Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.49 KB, 23 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGÂN HÀNG







TIỂU LUẬN MÔN HỌC QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG




Tên đề tài: RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM










GVHD: PGS.TS TRẦN HUY HOÀNG
Nhóm thực hiện: Nhóm 3_NH Ngày 2 K21:


1. Lê Ngọc Bảo Châu 6. Đặng Thị Mỹ Lệ
2. Hoàng Thị Bích Thuần 7. Trần Phụng Thùy Chi
3. Lâm Thị Oanh Thùy 8. Vũ Thị Huyền Trinh
4. Nguyễn Thị Bích Trâm 9. Trần Thị Mai Khanh
5. Nguyễn Trần Thái Ngân


TP.HCM, ngày 09 tháng 03 năm 2013

MỤC LỤC

Lời mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1 Rủi ro 01
1.1.1 Khái niệm về rủi ro 01
1.1.2 Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng 01
1.2 Lãi suất và rủi ro lãi suất 01
1.2.1 Nguyên tắc hình thành lãi suất 01
1.2.2 Các bộ phận cấu thành lãi suất 02
1.3. Các nhân tố tác động đến lãi suất 02
1.4 Rủi ro lãi suất 02
1.4.1 Khái niệm 02
1.4.2 Các nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất 03
1.4.3 Các hình thức và ảnh hưởng của rủi ro lãi suất 03
Chương 2: Thực trạng rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM Việt Nam
2.1 Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam qua các giai đoạn 04
2.2 Rủi ro lãi suất trong hoạt động huy động vốn của các NHTM 08
2.3 Rủi ro lãi suất trong hoạt động cho vay của các NHTM 10
Chương 3: Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của
NHTM Việt Nam

3.1 Các phương pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất thông thường 11
3.1.1 Dự báo về biến động lãi suất 11
3.1.2 Theo dõi tính nhạy cảm với lăi suất của các tài sản 11
3.1.3 Áp dụng chính sách mềm dẻo cho các khoản vay 12
3.2 Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng các mô hình đo độ rủi ro lãi suất 12
3.2.1 Mô hình kỳ hạn đến hạn 12
3.2.2 Mô hình thời lượng 13
3.2.3 Mô hình định giá lại 14
3.3 Các nghiệp vụ hạn chế rủi ro lãi suất 14
3.3.1 Hợp đồng kỳ hạn 14
3.3.2 Hợp đồng tương lai 15
3.3.3 Hợp đồng quyền chọn lãi suất 16
3.3.4 Hợp đồng hoán đổi lãi suất (SWAP) 17
Kết luận
Tài liệu tham khảo


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮC
NHNN: Ngân hàng Nhà Nước
LSTG: Lãi suất tiền gửi
LSCV: Lãi suất cho vay
NHTM: Ngân hàng thương mại
CSTT: Chính sách tiền tệ
TCTD: Tổ chức tín dụng
LSCB: Lãi suất cơ bản
DTBB: Dự trữ bắt buộc
DN: Doanh nghiệp
NH: Ngân hàng



LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năn gần đây, các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động của hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng đang từng bước đổi mới hòa nhập với kinh tế thị trường
thương mại thế giới, góp phần vào việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Chính thức gia nhập Tổ chức
thương mại quốc tế (WTO) cùng với các tổ chức hợp tác khu vực, Việt Nam nói chung và hệ thống
ngân hàng nói riêng đang từng bước nỗ lực làm mới mình, đón đầu hội nhập. Trong đó, hệ thống Ngân
hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) được đánh giá là hệ thống khá năng động trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên gắn liền với những cơ hội và thách thức mới mà mối quan hệ kinh tế
khu vực và quốc tế mang lại là các rủi ro tiềm ẩn gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh, uy
tín của các ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại luôn đối mặt với các vấn đề rủi ro trong hoạt
động kinh doanh như rủi ro thanh khoản, rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất Trong đó rủi ro lãi suất là rủi
ro đặc thù của các ngân hàng thương mại, nó có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập cũng như giá trị vốn
chủ sở hữu của ngân hàng vì thu nhập từ lãi và chi phí từ lãi là những nguồn thu và các khoản chi chủ
yếu của ngân hàng thương mại. Do đó, sự biến động lớn của lãi suất thị trường có thể gây ra rủi ro lãi
suất, thậm chí trong nhiều trường hợp đã gây ra thua lỗ cho không ít ngân hàng thương mại.
Để có thể tồn tại và phát triển bền vững trong hội nhập hiện nay các NHTMCP phải nỗ lực nâng cao
năng lực quản trị rủi ro trong hoạt động, đặc biệt là quản trị rủi ro lãi suất. Với ý tưởng này, nhóm xin
chọn đề tài “rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam” để
tìm hiểu và nghiên cứu.

1

RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Lời mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1 Rủi ro
1.1.1 Khái niệm về rủi ro
Tùy theo cách tiếp cận, ta có những cách định nghĩa khác nhau về rủi ro nhưng nhìn chung có thể

chia làm 2 quan điểm:
- Theo quan điểm truyền thống: rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên
quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
- Theo quan điểm trung hòa: Rủi ro là một sự không chắc chắn, một tình trạng bất ổn hay sự biến
động tiềm ẩn ở kết quả. Tuy nhiên, không phải sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những
tình trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán được xác định xảy ra mới được xem là rủi ro.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng là những biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự
tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một
khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
1.1.2 Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Rủi ro tín dụng (Credit Risk): là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng,
biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân
hàng.
Rủi ro tỷ giá hối đoái (Foreign Exchange Rate (Forex) Risk): là loại rủi ro phát sinh trong quá
trình cho vay ngoại tệ hoặc kinh doanh ngoại tệ khi tỷ giá biến động theo chiều hướng bất lợi cho ngân
hàng.
Rủi ro lãi suất (Interest Rate Risk): là loại rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi của lãi suất thị
trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đến tổn thất về tài sản hoặc làm giảm thu
nhập của ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản (Liquidity Risk): là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả
năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt hoặc không thể vay mượn để đáp ứng
yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
Rủi ro tác nghiệp (Operational Risk): là nguy cơ tổn thất trực tiếp hoặc gián tiếp do cán bộ ngân
hàng, quá trình xử lý và hệ thống nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động hoặc do các sự kiện bên
ngoài tác động vào hoạt động ngân hàng.
1.2 Lãi suất và rủi ro lãi suất
1.2.1 Nguyên tắc hình thành lãi suất
- Lãi suất hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của quyền được sử
dụng vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người cho vay; là
tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định.

- Lãi suất tồn tại trên thị trường trong một thời kỳ nào đó được hình thành trên những nguyên tắc
nhất định buộc những tác nhân và thể nhân tham gia vào quan hệ tín dụng phải tuân theo.
1.2.1.1 Căn cứ vào cơ chế lãi suất dương
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng cho nên giá cả “hàng hóa” của ngân hàng
phải do ngân hàng ấn định. Tuy nhiên giá cả này có thể biến đổi theo thị trường sao cho giá cả đó có

2

thể đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động một cách có hiệu quả: vừa huy động được nhiều vốn
đồng thời cũng phải cho vay được nhiều vốn nhất, đặc biệt là phải có lãi.
Nội dung của cơ chế lãi suất dương như sau:
Tỷ lệ lạm phát bình quân < Lãi suất huy động vốn bình quân < Lãi suất cho vay bình quân =< Lợi
nhuận bình quân.
1.2.1.2 Căn cứ vào quan hệ cung cầu về vốn
Lãi suất tín dụng tức là lãi suất huy động và lãi suất cho vay, hay hiểu đơn giản là giá mua và giá
bán hàng hóa của thị trường tiền tệ. Khi giá mua tăng tất yếu giá bán cũng phải tăng để đảm bảo cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thu được lợi nhuận và ngược lại khi giá mua giảm thì việc
giảm giá bán hoàn toàn có thể xảy ra.
Thật vậy, khi nền kinh tế đang “đói” vốn, để huy động ngân hàng có thể quy định một mức lãi suất
đủ cao để thu hút khách hàng. Lượng tiền này ngân hàng sẽ bơm cho nền kinh tế bằng cách cho các
doanh nghiệp và các tổ chức kinh doanh vay. Ngược lại, khi lượng vốn trong ngân hàng đang ứ đọng,
tức là ngân hàng chưa cho vay hết lượng vốn mà ngân hàng huy động và như vậy cầu về vay vốn của
ngân hàng là rất ít. Lúc này ngân hàng sẽ hạ lãi suất huy động vốn nhằm hạn chế người dân gửi tiền
vào ngân hàng đồng thời cũng hạ lãi suất cho vay để kích thích các tác nhân trong nền kinh tế tăng cầu
về vốn cho hoạt động đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất.
1.2.1.3 Căn cứ vào thời hạn cho vay
Giống như tất cả các loại hình cho vay khác, đầu tư vào họat động kinh doanh vốn tất yếu phải gặp
rủi ro cao. Thời gian đầu tư càng dài thì khả năng gặp rủi ro càng lớn. Những rủi ro đó có thể do cung
cầu về vốn thay đổi, tình hình lạm phát trong nước, hoặc do sự biến động về kinh tế trong và ngoài
nước… tác động đến tâm lý khách hàng. Vì vậy khi xác định lãi suất phải tính đến những yếu tố trên.

