Nguyễn Quốc Huy – Lớp NH 15B -VB2 - Đề án Lý thuyết tài chính tiền
tệ
LỜI NÓI ĐẦU
Bất kỳ một nước nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần một
điều kiện không thể thiếu được đó là phải tạo vốn cho nền kinh tế. Việt
Nam cũng nằm trong qui luật đó, hay nói cách khác Việt Nam muốn thực
hiện được các mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là phải có
vốn. Nguồn vốn đó có thể là vốn trong nước hay vốn nước ngoài. Tiết kiệm
để tạo vốn là vấn đề bức bách có tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế
xã hội của nước ta.
Thể hiện mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của nước ta bước sang thế kỉ 21 là ổn định và phát triển kinh tế xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân thoát khỏi tình trạng nước nghèo nàn và kém phát
triển, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn.
Vì thế phải huy động nhiều nguồn vốn, xét về mặt chiến lược thì nguồn vốn
trong nước là chủ yếu, vững chắc, quyết định và nguồn vốn từ bên ngoài là
quan trọng.
Nếu xét ở góc độ của Ngân hàng thương mại thì nguồn vốn là cơ sở
để tổ chức hoạt động kinh doanh quyết định đến quy mô của hoạt động
Ngân hàng nói chung và quy mô các hoạt động tín dụng nói riêng, nguồn
vốn dồi dào là cơ sở tạo uy tín đảm bảo khả năng cạnh tranh của Ngân hàng
thương mại . Về phía Ngân hàng muốn giải quyết tốt vấn đề huy động vốn
trong dân cư cần phải tìm ra những giải pháp tốt nhất, công cụ lãi suất và
các hình thức huy động vốn. Vì vậy nguồn vốn là sự cần thiết không thể
thiếu được của Ngân hàng thương mại.
Xuất phát từ thực tiễn của Ngân hàng Việt Nam, trước yêu cầu của
đời sống kinh tế xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt trong nước và
trên thị trường quốc tế nên yêu cầu cấp thiết Ngân hàng thương mại phải
xây dựng chiến lược “Huy động vốn” cho những năm mới của thế kỷ XXI.
Qua quá trình nghiên cứu, trên cơ sở lý luận qua các tài liệu; tạp chí
Ngân hàng, tài liệu môn lý thuyết tiền tệ Ngân hàng và kiến thức học tập từ
cô giáo bộ môn, em mạnh dạn nêu ra vấn đề “Huy động vốn của các Ngân
hàng thương mại Việt Nam trong những năm gần đây”.
Trong quá trình viết, do trình độ nhận thức và hiểu biết có hạn nên
bài viết này còn có nhiều những thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được
sự giúp đỡ của cô giáo để bài viết này được hoàn thiện hơn.
2
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, VAI TRÒ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại:
Nghề kinh doanh tiền tệ tiền thân của Ngân Hàng ra đời găn liền với
thương mại, khi có sự giao lưu hàng hoá giữa các vùng, các quốc gia với
các loại tiền tệ khác nhau gây trở ngại cho việc mua bán thanh toán và đặc
biệt phức tạp trong việc chuyển đổi bảo quản tiền tệ.Vì thế thúc đẩy sự ra
đời của những tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ, để đảm nhận những tổ
chức kinh doanh la thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ giữa các vùng các
nước để phục vụ công việc giao lưu hàng hoá. Đổi các loại tiền tệ khác
nhau ra vàng bạc và ngược lại, theo yêu cầu của sự phát triển các quan hệ
tiền tệ hàng hoá. Nghiệp vụ đổi tiền tệ đã kéo theo các nghiệp vụ khác mà
trước hết là nhận tiền gửi, nhận bảo quản vàng bạcđã tạo ra những chuyển
biến về chất trong hoạt động của các tổ chức kinh doanh tiền tệ.Việc nhận
tiền gửi và bảo quản vàng bặc ngày càng phát triển,tạo điều kiện cho các tổ
chức kinh doanh tiền tệ phát hàng những chứng phiếu (giấy nhận nợ) là
phương tiện thanh toán thay cho tiền. Lúc đầu các giấy nhận nợ chỉ là
những biên lai xác định quyền sở hữu số tiền vàng đó, tiến tới phát hành
các loại chứng phiếu đảm bảo cho khách hàng có thể sử dụng nó trong việc
mua bán, thanh toán thay cho việc rút tiền vàng. Nghiệp vụ nhận tiền gửi
phát triển cùng với việc sử dụng rộng rãI các chứng phiếu thanh toán thay
cho tiền mặt đã tạo nên nguồn dự trữ đã được sử dụng để cho vay sinh lời.
