ra thu nhập thực tế
cho các cổ đông. Đối với các cổ đông không thích rủi ro, xem việc đầu tư vào cổ
phiếu ngân hàng như một hình thức gửi tiết kiệm thì họ ưa thích hình thức trả cổ tức
này. Mặt khác, trả cổ tức bằng tiền mặt thể hiện dòng tiền của ngân hàng dồi dào,
hoạt động kinh doanh của ngân hàng đạt hiệu quả cao. Điều này thu hút sự quan
tâm của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, có thể làm cho giá cổ phiếu
của ngân hàng tăng lên.
* Mặt hạn chế: Để thực hiện chi trả cổ tức bằng tiền mặt, ngân hàng phải có
nguồn tiền mặt dồi dào. Khi ngân hàng có nhiều cơ hội đầu tư thì việc trả cổ tức
bằng tiền mặt làm khan hiếm vốn nội sinh để tài trợ cho dự án đầu tư. Khi đó, để
đáp ứng đủ nhu cầu vốn, ngân hàng phải huy động nguồn vốn từ bên ngoài như đi
vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc phát hành thêm cổ phiếu, dẫn đến làm tăng
chi phí sử dụng vốn.
1.2.5.2 Cổ tức trả bằng cổ phiếu
Trả cổ tức bằng cổ phiếu là hình thức ngân hàng phát hành thêm cổ phiếu
cho cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua và các cổ
đông không phải thanh toán một khoản tiền nào cho số lượng cổ phiếu được nhận
thêm đó. Hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu không làm thay đổi tỷ lệ sở hữu của
các cổ đông cũ.
Việc trả cổ tức bằng cổ phiếu thực chất là việc chuyển phần lợi nhuận sau
thuế giữ lại để bổ sung tăng vốn điều lệ. Do đó, tổng tài sản của ngân hàng không
thay đổi so với trước khi trả cổ tức. Chỉ có số lượng cổ phần thường lưu hành sẽ
tăng lên. Hình thức chi trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng có hai mặt tích cực và hạn
16
chế, cụ thể là:

* Mặt tích cực:
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu giúp cho ngân hàng có thể giữ lại khoản lợi nhuận
sau thuế để tái đầu tư, tạo tiền đề cho sự tăng trưởng thu nhập và cổ tức trong tương
lai. Khi ngân hàng có nhiều cơ hội đầu tư có hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao thì sẽ
có tác động tích cực làm tăng giá cổ phiếu trên thị trường.
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu thì ngân hàng sẽ hạn chế phải phát hành thêm cổ
phần thường mới để huy động vốn, từ đó sẽ hạn chế bị chia sẻ quyền kiểm soát của
các cổ đông hiện hữu trong ngân hàng. Thêm vào đó, ngân hàng không phải tốn
kém chi phí phát hành cổ phần mới. Vì vậy mà chi phí sử dụng vốn từ nguồn lợi
nhuận giữ lại sẽ thấp hơn nhiều so với chi phí sử dụng vốn cổ phần thường mới.
- Trong trường hợp thuế suất cổ tức cao hơn thuế suất lãi vốn thì hình thức
chia cổ tức bằng cổ phiếu có lợi cho các cổ đông vì số thuế thu nhập cá nhân phải
nộp ít hơn và thời điểm nộp thuế được trì hoãn đến khi các cổ đông bán số cổ phiếu
đó trên thị trường chứng khoán.
- So với việc ngân hàng không chia cổ tức thì hình thức trả cổ tức bằng cổ
phiếu làm cho cổ phiếu của ngân hàng có tính thanh khoản cao hơn.
* Mặt hạn chế:
- Trả cổ tức bằng cổ phiếu làm tăng số lượng cổ phiếu lưu hành dẫn đến làm
giảm thu nhập trên một cổ phần hiện tại. Cung cổ phiếu tăng cao hơn cầu kéo theo
giá cổ phiếu trên thị trường sụt giảm. Đặc biệt, trong trường hợp ngân hàng không
có nhiều cơ hội đầu tư hiệu quả mà vẫn lạm dụng hình thức chi trả cổ tức bằng cổ
phiếu để tăng vốn điều lệ thì cũng đồng nghĩa với việc ngân hàng sử dụng vốn
không hiệu quả, có tác động tiêu cực đến tâm lý nhà đầu tư, dẫn đến giá cổ phiếu
giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các cổ đông hiện hành.
- Khi ngân hàng trả cổ tức bằng cổ phiếu thì phải vốn hóa lợi nhuận thành
vốn cổ phần (vốn điều lệ), do đó trong trường hợp cần thiết ngân hàng không thể
lấy vốn để trả cổ tức cho cổ đông. Còn trong trường hợp ngân hàng không trả cổ tức
thì lợi nhuận vẫn nằm trên tài khoản lợi nhuận chưa phân phối nên vẫn có thể dùng
17
để trả cổ tức cho cổ đông vào các năm tiếp theo khi cần thiết.

