Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Một số giải pháp đối với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.84 KB, 33 trang )

Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 2
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI 2
1.1 Tổng quan về Ngân hàng thương mại 2
1.1.1 Khái niệm: 2
1.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng thương mại 2
1.1.3 Chức năng của ngân hàng thương mại: 3
1.1.4 Vai trò của ngân hàng thương mại 5
1.1.5 Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại 6
1.2 Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại 9
1.2.1 Tổng quan về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại 9
1.2.2 Các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM 14
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM 20
2.2 Đánh giá hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam năm
2012 28
2.2.1 Một số kết quả đạt được 28
2.2.2 Một số hạn chế 29
CHƯƠNG 3 30
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 30
3.1 Mở rộng các hình thức huy động vốn 30
3.2 Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt 30
3.3 Xây dựng một chiến lược khách hàng hợp lí trong huy động vốn 31
3.4 Thường xuyên đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hoàn thiện công
nghệ ngân hàng 31
KẾT LUẬN 32
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52


Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
LỜI NÓI ĐẦU
Hoà mình với công việc đổi mới chung của đất nước, cùng góp phần vào những
thành tựu đã đạt được trong thập niên qua, ngành Ngân hàng đã phải vượt qua không ít
khó khăn để phấn đấu cho mục tiêu phát triển đất nước. Vì mục tiêu này, không ai khác
mà chính hệ thống Ngân hàng phải trở thành bàn đạp vững chắc cho nền kinh tế. Tuy
nhiên, hơn 20 năm đổi mới chưa phải là nhiều, Ngân hàng còn phải giải quyết nhiều
những khó khăn trước mắt mà một trong những vấn đề nổi cộm là hiệu quả công tác huy
động vốn của ngân hàng hiện nay. Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng của ngân hàng
thương mại, trong đó nguồn vốn huy động có ý nghĩa quyết định, là cơ sở để NH tiến
hành các hoạt động cho vay, đầu tư, dự trữ… mang lại lợi nhuận cho NH. Để có được
nguồn vốn, NH cần phải tiến hành các hoạt động huy động vốn, trong đó huy động tiền
gửi tiết kiệm chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay,
việc huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn như: chịu nhiều cạnh tranh từ
các chủ thể khác trong nền kinh tế cũng tiến hành hoạt động huy động vốn: các ngân hàng
khác, các công ty bảo hiểm, bưu điện…thêm vào đó các nhà đầu tư đang tìm nơi trú ẩn an
toàn vào vàng thì vấn đề huy động vốn của các ngân hàng thương mại càng khó khăn hơn
bao giờ hết và cần có những giải pháp hữu hiệu, kịp thời.
Thông qua nghiên cứu, tìm hiểu quá trình huy động vốn, em xin được trình bày
đề tài “ Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, qua
đó rút ra những điểm mạnh, điểm yếu cũng như giải pháp để tăng huy động vốn ở các
ngân hàng thương mại trong giai đoạn khủng hoảng hiện nay.
Bố cục bài làm của em gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Ngân hàng thương mại và hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn ở các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp đối với hoạt động huy động vốn của các ngân
hàng thương mại Việt Nam
Trong quá trình phân tích, do còn thiếu kinh nghiệm và hạn chế về mặt nhận
thức, đề tài của em chắc chắn sẽ còn nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng

góp ý kiến của các thầy cô để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Em rất cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong bộ môn, đặc biệt là TS
Nguyễn Thị Hoài Phương đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
1
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
CHƯƠNG 1
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm:
Sự ra đời và phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của nền kinh
tế thị trường. Trong thời kỳ đầu, khoảng thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, các ngân hàng còn
hoạt động độc lập với nhau và thực hiện các chức năng như nhau là trung fian tín
dụng, trung gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc ngân hàng. Đến
thế kỷ 18, hệ thống ngân hàng tách ra thành ngân hàng trung gian và ngân hàng trung
ương.
NHTM là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các NHTM có
thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong
nền kinh tế. Trên phương diện hoạt động chủ yếu của NHTM, theo Nghị định số
59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM: “NHTM là ngân
hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo qui định của Luật Các tổ chức tín dụng và các
qui định khác của pháp luật” và theo Luật Ngân hàng Nhà nước: “Hoạt động Ngân
hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau
đây: Nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.”
Như vậy, NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh về tiền tệ với hoạt
động thường xuyên là huy động vốn, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cung cấp các dịch
vụ tài chính và các hoạt động khác có liên quan. NHTM là tổ chức tài chính trung gian
cung cấp danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất.

1.1.2 Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
NHTM có những đặc điểm sau đây:
Một là: NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh kiếm lời cho nên hoạt động
của nó nhằm mục tiêu chủ yếu là theo đuổi lợi nhuận. Những hoạt động kinh doanh
của NHTM là một loại kinh doanh đặc thù là quyển sử dụng các khoản tiền, sản phẩm
của NHTM có đặc tính phi vật chất và gắn liền với quá trình vận động, lưu thông tiền
tệ.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
2
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
Hai là: Hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh có đọ rủi ro cao hơn sơ với
các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sau sắc liên quan đến ngành
khác và cả nền kinh tế. Do đó để tránh rủi ro, nhằm kiểm soát và làm giảm nhẹ những
tổn hại do ngân hàng vỡ nợ gây ra, chính phủ các quốc gia đặt những điều luật riêng
đảm bảo hoạt động của ngân hàng được vận hành hiệu quả và an toàn.
Ba là: NHTM là một trung gian tài chính điển hình. Điều này được thể hiện rõ
trên hai phương diện:
- NHTM là trung gian giữ những người có vốn và người cần vốn
- NHTM là trung gian giữa ngân hàng trung ương với công chúng và nền kinh tế.
NHTM là trung gian giữa người có vồn và người cần vốn để tạo điều kiện cho
cung cầu về nguồn vốn được gặp nhau. Việc thông qua cầu nối NHTM, những nguồn
vốn có thời hạn, số lượng khác nhau đã chuyển thành những nguồn vốn phù hợp với
nhu cầu của người cần vốn mà không cần đến việc người có tiền nhàn rỗi và người có
nhu cầu về vốn phải trực tiếp gặp nhau. Bên cạnh đó, NHTM còn là trung gian giữa
ngân hàng trung ương với công chúng và nền kinh tế. Ngân hàng trung ương là cơ
quan điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, bằng các công cụ của mình như: tỷ lệ dự
trữ bắt buộ, lãi suất… đã tác động đến NHTM và NHTM đã chuyển tiếp các tác động
của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế. Ngược lại, hoạt động của NHTM cũng phản hồi
lại cho ngân hàng trung ương những thông tin của nền kinh tế để làm cơ sở cho ngân
hàng trung ương đề ra và chỉ đạo chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

