Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Dịch vụ hải quan Việt Nam thực trạng và giải pháp phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.54 KB, 95 trang )

Đề án kinh tế thương mại
MỤC LỤC
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
Đề án kinh tế thương mại
LỜI MỞ ĐẦU
Hải quan Việt Nam đã được thành lập từ ngày 10/9/1945 trải qua 65
năm xây dựng và trưởng thành Hải quan đã hoàn thành được các nhiệm vụ
chính trị được Đảng và nhà nước giao cho là: kiểm tra giám sát hàng hóa,
phương tiện vận tải, phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới, tổ chức thực hiện pháp lệnh về thuế đối với hàng hóa xuất nhập
khẩu, xuất nhập cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong giai đoạn hiện nay khi mà nền kinh tế trong nước đang đẩy
mạnh hội nhập với kinh tế thế giới, đẩy mạnh phát triển thương mại quốc tế
thì ngành hải quan càng có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế của quốc gia. Đặc biệt là dịch vụ hải quan của Việt Nam. Chất lượng dịch
vụ hải quan sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu hay làm thủ tục xuất nhập cảnh. Dịch vụ hải quan thông thoáng
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nâng
cao được hình ảnh doanh nghiệp trên thị trường cũng như đạt được kết quả
kinh doanh tốt. Trước yêu cầu phát triển dịch vụ hải quan ngày càng hiện đại,
thông thoáng, tính chuyên nghiệp cao như hiện nay để góp phần thực hiện
các chính sách phát triển kinh tế xã hội, em đã chọn nghiên cứu đề tài ‘‘Dịch
vụ hải quan Việt Nam thực trạng và giải pháp phát triển’’ dưới sự hướng dẫn
tận tình của GS.TS Đặng Đình Đào. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp em
trang bị them kiến thức về lĩnh vực hải quan, các vụ hải quan, quá tình phát
triển dịch vụ cũng như thực trạng phát triển dịch vụ hải quan từ đó có thể đưa
ra được những giải pháp phát triển dịch vụ hải quan trong tương lai để phù
hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế xã hội.
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
1
Đề án kinh tế thương mại


Nội dung của đề án gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hải quan và các dịch vụ hải quan.
Chương II: Thực trạng dịch vụ hải quan hiện nay
Chương III: Giải pháp phát triển dịch vụ hải quan tạo thuận lợi cho
các hoạt động logistic phát triển.
Do trình độ và điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên bản đề án không
khỏi thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý giúp đỡ của GS.TS Đặng Đình
Đào để bài đề án được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
2
Đề án kinh tế thương mại
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HẢI QUAN VÀ
CÁC DỊCH VỤ HẢI QUAN
1.Hải quan và quá trình phát triển các dịch vụ hải quan
1.1 Hải quan trên thế giới
1.1.1.Sự ra đời của Hải quan
Trên thế giới, Hải quan có lịch sử rất lâu đời, từ khi có buôn bán trao
đổi hàng hoá giữa các khu vực địa lí khác nhau, các quốc gia đã có hoạt động
Hải quan và cơ quan Hải quan. Những hoạt động Hải quan được ghi lại trong
các di tích lịch sử ở Ai Cập cổ đại (thế kỉ 17 - 16 tCn.). Trong thời kì Hi Lạp
và La Mã cổ đại, cũng như trong thời kì phong kiến, hải quan luôn giữ vai trò
quan trọng để thu tiền cho ngân sách nhà nước. Lúc đầu, hoạt động của Hải
quan thuần tuý mang tính chất tài chính. Đến khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản,
bên cạnh chức năng truyền thống đó, Hải quan đã có thêm chức năng mới,
trong đó quan trọng nhất là chức năng bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ lợi
ích của tư bản dân tộc. Trong quá trình phát triển kinh tế và liên kết kinh tế
giữa các nước Châu Âu, hình thức liên minh thuế quan đã ra đời. Các liên
minh thuế quan này đóng vai trò quan trọng trong việc thống nhất các thành