1.2.5.3 Cổ tức trả bằng tài sản
Trả cổ tức bằng tài sản là hình thức ngân hàng có thể trả cho cổ đông bằng
những thành phẩm, bất động sản hay tài sản tài chính của các công ty cổ phần khác
như cổ phiếu, trái phiếu mà ngân hàng sở hữu.
1.2.5.4 Mua lại cổ phần
Ngoài hình thức trả cổ tức bằng tiền mặt, ngân hàng thương mại cổ phần có
thể thực hiện phân phối tiền mặt cho cổ đông qua hình thức mua lại cổ phần thường.
Việc mua lại cổ phần thường nhằm giảm số lượng cổ phiếu đang lưu hành, tái cơ
cấu nguồn vốn và bình ổn giá cổ phiếu trên thị trường. Hai hình thức trả cổ tức bằng
tiền mặt và mua lại cổ phần thường có những điểm giống và khác nhau sau:
* Những điểm giống nhau:
- Cả hai hình thức này đều làm giảm một lượng giá trị tài sản của ngân hàng.
- Ngân hàng lựa chọn áp dụng một trong hai hình thức này khi ngân hàng có
ít cơ hội đầu tư hiệu quả.
- Ngân hàng trả cổ tức bằng tiền mặt hoặc mua lại cổ phần là một thông tin
tốt cho thấy hoạt động kinh doanh hiệu quả của ngân hàng và triển vọng phát triển
của ngân hàng trong tương lai. Thông tin này sẽ có tác động tích cực làm tăng giá
cổ phiếu ngân hàng trên thị trường.
* Những điểm khác nhau:
Hai hình thức cổ tức bằng tiền mặt và mua lại cổ phần thường có những
điểm khác nhau cơ bản. Ta có thể thấy những điểm khác nhau đó qua ví dụ sau:
Ngân hàng A có 50 triệu cổ phần thường và tổng tài sản là 200 tỷ đồng, vốn
chủ sở hữu là 100 tỷ đồng. Giá thị trường của cổ phiếu ngân hàng A hiện là 50.000
đồng/cổ phần. Ngân hàng đạt được lợi nhuận ròng là 100 tỷ đồng, và dự định dùng
50 tỷ đồng để thực hiện chia cổ tức bằng tiền mặt hoặc mua lại cổ phần. Thu nhập
trên một cổ phần (EPS) là 2000 (đồng). Hệ số giá trên thu nhập(P/E) là 25
Bảng cân đối kế toán của ngân hàng A như sau:
(Đơn vị tính: triệu đồng)
18
Tài sản Nguồn vốn