1.2.2 Các bộ phận cấu thành lãi suất
Lãi suất thị trường của một khoản vay được cấu thành bởi ba bộ phận:
- Lãi suất thực không rủi ro.
- Hệ số lãi suất danh nghĩa.
- Hệ số rủi ro.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất:
- Mức cung cầu tiền tệ;
- Lạm phát dự tính;
- Sự phát triển của nền kinh tế trong chu kỳ kinh doanh;
- Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước;
- Sự ổn định của nền kinh tế
- Các chính sách vĩ mô của Chính phủ.
1.4 Rủi ro lãi suất
1.4.1 Khái niệm rủi ro lãi suất:
Theo Timothi W.Koch (Bank Management 1995 – University of South Crolina): rủi ro lãi suất là sự
thay đổi tiềm tàng về thu nhập lãi ròng và giá trị thị trường của vốn ngân hàng xuất phát từ sự thay đổi
của mức lãi suất.
Theo Thomas P.Fitch thì rủi ro lãi suất là rủi ro khi thay đổi lãi suất thị trường sẽ dẫn đến tài sản
sinh lời giảm giá trị.
1.4.2 Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất
1.4.2.1 Khi xuất hiện sự không cân xứng về kỳ hạn giữa Tài sản và Nợ

3

- Kỳ hạn của Tài sản lớn hơn kỳ hạn của Nợ: Ngân hàng huy động vốn ngắn hạn để cho vay, đầu tư
dài hạn. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo tăng lên trong
khi lãi suất cho vay và đầu tư dài hạn không đổi.
- Kỳ hạn của Tài sản nhỏ hơn kỳ hạn của Nợ: Ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài để cho vay,
đầu tư với kỳ hạn ngắn. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu lãi suất huy động trong những năm tiếp theo
không đổi trong khi lãi suất cho vay và đầu tư giảm xuống.

1.4.2.2 Các ngân hàng áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy động vốn và cho
vay
- Ngân hàng huy động vốn với lãi suất cố định để cho vay, đầu tư với lãi suất biến đổi. Khi lãi suất
giảm, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi không đổi trong khi thu nhập lãi giảm, lợi nhuận ngân
hàng giảm.
- Ngân hàng huy động vốn với lãi suất biến đổi để cho vay, đầu tư với lãi suất cố định. Khi lãi suất
tăng, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi tăng theo lãi suất thị trường, trong khi thu nhập lãi không
đổi, lợi nhuận ngân hàng giảm.
1.4.2.3 Tỷ lệ lạm phát dự kiến không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế, vốn của ngân hàng không
được bảo toàn sau khi cho vay
Lãi suất cho vay danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát dự kiến
Ví dụ: Khi dự kiến lãi suất cho vay 8% = 3% (lãi suất thực) + 5% (dự kiến tỷ lệ lạm phát)
Nhưng nếu sau khi cho vay tỷ lệ lạm phát thực tế 8% thì lãi suất thực ngân hàng được hưởng sẽ là 0%.
1.4.3 Các hình thức và ảnh hưởng của rủi ro lãi suất
1.4.3.1 Các hình thức của rủi ro lãi suất
- Rủi ro về giá: Phát sinh khi lãi suất thị trường tăng, giá trị thị trường của các trái phiếu và các
khoản cho vay với lãi suất cố định ngân hàng đang nắm giữ sẽ bị giảm giá. Bởi lãi suất định kỳ của trái
phiếu và các khoản cho vay đã được ấn định từ trước, lãi suất thị trường tăng làm cho lãi suất của các
trái phiếu và các khoản cho vay mà ngân hàng nắm giữ trước đó trở nên thấp hơn lãi suất thị trường
hiện tại, khiến chúng bị giảm giá. Trái phiếu và các khoản cho vay có thời gian đáo hạn càng dài thì
mức giảm giá càng lớn, nếu ngân hàng muốn bán đi các tài sản này thì phải chấp nhận tổn thất vì giá trị
của chúng bị giảm đi so với trước.
Khi lãi suất thị trường giảm, giá trái phiếu và các khoản cho vay với lãi suất cố định mà ngân hàng
đang nắm giữ sẽ tăng. Bởi lãi suất định kỳ của trái phiếu và các khoản cho vay đã được ấn định từ
trước, lãi suất thị trường giảm làm cho các trái phiếu cũ và các khoản cho vay với mức lãi suất cao hơn
trở nên hấp dẫn hơn. Trái phiếu và các khoản cho vay có thời gian đáo hạn càng dài thì mức độ tăng giá
càng cao. Ngược lại, khi lãi suất thị trường tăng, giá trái phiếu và các khoản cho vay với lãi suất cố
định mà ngân hàng đang nắm giữ sẽ giảm.
- Rủi ro tái đầu tư: Xuất hiện khi lãi suất thị trường giảm khiến ngân hàng phải chấp nhận đầu tư
các nguồn vốn của mình vào những tài sản mới với mức sinh lời thấp hơn.

Ví dụ: Ngân hàng áp dụng lãi suất cố định
Cho vay 3 tháng với lãi suất cố định
Đi vay 12 tháng với lãi suất cố định
Trong trường hợp này, ngân hàng có thể gặp rủi ro lãi suất vì sau 3 tháng, ngân hàng phải tiếp tục
cho vay theo lãi suất giảm của thị trường. Điều đó làm cho lợi nhuận ngân hàng giảm, thậm chí là âm.
Hoặc trong trường hợp ngân hàng:
Cho vay 12 tháng với lãi suất cố định
Đi vay 3 tháng với lãi suất cố định

4

Khi lãi suất tăng lợi nhuận ngân hàng giảm. Vậy rủi ro lãi suất của ngân hàng là chi phí vốn trở nên
cao hơn thu nhập từ sử dụng vốn. Do đó, tùy theo cơ cấu bảng cân đối và độ nhạy cảm lãi suất giữa sử
dụng và nguồn vốn mà lợi nhuận của ngân hàng có thể thay đổi tùy thuộc sự biến động của lãi suất.
1.4.3.2 Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất
- Rủi ro lãi suất làm tăng chi phí nguồn vốn của ngân hàng
- Rủi ro lãi suất làm giảm thu nhập từ tài sản của ngân hàng
- Rủi ro lãi suất làm giảm giá trị thị trường của tài sản và vốn chủ sở hữu của ngân hàng
Chương 2: Thực trạng rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM Việt
Nam
2.1 Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam qua các giai đoạn
Mỗi quốc gia khác nhau, vào từng thời kỳ khác nhau của nền kinh tế, tuỳ thuộc vào mô hình của
Ngân hàng Nhà nước mà mỗi quốc gia đó sở hữu, sẽ có khả năng quyết định việc điều chỉnh mức lãi
suất phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
a/ Giai đoạn trước tháng 6/1992
NHNN can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức LSTG và LSCV.
Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì suốt thời kỳ này với:
- LSCV đối với doanh nghiệp nhà nước < LSCV đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
- Lãi suất danh nghĩa < tỷ lệ lạm phát;
- LSCV ngắn hạn > LSCV dài hạn;

- LSTG tiết kiệm > LSTG của các tổ chức kinh tế.
Tình trạng này làm cho lãi suất không thực hiện được chức năng vốn có của nó; lãi suất không còn là
đòn bẩy kích thích nhu cầu gửi tiền của công chúng, phát huy tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn
và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
b/ Giai đoạn 6/1992 - 1995
NHNN đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính sách lãi suất:
- Chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo cho người dân gửi tiền
và ngân hàng là người cho vay đều được lợi;
- Xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, thay vì ấn định lãi suất
cụ thể bằng quản lý lãi suất theo một khung, bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về
tiền vay.
- NHNN cho phép NHTM được thoả thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy
động vốn bằng phát hành kỳ phiếu - lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn
0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng);
- Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của CSTT cùng với lãi suất tái cấp vốn được hình
thành vào đầu năm 1991 khi hai Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực. Lãi suất tái cấp vốn được tính bằng
% so với lãi suất cho vay của TCTD. Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này còn nhiều hạn chế.
c/ Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7/2000
NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn bản về điều hành lãi
suất:
- Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi - lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định
các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng
thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính (khi
thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước).