Đây là một sự kiện quan trọng trong việc chuyển các tổ chức hoạt động
3
dịch vụ tiền tệ một cách thuần tuý thành các tổ chức Ngân hàng chuyên
kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng.
Ngân hàng được hình thành phát triển qua một quá trình lâu dài với
nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong thời kỳ đầu, vào khoảng thế
kỷ 15 đến thế kỷ 18, các Ngân hàng còn hoạt động độc lập với nhau và
thực hiện các chức năng như nhau, đó là làm trung gian tín dụng, trung
gian thanh toán trong nền kinh tế và phát hành giấy bạc Ngân hàng. Sang
thế kỷ 18, lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển, việc các
Ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc Ngân hàng làm
cho lưu thông có nhiều loại giấy bạc Ngân hàng khác nhau đã gây cản trở
cho quá trình lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều đó đã
dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống Ngân hàng và Ngân hàng thương mại
cũng ra đời từ đó.
Thời kỳ đầu, các Ngân hàng thương mại thực hiện tất cả các hoạt
động của nó như nhận tiền gửi và làm dịch vụ thanh toán. Ban đầu chủ yếu
là nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn và cho vay ngắn hạn, về sau, các
Ngân hàng thương mại thực hiện cả cho vay trung - dài hạn bằng nguồn
vốn trung hạn, dài hạn do huy động tiền gửi trung hạn, dài hạn và phát
hành trái khoán.
Cho đến cuối những năm 1960, đặc điểm đặc thù để phân biệt một
Ngân hàng thương mại với một Ngân hàng trung gian khác là ở chỗ Ngân
hàng thương mại là một đơn vị duy nhất được phép mở tài khoản tiền gửi
không kỳ hạn cho công chúng. Ngân hàng thương mại có thể tồn tại dưới
nhiều dạng sở hữu khác nhau. Ngân hàng thương mại có thể được thành lập
bằng 100% vốn của tư nhân, 100% vốn của Nhà nước hoặc là sự hùn vốn
giữa tư nhân với Nhà nước hoặc với người nước ngoài. Ngân hàng thương
mại gắn liền với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, qua đó
khẳng định hoạt động kinh doanh của Ngân hàng bắt đầu tư tín dụng, Ngân
4
hàng thương mại đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng và trở
thành trung gian tài chính lớn nhất.
2. Vai trò của Ngân hàng thương mại:
Với tư cách là một doanh nghiệp, để hoạt động kinh doanh tốt thì
phải có vốn, để có vốn hoạt động thì Ngân hàng thương mại phải tìm cách
để huy động được một số vốn lớn từ các chủ thể kinh tế có vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế để bù lại Ngân hàng thương mại phải trả lại cả vốn và lãi
cho chủ sở hữu khi đến hạn. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng thương
mại phải đảm bảo trả đúng hạn vốn huy động hoặc đáp ứng phương thức
thanh toán của khách hàng với một món lợi tức hợp lý kèm theo. Còn với
tư cách người cho vay thì Ngân hàng thương mại sử dụng vốn đi thuê để
cho thuê lại, tức là tạm thời bán quyền sử dụng vốn cho người khác và
Ngân hàng thương mại cũng luôn mong muốn khách hàng của mình sử
dụng vốn này có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ vốn và lãi đúng kỳ hạn theo
quy định đã cam kết. Qua đó Ngân hàng thương mại là một trong những
trung gian tài chính lớn nhất, một trong những trung tâm thanh toán của
nền kinh tế. Vai trò của Ngân hàng thương mại còn góp phần giảm chi phí
lưu thông, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, góp phần mở rộng quan
hệ giao lưu kinh tế.
II. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, nó hoạt
động trên cơ sở huy động vốn và đầu tư vốn. Ngân hàng thương mại đi vay
để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Việc Ngân hàng thương mại đi vay để cho vay cũng nhằm mục đích trọng
yếu nhất là tìm kiếm lợi nhuận. Đã là một doanh nghiệp hoạt động trên thị
trường tài chính, quá trình hoạt động nghiệp vụ tín dụng, thanh toán và các
5
nghiệp vụ kinh doanh khác và dùng làm nguồn vốn để kinh doanh. Bản
chất của nguồn vốn huy động là tài sản của các chủ sở hữu khác, không
thuộc quyền sở hữu của Ngân hàng nhưng Ngân hàng có quyền sử dụng
trong thời gian hoạt động và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi. Ngân
hàng thương mại xây dựng chiến lược huy động vốn bằng nhiều hình thức:
1. Nhận tiền gửi:
Đây là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn
huy động nói riêng và trong nguồn vốn kinh doanh của các Ngân hàng
thương mại nói chung. Các Ngân hàng thương mại huy động tiền gửi của
các tổ chức kinh tế, cơ quan, dân cư dưới nhiều hình thức khác nhau.
Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn) là loại tiền được thể hiện
trên các tài khoản tiền gửi của khách hàng để thực hiện chi trả về mua hàng
hoá và thực hiện các dịch vụ khác trong hoạt động kinh doanh của mình.
Ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản tiền gửi thanh toán séc hay
tài khoản vãng lai để quản lý tài sản của khách hàng.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý là khoản tạm thời nhàn rỗi ở khách
hàng. Họ gửi vào Ngân hàng không mang tính chất của tài khoản tiền gửi
thanh toán, chỉ nhằm mục đích an toàn tài sản cho khách hàng hoạt động vì
mục đích lợi nhuận nên để có lợi nhuận Ngân hàng thương mại phải kinh
doanh và phải kinh doanh có hiệu quả. Hành vi đi vay để cho vay thực chất
là đi mua quyền sử dụng vốn để bán lại quyền sử dụng vốn đó cho một chủ
thể thiếu vốn khác trong nền kinh tế.
Trước hết để có vốn hoạt động thì Ngân hàng thương mại phải huy
động vốn bằng cách nhận tiền gửi: Tiền gửi có thể phát hành séc, tiền gửi
tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn. Sau đó họ cho vay thế chấp và để
mua các trái khoán Chính phủ, trái khoán của chính quyền địa phương.
Huy động vốn và đầu tư vốn là có quan hệ không thể tách rời, để có nguồn
vốn lớn thì các Ngân hàng thương mại phải tìm nhiều biện pháp hữu hiệu
6
thu nạp một cách nhanh chóng. Sau đó dùng số vốn đó cho vay mà chủ yếu
là cho vay ngắn hạn, đầu tư vốn có hiệu quả hay không sẽ quyết định sự tồn
tại và phát triển của Ngân hàng thương mại.
1.1. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm :
Nguồn vốn huy động, nguồn vốn đi vay, nguồn vốn tự dó. Ngoài ra
còn có các nguồn vốn được hình thành trong quá trình hoạt động. Trong đó
mỗi nguồn vốn đều có một tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn
hoạt động của Ngân hàng thương mại.
a. Nguồn vốn huy động:
Nguồn vốn huy động là những phương tiện tiền tệ mà Ngân hàng
huy động được thông qua các hình thức :
- Phát hành kỳ phiếu.
- Phát hành trái phiếu.
- Các chứng chỉ tiền gửi có kỳ hạn.
Các hình thức trên, các Ngân hàng thương mại phải trả lãi suất cao
hơn so với lãi suất tiền gửi. Nguồn vốn này chỉ phát sinh khi Ngân hàng
thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Qua đó ta thấy
nguồn vốn huy động là công cụ chính, là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong tổng nguồn vốn kinh doanh và giữ vị trí quan trọng trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Số vốn mà các Ngân hàng
thương mại huy động là tài sản của các chủ sở hữu Ngân hàng được quyền
sử dụng nhưng phải có trách nhiệm hoàn trả cho họ đúng thời hạn cả vốn
và lãi. Các Ngân hàng thương mại chỉ được sử dụng nguồn vốn này vào các
nghiệp vụ tín dụng như cho vay, đầu tư, chiết khấu... mà không được sử
dụng để hùn vốn liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản cố định cho Ngân
hàng cũng như các mục đích khác ngoài kinh doanh.