Tiền: 100.000 Nợ vay: 100.000
Tài sản khác: 100.000 Vốn chủ sở hữu: 100.000
Tổng tài sản: 200.000 Tổng nguồn vốn: 200.000
+ Phương án 1: ngân hàng trả cổ tức 10% bằng tiền mặt, có nghĩa là mỗi cổ
phần nhận được 1000 đồng
+ Phương án 2: ngân hàng mua lại 1 triệu cổ phần với giá 50.000 đồng/cổ phần
Bảng cân đối kế toán mới cho cả hai trường hợp như sau:
(Đơn vị tính: triệu đồng)
Tài sản Nguồn vốn
Tiền: 50.000 Nợ vay: 100.000
Tài sản khác: 100.000 Vốn chủ sở hữu: 50.000
Tổng tài sản: 150.000 Tổng nguồn vốn: 150.000
Các chỉ số tài chính trong hai trường hợp như sau:
ST
T
Chỉ tiêu
Phương án 1
(Trả cổ tức
tiền mặt)
Phương án 2
(Mua lại cổ
phần)
1 Giá trị thị trường một cổ phần 49000 (đồng) 50.000 (đồng)
2 Thu nhập một cổ phần 2000 (đồng) 2040 (đồng)
3 Hệ số giá trên thu nhập(P/E) 24.5 24.509
Qua bảng tổng hợp trên ta có thể rút ra những điểm khác nhau, đó là:
- Trả cổ tức bằng tiền mặt làm giảm giá thị trường của cổ phiếu còn mua lại
cổ phần thường không làm ảnh hưởng đến giá thị trường của cổ phiếu.
- Trả cổ tức bằng tiền mặt không làm thay đổi thu nhập trên một cổ phần
(EPS). Trong khi mua lại cổ phần làm giảm lượng cổ phần lưu hành nên thu nhập

một cổ phần tăng lên.
- Cả hai hình thức đều làm giảm hệ số giá trên thu nhập một cổ phần. Ở ví
dụ trên, hệ số giá trên thu nhập trước khi chia cổ tức là: 25. Còn sau khi chia cổ tức
bằng tiền mặt thì hệ số giá trên thu nhập là 24.5 và khi mua lại cổ phần thì hệ số
trên là 24.509
19
1.2.6 Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách trả cổ tức
1.2.6.1 Nhóm nhân tố khách quan
1.2.6.1.1 Những quy định về mặt pháp lý
Quyết định chi trả cổ tức ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các cổ đông và
chủ nợ. Để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, hầu hết luật pháp của các nước đều đưa
ra các nguyên tắc ràng buộc việc chi trả cổ tức của các ngân hàng TMCP niêm yết.
 Nguyên tắc về việc hạn chế suy yếu vốn: theo nguyên tắc này, ngân hàng
không được dùng vốn để chi trả cổ tức.
Vốn được định nghĩa bao gồm cả mệnh giá của cổ phần thường và thặng dư
vốn (phần vốn góp từ chênh lệch giữa mệnh giá và giá phát hành của cổ phần
thường).
Ví dụ: xem Báo cáo tài chính của ngân hàng A năm N có số liệu sau:
(Đơn vị tính: triệu đồng)
Cổ phần thường (mệnh giá 10.000 VNĐ) : 250.000
Thặng dư vốn : 50.000
Lợi nhuận sau thuế chưa phân phối : 150.000
Tổng vốn chủ sở hữu : 450.000
Khi luật định vốn của ngân hàng gồm cả mệnh giá cổ phần thường và thặng
dư vốn thì ngân hàng chỉ có thể dùng lợi nhuận chưa phân phối là 150.000 (triệu
đồng) để chi trả cổ tức.
 Nguyên tắc lợi nhuận ròng: quy định một ngân hàng TMCP chỉ được phép
chi trả cổ tức từ lợi nhuận sau thuế của ngân hàng. Hạn chế này nhằm ngăn
cản các chủ sở hữu rút vốn đầu tư ban đầu và đảm bảo an toàn cho các chủ
nợ của ngân hàng (chủ nợ của ngân hàng là các cá nhân và tổ chức giữ các