5

- Trong năm 1997, NHNN đã thay đổi hình thức qui định lãi suất tái cấp vốn, chuyển sang qui định
mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ

1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/ 1999) để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung- cầu vốn
trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ.
- Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định trần lãi suất cho
vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo
hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong các năm 1998,1999.
- Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết
khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được qui định ở mức thấp hơn
0,05%/tháng so với lãi suất tái cấp vốn;
- Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình
thành qua các phiên giao dịch.
d/Giai đoạn từ tháng 8/2000 đến năm 2008
Đây là giai đoạn sử dụng lãi suất cơ bản cùng với lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn trong
điều hành chính sách tiền tệ. TCTD ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ
bản do NHNN công bố theo nguyên tắc lãi suất cho vay không được vượt quá mức lãi suất cơ bản cộng
biên độ do Thống đốc NHNN quy định từng thời kỳ.
c/ Giai đoạn 2008 đến nay
+ Năm 2008
Trước tình hình lạm phát có dấu hiệu gia tăng, NHNN bắt đầu sử dụng CSTT thắt chặt thông qua
việc tăng lãi suất, tăng dự trữ bắt buộc. LSCB được điều chỉnh tăng từ 8,25% lên 8,75% vào tháng
1/2008. Đến tháng 3/2008, NHNN phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc đối với 41
NHTM để rút tiền lưu thông trong nền kinh tế.
Để đảm bảo thanh khoản, các ngân hàng tăng lãi suất huy động, đóng cửa tín dụng. Rủi ro lãi suất
tăng lên vì lãi suất huy động tăng nhanh hơn, vượt lãi suất cho vay làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của
ngân hàng, thậm chí lãi suất qua đêm liên tục gia tăng kỷ lục đặc biệt là vào ngày 20/2/2008 lãi suất
VNĐ cho vay qua đêm lên đến 43% là mức tăng cao nhất chưa từng có trên thị trường ngân hàng Việt
Nam. Điều này làm cho các ngân hàng thương mại siết chặt các khoản cho vay, làm ảnh hưởng tới hoạt
động đầu tư và sản xuất kinh doanh.
Tín hiệu xấu từ nền kinh tế vĩ mô trong nước trong 4 tháng đầu năm 2008, nhất là thâm hụt thương
mại và tỷ lệ lạm phát tiếp tục gia tăng càng tạo sức ép cho nền kinh tế. Trước khó khăn đó, Chính phủ
đã xác định nhiệm vụ trọng tâm trong công tác điều hành trong thời gian tới tiếp tục thực hiện mục tiêu

“phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng hợp lý, bền
vững, trong đó kiềm chế lạm phát là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu”. NHNN tiếp tục tăng cường CSTT
thông qua việc tăng mạnh lãi suất cơ bản, duy trì lãi suất cơ bản ở mức cao. LSCB tiếp tục được điều
chỉnh tăng lên 12% (5/2008) và 14% (6/2008), mức đỉnh điểm trong nhiều năm nay và giữ vững đến
tận tháng 9/2008. Lãi suất tiền gửi DTBB tăng gấp 3 lần từ 1,2% lên 3,6% (9/2008). NHNN điều hành
thắt chặt tín dụng hạn chế ở mức 30%, đặc biệt giám sát nghiêm ngặt cho vay chứng khoán bất động
sản theo hạn mức.
Cuộc đua lãi suất giữa các ngân hàng do tình trạng thiếu thanh khoản vẫn tiếp tục diễn ra và ngày
càng căng thẳng. Ngay sau khi NHNN hủy bỏ trần lãi suất huy động 12%/năm và thay bằng lãi suất
cho vay là 18%/năm (150% của LSCB vừa được nâng lên 12%/năm), tất cả các NHTM kể cả ngân
hàng quốc doanh đều đồng loạt liên tiếp tăng lãi suất huy động và tăng cường vay mượn trên thị trường
liên ngân hàng (có lúc lên đến 20%/năm) để đối phó với tình trạng khó khăn về thanh khoản. Lãi suất

6

cho vay cũng tăng lên đến mức kỷ lục 21%/năm gây chi phí vốn cao cản trở các doanh nghiệp tiếp cận
nguồn vốn.
Đến cuối năm 2008, nguy cơ lạm phát tạm thời lắng xuống. Tuy nhiên đây cũng là thời điểm mà
suy thoái kinh tế đang lan rộng toàn cầu. NHNN đã điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành để
giảm mặt bằng lãi suất cho vay, vừa tăng cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu tăng mở rộng
tín dụng của nền kinh tế. Lãi suất huy động vốn VNĐ (12 tháng) vào cuối năm bình quân ở mức 7,3%-
8%/năm, lãi suất huy động USD (12 tháng) khoảng 3,4%-4,5%/năm theo đó lãi suất cho vay cũng giảm
dần, lãi suất cho vay ngắn hạn VNĐ bình quân là 11%/năm, dài hạn là 12,5% còn đối với USD tương
ứng là 6,3% và 7,2%/năm. Điều này đã làm cho cuộc chạy đua lãi suất chững lại, hoạt động ngân hàng
dần dần ổn định Bên cạnh đó, cơ chế lãi suất thỏa thuận cho vay tiêu dùng được sử dụng đã có hiệu quả
nhất định trong việc kích cầu tiêu dùng trong dân cư.
Tóm lại, lãi suất năm 2008 biến động vô cùng phức tạp và không tuân theo quy luật thông thường.
Chẳng hạn lãi suất trong 6 tháng đầu năm không tuân theo quy luật kỳ hạn của lãi suất: lãi suất huy
động vốn trung dài hạn phải cao hơn lãi suất huy động vốn ngắn hạn nhưng thực tế thì ngược lại. Điều
này làm cho công tác dự báo phân tích lãi suất thị trường của ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn dẫn

đến nguy cơ các ngân hàng luôn phải đối mặt với tổn thất do rủi ro lãi suất.
Năm 2009
Từ tháng 2/2009 NHNN duy trì mức lãi suất cơ bản tại 7% quy định mức lãi suất kinh doanh cho
vay sản xuất kinh doanh của các tổ chức tín dụng tối đa là 10,5%,lãi suất cho vay tiêu dùng là lãi suất
thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Trong năm 2009, NHNN và các bộ ngành có liên quan
đã triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất 4%/ năm. Các doanh nghiệp, hộ gia đình được hỗ trợ lãi suất 4%
sẽ phải chi với mức lãi suất tối đa là 6,5%/năm.
Sau khi lãi suất cơ bản được giữ nguyên trong suốt 10 tháng, đến ngày 25/11/2009, NHNN đã ra
quyết định QĐ 2665/QĐ-NHNN tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8%.Việc tăng lãi suất cơ bản là hợp lý
nhưng có phần hơi chậm trễ do việc duy trì mức lãi suất 7% trong thời gian dài đã khiến cho tăng
trưởng tín dụng tăng cao. Đáng chú ý trong thời gian này là cơ chế “lãi suất trần” dần bộc lộ những
nhược điểm của nó trong điều kiện kinh tế hội nhập như hiện nay. Theo đúng như lý thuyết thì mức lãi
suất phản ảnh được mối quan hệ cung- cầu trên thị trường. Tuy nhiên, khi bị “gộp” vào một trần cho
vay như vậy, các ngân hàng lại có cách “lách” được mức trần lãi suất. Bên cạnh đó, trần lãi suất đã làm
thay đổi cơ cấu huy động vốn của các TCTD: nguồn vốn huy động ngắn hạn tăng lên trong khi nhu cầu
huy động trung dài hạn là rất lớn, điều này làm cho sự mất cân đối kỳ hạn vốn tăng lên. Do vậy, ngày
26/2/2010 NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2010/TT_NHNN cho phép các ngân hàng được phép áp
dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận thỏa mãn đối với các khách hàng vay trung dài hạn nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn để trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân và hộ gia đình, các hoạt động cho vay tiêu dùng
thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Năm 2010:
Năm 2010, một năm đầy biến động của thị trường tiền tệ trong nước cũng như trên thế giới, một
năm mà nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn phục hồi sau những ảnh hưởng từ
biến động kinh tế thế giới 2008 – 2009. Trước những biến động đó, để thực hiện đồng bộ với các giải
pháp của Chính phủ, NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt nhằm tạo điều
kiện hỗ trợ tích cực cho thị trường tiền tệ - tín dụng hoạt động ổn định, góp phần hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế và kiềm chế lạm phát gia tăng những tháng cuối năm một cách hiệu quả. Theo đó, NHNN đã
duy trì lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực
hiện điều chỉnh lên mức 9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát. Bên cạnh đó, để tạo
điều kiện cho thị trường tiền tệ hoạt động theo quy luật thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, NHNN