bang thành một quốc gia thống nhất như Liên minh Thuế quan Đức thời kì
1841 - 1888. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thương mại quốc
tế, các quốc gia trên thế giới đã tìm cách hợp tác với nhau trong lĩnh vực Hải
quan nhằm tiêu chuẩn hoá, đơn giản hoá và thống nhất hoá các thủ tục, luật lệ
Hải quan, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, đồng thời đạt hiệu quả cao
hơn trong hoạt động điều tra chống buôn lậu. Từ yêu cầu thực tế đó, năm
1950, Hội đồng Hợp tác Hải quan (nay là Tổ chức Hải quan Thế giới) ra đời.
Ngày nay, trên thế giới đang tồn tại nhiều tổ chức kinh tế mà thực chất là các
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
3
Đề án kinh tế thương mại
liên minh thuế quan do các nước lập ra để nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế
giữa các nước thành viên, đồng thời đối phó với sức cạnh tranh ngày càng
tăng trên thị trường quốc tế. Các khối kinh tế hay các liên minh thuế quan nổi
tiếng, nhất là Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC), Hiệp hội Mậu dịch Tự do
Châu Âu (EFTA) và các liên minh mới thành lập gần đây, nay mới chuyển
thành khối kinh tế như Khu vực Thị trường Tự do Bắc Đại Tây Dương
(NAFTA), Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Hiệp hội Mậu dịch Tự
do Châu Á (AFTA)
1.1.2.Tổ chức Hải quan thế giới(WCO)
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) là một tổ chức liên chính phủ, có trụ
sở tại Brussels, Bỉ. WCO được công nhận là đại diện cho tiếng nói của cộng
đồng hải quan toàn cầu.
Trong chức năng của mình, tổ chức này đặc biệt chú ý đến các lĩnh vực
bao gồm việc phát triển các công ước quốc tế, các công cụ quốc tế liên quan
đến các chủ đề như: phân loại hàng hoá, định giá, quy tắc xuất xứ, tạo thuận
lợi cho thương mại quốc tế, các hoạt động hải quan thực thi pháp luật, đấu
tranh chống hàng giả trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), tính toàn vẹn
xúc tiến, và phân phối xây dựng năng lực bền vững để hỗ trợ cải cách và hiện
đại hóa hải quan.

Hiện nay, WCO chịu trách nhiệm duy trì Hệ thống hài hoà quốc tế về
hàng hoá (HS), danh pháp và kỹ thuật quản lý của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), Hiệp định về Định giá Hải quan và quy tắc xuất xứ.
a/Lịch sử ra đời của tổ chức Hải quan thế giới
Vào năm 1947 đại diện của chính phủ 13 nước thuộc Ủy ban hợp tác
kinh tế Châu Âu đã đồng ý thành lập nhóm nghiên cứu để xem xét khả năng
thiết lập Liên minh hải quan Châu Âu trên cơ sở nguyên tắc hiệp định chung
về thuế quan và thương mại GATT.Năm 1948,nhóm này đã thành lập ủy ban
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
4
Đề án kinh tế thương mại
kinh tế và Ủy ban Hải quan.Ủy ban kinh tế là tiền thân của Tổ chức hợp tác
kinh tế và phát triển OECD,còn Uỷ ban Hải quan đã trở thành Hội đồng hợp
tác Hải quan(CCC) và phiên họp đầu tiên của Hội đồng tổ chức tại Bruc-
xen,Bỉ vào ngày 26/1/1953 với sự có mặt của đại diện của 17 chính phủ Châu
Âu.Từ năm 1983,ngày 26/1 đã trở thành” Ngày Hải quan thế giới”.Để đáp
ứng nhiệm vụ mới và sự phát triển của quá trình hợp tác,Hội đồng đã chính
thức đổi tên thành Tổ chức Hải quan thế giới vào năm 1994(gọi tắt là WCO)
với 171 cơ quan Hải quan thành viên có mặt ở hầu hết các lục địa,đóng vai
trò quan trọng trong quá trình phát triển 98% thương mại toàn cầu.
b/Vai trò của tổ chức Hải quan thế giới
Là một tổ chức liên chính phủ độc lập,Tổ chức Hải quan thế giới giữ
vai trò tăng cường tính hiệu quả và hiệu lực của các cơ quan Hải quan trên
thế giới.WCO là tổ chức quốc tế duy nhất có năng lực về các vấn đề hải quan
và là cơ quan ngôn luận của cộng đồng hải quan quốc tế.Để tạo ra một diễn
đàn trao đổi kinh nghiệm của các đoàn đại biểu Hải quan các nước,WCO xây
dựng nhiều cộng ước và công cụ quốc tế,cũng như cung cấp các trợ giúp kỹ
thuật và đào tạo cho các thành viên của nó.Bên cạnh vai trò thuận lợi cho
thương mai hợp tác,WCO được công đồng quốc tế thừa nhận về cố gắng đấu
tranh chống gian lận thương mại.