tạo việc làm và kiểm soát lạm phát, phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế.
1.1.3 Chức năng của ngân hàng thương mại:
1.1.3.1 Chức năng trung gian tài chính:
Chức năng trung gian tài chính được xem là chức năng quan trọng nhất của
NHTM. Trong nền kinh tế bao giờ tại một thời điểm luôn tồn tại tình trạng: có một số
lượng vốn tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể chưa cần dùng đến, mặt khác lại có một
số lượng chủ thể khác tạm thời thiếu vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu thư
hoặc tiêu dùng….Và NHTM với chức năng trung gian tài chính, là nhịp cầu nối liền
chủ thể thừa và thiếu vốn trong nền kinh tế lại với nhau. Một mặt, ngân hàng tập trung
hầu hết những nguồn vốn nàn rỗi trong nền kinh tế và biến nó từ chỗ là phương tiện
tích lũy thành nguồn vốn lớn cho nền kinh tế. Mặt khác, sử dụng nguồn vốn này cung
ứng cho nền kinh tế với tính luân chuyển của nó gấp nhiều lần. Như vậy, ngân hàng
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
3
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
thương mại vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và
hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp
phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay.
Đóng góp khác của NHTM là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều
rủi ro trong khi lại phát hành ra các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế
các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro, ngân hàng cũng thỏa mãn nhu cầu
thanh khoản của nhiều khách hàng.
Chức năng trung gian tài chính được hình thành ngay từ lúc các NHTM hình
thành. Ngày nay, thông qua chức năng trung gian trung gian tài chính, NHTM đã và
đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên,
vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện
đời sống của nhân dân.
1.1.3.2 Chức năng trung gian thanh toán
NHTM trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc
gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ.

Ngân hàng thực hiện nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài
khoản. Khách hàng sẽ mở tài khoản tại các NHTM và ra lệnh cho các ngân hàng thực
hiện các khoản chi trả hoặc ủy nhiệm cho ngân hàng thu các khoản từ người mua….
Như vậy, các doanh nghiệp không phải thực hiện các công việc mất nhiều thời gian,
công sử mà vẫn đảm bảo an toàn như đếm tiền, nhận tiền… trong quá trình thanh toán
với các đối tác trong nền kinh tế.
Chức năng làm trung gian thanh toán của NHTM ngày nay không chỉ đơn thuần và
mang tính truyền thống như trước, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức
thanh toán như thanh toán bằng séc, nhờ thu, các loại thẻ… ngoài ra, cùng với sự phát
triển tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại đã tạo điều kiện cho các ngân hàng
thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử trực tiếp với nhau nhanh chóng và chính xác, tiết
kiệm chi phú lưu thông cho xã hội, thúc đẩu luân chuyển và quá trình lưu thông hàng
hóa ngày càng phát triển. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo
tính thống nhất trong thanh toán, không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà
còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
4
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
1.1.3.3 Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Toàn bộ hệ thống ngân hàng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi
được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách
hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức
là làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo
ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay
lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi
(tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác động
trực tiếp của nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán
bằng tiền mặt qua ngân hàng, tỷ lệ tiền gửi không phải là tiền gửi thanh toán.
1.1.4 Vai trò của ngân hàng thương mại

Đối với bất kỳ một quốc gia nào, để có sự phát triển toàn diện và bền vững thì
không thể thiếu sự có mặt của NHTM.
1.1.4.1 NHTM cung cấp nhu cầu vay vốn cho sự phát triển của nền kinh tế
Các NHTM đứng ra huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các
cá nhân sau đó sẽ cung ứng lại cho nơi cần vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh với
trang thiệt bị hiện đại hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn, có lợi nhuận cao hơn. Như vây,
NHTM là chìa khóa giúp cho người cần vốn có được vốn và người có vốn tạm thời
nhàn rỗi có thể kiểm được lãi từ vốn. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu vốn cần cho
nền kinh tế càng tăng và chỉ có NHTM mới có thể đứng ra điều hòa, phân phối vốn
giúp cho tất cả các thành phần kinh tế cùng nhau phát triển nhịp nhàng, cân đối.
1.1.4.2 NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường
Trong nền kinh tế thị trường luôn yêu cầu các doanh nghiệp phải sản suất ra các
sản phẩm với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
Để được như vậy các doanh nghiệp phải được đầu tư bằng đây chuyền công nghệ hiện
đại, trình độ cán bộ, công nhân lao động phải được nâng cao. Những hoạt động này
đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư lớn. Các NHTM sẽ cho các doanh
nghiệp vay dưới các hình thức khác nhau, đảm bảo doanh nghiệp có vốn thực hiện
được các cải tiến của mình, có được các sản phẩm chất lượn và nâng cao năng lực
cạnh tranh.
1.1.4.3 NHTM là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
5
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
Trong nền kinh tế thị trường, NHTM với tư các là trung tâm tiền tệ của toàn bộ
nền kinh tế, đảm bảo sự phát triển hài hòa cho các thành phần kinh tế khi tham gia
hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy sự hoạt động hiệu quả của NHTM thông qua
các nghiệp vụ kinh doanh của nó thực sự là công cụ tốt để Nhà nước tiến hành điều tiết
vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng
trong hệ thống, NHTM đã trực tiếp góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong
lưu thông. Mặt khác với việc cho các thành phần trong nền kinh tế vay vốn, NHTM đã

thực hiện việc dẫn dắt các luống tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều
khiển chúng một các có hiệu quả, đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn cho
quá trình tái sản xuất cũng như thực thi vai trò điều thiết gián tiếp vĩ mô nền kinh tế.
1.1.4.5 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Ngày nay, theo xu hướng toàn cầu hóa, nền tài chính của một quốc gia cần phải
hòa nhập với nền tài chính thế giới. Các ngân hàng thương mại là trung gian, cầu nối
để tiến hành hội nhập. Các NHTM với những nghiệp vụ kinh doanh như : nhận tiền
gửi, cho vay, bảo lãnh và đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán quốc tế đã góp phần tạo điều
kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng và phát triển.
1.1.5 Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
NHTM hiện nay hoạt động với ba nghiệp vụ chính là: Nghiệp vụ nguồn vốn,
nghiệp vụ sử dụng vốn và nghiệp vụ trung gian. Ba nghiệp vụ này có quan hệ mật
thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh
tranh cho các NHTM, các nghiệp vụ này đan xen lẫn nhau trong quá trình hoạt động
của ngân hàng, tạo nên chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động của NHTM.
1.1.5.1 Nghiệp vụ nguồn vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhất của một NHTM. Vốn được ngân
hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau và dử dụng với trách nhiệm hoàn trả
gốc và lãi. Nguồn vốn củ NHTM gồm vốn tự có (vốn chủ sở hữu), vốn vay, vốn khác.
Nghiệp vụ nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng
như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại được phép sử dụng
những công cụ và biện pháp cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn
tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế.
Thành phần nguồn vốn của ngân hàng thương mại gồm:
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
6
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
– Vốn điều lệ (Statutory Capital) và các quỹ dự trữ (Reserve funds): được coi
là vốn tự có của ngân hàng, có tính ổn định cao và không ngừng gia tăng, đây là yếu tố
tài chính quan trọng bậc nhất tuy nó chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, nó vừa cho thấy qui mô