7

từng bước bỏ các quy định ràng buộc về các loại lãi suất của các TCTD. Cụ thể là trong năm, NHNN
đã ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN; Thông tư 07/2010/TT-NHNN; Thông tư 12/2010/TT-
NHNN cho phép TCTD được thực hiện cho vay bằng VND theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên
trong năm vừa qua, chính sách điều hành cũng như chính sách lãi suất vẫn bị chi phối bởi chính sách
kinh tế đa mục tiêu, chịu áp lực lớn từ biện pháp kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Vì vậy, đã tạo ra những
khó khăn nhất định trong công tác điều hành ổn định mặt bằng lãi suất của NHNN. Trong năm 2010,
duy trì xu hướng tăng của lãi suất huy động vào những tháng cuối năm 2009, lãi suất huy động VND
về cơ bản đã gia tăng ở những tháng đầu năm, giảm và duy trì ổn định trong quý II, quý III và gia tăng
mạnh trong hai tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng 12/2010, lãi suất huy động tăng 1,96 – 3,39% cho
các kỳ hạn so với cuối năm 2009, tăng cao đặc biệt ở các kỳ hạn ngắn từ 1 tháng đến 3 tháng.
Đối với lãi suất ngoại tệ: Lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ trong năm 2010 tiếp tục tăng
nhẹ qua tất cả các tháng (tính đến cuối tháng 12, lãi suất huy động USD tăng khoảng 0,82 – 1,36% cho
các kỳ hạn so với đầu tháng 1/2010).
Năm 2011
Thống đốc NHNN đã thông báo quan điểm mới về điều hành chính sách tiền tệ. Thống đốc NHNN
cho rằng, NHNN sẽ thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chứ không phải là thắt chặt tiền tệ để đảm
bảo kiềm chế lạm phát, nhưng cũng đảm bảo tăng trưởng kinh tế hợp lý. Theo Thống đốc, từ tháng
9/2011 lãi suất cho vay VND có thể giảm về 17 – 19%. Các chuyên gia cho rằng, đây là quyết định rất
kịp thời của NHNN vì nếu không đảm bảo tăng trưởng kinh tế hợp lý thì có thể sẽ ảnh hưởng đến vấn
đề an sinh xã hội.
Ngày 26/8/2011, NHNN tiếp tục giữ ổn định mức trần lãi suất huy động vốn bằng VND 14%/năm,
tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đưa mặt bằng lãi suất cho vay về biên độ 17-19% đối với lĩnh
vực sản xuất kinh doanh thông thường.
Ngày 7/9/2011, Thống đốc NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN chấn chỉnh việc thực hiện
các quy định về mức lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam và bằng đôla Mỹ của các tổ chức tín dụng
và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Chỉ thị yêu cầu các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài phải thực hiện đúng các quy định tại Thông tư số 02/2011/TT-NHNN và Thông tư số 14/TT-

NHNN về mức lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam và đôla Mỹ. Chỉ thị nêu rõ, nếu vi phạm các quy
định trên, người quản lý, điều hành của tổ chức tín dụng sẽ bị đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ trong thời
hạn 3 năm; Các tổ chức tín dụng vi phạm sẽ bị hạn chế mở rộng phạm vi, quy mô, địa bàn hoạt động
trong thời hạn 1 năm kể từ ngày bị xử lý; Hoạt động huy động và cho vay của đơn vị vi phạm cũng bị
hạn chế hoặc tạm đình chỉ.
Nếu năm 2010, các đồng thuận lãi suất 11%, 12% rồi 14%/năm được đặt ra, thì đến đầu 2011 nó
tiếp tục bị phá vỡ. Và ngày 3/3/2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN,
chính thức áp trần 14%/năm, và sau đó là những xáo trộn từ các thỏa thuận ngầm, sự nở rộ của các giao
dịch ủy thác…
Nửa cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiêm quy định trần, một số ngân hàng bị xử
lý mà lần đầu tiên trong hệ thống có cụm từ “ngân hàng cài bẫy lẫn nhau”.
Năm 2012:
Dấu hiệu căng thẳng thanh khoản trên hệ thống ngân hàng trong những tháng cuối năm 2011 tiếp
tục kéo dài sang năm 2012 khiến NHNN duy trì áp dụng biện pháp hành chính là áp trần lãi suất huy
động.
Chỉ trong vòng chưa đầy ba tháng, Ngân hàng Nhà nước liên tiếp hạ trần lãi suất huy động VND, từ
14%/năm xuống còn 9%/năm có hiệu lực từ ngày 11/6/2012. Cơ chế áp trần cũng thay đổi, mở tự do
hóa lãi suất từ kỳ hạn 12 tháng trở lên. Phía sau loạt điều chỉnh này, đặc biệt là về cơ chế, đường cong

8

lãi suất bắt đầu định hình lại với lãi suất tại nhiều thành viên đã cao hơn ở các kỳ hạn dài. Và như vậy,
sau 8 năm, lãi suất huy động VND một lần nữa trở về mốc 9%/năm phổ biến trên biểu niêm yết.
Tính từ đầu năm đến 17/12/2012, lãi suất tái cấp vốn đã giảm từ 15% xuống còn 10%, lãi suất tái
chiết khấu đã giảm từ 13% xuống còn 8%, và trần lãi suất huy động kỳ hạn ngắn ngày giảm từ 14%
xuống còn 9%.
Song song với động thái kéo giảm trần lãi suất huy động, NHNN cũng đã áp trần lãi suất cho vay
(hiện duy trì ở mức 13%/năm) đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: (1) Phục vụ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,
(2) Thực hiện phương án, dự án sản xuất – kinh doanh hàng xuất khẩu, (3) Phục vụ sản xuất – kinh
doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa, (4) Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; hay kêu gọi đưa lãi suất

cho vay cũ về mức 15%…
Năm 2013:
Điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, gắn kết chặt chẽ với chính sách tài khóa
nhằm kiểm soát lạm phát thấp hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2012, tăng cường ổn định
kinh tế vĩ mô; sử dụng chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng
tín dụng, tổng phương tiện thanh toán hợp lý, đáp ứng yêu cầu thanh toán của nền kinh tế; điều hành lãi
suất và tỷ giá phù hợp với diễn biến tiền tệ và các cân đối vĩ mô, đặc biệt là diễn biến lạm phát. Trước
mắt, định hướng tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14-16%, tín dụng tăng khoảng 12% và căn
cứ vào diễn biến, tình hình thực tế để điều chỉnh phù hợp.
2.2 Rủi ro lãi suất trong hoạt động huy động vốn của các NHTM
Từ đầu năm 2012, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất huy động vốn tổng cộng 05 lần.
Lần đầu tiên từ 14%/năm về 13%/năm vào ngày 13/3/2012. Các lần tiếp theo diễn ra vào
ngày11/4/2012, 28/5/2012 và 11/6/2012 với mức giảm lần lượt về 12%/năm, 11%/năm và 9%/năm. Và
lần gần đây nhất là vào ngày 24/12/2012 với mức giảm về 8%/năm.
Biểu đồ biến động trần lãi suất huy động vốn trong năm 2012







Việc liên tục hạ trần lãi suất trong năm 2012 của Ngân hàng Nhà nước đã gây rất nhiều khó khăn
cho các NHTM trong việc huy động vốn, đặc biệt là nhóm các ngân hàng có tính thanh khoản kém. Cụ
thể, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của hệ thống NHTM tuy vẫn đảm bảo theo Thông tư số
15/2009 của NHNN (tối đa 30%) nhưng có xu hướng tăng; tỷ lệ cho vay/huy động luôn ở mức trên
90%, chưa kể đến việc tiền gửi rút trước kỳ hạn. Điều này đã gây khó khăn cho các NHTM trong việc
quản trị nguồn vốn, khó đảm bảo cân đối kỳ hạn. Kỳ hạn huy động vốn bình quân có xu hướng rút
ngắn trong khi kỳ hạn cho vay bình quân dài, dẫn đến hiện tượng rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản.
Loại hình TCTD

Tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung
dài hạn (%)
Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn
vốn huy động (%)

30/04/2012
30/09/2012
31/12/2012
30/04/2012
30/09/2012
31/12/2012
0
2
4
6
8
10
12
14
16
01/01 13/3 04/11 28/5 06/11 24/12
Trần lãi suất
huy động

9

NHTM Nhà nước
5,88
21,89
21,45

107,80
101,95
96,77
NHTM Cổ phần
10,06
16,47
17,60
77,65
76,44
79,01
NH Liên doanh,
nước ngoài
-1,25
-3,70
-2,03
100,70
93,21
90,07
Công ty tài chính,
cho thuê tài chính
21,85
21.22
17,59
142,15
131.74
126,28
TCTD hợp tác
-7,18
-1,18
-1,01