WCO giữ vai trò quan trọng là cầu nối giữa các co quan hải quan và
các đối tác nhằm tạo ra môi trường hải quan dễ phán đoán,minh bạch và dễ
tin cậy,tham gia trực tiếp vào sự phồn của kinh tế và xã hội của các nước
thành viên.
c/Nhiệm vụ của tổ chức Hải quan thế giới
Trong môi trường bất ổn và đe dọa của chủ nghĩa khủng bố nhiệm vụ
của WCO là tăng cường bảo vệ xã hội và lãnh thổ quốc gia,an ninh và thuận
lợi cho thương mại.Hoạt động của WCO là thu thuế hải quan,bảo vệ xã hội
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
5
Đề án kinh tế thương mại
và môi trường,thống kê thương mại,đảm bảo sự thuận lơi và tuân thủ thương
mại,bảo vệ các di sản văn hóa.
Trong bối cảnh thương mại đang phát triển nhanh chóng trên nền tảng
của áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin mới,WCO với chức
năng là đại diện cho cộng đồng hải quan thế giới đã tiến hành nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến việc hợp tác hải quan,kiểm tra các khía cạnh kỹ thuật
cũng như các yếu tố kinh tế có liên quan tới hệ thống hải quan để đề xuất
những phương hướng biện pháp thiết thực và những công cụ pháp lý mang
tính chất quốc tế có hiệu quả và hiệu lực nhằm đạt mức độ hài hòa thống nhất
tiêu chuẩn hóa cao nhất có thể được cho hoạt động nghiệp vụ hải quan các
nước thành viên.Vì vậy,WCO đã và đang theo đuổi thực hiện những vấn đề
sau đây:
1.Nghiên cứu mọi vấn đề có liên quan đến hợp tác hải quan mà các bên
ký kết thỏa thuận phát triển phù hợp với các mục tiêu chung của các công
ước,thỏa thuận quốc tế.
2.Kiểm tra mọi khía cạnh kỹ thuật của các chế độ hải quan cũng như
các nhân tố kinh tế liên quan đến chúng,nhằm đề xuất với các thành viên của
Hội đồng những phương tiện biện pháp hiệu quả và thực tiễn dễ đạt được
mức độ hài hòa và thống nhất cao nhất.