của ngân hàng vừa phản ánh khả năng đảm bảo các khoản nợ của ngân hàng đối với
khách hàng. Hai nguồn này được hình thành từ vốn chủ sở hữu khi ngân hàng mới
thành lập và từ nguồn vốn bổ sung hàng năm từ lợi nhuận kinh doanh, từ vốn góp
thêm của chủ sở hữu. Vốn điều lệ thường được dùng để xâu dụng nhà cửa, văn phòng
làm việc, mua sắm tài sản, trang thiết bị nhằm tạo cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt
động của ngân hàng, số còn lại để đầu tư, liên doanh, cho vay trung và dài hạn. Còn
các quỹ dự trữ của ngân hàng là các quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại
và hoạt động của ngân hàng, các quỹ này được trích lập theo tỷ lệ quy định trên số lợi
nhuận ròng của ngân hàng.
– Vốn huy động (Mobilized Capital): là nguồn vốn chủ yếu của các NHTM,
thực chất là tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử
dụng nhưng phải có nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng yêu cầu. Nguồn
vốn huy động và nguồn tài nguyên to lớn nhất được hình thành từ nhận tiền gửi, phát
hành các giấy tờ có giá và các khoản tiền gửi khác. Nguồn vốn này thường không ổn
định và được sử dụng để thiết lập dự trữ, cấp tín dụng.
– Vốn đi vay (Bonowed Capital): có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của
NHTM. Loại này bao gồm: vốn cay trong nước và vốn vay nước ngoài.
– Vốn tiếp nhận (Trust capital): đây là nguồn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính
ngân hàng, từ ngân sách nhà nước… để tài trợ theo các chương trình, dự án về phát
triển kinh tế xã hội. Nguồn vốn này chỉ được sử dụng theo đúng đối tượng và mục tiêu
đã xác định.
– Vốn khác (Other Capital): Đó là các nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt
động của ngân hàng (đại lý, chuyển tiền, các dịch vụ ngân hàng…).
1.1.5.2 Nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn của NHTM vào các mục đích
khác nhau nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận. Nghiệp vụ
cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết định khả năng tồn tại
và hoạt động của ngân hàng. Đây là các nghiệp vụ cấu thành bộ phận chủ yếu và quan
trọng của tài sản Có của ngân hàng. Nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng bao gồm:
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52

7
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
- Nghiệp vụ ngân quỹ: Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm
lời song cần phải đảm bảo an toàn để giữ vững được lòng tin của khách hàng. Để đảm
bảo khả năng thanh toán, ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn không sử dụng
nó để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Nghiệp vụ này phản ảnh các khoản vốn của NHTM
được dùng vào với mục đích đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán hiện thời cũng
như khả năng thanh toán nhanh của NHTM và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc
do Ngân hàng Nhà nước đề ra.
- Nghiệp vụ cho vay: Đây là hoạt động quan trọng nhất của NHTM. Số nguồn
vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các NHTM có thể dùng để cấp tín dụng
cho các tổ chức, các nhân. Ngân hàng đi vay để cho vay, do đó có cho vay được hay
không là vấn đề mà mọi NHTM đều tìm cách giải quyết. Thông thường lợi nhuận thừ
hoạt động cho vay này chiếm tới 65 – 70% trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Trong
nghiệp vụ này thì mức rủi ro rất lớn, không thu hồi được vốn vay hoặc trả không hết
hoặc không đúng hạn… do chủ quan hoặc khách quan. Do đó khi cho vay các ngân
hàng cần sử dụng các biện pháp đảm bảo vốn vay như thế chấp, cầm cố… Nghiệp vụ
cho vay có thể được phân loại bằng nhiều cách: theo thơi gian có cho vay ngắn hạn,
cho vay trung hạn và dài hạn: theo hình thức đảm bảo có cho vay có đảm bảo, cho vay
không có đảm bảo: theo mục đích có chov ay bất động sản, cho vay thương mại, cho
vay cá nhân, cho vay nông nghiệp, cho vay thuê mua…
- Nghiệp vụ đầu tư: Khoản mục đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau khoản
mục cho vay, nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể của NHTM. Trong nghiệp
vụ này, ngân hàng sẽ dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư
dưới các hình thức như: hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các công ty, mua trái
phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty… Tất cả hoạt động đầu
tư đều nhằm mục đích mang lại thu nhập cho ngân hàng, mặt khác nờ hoạt động đầu tư
mà các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán, đặc biệt đầu tư vào trái
phiếu chính phủ thì mức độ rủi ro sẽ rất thấp.
- Nghiệp vụ khác: NHTM thực hiện các hoạt động kinh doanh như: kinh doanh

ngoại tê, vàng bạc và kim khí, đá quí, thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ,
nghiệp vụ ủy thác và đại lí, kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm…
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
8
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
1.1.5.3 Nghiệp vụ trung gian
Ngoài hai nghiệp vụ cơ bản trên, ngân hàng còn thực hiện một số nghiệp vụ
khác như:
- Dịch vụ trong thanh toán: Có thể nói ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế. Các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế sẽ không phải mất thời gian sau khi mua hoặc bán hàng
hóa dịch vụ, bởi việc thanh toán sẽ được ngân hàng thực hiện một cách nhanh chóng
và chính xác thông qua chuyển tiền, thu hộ séc, dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ
thanh toán…
- Dịch vụ tư vấn, môi giới: Ngân hàng đứng ra là trung gian mua bán chứng
khoán, tư vấn bảo quản, mua bán hộ cho người đầu tư mua bán chứng khoán, bất động
sản…ngoài ra còn có hoạt động tư vấn tài chính, giúp đỡ các công ty, xí nghiệp phát
hành cổ phiếu, trái phiếu…
- Các dịch vụ khác: Ngân hàng đứng ra quản lý hộ tài sản, giữ hộ vàng, tiền: cho
thuê két sắt, bảo mật…
1.2 Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Tổng quan về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
1.2.1.1 Khái niệm huy động vốn
NHTM là tổ chức trung gian tài chính với các chức năng cơ bản là trung gian
tài chính, trung gian thanh toán và tạo phương tiện thanh toán. Để thực hiện được các
chức năng này và đi vào hoạt động một cách có hiệu quả và có lợi nhuận thì đỏi hỏi
ngân hàng phải có một lượng vốn hoạt động nhất định. “Vốn của ngân hàng thương
mại là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động
được dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ cho vay khác.”.
Để có được vốn hoạt động này, các NHTM phải đi huy động vốn. Huy động
vốn là một nhiệp vụ của NHTM nhằm tiếp nhận nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ

chức và cá nhân bằng nhiều hình thức khác nhau để hình thành nên nguồn vốn ngân
hàng. Huy động vốn là điều kiện cần đối với hoạt động của một ngân hàng, đảm bảo
sự tồn tại của ngân hàng và thực hiện chức năng trung gian tài chính.
1.2.1.2 Vai trò của hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn có một vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh
doanh cảu ngân hàng và xã hội.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
9
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
Đối với nền kinh tế: Hoạt động huy động vốn là kênh chu chuyển nguồn vốn,
góp phần kiểm soát lạm phát và cung cấp hàng hóa cho thị trường tài chính
Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm và đầu tư có
mỗi quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng phát triển sản xuất kinh
doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần khuyến khích tiết kiệm. Trong nền
kinh tế các khoản tiết kiệm thường nhỏ lẻ và NHTM đã đứng ra tập hợp vốn một cách
hiệu quả. Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết kiệm chuyển thành đầu tư
góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế.
Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối về
vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều kiện để thực hiện.
Quá trình sản xuất sẽ được mở rộng hơn do có đc vốn từ huy động vốn của các
NHTM.
Đối với NHTM: Bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn
ngân hàng huy động được lại là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên nghiệp vụ
huy động vốn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng. Nếu ngân hàng
huy động được nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp nó có thể mở rộng được tín dụng
đầu tư và thu được lợi nhuận cao. Ngược lại, với qui mô hạn chế và chi phí cao thì
ngân hàng có thể gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. Chi phí huy
động vốn của ngân hàng liên quan chặt chẽ với lãi suất tiền gửi các loại, lãi suất tiền
gửi tiết kiệm và lãi suất các công cụ nợ do ngân hàng phát hành.
Nguồn vốn huy động không những giúp cho ngân hàng bù đắp được thiếu hụt