97,04
97,80
94,58
Toàn hệ thống
7,58
16,81
17,16
94,73
90,91
89,35
Rủi ro lãi suất cũng xuất hiện đối với một số chi nhánh NHTM có thị trường huy động vốn, trong khi
dư nợ thấp và kinh doanh nguồn vốn bằng cách điều vốn đi để hưởng phí điều vốn của hệ thống, khi đã
huy động các kỳ hạn dài với lãi suất cố định trả sau. Nhưng phí điều hòa vốn cũng là công cụ điều tiết
của từng NHTM, vì vậy khi phí sử dụng vốn của toàn hệ thống ngân hàng đó liên tục hạ, để tránh tình
trạng ứ đọng vốn và kích thích đầu tư… thì các chi nhánh của ngân hàng này cũng bị rủi ro nguồn vốn,
dẫn đến thua lỗ.
Để có thể thấy được mức độ của rủi ro lãi suất, ta có thể sử dụng số liệu về nguồn vốn vay liên
ngân hàng được sử dụng để đầu tư tại các ngân hàng (đây là khoản chênh lệch giữa tiền gửi và vay của
TCTD khác với tiền gửi và cho vay TCTD khác). Nguồn vốn vay liên ngân hàng thường có giá trị rất
lớn, vì vậy khi nguồn vốn vay này bị rút về, nếu không thể vay liên ngân hàng để trả thì việc huy động
vốn từ tổ chức kinh tế và dân cư để bù đắp khoản thiếu hụt này phải mất rất nhiều thời gian, điều này
dễ dàng đẩy các ngân hàng vào tình trạng thiếu thanh khoản. Số liệu về tỷ lệ % nguồn vốn vay liên
ngân hàng được sử dụng để đầu tư so với tổng tài sản của một số NHTM như sau:
STT
Ngân hàng
Tỷ trọng nguồn vốn
vay liên ngân hàng được
sử dụng để đầu tư so với
tổng tài sản
STT

Ngân hàng
Tỷ trọng nguồn vốn vay
liên ngân hàng được sử
dụng để đầu tư so với
tổng tài sản
1
ACB
(*)

4,65%
5
SHB
(**)

4,13%
2
MBB
(*)

6,97%
6
SGB
(**)

3,68%
3
ABB
(*)

3,88%

7
MSB
(**)

4,94%
4
STB
(**)

1,87%
8
HDB
(**)

5,67%
Nguồn: tổng hợp từ website
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, việc thiếu thanh khoản rất nguy hiểm vì nó có thể ảnh
hưởng đến toàn hệ thống. Khi nguồn vốn vay liên ngân hàng bị rút về trong khi các khoản đầu tư chưa
đến hạn thu hồi. Nếu ngân hàng có thể huy động kịp nguồn vốn liên ngân hàng phải trả thì các ngân
hàng cũng phải đối mặt với rủi ro lãi suất rất cao sẽ làm giảm lợi nhuận ngân hàng vì tốc độ tăng các
khoản lãi thu được tăng chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng các khoản lãi phải trả.
Đối với lãi suất huy động USD trong thời gian qua cũng có sự sụt giảm. Theo Thông tư số
14/2011/TT-NHNN có hiệu lực từ ngày 02/06/2011, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất huy động vốn
tối đa bằng USD đối với tổ chức là 0,5%/năm (giảm 0,5%/năm so với quy định cũ) và cá nhân 2%/năm
(giảm 1%/năm so với quy định cũ). Mức lãi suất huy động vốn tối đa bao gồm cả khoản khuyến mãi
dưới mọi hình thức và áp dụng đối với mọi phương thức trả lãi cuối kỳ. Diễn biến lãi suất huy động
USD tại Việt Nam khá tương đồng với thị trường quốc tế. Cục dự trữ Liên bang Mỹ hiện duy trì mức
lãi suất cơ bản siêu thấp, từ 0% - 0,25%.

10


2.3 Rủi ro lãi suất trong hoạt động cho vay của các NHTM
Đây là loại rủi ro có ảnh hưởng rất lớn và khá thường xuyên vì hoạt động kinh doanh của các
NHTM Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào hoạt động cho vay với lợi nhuận từ lãi vay chiếm tỷ
trọng chủ yếu trong thu nhập của các NHTM.
Rủi ro lãi suất trong cho vay xảy ra khi thị trường giảm, ngân hàng phải cho vay với lãi suất thị trường
thấp trong khi đã huy động với lãi suất cao hơn. Điều này được minh chứng bằng biến động lãi suất
trong năm 2012 với 5 lần giảm lãi suất huy động và cho vay:
+ Ngày 13/3/2012, mức điều chỉnh từ 14% về 13%/năm theo yêu cầu giảm lãi suất huy động của
Thủ tướng chính phủ.
+ Ngày 11/4/2012, lãi suất huy động cũng giảm thêm 1%, về 12% một năm.
+ Ngày 28/05/2012, Ngân hàng Nhà nước vừa quyết định đưa trần lãi suất huy động - cho vay lần
lượt về còn 11 và 14% một năm, đồng thời hạ một loạt lãi suất điều hành.
+ Ngày 11/6/2012, trần lãi suất huy động VND đã giảm từ mức 11%/năm xuống còn 9%/năm. Bên
cạnh đó, theo thông tư 19/2012/TT-NHNN được ban hành ngày 8/6/2012, NHNN đã cho phép các
NHTM tự quyết định lãi suất huy động kỳ hạn dài (từ 12 tháng trở lên). Đây là một bước đi hợp lý của
NHNN, giúp các NHTM tự cân đối được cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn của mình.
+ Ngày 24/12/2012, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa trần lãi suất huy động giảm xuống còn
8%/năm. Theo các DN với mức lãi suất huy động 8% thì họ hy vọng các ngân hàng sẽ cho vay ra ở
mức 11-12% nhưng điều này chưa xảy ra.











Nguồn:
Tại hội nghị mới đây, Ngân hàng Nhà nước cho biết, năm 2013 sẽ xem xét bỏ trần lãi suất huy
động.
Rủi ro lãi suất trong hoạt động cho vay còn xảy ra khi NHNN thay đổi lãi suất cơ bản, thay đổi dự
trữ bắt buộc để thực thi chính sách tiền tệ, gây ra những hiệu ứng dẫn đến rủi ro lãi suất cho các
NHTM. Khi lãi suất cơ bản tăng, lãi suất huy động và cho vay sẽ tăng, nhưng chỉ áp dụng với khoản
vay mới phát sinh, còn các khoản dư nợ hiện hành, nhất là các khoản cho vay trung dài hạn có lãi suất
danh nghĩa ghi trên hợp đồng tín dụng đang ở mức thấp thì rủi ro lãi suất là điều khó tránh. Hiện nay
các ngân hàng đang sử dụng hệ thống thay đổi lãi suất linh hoạt, tuy nhiên cũng phải thỏa thuận với
khách hàng để chia sẻ rủi ro.
Trong thực tế, rất ít NHTM có đủ cơ cấu cân đối giữa nguồn vốn trung dài hạn với dư nợ trung dài
hạn, trong khi chi phí huy động vốn tăng nhưng thu nhập của các khoản cho vay trung dài hạn này
không thay đổi sẽ làm thu nhập của ngân hàng sụt giảm.
Khi lãi suất cơ bản giảm, các NHTM sẽ thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất huy động, giảm lãi suất
cho vay, nhưng cũng áp dụng đối với các khoản tiền gửi và tiền vay mới phát sinh, còn các món hiện
hành sẽ được giữ nguyên theo hợp đồng tín dụng, sổ tiết kiệm hoặc chứng chỉ tiền gửi. Do đó khi lãi

11

suất cơ bản giảm, lãi suất huy động giảm thì không có nghĩa là chi phí huy động vốn của ngân hàng đã
giảm ngay lập tức. Nhưng đối với các khoản dư nợ phát sinh trước đây với lãi suất trên hợp đồng tín
dụng khá cao thì chưa chắc NHTM đã thu được lãi theo đúng lãi suất đã ghi trên hợp đồng tín dụng, do
khách hàng phàn nàn lãi suất cao so với thị trường và sẽ thỏa thuận giảm lãi suất với ngân hàng hoặc sẽ
tìm cách trả nợ trước hạn, gây ra rủi ro lãi suất làm giảm thu nhập của ngân hàng.










Nguồn:
Ngoài ra, các khoản vay trên thị trường liên ngân hàng thường có thời hạn ngắn, rất ngắn, lãi suất cũng
thường xuyên biến động, việc vay vốn chủ yếu để đảm bảo khả năng thanh khoản và tìm kiếm chênh
lệch lãi suất, song đòi hỏi phải có sự nhận định phân tích nếu không cũng dễ nhận được rủi ro.