3.Soạn thảo các dự thảo công ước và điều khoản bổ sung công
ước,cũng như kiến nghị việc thông qua chúng cho các chính phủ hữu quan.
4.Ban hành các khuyến nghị nhằm đảm bảo việc giải thích và áp dụng
thống nhất các công ước đã ký kết do kết quả các công việc của Hội
đồng,cũng như đối với Công ước về hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng
hóa (Công ước HS) nhằm phân loại hàng hóa trong biểu thuế quan và Hiệp
định về xác định trị giá hải quan đối với hàng hóa.
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
6
Đề án kinh tế thương mại
5.Ban hành các khuyến nghị với cơ quan là một tổ chức hòa giải nhằm
giải quyết tranh chấp có thể nảy sinh trong việc giải thích và áp dụng các
công ước quốc tế có liên quan đến hoạt động hải quan.
6.Đảm bảo việc phổ biến các thông tin liên quan đến luật lệ và nghiệp
vụ hải quan
7.Cung cấp cho các Chính phủ hữu quan,mặc nhiên hoặc theo yêu cầu
của họ những thông tin hoặc ý kiến về các vấn đề hải quan trong khuôn khổ
các mục tiêu chung của Công ước và ban hành các khuyến cáo về lĩnh vực
này.
8.Đại diện cho cộng đồng hải quan quốc tế,hợp tác với các tổ chức liên
minh chính phủ về các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của hội đồng.
1.2. Sự ra đời và phát triển của hải quan Việt Nam
Ở Việt Nam, HQ có lịch sử phát triển tương đối sớm. Từ thế kỉ 10, nhà
nước phong kiến Việt Nam đã tiến hành thu thuế đối với hàng hoá xuất nhập
khẩu và lập ra các trạm, với các chức quan chuyên trách, trong đó trạm nổi tiếng
và quan trọng nhất thời đó là Vân Đồn (ở Hồng Gai, Quảng Ninh ngày nay). Nhà
Nguyễn lập hẳn một bộ máy "Thuế binh" để trông coi việc thuế khoá. Các bộ luật
ban hành dưới các triều đại phong kiến như "Lê triều hình luật" (Bộ luật Hồng
Đức) dưới thời Hậu Lê hay "Hoàng triều luật lệ" (Bộ luật Gia Long) dưới triều
Nguyễn đều có các điều khoản về quản lí xuất nhập khẩu và chống buôn lậu.

Ngày 10 tháng 9 năm 1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp
thừa uỷ quyền của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt nam dân chủ cộng hoà
ký Sắc lệnh số 27 - SL thành lập "Sở thuế quan và thuế gián thu" khai sinh
Hải quan Việt Nam.
1.2.1 Quá trình trưởng thành và phát triển theo các giai đoạn:
* Giai đoạn 1945-1954
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
7
Đề án kinh tế thương mại
Thành lập Hải quan Việt Nam thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước Việt
nam dân chủ cộng hoà vừa mới khai sinh, tham gia cuộc kháng chiến chống
Pháp. Trong giai đoạn này nhiệm vụ của hải quan Việt Nam bao gômg: Thu
các quan thuế nhập cảnh và xuất cảnh, thu thuế gián thu. Sau đó, Ngành được
giao thêm nhiệm vụ chống buôn lậu thuốc phiện và có quyền định đoạt, hoà
giải đối với các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu.
*Giai đoạn 1954-1975
Trong giai đoạn này cả nước đang góp sức mình vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước. Ngày 14/12/1954 Chính phủ giao cho Bộ Công
thương quản lý hoạt động ngoại thương và thành lập Sở Hải quan ( thay
ngành thuế xuất, nhập khẩu) thuộc Bộ Công thương.
Trước yêu cầu nhiệm vụ mới của Ngành Hải quan, ngày 27/2/1960 Chính
phủ đã đã có Nghị định 03/CP (do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ) ban hành
Điều lệ Hải quan đánh dấu bước phát triển mới của Hải quan Việt nam.
Ngày 17/6/1962 Chính phủ đã ban hành Quyết định số:
490/TNgT/QĐ - TCCB đổi tên Sở Hải quan trung ương thành Cục Hải
quan thuộc Bộ ngoại thương.
Giai đoạn này Hải quan Việt nam được xác định là công cụ bảo đảm
thực hiện đúng đắn chế độ Nhà nước độc quyền ngoại thương, ngoại hối, thi
hành chính sách thuế quan (thu thuế hàng hoá phi mậu dịch) tiếp nhận hàng