trong thanh toán, tăng nguồn vốn trong kinh doanh mà thông qua huy động vốn, ngân
hàng còn nắm bắt được năng lực tài chính của khách hàng có quan hệ với ngân hàng.
Qua đó, ngân hàng có căn cứ để xác định mức vốn đầu tư cho vay đối với những
khách hàng đó.
Vốn là cơ sở để bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào có thể tiến hành hoạt động
kinh doanh. Hơn nữa,, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là
phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Vì vây, ngân hàng
nào có hoạt động huy động vốn tốt tức là có khối lượng vốn lớn thì ngân hàng đó có
lợi thể cạnh tranh lớn hơn trong kinh doanh.
Bên cạnh đó, khi ngân hàng đi vào hoạt động, vốn huy động đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Quy mô vốn huy động quyết định
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
10
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
tới quy mô đầu tư, cho vay, và ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng. Hoạt động huy
động vốn được coi như đòn bẩy kinh doanh và hiệu quả huy động vốn là một trong những
yếu tố quyết định đến sự thành bại của NHTM trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Có thể
nói, hoạt động huy động vốn góp phần giải quyết đầu vào của NHTM.
Đối với khách hàng: Huy động vốn cung cấp cho khách hàng kênh tiết kiệm và
đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lời. Ngoài ra còn cung cấp cho khách hàng một
nơi an toàn để cất trữ và tích luy nguồn tiền nhàn rỗi. Khách hàng dễ dàng tiếp cận
được các dịch vụ tiện ích của ngân hàng như: dịch vụ thanh toán qua ngân hàng và
dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất và tiêu dùng.
1.2.1.3 Phân loại nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập và huy
động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. Nguồn vốn mà ngân hàng huy động được không những giúp cho ngân
hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan trọng trong việc
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng cũng như sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong tất cả các loại vốn của ngân hàng

thì mỗi loại có một tính chất và vai trò riêng, ngân hàng phải xem xét và phân tích để
sử dụng vốn đầu tư vào có hiệu quả, xét về kết cấu và tính chất vốn kinh doanh của
ngân hàng thương mại bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn nợ và vốn nợ khác.
* Vốn chủ sở hữu:
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng ( được pháp luật cho phép ) chủ ngân hàng
phải có lượng vốn nhất định. Đây là nguồn vốn hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của
ngân hàng, chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ tổng vốn ( khoảng 5 – 10%) nhưng lại có tính
chất quyết định đến sự hình thành tồn tại của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu ngân hàng có
thể sử dụng lâu dài, hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn vốn này
mang tính ổn định cao vì nó thuộc sở hữu của NHTM và NHTM không có nghĩa vụ
phải hoàn trả.
Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu
khác nhau mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc
sở hữu nhà nước, ngân sách nhà nước cấp (vốn nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần,
các cổ đông góp vốn thông qua mua cổ phần, cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các
bên liên doanh góp, ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
11
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
Ngân hàng có nhiều quỹ, mỗi quỹ có một mục đích riêng: Quỹ đầu tư phát
triền, quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…
Nguồn để hình thành nên các quỹ là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ
ngân hàng không thể sử dụng lâu dài.
* Vốn nợ:
Đây là bộ phận lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM. Thành phần của vốn
nợ bao gồm: tiền gửi, tiền vay và các vốn nợ khác.
- Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi:
+ Tiền gửi chửa khác hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng.
Với việc huy động vốn, ngân hàng có quyền được sử dụng vốn và có trách nhiệm phải
hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho người gửi. Tiền gửi này có thể huy động từ dân

cư, các tổ chức kinh tế - xã hội với nhiều hình thức khác nhau như:
+ Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi giao dịch, tiền gửi thanh toán ) là khoản tiền
của các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng với mục đích là sử dụng các dịch
vụ thanh toán của ngân hàng Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của
doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Khoản tiền gửi thanh toán
này có thể được trả lãi ( trả lãi thấp ) hoặc không được trả lãi. Người gửi tiền và ngân
hàng để nhờ ngân hàng thu hộ tiền, trả hộ tiền… với mức phí thấp. Câc ngân hàng có
thể sử dụng các số dư tiền gửi khách hàng vào các hoạt động của mình.
+ Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, tổ chức xã hội: Các doanh nghiệp hay tổ
chức xã hội gửi tiền vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lại. Tuy khoản tiền này
không tiện lợi bằng tiền gửi thanh toán nhưng bù lại tiền gửi có kì hạn lại có lãi
suaatcao hơn tùy theo đội dài của kì hạn ghi trên hợp đồng
+ Tiền gửi tiết kiệm từ dân cư: Người dân gửi tiền vào ngân hàng nhằm thực hiện
các mục đích bảo toàn và sinh lời đối với những khoản tiền đó. Người gửi tiết kiệm sẽ
có sổ tiết kiệm ghi rõ thời gian và hình thức trả lãi đã thỏa thuận với ngân hàng.
+ Tiền gửi của các ngân hàng khác: Đây là nguồn tiền gửi có qui mô thường
nhỏ, giữa các ngân hàng luôn có tiền gửi của nhau. Mục đích của việc gửi tiền này là
để đảm bảo thanh toán thuận tiện, phục vụ tối đa lợi ích cho khách hàng của mình.
* Tiền vay và các nghiệp vụ đi vay của NHTM:
Bên cạnh việc huy động tiền gửi, nhiều lúc các ngân hàng cũng phải đi vay để
đảm bảo thanh toán, đảm bảo dự trữ bắt buộc… Các ngân hàng có thể vay ở
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
12
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
+ Vay ngân hàng nhà nước ( ngân hàng trung ương ): Đây là khoản vay nhằm
giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Ngoài ra, trong trường hợp
thiếu hụt dự trữ, NHTM cũng vay của ngân hàng nhà nước. Hình thức vay chủ yếu là
tái chiết khấu ( hay tái cấp vốn ). Các NHTM sẽ mang các trái phiếu mà mình đã
chiết khấu lên ngân hàng trung ương để tái chiết khấu. Nhà nước điều hành việc vay
mượn này một cách chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm

soát nhất định.
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là khoản vay mượn lẫn nhau giữa các
ngân hàng hoặc giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân
hàng. Hình thức vay này rất đơn giản, ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân
hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Các khoản vay có thể không cần thế
chấp hoặc thế chấp bằng các chứng khoán kho bạc. Các khoản vay tổ chức tín dụng
khác thông thường có thời hạn ngắn, chủ yếu để giải quyết những nhu cầu tức thời.
+ Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng
cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy tờ nợ ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu )
trên thị trường vốn để huy động vốn trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay
trung và dài hạn và các nhu cầu đầu tư khác. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường
để quyết định quy mô, mệnh giá, lãi suất, thời hạn vay mượn thích hợp. Khả năng vay
mượn này phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, các hình
thức phát hành, chuyển đổi, thời gian của các công cụ nợ…
* Vốn nợ khác: Các nguồn vốn nợ khác được hình thành trong quá trình cung
cấp dịch vụ cho khách hàng, không thuộc sở hữu của NHTM. Loại này bao gồm
nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán cà các nguồn khác.
+ Nguồn ủy thác: NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác qua đó làm tăng nguồn
vốn của ngân hàng như ủy thác đầu tư, ủy thác cho vay, ủy thác cấp phát, ủy thác giải
ngân và thu hộ…
+ Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có
thể hình thành nguồn trong thanh toán ( séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở
L/C…)
+ Nguồn khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
13
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
1.2.2 Các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM
1.2.2.1 Huy động vốn chủ sở hữu
* Phát hành cổ phiếu là biện pháp dành riêng cho các ngân hàng thương mại cổ

phần. Biện pháp này được các NHTM cổ phần sử dụng rất phổ biến để tăng vốn chủ
sở hữu. Có hai hình thức chủ yếu là phát hành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
+ Cổ phiếu thường là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của cổ đông thường
đối với tài sản hoặc vốn của NHTM cổ phần. Ưu điểm của việc phát hành thêm cổ
phiếu thường là không phải hoàn trả cho người mua cổ phiếu, cổ tức của cổ phiếu
thường không phải là gánh nặng về tài chính cho ngân hàng trong những năm làm ăn
thua lỗ, phương pháp ngày làm tăng quy mô vốn nên cũng làm tăng khả năng vay nợ
của ngân hàng trong tương lại. Nhược điểm của phát hành thêm cổ phiếu thường là chi
phí phát hành cao, có thể là loãng quyền sở hữu ngân hàng, giảm mức cổ tức trên mỗi
cổ phiếu (EPS), làm giảm khả năng tận dụng tỷ lệ đòn bẩy tài chính ngân hàng đã có.
+ Cổ phiếu ưu đãi là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của cổ đông ưu đãi,
đồng thời cho phép cổ đông ưu đãi được hưởng một số quyền ưu đãi lớn hơn so với
các cổ đông thường. Ưu điểm của phát hành cổ phiếu ưu đãi là không phải hoàn trả lại
vốn và không làm phân tán quyền kiểm soát ngân hàng, tăng khả năng vay nợ của
ngân hàng trong tương lai. Nhược điểm là cổ tức phải trả cho các cổ đông là gánh nặng
tài chính trong những năm ngân hàng bị thua lỗ, chi phí phát hành cao, giảm mức cổ
tức trên mỗi cổ phiếu.
Các ngân hàng cổ phần tùy thuộc vào nhu cầu cụ thể của mình mà có thể phát
hành thêm cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi. Việc phát hành cổ phiếu vừa giúp các
ngân hàng tăng qui mô vốn kinh doanh dài hạn lại vừa giúp ngân hàng tránh được nghĩa
vụ nợ nần, không phải lo việc trả vốn gốc và lãi.Khi sử dụng biện pháp này sẽ giúp
NHTM tăng quy mô vốn chủ sở hữu, do đó là thay đổi kết cấu các loại vốn, dẫn dến độ
vững chắc về tài chinhsc ủa ngân hàng tăng lên, tăng độ tín nhiệm của ngân hàng.
Tuy nhiên, khác với các hình thức vay vốn là lãi phải trả được tính vào chi phí
khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp nên giảm được khoản thuế phải nộp cho nhà
nước, thì cổ tức chi trả cho cổ đông lại lấy từ lợi nhuận sau thuế. Điều này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến chi phí sự dụng vốn khi phát hành cổ phiếu.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
14

Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
* Phát hành trái phiếu chuyển đổi: Là hình thức gọi vồn lai giữa vốn cổ phần
thường và nợ. Trái phiếu chuyển đổi ấn định một khoảng thời gian khoản nợ với lãi
suất cố định được chuyển sang cổ phần. Loại trái phiếu này trả lãi suất rẻ hơn so với
vốn huy động vì cho phép trái chủ trở thành cổ đông trong tương lai, nhưng lại hấp
dẫn về lãi suất hơn cổ đông vì mang rủi ro chuyển đổi. Ưu điểm khi phát hành trái
phiếu chuyển đổi là chi phí thấp và không làm phân tán quyền kiểm soát của ngân
hàng, đây là phương pháp hiệu quả vì trái phiếp này được ưa chuộng trên thị trường.
Nhược điểm là phải hoàn trả cho người mua trái phiếu khi hết hạn, lãi trả cho trái
phiếu là gánh nặng cho ngân hàng về tài chính tăng chi phí hoạt động, làm giảm khả
năng đi vay về sau của ngân hàng.
1.2.2.2 Huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi
* Huy động tiền gửi không kì hạn ( tiền gửi thanh toán ):
Tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi mà người gửi tiền được sử dụng khoản
tiền gửi đó vào bất cứ thời điểm nào để phục vụ cho nhu cầu thanh toán. Đây là phần
tiền huy động tương đối quan trọng ở những nước phát triển có tỷ lệ thanh toán không
dùng tiền mặt cao. Mục đích của các khoản tiền gửi này không phải để lấy lãi mà chủ
yếu dùng để thanh toán. Khách hàng gửi tiền có thể là các tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp, các cá nhân phải thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ liên tục. Người gửi tiền có
thể rút ra bất cứ lúc nào để trả cho người thứ ba. Đặc biệt, người gửi tiền không cần
trực tiếp đến ngân hàng lấy tiền mà có thể rút qua các máy rút tiền tự động ( máy ATM
). Ngân hàng thường bảo quản loại tiền gửi này trên hai tài khoản: tài khoản thanh toán
và tài khoản vãng lai.
+ Tài khoản thanh toán là loại tài khoản tiền gửi mà chủ tài khoản có quyền sử
dụng số tiền trên tài khoản nhưng chỉ trong phạm vi số dư tiền gửi. Loại này luôn có
số du Có.
+ Tài khoản vãng lai là tài khoản có thể dư Có hoặc dư Nợ, thường được sử
dụng cho các tổ chức kinh tế. Số dư Có thể hiện tiền gửi của khách hàng còn số dư Nợ
thể hiện khoản tín dụng ngân hàng cấp cho khách hàng vay.
Với mục đích chủ yếu khi gửi tiền là để sử dụng các dịch vụ ngân hàng nên mức lãi

suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền là rất thấp, thậm chí một số ngân hàng còn
không trả lãi. Tỉ lệ huy động từ nguồn này là khá cao nếu ngân hàng có các dịch vụ đa
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
15
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
dạng, sản phẩm ngân hàng chất lượng cao, hệ thống mạng lưới rộng tãi đáp ứng tốt các
nhu cầu của người gửi tiền.
* Huy động tiền gửi có kì hạn:
Tiền gửi có kì hạn là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân
hàng và rút ra sau một thời hạn nhất định. Mỗi lần gửi tiền, khách hàng phải kí một
hợp đồng tiền gửi và thỏa thuận cụ thể thời điểm rút tiền. Khi có nhu cầu rút tiền,
khách hàng có thể rút một phần hoặc toàn bộ vốn gốc ( tùy vào điều kiện thỏa thuận
trong hợp đồng tiền gửi có kì hạn ). Đối với hình thức này, các khách hàng chủ yếu là
các tổ chức kinh tế có chu kỳ kinh doanh gần như xác định, thời gian thanh toán tiền
ổn định, ít có sự biến động. Phần tiền gửi này ngân hàng dễ dàng sử dụng nên mức lãi
suất mà ngân hàng phải trả cũng cao hơn. Người gửi tiền ngoài mục đích sử dụng các
dịch vụ của ngân hàng còn có mục đích kiếm lời. Do đó, sự thay đổi lãi suất sẽ có tác
động rất nhanh và rõ nét đối với nguồn vốn huy động của ngân hàng.
* Huy động tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền gửi của tầng lớp dân cư vào tài khoản tiết kiệm
tại ngân hàng nhằm mục đích tích lũy, sinh lời và an toàn tài sản Đây là hình thức
phổ biến nhất, lâu đời nhất của các NHTM. Có hai sản phẩm tiết kiệm là:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể
rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước. Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn khác
với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn ở chỗ: tài khoản tiền gửi tiết kiệm không được sử dụng
để phát hành sec. Có thể tiết kiệm không kì hạn bằng VND hoặc bằng ngoại tệ. Loại
hình tiết kiệm này gần giống như huy động tiền gửi không kì hạn. So với tiền gửi
không kì hạn thì số dư của phần này ổn định hơn, ít biến động hơn nên ngân hàng phải
trả lãi suất cao hơn. Đối với loại hình tiết kiệm này, khách hàng có thể gửi thêm vào và
rút tiền ra khỏi tài khoản tiết kiệm nhiều lần, không hạn chế số lần gửi và rút tiền,

không tất toán sổ tiết kiệm sau mỗi lần giao dịch.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể rút
tiền sau một kì hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với ngân hàng. TIền gửi tiết
kiệm có kì hạn khác với tiền gửi có kì hạn ở chỗ khách hàng gửi tiền tiết kiệm có kì
hạn chỉ có thể là cá nhân. Khách hàng có thể tiết kiệm bằng VND, ngoại tệ và vàng.
Mục tiêu quan trọng của khách hàng khi chọn lựa hình thức gửi tiền này là có lợi tức
theo định kì. Do vậy lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút đối tượng này, lãi suất
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
16
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
trả cho loại tiền gửi tiết kiệm định kì cao hơn loại tiền gửi tiết kiệm không kì hạn.Mức
lãi suất còn thay đổi theo kì hạn, tùy theo loại đồng tiền gửi tiết kiệm, theo uy tín, rủi
ro của ngân hàng nhận tiền gửi. Đối với tiết kiệm có kì hạn, mỗi tài khoản ứng với một
giao dịch gửi và một giao dịch rút. Khách hàng muốn gửi thêm tiền vào tài khoản tiết
kiệm thì phải lập một sổ tiết kiệm khác. Khi có nhu cầu rút tiền ( trước hạn hoặc đúng
hạn ), khác hàng phải rút một lần cho toàn bộ số tiền đã gửi và tất toán sổ tiết kiệm
theo đúng quy định của từng sản phẩm.
1.2.2.3 Huy động vốn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá
Phát hành giấy tờ có giá là loại hình giao dịch huy động vốn khác thông dụng
của NHTM. Trong nền kinh tế thị trường, phát hành giấy tờ có giá là giải pháp huy
động vốn khác dễ dàng và thuận lợi. Giấy tờ có giá là chứng nhận của NHTM phát
hành để huy động vốn, trong đó xác định nghĩa vụ trả một khoản tiền trong một thời
gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa NHTM và người
mua. Các giấy tờ có giá là công cụ Nợ.
Các giấy tờ có giá do NHTM phát hành thể hiện dưới hình thức chứng chỉ hoặc
ghi sổ, có thể ghi danh hoặc không ghi danh. Hình thức chứng chỉ ghi danh áp dụng
đối với người mua là cá nhân. Hình thức chứng chỉ vô danh áp dụng đối với người
mua là cá nhân, tổ chức. Hình thức ghi sổ áp dụng với người mua là tổ chức có tài
khoản tiền gửi tại NHTM phát hành giấy tờ có giá đó. Trường họp phát hành giấy tờ
có giá bằng hình thức ghi sổ, NHTM phát hành phải cấp giấy chuwgns nhận quyền sở

hữu giấy tờ có giá cho người mua. Các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành
được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới hình thức mua bán, tặng cho, trao đổi hoặc
thừa kế, hoặc người sở hữu giấy tờ có giá cũng có thể làm vật thế chấp.
* Huy động vốn ngắn hạn: Để huy động vốn ngắn hạn các tổ chức tín dụng có
thể phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời
hạn dưới 12 tháng, bao gồm: kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các
giấy tờ ngắn hạn khác.
Kì phiếu ngân hàng là giấy nợ ngắn hạn mà ngân hàng thương mại phát hành để
huy động vốn ngắn hạn. Loại công cụ này có khả năng tạo cho ngân hàng một nguồn
vốn ổn định trong một thời gian ngắn. Kì phiếu ngan hàng là loại giấy tờ có giá có tính
thanh khoản cao, chủ thể sở hữu nó dễ dàng chuyển đổi nó thành tiền mặt thông qua
các giao dịch trên thị trường tiền tệ. Loại giấy tờ có giá này có tính rủi ro thấp, lãi suất
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
17
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
thấp nên đây thường là lựa chọn đầu tư mang tính bền vững. Có thể nói, đây là một
công cụ tương đối chủ động và linh hoạt của NHTM và phương thức phát hành cso thể
nói là không quá phức tạp.
* Huy động vốn trung hạn: Muốn huy động vốn trung và dài hạn ( 3, 5 hay 10
năm). NHTM phát hành giấy tờ có giá theo ba hình thức là phát hành giấy tờ có giá
ngang giá, phát hành giấy tờ có giá chiết khấy và phát hành giấy tờ có giá phụ trội. Về
trả lãi phát hành giấy tờ có giá thường áp dụng ba hình thức là trả lãi trước, trả lãi sau
và trả lãi định kì.
Đặc điểm của nguồn vốn này là lãi suất rất cao nhưng tính chất ổn định
cũng khá cao, muốn rút vốn chỉ có thể bán lại nó trên thị trường thông qua nghiệp
vụ chiết khấu.
Trái phiếu ngân hàng: là một công cụ vay nợ trung và dài hạn trên thị trường
vốn dưới hình thức phát hành giấy nợ của các NHTM, phát hành để huy động vốn
trong đó cam kết trả lãi và gốc cho người mua ( hoặc người sở hữu) sau một thời gian
nhất định. Về phía người mua, trái phiếu ngân hàng là giấy chứng nhận việc đầu tư