Chương 3: Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt
động kinh doanh của NHTM Việt Nam
3.1 Các phương pháp phòng ngừa rủi ro lãi suất thông thường
3.1.1 Dự báo về biến động lãi suất
Các nhà quản lý NH phải tiên đoán được sự biến động của lãi suất để bố trí, sắp xếp phân tích tài
sản thay đổi theo lãi suất theo từng thời kỳ, nghĩa là lãi suất được tiên đoán là tăng thì phải sắp xếp sử
dụng vốn sao cho bảng tổng kết tài sản có khoản chênh lệch biến động lãi suất dương để biên độ lãi
suất không giảm qua từng thời kỳ. Nếu lãi suất được tiên đoán là giảm thì NH phải sắp xếp sử dụng
vốn sao cho khoản chênh lệch biến động lãi suất âm để biên độ lãi suất không bị thu hẹp qua từng thời
kỳ. Tóm lãi để giảm bớt rủi ro về lãi suất NH sẽ cố gắng giảm bớt chênh lệch giữa tích sản và tiêu sản
có lãi suất biện đổi.
Các nhà dự báo có thể sử dụng các mô hình lý thuyết hoặc thực nghiệm về diễn biến của lãi suất
để đưa ra các dự báo lãi suất một cách chính xác. Muốn được như vậy, đòi hỏi nhà quản trị NH phải có
kinh nghiệm, phải theo sát các chính sách của Nhà nước trong tất cả các lĩnh vực, theo dõi và nghiên
cứu thị trường, đầu tư kinh doanh cả trong và ngoài nước, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất
cung cầu vốn vay trên thị trường và các yếu tố khác tác động đến tâm lý của người dân và các chủ thể
khác tham gia thị trường
Ưu điểm của phương pháp này là giúp ta có thể biết trước được xu hướng biến động của lãi suất
nếu dự đoán chính xác. Từ đó NH có thể có những nghiệp vụ và hoạt động khác để tránh rủi ro lãi suất,
3.1.2 Theo dõi tính nhạy cảm với lăi suất của các tài sản
Tài sản nhạy cảm với lãi suất là các loại tài sản mà trong đó thu nhập về lãi sẽ thay đổi trong một
khoảng thời gian nhất định khi lãi suất thay đổi. Quản lý tài sản nhạy cảm với lãi suất của NH là việc

chuyển hóa nguồn vốn tín dụng tiền mặt và tài sản sinh lời, tức là việc phân chia vốn giữa tiền mặt, tín
dụng, đầu tư và các tài sản khác. Các khoản đầu tư càng ngắn hạn thì càng nhạy cảm với lãi suất, nghĩa

12

là khi lãi suất thay đổi thì thu nhập từ các khoản mục này sẽ thay đổi theo. Thực hiện thông qua các
phương pháp: phân tích khoảng cách, phân tích khoảng cách thời gian tồn tại.
Phương pháp này sẽ cho ta biết được mức độ đối mặt của NH trước rủi ro lãi suất một cách chính xác.
3.1.3 Áp dụng chính sách mềm dẻo cho các khoản vay
Để phòng ngừa cho NH gặp phải rủi ro lãi suất, NH có thể đưa ra chính sách lãi suất mềm dẻo cho
các khoản vay và các tài sản của NH có kỳ hạn dài. Đối với các khoản vay có kỳ hạn dài, NH có thể
đưa ra các mức lãi suất thay đổi theo lãi suất trên thị trường theo tháng, quý, nửa năm, năm hoặc trong
thời gian đầu NH có thể đưa ra lãi suất cao hơn một chút so với đối thủ cạnh tranh, sau đó lãi suất này
được trả giảm dần đi ở các năm sau, Ngoài ra, NH có thể áp dụng lãi suất thay đổi theo thị trường nhất
là lãi suất trong thời kỳ thường xuyên biến động mạnh.
3.2 Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng các mô hình đo độ rủi ro lãi suất
3.2.1 Mô hình kỳ hạn đến hạn
a) Ví dụ về mô hình kỳ hạn đến hạn:
Giả sử ngân hàng giữ một trái phiếu kỳ hạn đến hạn là một năm, mức lợi tức không đổi là 10%/năm
(C), mệnh giá trái phiếu được thanh toán khi đến hạn là 100 USD (F), mức lãi suất đến
hạn một năm hiện hành của thị trường là 10%/ năm (R), giá trái phiếu là P
B
:
P
1
B

= F + C / (1+ R) = (100 + 10%*100) / (1 + 10%) = 100

Khi lãi suất thị truờng tăng ngay lập tức từ 10% đến 11%, giá thị trường của trái phiếu giảm.

P
1
B’
= F + C / (1+ R) = (100 + 10%*100) / (1 + 11%) = 99,1
Vậy Ngân hàng phải chịu tổn thất tài sản là 0,9 USD trên 100 USD giá trị ghi sổ. Gọi AP
1
là tỉ lệ
% tổn thất tài sản.
AP
1
= 99,1 – 100 = - 0,9%
AP
1
/AR = - 0,9%/0,01 = - 0,9 < 0

Khi lãi suất thị trường tăng thì giá trị của chứng khoán có thu nhập cố định giảm.
Nếu trái phiếu có kỳ hạn đến kỳ 2 năm, các yếu tố khác như trên.
Trước khi lãi suất thị trường tăng:
P
2
B
= 10% * 100 / (1 + 10%)
1
+ 100 (1 + 10%) / (1 + 11%)
2
= 98,29

Khi lãi suất thị trường tăng ngay lập tức từ 10% lên 11%
P
2

B’
= 10% * 100 / (1 + 11%)
1
+ 100 (1 + 10%) / (1 + 10%)
2
= 100

AP
2
= 98,29 – 100 = -1,71%

AP
2
– AP
1
= -1,71% - (-0,9%) = -0,81%

Mức giảm giá của trái phiếu có kỳ hạn 2 năm nhiều hơn là trái phiếu có kỳ hạn 1 năm.
Tương tự đối với trái phiếu có kỳ hạn 3 năm, khi lãi suất thị trường tăng từ 10% lên 11%, giá của nó sẽ
giảm –2,24% và do đó:
AP
3
– AP
2
= -2,44% - (-1,71%) = -0,73%

-0,73% < -0,81 %
Nếu kỳ hạn của tài sản càng dài thì mức độ thiệt hại tài sản tuyệt đối tăng lên, nhưng tỉ lệ % thiệ
t hại giảm dần.
b) Mô hình kỳ hạn đến hạn đối với một danh mục tài sản.

Với kết luận trên chúng ta mở rộng mô hình kỳ hạn đến hạn đối với một danh mục tài sản có và tài sản
nợ.
Gọi M
A
là kỳ hạn đến hạn trung bình của danh mục tài sản có,
M
L
là kỳ hạn đến hạn trung bình của danh mục tài sản nợ,
ta có: M
A
= W
A1
M
A1
+ W
A2
M
A2
+ W
A3
M
A3
+… + W
An
M
An

M
L
= W

L1
M
L1
+ W
L2
M
L2
+ W
L3
M
L3
+… + W
Ln
M
Ln

Trong đó W
AJ
là tỷ trọng của tài sản có j, giá trị tài sản tính theo giá trị thị truờng (không phải là giá
trị ghi sổ), và ta có:

13


W
Lj
là tỉ trọng của tài sản nợ, được biểu thị bằng giá trị thị trường, và:
Ảnh hưởng của lãi suất lên bảng cân đối tài sản là phụ thuộc vào:
+ Mức độ chênh lệch M
A

– M
L

+ Tính chất của M
A
– M
L
là lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn 0.
3.2.2 Mô hình thời lượng
a) Ví dụ mô hình thời lượng:
Chúng ta vẫn xem xét ví dụ như trên.
CF (Cash Flow) là lượng tiền thu về từ khoản tín dụng:
0 ½ năm 1 năm

CF
1/2
=57,5 triệu CF
1
=53,75 triệu
Để có thể tính thời lượng (duration) cả 2 luồng tiền CF
1/2
và CF
1
ta phải quy giá trị của
chúng về cùng 1 thời điểm, đó là thời điểm 0, ta có:
CF
1/2
= 57,5 PV
1/2
= 57,5 / (1 + 15% * 1/2)

1
= 53,49 tr

CF
1
= 53,75 PV
1
= 53,75 / (1 + 15% * 1/2)
1
= 46,51 tr
PV
1/2
+ PV
1
= 100 triệu
Để tính được thời lượng của 2 luồng tiền này, ta tính giá trị hiện tại của luồng tiền, tỷ trọng giá trị hiện
tại của CF
1/2
tại thời điểm t = 1/2 năm và CF
1
tại thời đểm t=1 năm
Gọi X là tỷ trọng
X
1/2
= PV
1/2
/(PV
1/2
+ PV
1