hoá viện trợ và chống buôn lậu qua biên giới.
Năm 1973 Hiệp định Pari được ký kết chấm dứt chiến tranh phá hoại
của Mỹ ở miền Bắc. Hải quan Việt Nam huấn luyện, chuẩn bị các điều kiện
triển khai công tác khi miền Nam được giải phóng.
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
8
Đề án kinh tế thương mại
Thời kỳ này toàn ngành Hải quan được tặng thưởng 2 Huân chương
Lao động Hạng hai và Hạng Ba, 11 đơn vị và cá nhân được tặng Thởng Huân
chương Lao động và Huân chương chiến công các hạng.
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
9
Đề án kinh tế thương mại
*Giai đoạn 1975-1986
Hải quan thống nhất lực lượng và triển khai hoạt động trên phạm vi cả
nước.Sau khi thống nhất đất nước Hải quan triển khai hoạt động trên địa bàn
cả nước từ tuyến biên giới phía Bắc đến tuyến biên giới phía Tây Nam, các
cảng biển, Sân bay quốc tế, Bưu cục ngoại dịch, Trạm chở hàng. Do yêu cầu
quản lý tập trung thống nhất, Chính phủ đã có Quyết định số 80/CT ngày
5/3/1979 quyết định chuyển tổ chức Hải quan địa phương thuộc UBND tỉnh,
thành phố về thuộc Cục Hải quan Bộ Ngoại thương.
Thời kỳ này tính chất các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng
hoá qua biên giới có biểu hiện phức tạp và phổ biến. Ngày 30/8/1984 Hội đồng
Nhà nước phê chuẩn Nghị quyết số 547/NQ/HĐNN7 thành lập Tổng cục Hải
quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng; và ngay sau đó Hội đồng Bộ trưởng ban
hành Nghị quyết số 139/HĐBT ngày 20/10/1984 ban hành Nghị định quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Hải quan. Hải quan Việt
Nam được xác định là "Công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và Nhà
nước có chức năng kiểm tra và quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các
công cụ vận tải xuất nhập qua biên giới nước CHXHCN Việt nam, thi hành

chính sách thuế xuất nhập khẩu, ngăn ngừa chống các hoạt động buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, nhằm bảo đảm thực hiện đúng
đắn chính sách của nhà nước độc quyền về ngoại thương, ngoại hối góp phần
bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ
công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước".
* Giai đoạn từ 1986 đến nay
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới
đất nước, chủ trương mở cửa, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
10
Đề án kinh tế thương mại
Nhiệm vụ của hải quan Việt Nam trong giai đoạn này: Yêu cầu đối với
Hải quan Việt Nam lúc này là thực hiện quản lý Nhà nước về Hải quan trước
tình hình: Hoạt động giao lưu hợp tác với nước ngoài phát triển mạnh mẽ
chưa từng thấy, kinh tế thị trường bộc lộ những khuyết tật, hạn chế, khối l-
ượng hàng hoá XNK khá lớn tạo nguồn thu thuế XNK hàng năm chiếm tỷ lệ
từ 20 - 25% GDP, tình trạng buôn lậu gia tăng, nhập lậu tài liệu phản động,
ấn phẩm đồi truỵ, chất nổ, ma tuý khá nhiều.
Ngày 24/2/1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Pháp
lệnh Hải quan. Pháp lệnh gồm 51 điều, chia làm 8 chương, có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/5/1990.
Pháp lệnh Hải quan xác định chức năng của Hải quan Việt nam là
"Quản lý Nhà nước về Hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập
cảnh, quá cảnh Việt Nam, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hoá, ngoại hối hoặc tiền Việt nam qua biên giới". Bộ máy tổ chức
của Hải quan Việt nam được xác định rõ tổ chức theo nguyên tắc tập trung
thống nhất, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ Trưởng"
Cơ sở vật chất của Hải quan Việt Nam được nâng cấp một bước: đã
trang bị máy soi nghiệp vụ, máy và chó nghiệp vụ phát hiện ma tuý, tàu cao