chứng chỉ tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và trái phiếu của ngân hàng)
 Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán: theo quy định này một ngân hàng
TMCP mất khả năng thanh toán thì không được chi trả cổ tức. Ngân hàng
20
mất khả năng thanh toán có nghĩa là không thể thanh toán hết các khoản nợ
đến hạn (bao gồm các khoản tiền gửi và trái phiếu)
 Nguyên tắc lập quỹ dự trữ: theo nguyên tắc này, ngân hàng phải trích một
phần lợi nhuận sau thuế để lập ra các quỹ dự trữ, đề phòng trong trường hợp
ngân hàng gặp rủi ro bất thường hoặc kinh doanh khó khăn thì ngân hàng sẽ
không bị mất vốn hoặc đảm bảo vẫn duy trì mức trả cổ tức cho cổ đông.
1.2.6.1.2 Chính sách thuế thu nhập cá nhân
Luật thuế thu nhập cá nhân có quy định khi các cổ đông nhận được cổ tức
hoặc lãi vốn do chuyển nhượng cổ phần đều phải chịu một mức thuế suất nhất định.
Thuế thu nhập cá nhân cao hay thấp có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập thực tế của
các cổ đông. Có ba vấn đề chính trong Luật thuế thu nhập cá nhân có ảnh hưởng đến
số thuế thu nhập mà cổ đông phải nộp:
 Thứ nhất: sự khác biệt về mức thuế suất đánh trên cổ tức và thuế suất đánh
trên lãi vốn. Nếu thuế suất đánh trên thu nhập cổ tức cao hơn thuế suất đánh trên thu
nhập từ chênh lệch do chuyển nhượng vốn (chênh lệch giữa giá bán và giá mua
chứng khoán) thì sẽ khuyến khích các ngân hàng TMCP giữ mức cổ tức thấp để các
cổ đông có thể nhận được một phần lớn hơn tỷ suất sinh lợi trước thuế dưới hình
thức lãi vốn, và như vậy làm tăng tỷ suất lợi nhuận sau thuế của họ.
 Thứ hai: sự khác nhau về thời điểm tính thuế thu nhập cá nhân giữa cổ tức
và lãi vốn. Thời điểm cổ đông phải nộp thuế thu nhập cổ tức khi họ nhận được cổ
tức. Còn thuế đánh trên thu nhập lãi vốn phải nộp khi cổ đông chuyển nhượng vốn
cổ phần. Như vậy lãi vốn giúp các cổ đông trì hoãn việc nộp thuế. Việc nộp thuế sau
làm giảm số tiền thuế thực tế mà cổ đông phải nộp. Ví dụ: một nhà đầu tư trong
năm 2011 có mức thu nhập cổ tức và lãi vốn cùng là 20 triệu đồng, giả định thuế
suất áp dụng cho cả hai loại thu nhập này ở mức 28% và lãi suất kỳ vọng hiện nay
trên thị trường là 10% thì:

- Đối với thu nhập cổ tức, nhà đầu tư phải nộp 20 × 28% = 5.6 (triệu đồng)
tiền thuế. Thu nhập sau thuế còn lại là 20-5.6 = 14.4 (triệu đồng)
21
- Đối với lãi vốn, nhà đầu tư phải nộp thuế là 20 × 28% = 5.6 (triệu đồng)
nhưng giả sử nhà đầu tư trì hoãn bán chứng khoán một năm đến năm 2012. Như
vậy, khi quy về hiện giá năm 2011, nhà đầu tư chỉ phải nộp một số thuế là: 5.6 / (1 +
10%) = 5.09 (triệu đồng). Mức thu nhập ròng của nhà đầu tư sẽ là 20 – 5.09 = 14.91
(triệu đồng), cao hơn mức thu nhập ròng từ cổ tức.
Như vậy, thời gian chuyển nhượng vốn cổ phần càng dài thì giá trị hiện tại
của khoản thuế đánh trên lãi vốn càng thấp. Do đó các cổ đông có xu hướng muốn
tái đầu tư lợi nhuận vào công ty nhiều hơn để giảm số thuế thực tế phải nộp.
 Thứ ba: thuế thu nhập cá nhân đánh theo biểu thuế lũy tiến, nghĩa là nếu
thu nhập càng cao thì mức thuế suất áp dụng sẽ càng cao. Như vậy đối với các cổ
đông lớn của một ngân hàng TMCP thì thu nhập từ cổ tức sẽ rất cao, nên mức thuế
suất sẽ rơi vào ngưỡng cao hơn so với các cổ đông nhỏ. Vì vậy các cổ đông lớn
thích nhận cổ tức ở mức thấp và dành lợi nhuận tái đầu tư, kỳ vọng khoản lãi vốn
trong tương lai sẽ cao hơn.
1.2.6.1.3 Lạm phát
Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, vốn tích lũy từ khấu hao thường
không đủ để bù đắp cho việc thay thế tài sản của ngân hàng khi các tài sản này cũ
kỹ, lạc hậu. Khi đó, ngân hàng có thể buộc phải giữ lại một tỷ lệ lợi nhuận cao hơn
để duy trì năng lực hoạt động cho tài sản của mình.
Lạm phát cũng tác động đến lãi suất huy động vốn của các ngân hàng
TMCP. Khi lạm phát cao, để đảm bảo lãi suất thực dương cho các khách hàng
gửi tiền thì các ngân hàng buộc phải nâng lãi suất huy động vốn, từ đó làm tăng
chi phí sử dụng vốn của ngân hàng. Để đảm bảo khả năng thanh khoản, ngân
hàng sẽ phải giữ lại tỷ lệ tiền mặt ở ngân quỹ cao hơn và tăng tỷ lệ lợi nhuận giữ
lại so với trước khi có lạm phát.
1.2.6.1.4 Tâm lý của nhà đầu tư
Các nhà đầu tư trên thị trường thường chia thành hai nhóm: nhóm nhà đầu tư

