Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Hoạt động huy động vốn các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.99 KB, 25 trang )

Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
MỤC LỤC
1.1. Khái ni m v NHTMệ ề 2
1.2. Ngân h ng ra i l m t y u t khách quanà đờ à ộ ế ố 3
1.3. Các ch c n ng c a NHTMứ ă ủ 3
1.3.1. Trung gian tín d ngụ 3
1.3.2. L m trung gian thanh toán v qu n lý các ph ng ti n thanh toán.à à ả ươ ệ . 5
1.3.3. T o ra ti n trong h th ng ngân h ng hai c pạ ề ệ ố à ấ 6
1.3.4. Ngân h ng th ng m i trong vi c tham gia phát tri n th tr ng à ươ ạ ệ ể ị ườ
ch ng khoánứ 7
1.4. Ngu n v n c a NHTMồ ố ủ 10
1.4.1. V n c a ch s h uố ủ ủ ở ữ 10
1.4.2. V n n :ố ợ 12
1.4.2.3. Vai trò 13
1.5. T i s n c a NHTMà ả ủ 13
1.5.1. Ti n d trề ự ữ 13
1.5.2. Ti n m t trong quá trình thu.ề ặ 13
1.5.3. Ti n g i các NHTM khácề ử ở 14
1.5.4. Ch ng khoánứ 14
1.5.5. Ti n cho vayề 14
1.5.6. Các lo i t i s n khácạ à ả 14
1.6. Nghi p v c b n c a NHTMệ ụ ơ ả ủ 15
1.6.1. Tín d ngụ 15
1.6.2. Thanh toán 15
1.6.3. Huy ng v nđộ ố 15
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ngân hàng thương mại NHTM
Ngân hàng trung ương NHTW
Nghiệp vụ huy động vốn Hút


Nghiệp vụ cho vay Bơm
Thị trường chứng khoán TTCK
Ngân hàng ngoại thương NHNT
Ngân hàng nhà nước NHNN
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước trên thế giới. Kinh tế
có phát triển thì mới có điều kiện nâng cao sức sống vật chất đồng thời tạo môi trường
cho phép mọi người được hưởng thụ cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe, xóa bỏ nghèo
đói. Mà muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế thì 1 trong những yếu tố quan trọng
cần phải có là vốn. Với nguồn vốn này sẽ giúp các doanh nghiệp trang bị máy móc
công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực và ứng dụng những thành tựu công nghệ
mới, dẫn đến tăng khả năng cạnh tranh và đứng vững trong điều kiện hội nhập và sự
bùng nổ của nền kinh tế tri thức. Có thể nói nguồn vốn để đầu tư phát triển theo chiều
rộng lẫn chiều sâu nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất. Vì vậy nhu cầu về vốn là nhu
cầu rất bức xúc và cấp bách. Trong khi đó nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của người dân
nằm rải rác khắp nơi. Vì vậy để có thể thu hút được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp phát triển đòi hỏi cần có 1 tổ chức đứng ra làm
trung gian. Tổ chức đó là hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng với chức năng của
mình trực tiếp "hút" và "bơm" vốn vào nền kinh tế, vào khắp các ngõ ngách của hoạt
động kinh tế, điều tiết vốn giữa các ngành, các vùng 1 cách tối ưu nhất. Có thể nói huy
động vốn là một trong những hoạt động hết sức đặc thù của NHTM là tiêu chí quan
trọng và duy nhất để phân biệt giữa ngân hàng doanh nghiệp.
Song thực tế "hút" và "bơm" không phải là những hoạt động giản đơn dễ thực
hiện. Đó là cả 1 quá trình liên tục và phức tạp. Vì vậy làm cách nào để hệ thống
NHTM phát huy có hiệu quả chức năng trên của mình, là cầu nối giữa nơi thừa và
nơi thiếu vốn, đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế của đất nước trong
điều kiện thị trường tài chính tiền tệ trong và ngoài nước diễn biến phức tạp, lạm
phát cao, giá xăng dầu tăng. NHNN áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng tỷ lệ dự

trữ bắt buộc, yêu cầu NHTM mua tín phiếu. Trong khi đó, bản thân các ngân hàng lại
có vốn điều lệ ít, và sự cạnh tranh của các định chế tài chính trung gian khác. Đó là
mối quan tâm của các cấp lãnh đạo các ngân hàng chính vì những lý do trên tôi xin
khai thác và trình bày những hiểu biết của mình về quá trình "hút" của các Ngân
hàng thương mại Việt Nam hiện nay : "Hoạt động huy động vốn các Ngân hàng
thương mại ở Việt Nam ".
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Cao Thị Ý Nhi đó giúp đỡ em hoàn
thành bản đề án này. Mặc dù đó cố gắng nhiều nhưng do thời gian và nhận thức có
hạn, bài viết của em không tránh khỏi một số thiếu sót nhất định. Em cảm ơn cô đó
dành thời gian đọc đề án mụn học này của em. Chúc cô sức khỏe.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
1
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm về NHTM
Lịch sử phát triển
Ngân hàng theo nghĩa hiện đại của từ này có thể được truy nguồn từ thời Trung
cổ và đầu thời kỳ Phục hưng ý, đến các Thành phố giàu có ở miền Bắc như Florence,
Venice và Genoa. Các Bardi và Peruzzi gia đình thống trị thế kỷ 14 ngân hàng tại
Florence, thành lập chi nhánh tại nhiều nơi khác của Châu Âu . Có lẽ nổi tiếng nhất của
Ý, là ngân hàng Medici ngân hàng thiết lập của Giovanni Medici năm 1937. Sớm nhất
được biết Nhà nước tiền gửi ngân hàng, Banco di San Giorgio (Bank of St George) , được
thành lập năm 1407 tại Genoa, Italy.
Trong thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, các ngân hàng ở Ba Tư và vùng lãnh thổ
khác trong tiếng Ba Tư Sassanid Empire phát hình thư tín dụng được biết như Sakks.
Thương nhân hồi giáo được biết là đã sử dụng các bài kiểm tra hoặc Sakk hệ thống kể
từ thời của Harun al-Rashid (9 thế kỷ) của chức quốc vương của nước hồi giáo
Abbasid. Trong thế kỷ thứ 9, một doanh nhân người Hồi giáo có thể bằng tiền mặt là