tốc chống buôn lậu trên biển.
Công tác đào tạo bồi dưỡng công chức được lưu ý hơn: Trường nghiệp
vụ Hải quan thành lập năm 1986, Trường nghiệp vụ Hải quan 1 ( Hà Nội)
thành lập năm 1988; sau hợp nhất 2 trưởng thành Trường Hải quan Việt Nam
và Năm 1996 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định thành lập Trường Cao
đẳng Hải quan. Từ năm 1986 đến năm 1999 đã bồi dưỡng nghiệp vụ cho
4.626 cán bộ, gửi đào tạo đại học tại chức 1.750 cán bộ.
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
11
Đề án kinh tế thương mại
Hải quan Việt Nam đã tham gia và trở thành thành viên chính thức của
Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) từ ngày 01/07/1993 và từ đó đã mở rộng
quan hệ với tổ chức Hải quan thế giới và Hải quan khối ASEAN.
Ghi nhận bước trưởng thành của Hải quan Việt Nam, Hội đồng Nhà n-
ước đã tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho Ngành, Huân ch-
ương các hạng cho một số Hải quan cấp tỉnh Hải quan Việt nam nhân dịp 45
năm kỷ niệm ngày thành lập ngành Hải quan.
Từ 1990 đến 2000 toàn ngành Hải quan tích cực triển khai thực hiện
cải cách thủ tục hành chính, tập trung đột phá vào khâu cải cách thủ tục Hải
quan tại cửa khẩu, thực hiện tốt các nội dung: Sắp xếp lại và thành lập thêm
các địa điểm thông quan, công khai hoá các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan đến thủ tục Hải quan, phân luồng hàng hoá "Xanh, Vàng, Đỏ",
thiết lập đường dây điện thoại nóng, sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn
bản, quy chế, quy trình thủ tục hải quan nhằm thực hiện các nội dung của đề
án cải cách.
Trong 2 năm 1999 - 2000 Hải quan Việt Nam đã ký kết và thực hiện 2
Dự án với nước ngoài: Dự án VIE - 97/059 do UNDP tài trợ về "tăng cường
năng lực cho Hải quan Việt Nam thực hiện công tác quản lý XNK và hội
nhập quốc tế" và Dự án nghiên cứu khả thi do cơ quan Phát triển và Thương
mại Hoa Kỳ ( TDA) và Công ty UNISYS tài trợ về công nghệ thông tin tiến

tới áp dụng công nghệ trao đổi dữ liệu điện tử EDI".
Từ năm 1993 đến 2001 toàn ngành tập trung xây dựng và hoàn thiện
Dự thảo Luật Hải quan, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung đến tháng 5/2001 Dự
thảo Luật Hải quan lần thứ 18 đã được hoàn chỉnh và trình kỳ họp thứ 9 Quốc
Hội khoá 10 để thông qua thay thế cho Pháp lệnh Hải quan 1990. Nhà nước
CHXHCN Việt Nam đã tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho ngành
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
12
Đề án kinh tế thương mại
Hải quan nhân dịp 50 năm ngày thành lập Hải quan Việt nam ( 10/9/1945 -
10/9/1995).
1.2.2.Lịch sử Hải quan qua các mốc thời gian
- Ngày 10 tháng 9 năm 1945 theo sắc lệnh số 27-SL của Chủ tịch Chính
phủ lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên
Giáp, thay mặt Chính phủ ký thành lập “Sở thuế quan và thuế gián thu”. Với
mục đích thiết lập chủ quyền thuế quan của nước Việt Nam độc lập, đảm bảo
việc kiểm soát hàng hoá XNK và duy trì nguồn thu ngân sách từ hoạt động này.
- Ngày 29 tháng 5 năm 1946 theo sắc lệnh số 75-SL của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về tổ chức của Bộ Tài chính, Sở Thuế quan và thuế gián thu được
đổi thành Nha Thuế quan và Thuế gián thu thuộc Bộ Tài chính.
- Ngày 4 tháng 7 năm 1951 Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến đã ký
Nghị định số 54/NĐ quy định lại tổ chức của Bộ Tài chính và Nha Thuế quan
và Thuế gian thu được đổi thành Cơ quan Thuế XNK.
- Ngày 14 tháng 12 năm 1954 Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh ký
Nghị định số 136-BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan thay thế cơ quan thuế
XNK thuộc Bộ Công thương.
- Ngày 17 tháng 2 năm 1962 để thực hiện Điều lệ Hải quan (ban hành
ngày 27/2/1960) Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Lý Ban ký Quyết định số
490/BNT/QĐ-TCCB đổi tên Sở Hải quan thành Cục Hải quan. Lúc này Cục
Hải quan trực thuộc Bộ Ngoại thương.