) = 53,49/100=53,49%
X
1
= PV
1
/(PV
1/2
+ PV
1
) = 46,51/100 = 46,51%
X
1+
X
1/2
=

1
Thời lượng D của khoản tín dụng:
D
L
=1/2* X
1/2
+ 1* X
1
=1/2*0,5349+1*0,4651=0,7326 năm
Như vậy trong khi kỳ hạn của khoản tín dụng là 1 năm thì thời lượng của nó là 0,7326 năm.
Tính thời lượng của chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn 1 năm. Giá trị hiện tại của CF
1
là:
PV

1
= CF
1
/(1+15%) =115/1,15=100
X
1
= PV
1
/PV
1
= 1
D
D
= X
1
*1 = 1năm
b) Mô hình thời lượng đối với một danh mục tài sản:
D
A
= X
1A
D
1
A
+ X
2A
D
2
A
+ ….+ X

nA
D
n
A

D
L
= X
1L
D
1
L
+ X
2L
D
2
L
+ ….+ X
nL
D
n
L

D
A
là thời lượng toàn bộ tài sản
D
L
là thời lượng toàn bộ nợ.
X

1A
+ X
2A
+ ….+ X
nA
= 1
X
1L
D
1
L
+ X
2L
D
2
L
+ ….+ X
nL
D
n
L

X
i
là tỷ trọng
D
i
là thời lượng của tài sản i trong tài sản có hoặc tài sản nợ
c) Phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng mô hình thời lượng
Nhiều nhà mô hình cho rằng mô hình thời lượng rất khó áp dụng vào thực tế nhưng thực tiễn không

phải như vậy. Sau đây là những hạn chế của mô hình thời lượng và giải pháp mà nhà quản trị Ngân
hàng hiện đại sử dụng để xử lý những khiếm khuyết của mô hình này trong thực tiễn.
Để cân xứng thời lượng 2 vế của bảng cân đối tài sản là rất tốn kém. Nhiều nhà phê bình thường lập
luận rằng: về mặt nguyên tắc nhà quản trị có thể thay đổi D
A
và D
L
để phòng ngừa rủi ro lãi suất được
tốt hơn, nhưng việc cơ cấu lại bảng cân đối tài sản có một danh mục tài sản lớn và phức tạp có thể tốn

14

kém về mặt thời gian và tiền bạc. Lập luận này chỉ có thể đúng trong quá khứ. Ngày nay, với việc mở
rộng các nghiệp vụ trên thị trường như: Buôn bán vốn, chứng khoán hóa tài sản, thị trường buôn bán lại
nợ đã làm đơn giản, tăng được tốc độ và giảm chi phí giao dịch rất nhiều trong việc cơ cấu lại bảng cân
đối tài sản. Hơn nữa trong thực tế nhà quản trị Ngân hàng có thể sử dụng mô hình này thông qua các
giao dịch nghiệp vụ như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, giao dịch quyền chọn, giao dịch hoán
đổi mà không nhất thiết phải cơ cấu lại bảng cân đối tài sản.
3.2.3 Mô hình định giá lại
Nội dung của mô hình định giá lại là việc phân tích các luồng tiền dựa trên nguyên tắc ghi sổ nhằm
xác định chênh lệch giữa lãi suất thu được từ tài sản có và lãi suất thanh toán cho vốn huy động sau
một thời gian nhất định. Đây là điểm khác biệt cơ bản so với mô hình kỳ hạn đến hạn. Hiện nay, mô
hình định giá lại đang được áp dụng tại Mỹ. Qũy dự trữ liên bang Mỹ yêu cầu các ngân hàng Mỹ phải
báo cáo định kỳ hàng quý chênh lệch giữa tài sản có và tài sản nợ theo các kỳ hạn sau:
Kỳ hạn đến một ngày
Trên một ngày đến 3 tháng
Trên 3 tháng đến 6 tháng
Trên 6 tháng đến 1 năm
Trên một năm đến 5 năm
Trên 5 năm


3.3 Các nghiệp vụ hạn chế rủi ro lãi suất

3.3.1 Hợp đồng lãi suất kỳ hạn

Hợp đồng lãi suất kỳ hạn là sự thoả thuận của hai chủ thể về việc mua (bán) một số lượng chứng
khoán (hay những công cụ tài chính) với một mức lãi suất được thỏa thuận vào ngày hôm nay cho việc
chuyển giao chứng khoán vào một ngày được thỏa thuận trong tương lai.
Giả sử ngân hàng dự báo lãi suất sẽ tăng trong thời gian tới làm giảm giá trị thị trường trên bảng
cân đối tài sản của các trái phiếu mà ngân hàng đang nắm giữ, để bù đắp sự thua lỗ này, ngay từ bây
giờ ngân hàng sẽ bán kỳ hạn số trái phiếu nói trên với mức giá được thỏa thuận vào ngày hôm nay.
Những trường hợp có thể xẩy ra khi hợp đồng đến hạn:
- Nếu lãi suất thực tế tăng, ngân hàng sẽ bán trái phiếu cho người mua theo giá hợp đồng và dùng
số tiền đó mua lại số trái phiếu đã bán với giá rẻ hơn. Lãi suất thu được trong trường hợp này được
dùng để bù đắp khoản thua lỗ trên bảng cân đối tài sản do trái phiếu giảm giá trên bảng cân đối tài sản.
- Nếu lãi suất thực tế giảm, giá trị thị trường trên bảng cân đối tài sản của trái phiếu sẽ tăng, ngân
hàng cũng sẽ bán trái phiếu cho người mua theo giá hợp đồng và dùng số tiền đó mua lại trái phiếu đã
bán với giá cao hơn. Lỗ từ trường hợp này bù đáp bằng khoản lãi do trái phiếu tăng giá trên bảng cân
đối tài sản.
3.3.2 Hợp đồng lãi suất tương lai:
Các nghiệp vụ hạn chế
rủi ro lãi suất
Hợp đồng
kỳ hạn
Hợp đồng
tương lai
Giao dịch
quyền chọn
Hoán đổi lãi
suất (SWAP)


15

Hợp đồng tài chính tương lai là hợp đồng mua bán một số lượng chứng khoán (hay những công
cụ tài chính) tại một thời điểm xác định trong tương lai, với một mức giá được xác định ngay tại thời
điểm thỏa thuận hợp đồng.
Hợp đồng lãi suất tương lai là hợp đồng tương lai về tài sản mà giá của nó phụ thuộc duy nhất vào
mức lãi suất trên thị trường.
Như đã biết, mức độ rủi ro đối với vốn tự có của ngân hàng khi lãi suất biến động phụ thuộc trực
tiếp vào:
- Sự không cân xứng về thời lượng của tài sản có và tài sản nợ đã điều chỉnh bởi hệ thống đòn bẩy:
( D
A
- k.D
L
);
- Quy mô tài sản có A;
Ta có: ∆r
∆E = - ( DA – k.DL).A.
1 + r
Trong đó:
∆E = Mức thay đổi vốn tự có của ngân hàng.
DA = Thời lượng của tài sản có.
DL = Thời lượng của tài sản nợ.
k = Tỷ lệ giữa vốn huy động và tài sản có, k = L/A.
A = Quy mô tài sản có của ngân hàng
∆r/(1+r) = mức thay đổi lãi suất.
Để thấy được việc sử dụng các hợp đồng tương lai để đảm bảo sự không cân xứng về thời
lượng của toàn bộ bảng cân đối tài sản, chúng ta giả thiết rằng: DA = 5 năm; DL = 3 năm; Giả sử nhà
quản trị ngân hàng nhận được thông tin dự báo rằng lãi suất dự tính sẽ tăng từ 10% lên 11%, tức là:

∆r = 1% = 0,01; 1 + r = 1,10.
Để thấy được việc sử dụng các hợp đồng tương lai để đảm bảo sự không cân xứng về thời lượng
của toàn bộ bảng cân đối tài sản, chúng ta giả thiết rằng: giả sử nhà quản trị ngân hàng nhận được
thông tin dự báo rằng lãi suất dự tính sẽ tăng từ 10% lên 11%, tức là: ∆r = 1% = 0,01; 1 + r = 1,10
Giả sử trạng thái ban đầu của bảng cân đối tài sản như sau:
Tài sản có (triệu)
Tài sản nợ (triệu)
Tài sản có A = $100