một hình thức ban đầu của việc kiểm tra tại Trung Quốc được vẽ trên các nguồn trong
Baghdad, một truyền thống đã được tăng cường đáng kể trong thế kỷ 13 và 14, trong
đế quốc Mông Cổ. Những mảnh vỡ tìm thấy trong các Geniza Cairo cho biết rằng vào
thế kỷ thứ 12 kiểm tra tương tự với của chúng ta đã được sử dụng, chỉ nhỏ hơn để tiết
kiệm chi phí trên giấy. They contain a sum to be paid and then the order "May so and
so pay the bearer such and such an amount". Chúng chứa một số tiền phải trả và sau đó
theo thứ tự "tháng như vậy và vì vậy phải người cầm như vậy và một số tiền như vậy".
Ngày và tên của tổ chức phát hành cũng được rõ ràng. (Wikipedia).
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn
liền với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống NTHM đã có tác
động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, ngược lại
kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường
thì NHTM cũng ngày càng được hòan thiện và trở thành định chế tài chính không thể
thiếu được.
Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa về NHTM đã được đưa ra :
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
2
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
Mỹ : Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Nghiệp vụ
huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Pháp : Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp
thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các
hình thức và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín
dụng và tài chính (Đạo luật 1994).
Việt Nam : Theo luật tổ chức tín dụng khoản 1 và khoản 7 Điều 20 đã xác định "tổ
chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với
nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ thanh toán"
và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì "ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm

hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán".
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài
chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận
tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp
nhiều dịch vụ khác nằm thỏa mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
1.2. Ngân hàng ra đời là một yếu tố khách quan
Thị trường tiền tệ ra đời với nhiều hình thức hoạt động kinh doanh, nhu cầu về
vốn của người thiếu và nhu cầu về việc kiếm lời từ nguồn tiền nhàn rỗi đã sinh ra một
doanh nghiệp đặc biệt làm cầu nối để thoả mãn cả hai nhu cầu trên đó là : Ngân hàng
thương mại
1.3. Các chức năng của NHTM
1.3.1. Trung gian tín dụng
Trong nền kinh tế có những chủ thể có dư tiền và khoản tiền đó được sử dụng
một cách triệt để (ví dụ như vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông)
nhưng họ cũng muốn tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những
chủ thể cần tiền để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết
nhau và cũng có thể thông tin tưởng nhau nên tiền vẫn chưa được lưu thông. Ngân
hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho vay,trả
lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay.
Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế, mặt khác với số tiền này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu của nền
kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
3
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch
có được nó sẽ duy trì hoạt động của mình. Việc vừa đóng vai trò "người đi vay" và
"người cho vay" mang đến nhiều lợi ích cho : người cho vay, ngân hàng, người đi vay.
Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu,

trái phiếu, NHTM có thể làm trung gian giữa Công ty và các nhà đầu tư, chuyển giao
mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán, đảm nhận việc mua trái phiếu công ty
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ biến
nhất hiện nay. Đây là tổ chức nhận tiền gửi (depository institutions) đóng vai trò là
trung gian tài chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi rồi
cung cấp cho những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các khoản vay trực tiếp.
Các ngân hàng thương mại huy động vốn chủ yếu dưới dạng: tiền gửi thanh toán
(checkable deposits), tiền gửi tiết kiệm (saving deposits), tiền gửi có kỳ hạn (time
deposits). Vốn huy động được dùng để cho vay, cho vay thương mại (commercial
loans), cho vay tiêu dùng (consumer loans), cho vay bất động sản (mortage loans) và
để mua chứng khoán chính phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương. Ngân hàng
thương mại dù ở quốc gia nào cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn nhất, cũng là
trung gian tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất.
Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai
trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này,
ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho
vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay
và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia. người gửi tiền và người đi vay.
Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi dưới hình
thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm bảo cho họ sự an
toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn kinh doanh tiện lợi,
chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức lực thời
gian cho việc tìm kiếm những nơi cung ứng vốn riêng lẻ.
Đặc biệt là đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản
xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
NHTM:
Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi

trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Khi các khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
4
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh
chóng tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh toán có giá trị lớn, ở mọi địa phương
mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và không an toàn (ví dụ : chi phí
lưu thông, vận chuyển, bảo quản).
1.3.2. Làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá
nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản
tiền gửi cho họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi
các khách hàng tiền thu bán hàng và các khách thu khác theo lệnh của họ.
Việc ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý
nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương
mại cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, uỷ nhiệm
chi, uỷ nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng. Tuỳ theo nhu cầu, khách
hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể
kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người thanh
toán dù ở gần hay xã mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các
khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời
gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này mô hình chung đã thúc đảy lưu
thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tố độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần
phát triển kinh tế. Đồng thời việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng đã
giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt
như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản,
Ngân hàng thương mại thu phí thanh toán. Thêm nữa, nó lại làm tăng nguồn vốn
cho vay của ngân hàng thể hiện số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách.
Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và
độc quyền quản lý các công cụ đo (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán.) đã tiết

kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn,
thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. ở các nước phát triển phần lớn thanh toán
được thực hiện qua séc và được thực hiện bằng việc bù trừ thông qua hệ thống ngân
hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp
qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện
các nghiệp vụ cho vay.
Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử dụng hình thức chuyển tiền
bằng điện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không sử dụng sec
ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách nối mạng các máy
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
5
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
vi tính của các ngân hàng thương mại trong nước nhằm thực hiện chuyển vốn từ tài
khoản người này sang người khác một cách nhanh chóng.
1.3.3. Tạo ra tiền trong hệ thống ngân hàng hai cấp
Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in thêm tiền và phát
hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các Ngân hàng thương mại trong
quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo ra tiền tín dụng
(hay tiền ghi số) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại
Ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng
trong các giao dịch.
Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ
thống Ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp
nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số
mở rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố : tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của
công chúng.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng
thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho

vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số
dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của
tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ… Với chức năng
này, hệ thống Ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán nền
kinh tế, đáp ứng nhu cầu than toán, chi trả của xã hội. Rõ ràng khái niệm về tiền hay
tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát hành mà còn bao gồm một bộ
phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân hàng thương mại tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ có mối quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng và lưu thông
tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà Ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả
năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Vào cuối thế kỉ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng
không còn hoạt động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng trung
ương là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng là Ngân hàng của các Ngân hàng. Các
Ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ hoạt động trong hệ thống NHTM đã tạo ra
bút tệ thay thế cho tiền mặt.
Quá trình tạo ra tiền của NHTM được thực hiện thông qua tín dụng và thanh
toán trong hệ thống ngân, trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống Ngân hàng trung
ương mỗi nước. Vật tiền "bút lệ" được NHTM tạo ra bằng cách nào? Bây giờ chúng ta
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
6
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
giả sử rằng tất cả các NHTM đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức quy định, các sec
không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp khác bị bỏ qua thì quá trình tạo
thành tiền như sau :
(Bảng ví dụ)
Tên các ngân hàng Tiền gửi mới
Thanh toán cho
vay mới
Dự trữ bắt
buộc

Ngân hàng A 1.000.000 900.000 100.000
Ngân hàng B 9.000 810.000 90.000
Ngân hàng C 810.000 729.000 81.000
… … …
Tiền toàn hệ thống ngân hàng 10.000.000 9.000.000 1.000.000
Giả sử Ngân hàng A có khoản tiền gửi mới 1.000.000đ, dự rữ bắt buộc là 10%
thì số tiền nó có thể cho vay là 900.000đ. Khoản tiền cho vay đó được đưa đến người
vay, người vay tiền không bao giờ vay tiên về mà cất trong nhà vì như thế họ phải chịu
lãi một cách vô ích, họ dùng tiền đó chi trả các khoản. Và số tiền đó đến tay người
được chi trả, người chi trả đem số tiền đó gửi vào ngân hàng B, Ngân hàng B lúc này
sẽ có một lượng tiền gửi mới là 900.000. Dự trữ bắt buộc là 10%, số tiền có thể cho
vay 810.000. Số tiền này được cho người cần vay vay, người cho vay chi trả các khoản
đến người được chi trả, người được chi trả đem số tiền được trả gửi vào Ngân hàng C.
Lúc này Ngân hàng C sẽ có số tiền gửi mới là 810.000. Và cứ như thế tiếp tục… cho
đến khi lượng tiền gửi mới bằng 0. Người ta tính được rằng lượng tiền gửi mới trong
hệ thống Ngân hàng là 10.000.000, lượng tiền dự trữ bắt buộc là 1.000.000 và tiền cho
vay là 9.000.000. Và do cách thức này mà tiền đã được tạo ra trong hệ thống Ngân
hàng 2 cấp.
Với sự phát triển mạnh mẽ hiện nay của thị trường chứng khoán, tầm quan
trọng của NHTM với lại hình kinh doanh mới mẻ ở Việt nam ngày càng thể hiện rõ
hơn. Ngoài những chức năng đã có và trình bày rất đầy đủ trong giáo trình, em xin
trình bày thêm 1 chức năng : NHTM - Thị trường chứng khoán.
1.3.4. Ngân hàng thương mại trong việc tham gia phát triển thị trường
chứng khoán
Nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua phát
hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát hành trái phiếu
của các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên đợt phát
hành trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hàng ngoại thương đã chứng tỏ mối quan
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
7

Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
tâm lớn của thị trường đối với trái phiếu Ngân hàng, đặc biệt là các NHTM hoạt động
tốt có uy tín. Nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, yêu cầu mở rộng quy mô vốn của
các NHTM càng đặt ra bức thiết. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa
quan trọng : một mặt nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mặt
khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng trường
chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu
tăng trưởng của nên kinh tế.
Với trên 5 năm hình thành và hoạt động, TTCK Việt nam đã có những bước
phát triển đáng kế. Riêng trong năm 2005, chỉ số VNIndex đã tăng từ 237,23 lên 307,5
tức 30%. Tổng giá trị thị trường đạt 26.878 tỷ đồng, trong đó cổ phiếu chiếm 10,4%
trái phiếu chiếm 88,7% và chứng chỉ quỹ chiếm 0,9%.
Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan
trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Người ta thường
cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua
hệ thống Ngân hàng thương mại bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền
kinh tế việt nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia
của các NHTM vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có những bước phát
triển ngoạn mục hơn nữa.
1.3.4.1. Trên thị trường sơ cấp
a, Vai trò phát hành
Nhằm vụ phục cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua phát
hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát hành trái phiếu
của các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, đợt phát
hành trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hàng ngoại thương (NHNT) đã chứng tỏ
mối quan tâm lớn của thị trường đối với trái phiếu ngân hàng, đặc biệt là các NHTM
hoạt động tốt có uy tín. Nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, yêu cầu về mở rộng
quy mô vốn của các NHTM càng đặt ra bức thiết. Việc các NHTM phát hành trái
phiếu có ý nghĩa quan trọng : một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường
chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục

tiêu tăng trưởng nền kinh tế.
b, Vai trò đầu tư trực tiếp
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn,
các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối
với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Trên thực tế,
một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do NHTM mua. Trong năm
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
8
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
2005, tổng lượng trái phiếu Chính phủ phát hành la 17.226 tỷ động, trong đó các
NHTM mua 12.058 tỷ đồng, chiếm 70%.
c, Vai trò phân phối, bảo hành phát hành
Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong
đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại
lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành.
Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái
phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu
thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được
chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc nhà
nước.
Tuy nhiên, Việt nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình thành hệ
thống đại lý sơ cấp với sự tham gia của các NHTM sẽ góp phần đẩy nhanh và hiệu
quả quá trình phân phối trái phiếu Chính phủ.
1.3.4.2. Trên thị trường thứ cấp
Với vai trò là trung gian trên thị trường, các NHTM có thể thực hiện các
nghiệp vụ sau :
a, Kinh doanh trái phiếu
Mới đưa vào hoạt động từ tháng 8/2005, hoạt động kinh doanh trái phiếu của
NHNT với 13 đối tác là các NHTM và các công ty chứng khoán đã có những kết quả
hết sức khả quan. Tính đến hết năm 2005, tổng doanh số giao dịch đạt khoảng 2.700 tỷ