vốn và quyền được hưởng thu nhập của người mua trên số tiền mua trái phiếu.
Trái phiếu ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức
mua, bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu trái phiếu có thể dùng trái phiếu thế chấp
tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận và được thừa kế theo luật thừa kế. Trái
phiếu ngân hàng có thể phát hành dưới hai hình thức: trái phiếu có ghi tên hoặc trái
phiêu không ghi tên. Thời hạn của trái phiếu ngân hàng là từ một năm trở lên, thời hạn
cụ thể do các tổ chức tín dụng quyết định tùy theo phương án sử dụng vốn huy động từ
trái phiếu.
Nguồn vốn huy động từ trái phiếu ngân hàng là nguồn vốn trung và dài hạn của
các tổ chức tín dụng, chủ yếu để đầu tư theo các dự án. Các NHTM không phải thực
hiện dự trũ bắt buộc trên số vốn huy động từ trái phiếu ngân hàng. NHTM có thể vừa
trực tiếp phát hành, vừa có thể tổ chức thực hiện các dịch vụ cất trữ, mở tài khoản,
thanh toán môi giới mua bán và mua bán trái phiếu.
Lãi suất trái phiếu do các NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị
trường, sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn dài hạn, người
vay có thể chấp nhận được. NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Thông t thường,
các NHTM có ba phương thức là trả lãi trước ( giá bán thấp hơn mệnh giá, khi đến hạn
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
18
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
người mua lĩnh số tiền theo mệnh giá và hưởng lãi số tiền chênh lệch giữa mệnh giá và
giá mua ), trả lãi sau ( giá bán bằng mệnh giá, khi đến hạn người mua lĩnh số tiền theo
mệnh giá và được hưởng lãi số tiền chênh lệch giữa mệnh giá và giá mua ) và trả lãi
từng kì căn cứ vào mức lãi ghi trên các phiếu lĩnh lãi kèm theo trái phiếu.
1.2.2.4 Huy động vốn bằng đi vay các tổ chức tín dụng
* Vay của Ngân hàng trung ương: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu
cấp bách trong chi trả của các NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM
thường vay ngân hàng nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước
là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ). Thông thường, ngân hàng Nhà nước chỉ chiết
khấu cho những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ

cao ) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều
kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng Nhà nước cho NHTM vay dưới hình thức tái
cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định.
* Vay từ các NHTM và các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng
vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng.
Các ngân hàng đang có lượng dự trữ vượt yêu cầu có thể sẵn lòng cho các ngân hàng
khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ
có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay các ngân
hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp để
bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước.
Quan hệ vay vốn này được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng. Đối tượng
vay và cho vay thường là các tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp. Cũng như các hợp
đồng vay vốn thông thường khác, về nguyên tắc, khi thực hiện cho vay, đi vay các bên
phải đảm bảo nguyên tắc: bên vay phải hoàn trả nợ gốc, lãi tiền vay và các loại phí (nếu
có) đúng hạn cho bên vay. Việc cho vay, đi vay cũng phải tuân thủ đúng các quy định
của pháp luật và các thông lệ quốc tế tương ứng. Về thời hạn vay, các bên có thể thỏa
thuận, tuy nhiên, đây thường là các khoản vay ngắn hạn (chẳng hạn vay qua đêm). Về
biện pháp bảo đảm, các bên thỏa thuận áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp bảo đảm
trong từng trường hợp cụ thể. Hình thức bảo đảm tiền vay có thể là bảo đảm bằng tài sản
hoặc bảo lãnh của các tổ chức tín dụng khác, tuy nhiên, một biện pháp bảo đảm tiền vay
khá thông dụng là bảo lãnh của ngân hàng trung ương. Về phương thức cho vay, các bên
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
19
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
có thể áp dụng phương thức cho vay từng lần, theo hạn mức tín dụng hoặc các phương
thức khác phù hợp với quy định của pháp luật.
Các ngân hàng phải tổng hợp, báo cáo, Ngân hàng nhà nước tình hình cho vay
và đi vay với các tổ chức tín dụng khác theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Ngoài
ra, khi một ngân hàng thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật quy định thì có thể vay vốn
của các tổ chức tín dụng nước ngoài

* Vay trên thị trường vốn: Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ
động trên thị trường tài chính. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng về vốn, do
vậy việc ngân hàng thiếu vốn là điều không thể tránh được. Trong những trường hợp
này, ngân hàng có thể sử dụng các nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính:
phát hành các giấy tờ có giá như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Việc
chuyển nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ thuộc vào
thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng.
Ngoài các nguồn trên, ngân hàng còn thực hiện huy động vốn thông qua ủy
thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM
1.3.1 Nhân tố môi trường
1.3.1.1 Môi trường pháp luật và chính sách của Nhà nước
Lĩnh vực hoạt động của ngân hàng là vô cùng quan trọng trong nền kinh tế, vì
vậy các hoạt động của ngân hàng luôn được Nhà nước quản lý chặt chẽ bằng các văn
bản pháp luật. Các quy định của pháp luật đòi hỏi các NHTM luôn phải tuân thủ. Pháp
luật quy định số tiền huy động của ngân hàng không được lớn hơn 20 lần vốn chủ sở
hữu. Hay thông qua tỉ lệ dự trữ bắt buộc chính phủ điều chỉnh việc cung ứng tiền cho
nền kinh tế. Việc điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc hay lãi suất tái chiết khấu là tùy theo
định hướng phát triển của từng thời kì. Các chính sách đầu tư, ưu đãi, ưu tiên phát
triển mũi nhọn… cũng ảnh hưởng sâu sắc tới việc huy động vốn của NHTM.
Chính phủ đề ra chính sách tiền tệ quốc gia và hệ thống ngân hàng là công cụ
đắc lực để thực hiện. Ví dụ như khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách
thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó
NHTM huy động vốn sẽ dễ dàng hơn. Hoặc khi Nhà nước có chính sách khuyến khích
đầu tư, mở rộng sản suất thì ngân hàng khó huy động hơn vì người có tiền nhà rỗi họ
sẽ dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh có lợi hơn gửi ngân hàng.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
20
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
1.3.1.2 Môi trường kinh tế - chính trị - xã hội trong và ngoài nước

Có thể nói đây là yếu tố khách quan đối với tất cả các ngành nghề kinh tế,
không riêng gì ngân hàng. Sự ổn định chính trị trong và ngoài nước có tác động rất rõ.
Các cuộc bãi công, biểu tình, sụp đổ chính phủ luôn kéo theo tình trạng huy động vốn
của ngân hàng bị trì trệ bởi người dân không còn tin tưởng. Ngược lại, sự ổn định
trong bộ máy lãnh đạo sẽ làm cho các NHTM huy động vốn được dễ dàng. Như
Achentina năm 2012, sau khi có những vấn đề về chính trị, người dân kéo đến ngân
hàng rút tiền ồ ạt làm cho cả hệ thống ngân hàng chao đảo. Và cuộc chiến Irac vừa rồi
cũng là ảnh hưởng đến nền kinh tế thể giới trong đó có sự khó khăn về huy động vốn
của NHTM.
Nền kinh tế ở vào trạng thái tăng trưởng hay suy thoái đã tác động tới việc huy
động vốn của ngân hàng. Ở tình trạng tăng trưởng, người dân cần nhiều vốn để đầu tư
mở rộng quy mô, trang thiết bị. các ngân hàng phải huy động nhiều vốn và càng có
điều kiện để huy động vốn do tích lũy được nhiều hơn. Ngược lại ở tình trạng suy
thoái, sản xuất đình trệ, đầu tư bị thu hẹp, ngân hàng huy động vốn khó khăn hơn.
1.3.1.3 Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền
Tập quán tiêu dùng của người dân có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc
huy động vốn của ngân hàng. Rõ ràng ở những vùng, người dân thường có thói quen
gửi tiền vào ngân hàng thì ngân hàng sẽ huy động được dễ dàng hơn nhiều ở những
vùng người dân thường hay cất trữ tiền trong nhà bằng vàng, bất động sản Đồng thời
ngay thói quen thanh toán khi mua hàng hoá cũng góp phần làm tăng hay giảm nguồn
vốn huy động của ngân hàng. Ở nhiều nước phát triển, việc thanh toán không dùng
tiền mặt là phổ biến, hầu như người dân nào cũng có tài khoản trong ngân hàng và
ngân hàng là cái gì đó không thể thiêú trong cuộc sống. Ngược lại, ở một số nước, thói
quen thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn ăn sâu thì nguồn vốn huy động của ngân hàng
sẽ gặp khó khăn. Do đó để mở rộng nguồn huy động, các ngân hàng phải nỗ lực hết
mình: cải cách quy trình, thủ tục, phát triển chính sách khách hàng
1.3.2 Các nhân tố NHTM về huy động vốn
1.3.2.1 Chiến lược kinh doanh của NHTM
Chiến lược kinh doanh có thể nói là đường lối, phương hướng hoạt động cho
một ngân hàng. Mỗi ngân hàng có một chiến lược kinh doanh khác nhau. Điều này