thích mạo hiểm, rủi ro và nhóm nhà đầu tư không thích mạo hiểm, rủi ro.
22
Nhóm nhà đầu tư không thích mạo hiểm rủi ro thường mong muốn nhận được
mức cổ tức cao hiện tại hơn là lãi vốn trong tương lai vì cổ tức hiện tại là thu nhập
chắc chắn, còn lãi vốn theo như kỳ vọng của ban quản trị ngân hàng thì không chắc
chắn. Vì vậy, nhóm nhà đầu tư này sẽ sẵn sàng trả giá cao cho những cổ phiếu có
mức cổ tức cao.
Ngược lại, nhóm các nhà đầu tư thích mạo hiểm, rủi ro thì muốn tái đầu tư
vào ngân hàng, kỳ vọng vào sự tăng trưởng của ngân hàng sẽ đem lại khoản lãi vốn
trong tương lai cao hơn là mức cổ tức hiện tại.
1.2.6.1.5 Chi phí giao dịch và chi phí phát hành cổ phần mới
Trên thị trường chứng khoán tập trung, các cổ đông muốn mua bán chứng
khoán thì phải thông qua các công ty chứng khoán và phải trả một khoản phí giao
dịch. Đối với các cổ đông nhỏ thì cổ tức của họ nhận được thấp. Nếu ngân hàng chi
trả cổ tức bằng cổ phiếu thì các cổ đông nhỏ thường muốn bán số cổ phiếu đó để
chuyển thành tiền mặt phục vụ cho nhu cầu chi tiêu và sẽ chịu một khoản phí giao
dịch. Hơn nữa, nếu số cổ phiếu không đủ lô chẵn để thực hiện giao dịch trên thị
trường thì sẽ không bán được hoặc bán lại cho các công ty chứng khoán với giá thấp
hơn thị trường. Như vậy, thu nhập thực tế của các cổ đông nhỏ giảm xuống. Điều
này lý giải vì sao các cổ đông nhỏ thường ưa thích việc trả cổ tức bằng tiền mặt hơn
là tái đầu tư để tránh phải chuyển nhượng cổ phần.
Còn đối với các ngân hàng TMCP, khi có nhu cầu huy động vốn bên ngoài
cũng cần thông qua công ty chứng khoán thực hiện phát hành cổ phiếu thường và trả
các khoản phí cho công ty chứng khoán như phí bảo lãnh phát hành chứng khoán,
phí môi giới phát hành, chi phí in ấn, quảng cáo … Việc phát hành cổ phần mới làm
tăng chi phí sử dụng vốn . Vì vậy, các ngân hàng TMCP ưa thích giữ lại lợi nhuận để
tái đầu tư, tránh phải tốn kém chi phí phát hành cổ phần mới để huy động vốn.
1.2.6.1.6 Giá thị trường của cổ phiếu.
Giá thị trường của cổ phiếu là nhân tố cần xem xét khi quyết định hình thức
chi trả cổ tức. Khi thị trường chứng khoán tăng trưởng, giá cổ phiếu đang ở mức cao,