đồng, trong đó chiếm phần lớn là hoạt động bán mua lại (chiếm khoảng 2.670 tỷ đồng,
tức là khoảng 99%). Do vậy có thể thấy rõ ràng hoạt động kinh doanh trái phiếu của
NHNT thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu, công trái với các nhà đầu tư nhỏ
lẻ cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp.
Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị giới hạn bởi thời gian giao
dịch của thị trường chứng khoán tập trung.
b, Sản phẩm phát sinh :
Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như : hoán đổi, kỳ hạn,
quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. ở đây,
sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung
cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng
thời tăng tính thanh khoản của thị trường.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
9
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
c, Cho vay chứng khoán
Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các TTCK phát triển. Tại
Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại lý sơ cấp đối với
trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng nhanh khoản của thị trường, mặt
khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài sản thế chấp thường là tiền mặt.
Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả
về danh mục chứng khoán cho vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế
chấp tài sản khi nhận chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài
sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính
thanh khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với
các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán đi
vay hoặc nhận thế chấp.
1.4. Nguồn vốn của NHTM
NHTM cũng như bất cứ một doanh nghiệp nào để tồn tại và phát triển phải có

vốn. Vốn tác động đến kết cấu tài sản và khả năng sinh lời, hạn chế các loại rủi ro
trong hoạt động NHTM. Vốn của NHTM gồm 2 loại cơ bản nếu phân chia theo hình
thức sở hữu là vốn chủ sở hữu và vốn nợ (vốn huy động từ bên ngoài).
1.4.1. Vốn của chủ sở hữu
1.4.1.1. Khái niệm
Vốn chủ sở hữu là điều kiện đầu tư để ngân hàng được luật pháp cho phép hoạt
động và đây là loại vốn Ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết
bị, nhà cửa. Nguồn hình thành nên vốn chủ sở hữu gồm nguồn hình thành ban đầu,
nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, nguồn vay nợ có khả năng chuyển đổi
thành cổ phần và các quỹ.
1.4.1.2. Các thành phần vốn của chủ sở hữu và đặc điểm của chúng
- Vốn ban đầu :
Vốn ban đầu hình thành khi Ngân hàng bắt đầu hoạt động với tính chất sở hữu
và nguồn hình thành khác nhau. Nếu là Ngân hàng tư nhân thì đó là vốn do cá nhân tự
bỏ ra, nếu là Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước thì do ngân sách Nhà nước cấp, nếu là
Ngân hàng cổ phần thì do cổ đông thông qua mua các cổ phần (hoặc cổ phiếu), nếu là
Ngân hàng liên doanh thì do các bên tham gia liên doanh góp.
Trường hợp nếu của Ngân hàng cổ phần có thể được hình thành từ cổ phần
thường và cổ phần ưu đãi.
Vốn ban đầu thường phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước. Các
quy định thường nêu rõ số vốn tối thiểu - vốn pháp định mà chủ Ngân hàng cần phải
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
10
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
có thể bắt đầu kinh doanh Ngân hàng, NHNN, luật NHNN có quy định cụ thể cho từng
loại Ngân hàng trong từng điều kiện cụ thể.
Vốn thường không phải hoàn trả. Các cổ đông có thế bán cổ phiếu trên thị
trường vốn (thị trường chứng khoán). Các cổ phần thường được hưởng cổ tức cao hay
thấp tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh và chính sách phân chia lợi nhuận Ngân hàng.
- Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động.

Bao gồm cổ phần phát hành thêm (hoặc ngân sách cấp thêm trong quá tình hoạt
động, lợi nhuận tích luỹ, thặng dư vốn, các quỹ.
Cổ phần phát hành thêm, ngân sách cấp thêm : Ngân hàng có thể phát hành
thêm cổ phần (thường là cổ phần ưu đãi) hoặc xin cấp thêm vốn từ ngân sách để mở
rộng quy mô hoạt động, hoặc để chống đỡ rủi ro trong trường hợp cần phải duy trì thị
giá của cổ phiếu.
Huy động vốn cổ phần từ cán bộ công nhân viên Ngân hàng mình :
Hình thức huy động này huy động vốn từ chính những cán bộ công nhân viên
trong Ngân hàng mình, làm cho họ trở thành những cổ đông của Ngân hàng và gắn
chặt quyền lợi với quyền lợi chung của Ngân hàng. Đây là hình thức mang tính lâu dài
và ổn dịnh cần được chú trọng. Huy động từ lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở hữu, các
quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp, quỹ khen thưởng là các loại quỹ khác : nếu như
lợi nhuận để lại của Ngân hàng đủ để đáp ứng nhu cầu gia tăng vốn của mình thì thông
thường đây chính là nguồn bổ sung quan trọng nhất. Nguồn bổ sung này có thể lấy
trực tiếp từ các quỹ như : Quỹ dự phòng tài chính, quỹ trợ cấp….
Mặc dù vậy khó nhất là phải xác định được khi nào thì được phép trích lập từ
các quỹ trên để làm nguồn vốn bổ sung, tỉ lệ trích lập ra sao cho hợp lý.
1.4.1.3. Vai trò
Vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ so với vốn nợ, do đặc trưng trong kinh
doanh Ngân hàng là huy động để cho vay. Theo quy định của NHNN Việt Nam tỷ lệ
Vốn chủ sở hữu/Tiền gửi tối thiểu là 1/20. Tuy chiếm tỷ trọng nhỏ, song vốn chủ sở
hữu có vai trò rất quan trọng. Vốn chủ sở hữu có vai trò bảo vệ người gửi tiền : kinh
doanh Ngân hàng thường xuyên đối đầu với rủi ro. Các khoản tổn thất của Ngân hàng
sẽ được bù đắp bằng vốn chủ sở hữu. Như vậy, nếu quy mô vốn chủ sở hữu lớn, người
gửi tiền và người cho vay sẽ cảm thấy an tâm hơn về Ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu có vai trò tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động cho
Ngân hàng: như đã phân tích ở trên, để hoạt động điều kiện đầu tiên là Ngân hàng phải
có được số vốn tối thiếu ban đầu. Số vốn này được sử dụng để mua sắm trang thiết bị,
nhập công nghệ, xây thêm chi nhánh, mở văn phòng đại diện…
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN

11
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
1.4.2. Vốn nợ :
1.4.2.1. Khái niệm
Khác với các loại hình doanh nghiệp khác, vốn nợ của NHTM chiếm tỷ trọng
lớn hơn nhiều so với vốn của chủ và đây là loại vốn cơ bản để tài trợ cho các doanh
mục tài sản của NHTM. Vốn nợ được huy động từ các nguồn tiền gửi, vay và một số
loại khác.
1.4.2.2. Các thành phần vốn nợ và đặc điểm của chúng
- Tiền gửi
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải thanh toán khi khách hàng yêu cầu
ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn. Quy mô tiền gửi rất lớn so với các
nguồn khác. Thông thường nguồn chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng
trưởng hàng năm của ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao
hơn lãi trả cho tiền gửi.
Tiền gửi nhất là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với các biến động về lãi
suất, tỷ giá, thu nhập và nhiều nhân tố khác. Lãi suất cao là yếu tố kích thích các
doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy
mô và thay đổi kỳ hạn nguồn tiền gửi.
Các yếu tố khác như địa điểm Ngân hàng, các loại hình huy động, đều ảnh
hưởng tới quy mô và cấu trúc của nguồn tiền.
- Tiền vay
Tỷ trọng nguồn này thấp hơn so với nguồn tiền gửi. Khác với nhận tiền gửi,
Ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên chỉ vay lúc cần thiết và hoàn
toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Các khoản vay
thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán thức thời khi nhu cầu thanh
toán của khách hàng tăng cao. Hơn nữa vay NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nguồn khác

Phần lớn các nguồn nay Ngân hàng không phải trả lãi. Tuy nhiên, chi phí để có
và duy trì chúng là rất đáng kể. Nhìn chung, các nguồn khác trong Ngân hàng thường
thông lớn.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
12
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
1.4.2.3. Vai trò
Có thể nói nếu vốn chủ sở hữu có vai trò quan trọng để Ngân hàng được đi vào
hoạt động và là đệm đỡ không thể thiếu của Ngân hàng thì vốn nợ lại là yếu tố quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng.
Trên cơ sở vốn nợ tạo lập, Ngân hàng sử dụng để cho vay, đầu tư vào chứng
khoán, mua sắm tài sản cố định, tiền gửi Ngân hàng khác và phải được thực hiện dự
trữ theo quy định để đảm bảo khả năng thanh toán. Quy mô, cơ cấu các nhóm tài
sản này được xác định một phần căn cứ vào quy mô, cơ cấu vốn nợ.
Thêm vào đó, tính ổn định về chi phí và thời hạn của vốn quy định số tiền phải
dự trữ là cơ sở cân nhắc đầu tư bao nhiêu vào chứng khoán ngắn hạn nên cho vay với
thời hạn nào, lãi suất bao nhiều để phù hợp với vốn.
Như vậy, vốn nợ có vai trò hết sức quan trọng trong việc quyết định danh mục
tài sản đầu tư, từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của NHTM. Ngoài ra, quy mô và kết cấu
của vốn nợ cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự an nguy hoạt động của NHTM. Sự không
phù hợp giữa việc huy động vốn từ bên ngoài và việc sử dụng vốn về thời hạn, độ
nhạy cảm với lãi suất, quy mô các loại tiền có thể dẫn tới các rủi ro về thanh toán, lãi
suất, tỷ giá mà Ngân hàng phải gánh chịu.
Tóm lại, qua những vấn đề được đề cập ở trên thì rõ ràng vốn có vai trò quan
trọng quyết định sự sống còn của một Ngân hàng đặc biệt là vốn nợ. Để có được vốn
nợ thì hoạt động huy động vốn từ bên ngoài lại càng có vai trò hết sức quan trọng.
1.5. Tài sản của NHTM
1.5.1. Tiền dự trữ
Tiền dự trữ bắt buộc: Theo luật định , NHTW đòi hỏi cứ mỗi một đồng vốn huy
động, NHTM phải gửi vào NHTW một tỷ lệ nào đó làm tiền dự trữ bắt buộc.

Ví dụ: 10% được gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Các khoản tiền dự trữ thanh toán: được gọi là tiền dự trữ vượt quá, được giữ vì
chúng lỏng nhất trong số mọi tài sản có mà ngân hàng có thể sử dụng để thanh toán
khi có tiền gửi rút ra.
1.5.2. Tiền mặt trong quá trình thu.
Đó là khoản tiền mà NHTM nhận được dưới dạng séc và các chứng từ thanh
toán khác nhưng số tiền còn chưa chuyển đến ngân hàng. Trong trường hợp đó tờ séc
này được coi như là tiền mặt trong quá trình thu, nó là một tài sản đối với NHTM nhận
nó, NHTM có quyền đòi ở ngân hàng kia số tiền này sẽ được thanh toán sau một ít
ngày
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
13
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
1.5.3. Tiền gửi ở các NHTM khác
Nhiều NHTM gửi tiền ở các NHTM khác để thực hiện các dịch vụ khác nhau
như: thanh toán, giao dịch ngoại tệ và giúp mua chứng khoán. Đây là một phần của hệ
thống được gọi là “hoạt động ngân hàng vãng lai”.
Nói chung, tiền dự trữ, tiền mặt trong quá trình thu tiền và gửi trong các ngân
hàng khác được coi như những khoản tiền mặt.
( Ba loại tài sản trên có tính lỏng cao, còn gọi là tiền mặt của NHTM và thường
lợi nhuần từ các tài sản này không cao)
1.5.4. Chứng khoán
Các chứng khoán của NHTM là các tài sản mang lại thu nhập quan trọng cho
ngân hàng. Các chứng khoán này có thể được chia thành 3 loại: Chứng khoán của
chính phủ và các cơ quan của chính phủ, chứng khoán của chính quyền địa phương và
các chứng khoán khác.
Trong đó, các chứng khoán của chính phủ và của các cơ quan chính phủ là loại
lỏng nhất vì chúng có thể mua bán hoặc trao đổi sang tiền mặt một cách dễ dàng với
chi phí giao dịch thấp. Do tính lỏng cao nên chứng khoán của chính phủ (loại ngắn
hạn) được gọi là tiền dự trữ hạng 2.