phụ thuộc vào từng điểm mạnh, điểm yếu, khả năng cũng như hạn chế của ngân hàng.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
21
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
Chiến lược kinh doanh xác định quy mô huy động cóthể mở rộng hay thu hẹp, cơ cấu
vốn có thể thay đổi về tỷ lệ các loại nguồn,chi phí hoạt động có thể tăng hay giảm .
Chiến lược kinh doanh có liên quan đến huy động vốn bao gồm: Chính sách về
giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và phí dịch vụ. Với việc lãi suất huy động tăng
thì sẽ dẫn đến nguồn vốn vào ngân hàng tăng, rất lớn. Nhưng đồng thời thì hiệu quả
của việc huy động vốn có thể giảm do chi phí huy động tăng. Do đó số lượng nguồn
vốn huy động được sẽ phụ thuộc chủ yếu vào chiến lược kinh doanh hay đúng hơn là
phụ thuộc vào chính bản thân ngân hàng.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
22
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
1.3.2.2 Uy tín của NHTM
Uy tín của NHTM là hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng, là niềm tin
của khách hàng đối với ngân hàng. Uy tín của mỗi ngân hàng được xây dựng,hình
thành trong cả một quá trình lâu dài. Người gửi tiền khi gửi thường lựa chọn những
ngân hàng lâu đời chứ không phải là những ngân hàng mới thành lập. Ngân hàng lớn
thường được ưu tiên lựa chọn so với các ngân hàng nhỏ.Hình thức bảo hiểm tiền gửi
làm tăng độ an toàn, tăng uy tín của ngân hàng.Một điều quan trọng ở nước ta là hình
thức sở hữu cũng có ảnh hưởng quan trọng tới huy động vốn. Các ngân hàng quốc
doanh bao giờ cũng có độ an toàn cao hơn cho người gửi tiền, uy tín của các ngân
hàng thương mại quốc doanh cao hơn so với các ngân hàng khác. Những ngân hàng có
uy tín luôn chiếm được lòng tin của khách hàng là tiền đề cho việc họ huy động được
những nguồn vốn lớn hơn với chi phí rẻ hơn và tiết kiệm được thời gian.
1.3.2.3 Các dịch vụ, chính sách phục vụ và quảng cáo do NHTM cung ứng
Một ngân hàng có dịch vụ tốt sẽ có lợi thế hơn các ngân hàng khác. Trong điều
kiện kinh tế thị trường, các ngân hàng phải nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng

hóa các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tăng thu nhập cho ngân hàng.
Cạnh tranh về các dịch vụ ngân hàng không có giới hạn, do vậy đây chính là điểm
mạnh để các ngân hàng vươn lên trong cạnh tranh.
Ngoài ra, chiến lược phục vụ và quảng cáo cũng là yếu tố quan trọng để thu hút
khách hàng. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo là điều kiện để thu hút khách hàng,
chiến lược quảng cáo phù hợp giúp ngân hàng có nhiều khách hàng mới. Do đó để có
uy tín trên thị trường, giữ vững mối quan hệ với khách hàng truyền thống và thu hút
thêm nhiều khách hàng mới, ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng phục
vụ, có chiến lược quảng cáo phù hợp để nhiều người biết đến ngân hàng và sản phẩm
dịch vụ do ngân hàng cung ứng.
1.3.2.4 Trình độ công nghệ của NHTM
Có thể nói công nghệ ngân hàng hiện đại khác xa so với trước đây.Việc áp dụng
máy tính là một cuộc cách mạng trong hoạt động của ngân hàng. Nhờ có hệ thống tin
học hiện đại, ngân hàng có thể thu thập thông tin về khách hàng, về thị trường tốt. Từ
đó, có thể hoạch định ra các hình thức huy động, thời gian huy động, hình thức trả
lãi Mặt khác, nhờ hệ thống thông tin tốt khiến cho ngân hàng có thể nâng cao hiệu
quả huy động vốn.Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng trở nên
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
23
Đề án môn học GVHD: TS. Nguyễn Thị Hoài Phương
phổ biến, đó là một xu thế tất yếu. Việc thanh toán không dùng tiền mặt sẽ khiến cho
các ngân hàng ngày càng gắn liền với các hoạt động xã hội. Ngoài ra mạng lưới phục
vụ cho việc huy động vốn cũng tác động tới việc huy động vốn của ngân hàng. Mạng
lưới huy động rộng rãi, tạo điều kiện cho người gửi tiền. Mạng lưới hẹp thì sẽ gây khó
khăn cho khách hàng có tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng, chi phí giao dịch lớn, mất
nhiều thời gian.
1.3.3 Nhân tố con người
Các cán bộ nhân viên ngân hàng có năng lực sẽ phán đoán, xử lý chính xác các
tình huống sẽ làm cho các hoạt động huy động vốn được thực hiện một cách tốt đẹp.
Trình độ của cán bộ ngân hàng cao sẽ làm cho các thao tác nghiệp vụ được thực hiện

nhanh chóng và hiệu quả. Thái độ trong tiếp xúc của nhân viên với khách hàng cũng
rất quan trọng. Nó có thể lôi kéo khách hàng làm tăng nguồn vốn huy động đồng thời
cũng có thể làm khách hàng rơì bỏ gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trong
hoạt động của ngân hàng, trước hết là trong khâu huy động vốn. Các nhân viên ngân
hàng là những người mang hình ảnh chocả ngân hàng. Do đó, để tăng cường huy động
vốn thì một điều cực kỳ quan trọng là các nhân viên ngân hàng phải có đủ những tiêu
chí của một nhânviên ngân hàng chuyên nghiệp: hiểu biết khách hàng, hiểu biết nghiệp
vụ, hiểu biết quy trình, hoàn thiện phong cách phục vụ.
SV: Lê Thị Thúy Quỳnh Lớp: Thị trường chứng khoán 52
24

×