23
nhu cầu cổ phiếu cao thì ngân hàng nên chi trả cổ tức bằng cổ phiếu để tạo cơ hội
cho các cổ đông gia tăng lợi ích kinh tế khi chuyển nhượng vốn cổ phần. Ngược lại,
trong trường hợp thị trường chứng khoán suy giảm, giá cổ phiếu xuống thấp, khi đó
cầu về cổ phiếu thấp, ngân hàng nên chọn hình thức trả cổ tức bằng tiền mặt vừa
đảm bảo lợi ích của các cổ đông, vừa tránh làm tăng nguồn cung cổ phiếu, càng làm
cho giá cổ phiếu giảm.
1.2.6.2 Nhóm nhân tố chủ quan
1.2.6.2.1 Chu kỳ sống và các cơ hội đầu tư
Ngân hàng cũng giống như một công ty thông thường sẽ trải qua bốn giai
đoạn của một chu kỳ sống: giai đoạn hình thành, giai đoạn tăng trưởng, giai đoạn
phát triển ổn định và giai đoạn suy thoái. Mỗi giai đoạn phát triển của ngân hàng sẽ
có mức sinh lời, cơ hội đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư khác nhau và chính sách cổ tức áp
dụng trong từng thời kỳ cũng được thay đổi tương ứng cho phù hợp.
24
Bảng 1.2 : Mối quan hệ giữa chính sách cổ tức và từng giai đoạn phát triển
của ngân hàng
Giai đoạn
hình thành
Giai đoạn tăng
trưởng nhanh
Giai đoạn
phát triển ổn
định
Giai đoạn
suy thoái
Dòng
tiền

nhu

cầu
đầu

Dòng tiền khan
hiếm và nhu
cầu đầu tư cao.
Có nhiều cơ hội đầu
tư đem lại tỷ suất lợi
nhuận cao, nhu cầu
vốn nhiều. Dòng tiền
vẫn khan hiếm
Dòng tiền tăng
trưởng nhanh
và giá trị công
ty cũng tăng
đều.
Dòng tiền dư
thừa và các cơ
hội đầu tư
giảm sút.
Chín
h
sách
cổ tức
Không trả cổ
tức và phát
hành thêm cổ
phần mới để
tăng vốn
Không trả cổ tức hoặc

trả cổ tức ở mức thấp.
Vẫn thực hiện phát
hành cổ phần mới
Gia tăng mức
chia cổ tức
Tăng mức cổ
tức hoặc mua
lại cổ phần
- Giai đoạn hình thành: ở giai đoạn này, ngân hàng mới được thành lập nên
quy mô hoạt động còn nhỏ, nhu cầu vốn đầu tư cao trong khi nguồn vốn nội tại của
ngân hàng còn hạn chế chưa đủ đáp ứng. Vì thế trong giai đoạn này các ngân hàng
thường không chi trả cổ tức mà giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư, thậm chí có thể phát
hành thêm cổ phần mới để tăng vốn điều lệ.
- Giai đoạn tăng trưởng nhanh: trong giai đoạn này, ngân hàng đã tạo được
thương hiệu trên thị trường, mức tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận cao hơn so với
giai đoạn mới hình thành. Hơn nữa, nhiều cơ hội đầu tư đem lại tỷ suất lợi nhuận cao
đòi hỏi ngân hàng cần phải huy động vốn nhiều hơn. Do vậy chính sách cổ tức của
ngân hàng giai đoạn này vẫn thiên về giữ lại lợi nhuận với tỷ lệ cao, nên ngân hàng
tiếp tục thực hiện không trả cổ tức hoặc trả cổ tức ở mức thấp. Nếu nhu cầu vốn đầu
tư vẫn cao, ngân hàng có thể tiếp tục huy động thêm vốn bằng việc phát hành thêm
25

×