1.5.5. Tiền cho vay
Các NHTM thu lợi nhuận bằng cách cho các cá nhân hoặc 1 tổ chức,1 doanh
nghiệp vay tiền.
Tiền vay là khoản nợ đối với người vay, nhưng là một tài sản đối với NHTM và
nó mang lại thu nhập cho ngân hàng. Nói chung, tiền cho vay là kém lỏng so với các
tài sản khác bởi vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các khoản cho
vay đó mãn hạn. Các khoản tiền cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn so với những
tài sản khác. Do thiếu tính lỏng và có rủi ro vỡ nợ cao nên NHTM thường thu được
nhiều lợi nhuận nhờ vào các món cho vay.
1.5.6. Các loại tài sản khác
Bao gồm:
- Tài sản cố định: Trụ sở, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, phương tiện
thông tin, thiết bị quản lý,
- Tài sản lưu động: Công cụ, dụng cụ, văn phòng phẩm, mẫu biểu
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
14
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
1.6. Nghiệp vụ cơ bản của NHTM
1.6.1. Tín dụng
Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể dựa trên nguyên tắc hoàn trả và
chữ tín.
Khi gắn tín dụng với một chủ thể nhất định(tín dụng ngân hàng), tín dụng chỉ
có một chiều là ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng chứ không bao gồm việc ngân
hàng huy động vốn của khách hàng.
Các hình thức tín dụng:
- Cho vay và cấp tín dụng ngắn, trung và dài hạn.
- Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
- Tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
- Bảo lãnh ngân hàng
- Cho thuê tài chính

- Bao thanh toán
- Các hoạt động tín dụng khác (thấu chi, tín dụng trả góp, tín dụng tài trợ XNK,
tín dụng đồng tài trợ, cho vay tiêu dùng).
1.6.2. Thanh toán
NHTM là một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Dịch vụ
này bao gồm thanh toán không dùng tiền mặt, hoặc thu chi tiền mặt qua ngân hàng.
Đây là một nghiệp vụ truyền thống, đồng thời được phát triển mạnh trong nền kinh tế
thị trường.
Thông qua hoạt động thanh toán, ngân hàng thu được lệ phí, tập trung được
nhiều nguồn vốn và thông qua đó kiểm soát được chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế
quốc dân.
1.6.3. Huy động vốn
Vốn của NHTM là những giỏ trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy động được
dựng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Nó chi phối toàn
bộ hoạt động của NHTM, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng bao gồm:
- Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được, thuộc
sở hữu của ngân hàng. Nó mang tính ổn định và căn cứ để quyết định đến khả năng và
khối lượng vốn huy động của ngân hàng.
- Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và cá nhân trong xã hội và được dùng làm vốn để kinh doanh. Vốn huy
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
15
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có quyền sử dụng và
phải hoàn trả đúng gốc và lãi khi đến hạn. Nguồn vốn này luôn biến động, tuy nhiên
nó đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động của ngân hàng.
1.6.3.1. Các sản phẩm huy động vốn của NHTM
a, Nguồn vốn huy động tiền gửi:
-Tiền gửi không kỳ hạn.
Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào. Khách hàng có thể

yêu cầu ngân hàng trích tiền trên tài khoản để chuyển trả cho người thụ hưởng, hoặc
chuyển số tiền được hưởng vào tài khoản này. Đối với tài khoản tiền gửi này, mục
đích chính của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các
khoản thanh toán qua ngân hàng. Do vậy, nó còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Tiền
gửi không kỳ hạn có chi phí thấp, tuy nhiên ngoài chi phí lãI, còn có chi phí phát sinh
trong hoạt động phục vụ thanh toán.
Để tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn, ngân hàng phảI đa dạng hóa và phục vụ
tốt các dịch vụ trung gian, huy động nhiều khách hàng là các doanh nghiệp lớn sẽ làm
cho mức dư tiền gửi bình quân tại các ngân hàng luôn cao và ổn định, tạo điều kiện
cho ngân hàng có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến
khả năng thanh toán của ngân hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn
Là loại tiền gửi mà khách hàng được rút ra sau một thời gian nhất định theo kỳ
hạn đã được thỏa thuận khi gửi tiền. Mục đích của người gửi tiền là lấy lãI cho nên
ngân hàng có thể chủ động kế hoạch hóa việc sử dụng nguồn vốn vì chủ động được
thời gian. Mức lãI suất cụ thể phụ thuộc vào thời gian gửi tiền và sự thỏa thuận giữa
hai bên về những điều kiện đảm bảo an toàn trong quan hệ tín dụng. Để mở rộng
khoản vốn này, ngoài biện pháp lãI suất, ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp
nhằm tạo nên tính lỏng cho loại tiền gửi có kỳ hạn như cho phép khách hàng rút trước
hạn hoặc sổ xố trúng thưởng…
- Tiền gửi tiết kiệm
Là loại tiền gửi để danh của các tầng lớp dân cư, được gửi vào ngân hàng để
được hưởng lãI, hình thức phổ biến vủa loại tiền gửi này là tiết kiệm có sổ. Là loại tiết
kiệm người gửi tiền được ngân hàng cấp cho một sổ dùng để gửi tiền vào và rút tiền
ra, đồng thời nó còn xác nhận số tiền đã gửi.
Ở Việt Nam, hình thức gửi tiền tiết kiệm phổ biến là:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là loại mà khách hàng có thể gửi nhiều lần
và rút ra bất cứ lúc nào.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
16

Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi được rút ra sau một thời gian
nhất định. Tuy nhiên, nếu khách hàng có nhu cầu rút trước hạn có thể được đáp ứng
nhưng phải chịu lãi suất thấp.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Thường là hình thức tiết kiệm trung và dài
hạn, người tham gia ngoài việc được trả lãI còn được ngân hàng cấp tín dụng nhằm
mục đích bổ sung thêm vốn để mua sắm các phương tiện phục vụ nhu cầu tiêu dùng.
Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Chúng có
cùng tính chất là được hưởng lãi cao và chủ tài khoản không được phát hành séc.
b, Nguồn vốn vay:
Các NHTM có thể vay vốn từ NHTW, các NHTM hoặc trung gian tài chính
khác và vay từ công chúng, dưới các hình thức:
- Phát hành chứng từ có giá.
Ngân hàng chủ động phát hành kỳ phiếu ngân hàng để huy động vốn nhằm thực
hiện những dự án đầu tư đã định. Việc huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ
phiếu ngân hàng được thực hiện theo hai phương thức:
+ Phát hành theo mệnh giá: Trả lãi sau , người mua trả tiền theo mệnh giá được
ghi trên bề mặt kỳ phiếu.
+ Phát hành bằng hình thức chiết khấu: trả lãi trước, người mua sẽ trả một số
tiền bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng.
- Vay của các ngân hàng và trung gian tài chính khác
Vay qua thị trường liên ngân hàng nhằm mục đích đảm bảo nhu cầu vốn khả
dụng trong thời gian ngắn, ngân hàng có thể khai thác các khoản vốn nhàn rỗi từ các
ngân hàng, tổ chức tài chính tín dụng khác. Hoạt động vay mượn này nhằm mục đích
điều hòa nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn vốn lưu chuyển thông suốt liên tục
trong hệ thống ngân hàng.
1.6.3.2. Vai trò của huy động vốn tại các ngân hàng thương mại
a, Vai trò của huy động vốn đứng trên góc độ ngân hàng thương mại
- Là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
- Huy động vốn tốt còn là tiền đề thúc đẩy NHTM phát triển các sản phẩm, dịch

vụ khác.
- Là hoạt động để ngân hàng gia tăng thu nhập, cải tiến cớ cấu thu nhập của
NHTM. Vì hiện nay có 90% thu nhập của NHTM là từ hoạt động tín dụng, là rủi ro
cao đối với NHTM.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
17
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
b, Vai trò huy động vốn đứng trên góc độ khách hàng
- Giúp khách hàng tiết kiệm.
- Khách hàng có thể lựa chọn được hình thức tiền gửi phù hợp.
- Giúp khác hàng tăng thu nhập qua việc trả lãi của ngân hàng.
c, Vai trò của huy động vốn đối với nền kinh tế
- Điều tiết lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, giúp ổn định thị trường tiền
tệ, kiểm soát được lạm phát.
- Huy động vốn giúp tăng vốn để phát triển nền kinh tế.
- Giúp phát triển thị trường tài chính. Ví dụ như kỳ phiếu, tráI phiếu trở thành
hàng hóa trên thị trường chứng khoán.
d, Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn
- Môi trường kinh tế: Chỉ số giá cả, tiến độ cổ phần hóa các NHTM nhà nước,
chính sách của nhà nước đối với các NHTM cũng gây nên những ảnh hưởng lớn đối
với việc huy động vốn của NHTM.
- Khách hàng: Việc huy động vốn của ngân hàng phụ thuộc nhiều vào thu nhập
của khách hàng,tập quán tiêu dùng và độ tin cậy của khách hàng và ngân hàng.
- Ngân hàng thương mại: Sản phẩm dịch vụ của ngân hàng có chất lượng tốt,
phông phú, thuận tiện cho khách hàng hay không và lãI suất, cơ sở hạ tầng của ngân
hàng cũng ảnh hưởng đến việc huy động vốn
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
18
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM
Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa các tổ
chức trung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư. Trong thời gian
gần đây, các NHTM đưa ra các hình thức huy động vốn sau:
- Cạnh tran khuyến khích khách hàng mở tài khoản cá nhân, tài khoản sử dùng
thẻ… Tính đến nay trong cả nước đã mở được khoản trên 1.300.000 tài khoản cá
nhân, trong đó có khoản trên 750.000 tài khoản của các chủ thể.
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế - xã hội.
Giữa các NHTM cạnh tranh thu hút tiền gửi của Kho bạc Nhà nước, bảo hiểm xã hội
Việt Nam, Bảo Việt, các công ty bảo hiểm nhân thọ, bưu chính viễn thông, điện lực…
- Cạnh tranh thu hút tiền gửi tiết kiệm: đây là hình thức huy động vốn truyền
thống giữa các NHTM và Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, nhất là các Quỹ tín dụng
nhân dân cơ sở. Thời gian gần đây, để khuyến khích khách hàng, một số NHTM đưa
ra dịch vụ : gửi một nơi lĩnh nhiều nơi, tiết kiệm tích lũy hay còn gọi là tiết kiệm gửi
góp, tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, tiết kiệm lũy tiến trả lãi theo số tiền gửi càng
cao thì lãi suất càng cao, tiết kiệm linh hoạt tức là khách hàng được chủ động rút tiền
ra bất cứ lúc nào có nhu cầu và lãi suất tính theo số ngày thực tế gửi tương ứng với kỳ
hạn gần nhất, tiết kiệm dự thưởng…
- Phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu… chủ yếu là huy động
vốn có thời hạn từ 6 tháng trở lên, lãi suất hấp dẫn.
Trong những năm gần đây, đã có sự cạnh tranh sôi động trên thị trường thu hút
tiền gửi và thị trường huy động vốn, đặc biệt là các tổ chức trung gian tài chính thực
hiện rất đa dạng và phong phú các sản phẩm và dịch vụ thu hút tiền gửi, huy động vốn.
Tuy nhiên trong việc phát triển thị trường này, có thể thấy một tồn tại lớn là
chưa thu hút được tối đa tiền gửi không kỳ hạn, tiền nhàn rỗi trong dân cư vào hệ
thống ngân hàng, trên cơ sở đó lựa chọn các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng hay rút
tiền mặt ra chi tiêu bất cứ lúc nào có nhu cầu. Đây là nguồn vốn rất lớn và rất quan
trọng, tạo đà phát triển thị trường tiền tệ, bởi vì nó gia tăng nguồn tiền gửi không kỳ
hạn, gia tăng vốn khả dụng cho các NHTM.

SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
19
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
Tổng nguồn vốn huy động của các NHTM và tổ chức tín dụng toàn quốc trong
5 năm từ 2000-2005 đạt tốc độ tăng khoảng 20% - 25%/năm, gấp 3 lần tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Cụ thể năm 2000 vốn huy động của hệ thống ngân hàng tăng 26,5% so với năm
1999, năm 2001 tăng 25,53%, năm 2002 tăng 17,7%, năm 2003 tăng 24,94%, năm
2004 tăng 30,39%, năm 2005 tăng 18% và 6 tháng đầu năm 2006 tăng hơn 12%. Hệ
thống NHTM quốc doanh chiếm 75% thị trường huy động vốn đầu vào.
Trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư thông qua kênh hệ thống ngân hàng vào
kênh kinh tế chiếm trung bình 20-22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Trong thời gian qua, để tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh
tranh, các ngân hàng thương mại cổ phần liên tục mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt
động và tăng năng lực tài chính thông qua việc tăng vốn điều lệ.
Việc tăng vốn điều lệ vừa làm tăng quy mô vừa đa dạng hóa các hoạt động của
NHTM, qua đó tạo niềm tin cho các hộ gia đình, các tổ chức gửi tiền vào NHTM.
Trong giai đoạn 2005-2009, việc phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng
khoán sản phẩm huy động vốn ngày càng tăng, đa dạng, công nghệ ngân hàng ngày
càng hiện đại, cơ cấu huy động vốn, chiến lược ngày càng phù hợp, phong cách nhân
viên ngày càng chuyên nghiệp, tạo được lòng tin nhất định cho khách hàng. Thông qua
các hình thức thẻ tín dụng, thẻ ATM, việc có được một cơ chế thoáng đã giúp việc huy
động vốn dễ dàng và có chất lượng hơn.
Trong giai đoạn 2009-2010, tình hình huy động vốn ở các ngân hàng vẫn giữ
mức tăng trưởng bình thường. Năm 2009 huy động vốn tăng 22,45% so với năm 2008.
Năm 2010 huy động vốn tăng trưởng 27,2% so với năm 2009.
Nhưng trong giai đoạn 2011 - quý I/2012 thì hoạt động huy động vốn của các
NHTM gặp nhiều khó khăn. Do sự xáo trộn của tâm lý người gửi tiền xoay quanh hiệu
ứng bất lợi của thông tin tái cấu trúc hệ thông, khi có lo ngại về khả năng sát nhập một
số ngân hàng nhỏ dù nhiều lần NHNN khẳng định sẽ đảm bảo an toàn hệ thống.

Trên thực tế, NHNN vẫn chưa quản lý được tình hình huy động vốn ở các
NHTM nên xảy ra tình trạng chạy đua huy động vốn giữa các NHTM với nhau. Mặc
dù NHNN đã có chủ trương giảm lãi suất và giảm tăng trưởng tín dụng nhưng các
NHTM vẫn phải huy động một lượng vốn dự phòng, để đảm bảo thanh khoản cho
mình. Bên cạnh đó, sự bảo mật về thông tin khách hàng trong các NHTM mà khách
hàng tin tưởng gửi tiết kiệm bị lộ ra ngoài đến tay các ngân hàng khác khiến khách
hàng không yên tâm và cảm thấy việc huy động vốn của các ngân hàng đã bắt đầu méo
mó. Điều này làm mất lòng tin của khách hàng vào các NHTM ngày càng lung lay.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
20
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
Trước thực trạng trên, NHNN cần có những biện pháp, chính sách mới để quản
lý được tốt tình hình hoạt động của các NHTM để lấy lại niềm tin trong dân. Điều này
giúp cho việc huy động lượng tiền lớn trong dân được thuận lợi hơn. Giúp các NHTM
ngày càng nâng cao vị thế của mình, tầm ảnh hưởng, nâng chao chất lượng nguồn
nhân lực cũng như khả năng phục vụ nhằm tạo tiền đề cho việc cạnh tranh khốc liệt
với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng nước ngoài trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Người dân cũng đã quen dần với các loại hình dịch vụ, các phương thức thanh
toán của ngân hàng và sử dụng các dịch vụ này ngày càng nhiều hơn ( thẻ ATM…).
Việc phát triển của thị trường với nhịp độ nhanh cũng làm gia tăng vai trò của
các NHTM ở vai trò trung gian tài chính, tín dụng và thanh toán.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
21
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của các hình thái kinh tế, với sự phát triển của kinh tế
hàng hóa Ngân hàng ra đời như một tất yếu, như một cầu nối giữa người có tiền cho
vay và người cần tiền đi vay. Cùng với Ngân hàng sự ra đời của NHTM có vai trò
quan trọng với sự phát triển của nền kinh tế.
Các nghiệp vụ của NHTM ngày càng đa dạng, song muốn có các nghiệp vụ đó,

vốn đóng vai trò hàng đầu. Nghiệp vụ vốn là một nghiệp vụ khá nhạy cảm khó khăn
nhất là trong thời điểm thị trường có rất nhiều biến động hiện nay.
Công tác huy động vốn của các NHTM Việt Nam hiện nay tuy đã đạt được
nhiều thành tựu nhưng còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục để trong thời gian tới, có
thể tiềm lực cạnh tranh với các tổ chức tín dụng, các ngân hàng trên thế giới.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
22
Đề án môn học GVHD: TS. Cao Thị Ý Nhi
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài, “Lý thuyết tài chính - tiền tệ” NXB Đại học Kinh
Tế Quốc Dân - Hà Nội, 2011.
2. GS.TS. Vũ Văn Hóa - PGS.TS. Đinh Xuân Hạng, “Lý thuyết tiền tệ” NXB
Tài chính - Hà Nội, 2007
3.Internet :
- Website VINACORP: www.vinacorp.vn
- Website Công ty cổ phần chứng khoán Sao Việt: www.vssc.com.vn
- Wikipedia Việt Nam.
- Website Ngân hàng Trung ương Việt Nam : www.spv.gov.vn
- Bài giảng của ThS. Nguyễn Thị Minh Quế - Giảng viên khoa TCNH - Đại học
Kinh Tế Quốc Dân.
SV: Lê Duy Khánh Lớp: TCDN
23

×