Vốn huy động L = $90
Vốn tự có E = $10
Cộng = $100
Cộng: = $100
Nhà quản trị ngân hàng dự tính khoản lỗ với vốn tự có trong trường hợp dự báo về thay đổi lãi suất
là đúng như sau
Nhà quản trị ngân hàng dự tính khoản lỗ với vốn tự có trong trường hợp dự báo về thay đổi lãi suất
như sau:
0,01
∆E = - (5 – 0,9x3)x100x = -$2,09 triệu
1,10
Như vậy, ngân hàng dự tính chịu khoản lỗ vốn tự có là 2,09 triệu USD trong trường hợp lãi suất
tăng từ 10% lên 11%. Với số vốn tự có ban đầu là 10 triệu USD thì giá trị còn lại của vốn tự có là 7,91
triệu USD.
Để đảm bảo rủi ro cho toàn bộ bảng cân đối tài sản thì nhà quản trị phải tiến hành các giao dịch
tương lai sao cho khi lãi suất thị trường tăng từ 10% lên 11% sẽ thu được từ các hợp đồng tương lai
một khoản lợi tức đủ để bù đắp khoản lỗ 2,09 triệu USD. Bởi vì, các hợp đồng tương lai phản ánh giá

16

trị của các chứng khoán được sử dụng trong mua bán của hợp đồng, cho nên, khi lãi suất tăng thì giá

các hợp đồng tương lai giảm. Lợi tức hay thua lỗ của hợp đồng tương lai khi lãi suất thay đổi được xác
định qua công thức sau:
∆r
∆F = -DF x F x
1 + r
Trong đó: ∆F = Thay đổi giá trị của hợp đồng tương lai
F = Giá trị ban đầu của hợp đồng tương lai, F = NF x PF
NF = Số lượng hợp đồng tương lai
PF = Giá trị của từng hợp đồng tương lai
DF = Thời lượng của trái phiếu được sử dụng trong mua bán hợp đồng tương lai.
∆r = Mức lãi suất thay đổi dự tính
1 + r = 1 cộng với mức thay đổi lãi suất hiện hành.
Cách xác định số lượng các hợp đồng tương lai cần bán để đảm bảo rủi ro lãi suất đối với toàn bộ
bảng cân đối tài sản của ngân như sau:
Ta có:
∆r
∆E = -(D
A
– k.D
L
) x A.
1 + r
Và: ∆r
∆F = -DF x (NF x PF ) x
1 + r
Từ : ∆E = ∆F
Ta tính được: (D
A
– k.D
l

) x A
NF =
DF x PF
Với: D
A
= 5 năm, D
L
= 3 năm, A = 100 triệu, DF = 6 năm, PF = 97.000
Suy ra: NF = 395,19
Ngân hàng không thể bán lẻ một phần của hợp đồng nên số hợp đồng ngân hàng bán cần được làm
tròn, tức là 395 hợp đồng.
3.3.3 Hợp đồng quyền chọn lãi suất:
Hợp đồng quyền chọn lãi suất là một công cụ cho phép người mua có quyền (nhưng không bắt
buộc) được mua hoặc bán một số lượng tài sản tài chính tại thời điểm xác định trong tương lai, với một
mức giá được xác định ngay tại thời điểm thỏa thuận hợp đồng.
Có 2 loại quyền chọn lãi suất:
- Quyền chọn mua (call option) lãi suất là một công cụ cho phép người mua nó có quyền (nhưng
không bắt nuộc) được mua một số lượng tài sản tài chính vào ngày đáo hạn của hợp đồng với một mức
giá được xác định trước.
Ngân hàng sẽ mua quyền chọn mua khi dự báo trong tương lai lãi suất thị trường sẽ giảm, vì lúc
đó giá trị thị trường của các chứng khoán, các khoản cho vay hay các hợp đồng tương lai sẽ tăng, việc
thực hiện quyền sẽ mang lai thu nhập cho ngân hàng vì vẫn được hưởng lãi suất đầu tư ở thời điểm lãi
suất chưa giảm.
- Quyền chọn bán (put option) lãi suất là một công cụ cho phép người mua nó có quyền (nhưng
không bắt buộc) được bán một số lượng tài sản tài chính vào ngày đáo hạn của hợp đồng với một mức
giá được xác định trước.

17

Ngân hàng sẽ mua quyền chọn bán khi dự báo trong tương lai lãi suất thị trường sẽ tăng, vì lúc

đó giá trị thị trường của các chứng khoán, các khoản cho vay hay các hợp đồng tương lai sẽ giảm, việc
thực hiện quyền sẽ mang lai thu nhập cho ngân hàng từ việc tìm kiếm trên thi trường các chứng khoán,
khoản vay, hợp đồng tương lai với lãi suất thấp rồi bán lại cho người phát hành quyền chọn với giá cao
hơn (giá ở thời điềm lãi suất chưa tăng).
3.3.4 Hợp đồng hoán đổi lãi suất (SWAP)
Hoán đổi lãi suất là một thỏa thuận giữa hai bên trong đó bên này cam kết thanh toán cho bên kia
khoản tiền lãi phải trả theo lãi suất cố định (hay thả nổi) tính trên cùng một khoản nợ gốc trong cùng
một khoản thời gian nhất định.
Để hạn chế rủi ro lãi suất, các ngân hàng sẽ trực tiếp tham gia vào các hợp đồng hoán đổi.
Trường hợp 1: vận dụng hợp đồng hoán đổi lãi suất để giảm chi phí huy động vốn của 2 ngân
hàng có mức độ xếp hạng tín nhiệm khác nhau nhằm trao đổi những đặc điểm có lợi nhất trong huy
động vốn.
Trường hợp 2: vận dụng hợp đồng hoán đổi lãi suất để điều chỉnh sự bất cân xứng giữa kỳ hạn
thực tế của tài sản và nợ (khe hở kỳ hạn). Một ngân hàng có khe hở kỳ hạn âm (kỳ hạn hoàn vốn trung
bình của tài sản < kỳ hạn hoàn trả trung bình của nợ) sẽ bị giảm sút thu nhập khi lãi suất thị trường
giảm, và ngược lại, ngân hàng khác có khe hở kỳ hạn dương (kỳ hạn hoàn vốn trung bình của tài sản >
kỳ hạn hoàn trả trung bình của nợ) sẽ bị gia tăng chi phí khi lãi suất thị trường tăng. Hai ngân hàng sẽ
tiến hành ký kết một hợp đồng hoán đổi lãi suất: ngân hàng có ke hở kỳ hạn dương (do kỳ hạn nợ quá
ngắn), qua hợp đồng hoán đổi lãi suất sẽ chuyển giao các khoản trả lãi biến đổi để lấy các khoản trả lãi
cố định. Ngân hàng có khe hở kỳ hạn âm (do kỳ hạn tài sản quá ngăn), qua hợp đồng hoán đổi lãi suất
sẽ chuyển giao các khoản thu nhập có lãi suất biến đổi để lấy các khoản thu nhập dài hạn có lãi suất cố
định.

0


KẾT LUẬN

Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta hiện nay, các ngân hàng thương mại không những
phải có giải pháp tăng cường khai thác triệt để những nguồn vốn trong kinh doanh mà còn phải hạn chế

được rủi ro lãi suất, tăng thu nhập cho ngân hàng. Việc hạn chế rủi ro lãi suất không chỉ có ý nghĩa với
ngân hàng mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Bên cạnh đó, các
ngân hàng thương mai cũng luôn phải tử nhìn lại mình, luôn tự đổi mới và hoàn thiện cơ cấu hoạt động
của mình nhằm đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng cũng như toàn xã hội mà vẫn bảo đảm
được an toàn về nguồn vốn và các hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, vấn đề hạn chế rủi ro lãi suất không chỉ
đơn phương thuộc về Ngân hàng thương mại mà phải có sự kết hợp đồng bộ của mọi người, mọi
ngành, mọi cấp và phải phù hợp với chính sách, mục tiêu của nhà nước đề ra.

0


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Peter S.Rose (2001), “Commercial Bank Management ”, NXB tài chính Hà Nội
2. PGS.TS Trần Huy Hoàng (2010), “Quản trị Ngân hàng thương mại ”, NXB Lao động xã hội
3. PGS.TS Trần Huy Hoàng, TS.Thân thị Thu Thủy, TS.Hồ Viết Tiến, TS.Trần Thị Mộng Tuyết
(2012), “Thị trường tài chính ”, NXB Kinh tế TP.HCM
4. GS.TS Dương Thị Bình Minh, TS. Sử Đình Thành (2010),“Lý thuyết tài chính tiền tệ
NXB Thống Kê
5. TS.Hồ Diệu (2002), Quản trị ngân hàng, NXB thống kê.TP.HCM
6. www.vnba.org.vn
7. www.sbv.gov.vn
8. www.cafef.vn
9. www.vneconomy.vn
10. www.laisuat.vn
11.


×