7
b. Nguồn vốn đi vay:
Vốn đi vay là vốn được hình thành qua việc vay vốn trên thị trường
và vay của Ngân hàng Trung ương. Trong tổng số vốn hoạt động của Ngân
hàng có một bộ phận vốn bổ sung chiếm tỷ trọng đáng kể đó là vốn đi vay.
Các Ngân hàng thương mại đi vay vốn để bổ sung vào nguồn vốn hoạt
động của mình khi đã sử dụng hết vốn tự có, vốn huy động tiền gửi, vốn
huy động khác mà vẫn không có đủ để hoạt động và khi cần sử dụng họ rút
tiền ra để chi tiêu.
Tiền gửi có kỳ hạn: Là tiền gửi của các doanh nghiệp, các đơn vị
kinh doanh, nó được chia làm nhiều kỳ hạn khác nhau: ngắn hạn, dài hạn
và trung hạn, nhưng hiện nay chủ yếu là kỳ hạn ngắn. Tuy vậy do tính chất
tương đối ổn định của nó nên tiền gửi có kỳ hạn thực sự là nguồn vốn quan
trọng đối với Ngân hàng thương mại. Nếu lãi suất hấp dẫn, tiền gửi có kỳ
hạn sẽ có xu hướng phát triển, song nếu lãi suất không hấp dẫn hoặc bị lãi
suất của tín phiếu kho bạc, trong đó có trung hạn sẽ dẫn đến bị biến động
đột ngột làm đảo lộn nguồn vốn của Ngân hàng thương mại và gây khó
khăn không nhỏ cho công tác chi trả của Ngân hàng.
Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền để dành của một cá nhân hay một
gia đình gửi vào Ngân hàng nhằm hưởng lãi suất theo định kỳ. Nguồn vốn
huy động này chủ yếu là tiền gửi của những người tiêu dùng. Các Ngân
hàng thương mại thực hiện huy động tiền gửi tiết kiệm dưới nhiều hình
thức, thời hạn khác nhau:
- Tiền gửi tài khoản không kỳ hạn.
- Tiền gửi tài khoản có kỳ hạn.
2. Nguồn vốn huy động khác:
Khi nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động ở các khoản tiền gửi
trên không đủ để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn của mình, các Ngân
8
hàng thương mại được phép huy động vốn của Ngân hàng, đòi hỏi các
Ngân hàng thương mại phải tạo ra một quỹ dự trữ cần thiết.
Bên cạnh việc mở rộng nguồn vốn thì các Ngân hàng thương mại
phải đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh của mình để tránh
được những rủi ro và tổn thất trong việc đầu tư vốn của Ngân hàng thương
mại, rủi ro lãi suất khi có sự chênh lệch về thời hạn giữa nguồn vốn và sử
dụng vốn, sự không cân xứng về tài sản có và tài sản nợ xảy ra trong quá
trình hoạt động.
Nói cách khác, khi tạm thời thiếu vốn khả dụng thì Ngân hàng
thương mại có thể đi vay của các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước,
vay của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài. Nếu vẫn không đáp ứng đủ
trong các trường hợp trên thì Ngân hàng thương mại sẽ đi vay của Ngân
hàng Trung ương. Ngân hàng trung ương đóng vai trò là người đi cho vay
cuối cùng phù hợp với chính sách tiền tệ tại thời điểm đó.
3. Các nguồn vốn khác:
Ngoài các nguồn vốn kể trên, các Ngân hàng thương mại còn có một
số vốn khác có thể sử dụng để cho vay. Đó là nguồn vốn hình thành trong
quá trình thanh toán của Ngân hàng, giao dịch trong thanh toán chênh lệch
giữa thời gian từ lúc nhận vốn thanh toán đến khi thanh toán thì Ngân hàng
thương mại tận dụng được một khoản vốn rồi sử dụng trong kinh doanh.
Quản lý tốt nguồn vốn này sẽ tạo được nguồn vốn để cho vay ngắn hạn mà
không phải trả lãi suất.
4. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại luôn đóng vai trò làm trung gian tài chính đó
là thu nhận tiền gửi tạo nguồn vốn. Nguồn vốn trong Ngân hàng thương
mại không những là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng
kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng thương mại. Do vậy nguồn vốn của
Ngân hàng thương mại có vai trò quyết định khả năng thanh toán và chi trả
9