- Ngày 25 tháng 4 năm 1984 Thực hiện Nghị quyết số 68/HĐBT của
Hội đồng Bộ trưởng về đẩy mạnh chống buôn lậu và thành lập Tổng cục Hải
quan, và Nghị quyết số 547/NQ-HĐNN ngày 30/8/1984 Hội đồng Nhà nước
phê chuẩn thành lập Tổng Cục Hải quan và ngày 20/10/1984 Phó Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Tô Hữu ký Nghị định số 139/HĐBT quy định nhiệm vụ,
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
13
Đề án kinh tế thương mại
quyền hạn, tổ chức của Tổng cục Hải quan. Tổng cục Hải quan trực thuộc
Chính phủ
- Ngày 4 tháng 9 năm 2002 theo Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ Tổng Cục Hải quan trực thuộc Bộ Tài chính.
1.2.3. Nhiệm vụ của HQ Việt Nam
Nhiệm vụ của hải quan Việt Nam được quy đinh tại điều 11 Luật HQ
sửa đổi năm 2005 bao gồm:
- Thực hiện kiểm tra giám sát hàng hoá và phương tiện vận tải
- Phòng chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới
- Thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hoá XNK
- Thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
- Kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý Nhà nước về hải quan đối
với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính
sách thuế đối với hàng hoá XNK
2. Dịch vụ hải quan trong chuỗi dịch vụ logistic
2.1 Khái niệm logistic và dịch vụ logistic
2.1.1.Khái niệm logistic
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hỗ trợ đắc lực của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới, khối lượng hàng hóa và sản
phẩm vật chất được sản xuất ra ngày càng nhiều. Do khoảng cách trong các
lĩnh vực cạnh tranh truyền thống như chất lượng hàng hóa hay giá cả ngày
càng thu hẹp, các nhà sản xuất đã chuyển sang cạnh tranh về quản lý hàng tồn

kho, tốc độ giao hàng, hợp lý hóa quá trình lưu chuyển nguyên nhiên vật liệu
và bán thành phẩm, … trong cả hệ thống quản lý phân phối vật chất của
doanh nghiệp. Trong quá trình đó, logistics có cơ hội phát triển ngày càng
mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực kinh doanh. Trong thời gian đầu, logistics chỉ
đơn thuần được coi là một phương thức kinh doanh mới, mang lại hiệu quả
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
14
Đề án kinh tế thương mại
cao cho các doanh nghiệp. Cùng với quá trình phát triển, logistics đã được
chuyên môn hóa và phát triển trở thành một ngành dịch vụ đóng vai trò rất
quan trọng quan trọng trong giao thương quốc tế. Theo thống kê của công ty
Armstrong & Associates (Hoa Kỳ), tổng dung lượng thị trường logistics Bên
thứ 3 (Third Party Logistics)
1
của Hoa Kỳ tăng trưởng với tốc độ 18%/năm
và đạt 77 tỷ USD trong năm 2003.
Tuy nhiên, một điều khá thú vị là logistics được phát minh và ứng dụng
lần đầu tiên không phải trong hoạt động thương mại mà là trong lĩnh vực
quân sự. Logistics được các quốc gia ứng dụng rất rộng rãi trong 2 cuộc Đại
chiến thế giới để di chuyển lực lượng quân đội cùng với vũ khí có khối lượng
lớn và đảm bảo hậu cần cho lực lượng tham chiến. Hiệu quả của hoạt động
logistics, do đó là yếu tố có tác động rất lớn tới thành bại trên chiến trường.
Cuộc đổ bộ thành công của quân đồng minh vào vùng Normandie tháng
6/1994 chính là nhờ vào sự nỗ lực của khâu chuẩn bị hậu cần và quy mô của
các phương tiện hậu cần được triển khai. Sau khi chiến tranh thế giới kết
thúc, các chuyên gia logistics trong quân đội đã áp dụng các kỹ năng logistics
của họ trong hoạt động tái thiết kinh tế thời hậu chiến. Hoạt động logistics
trong thương mại lần đầu tiên được ứng dụng và triển khai sau khi chiến
tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc. Trong lịch sử Việt Nam, 2 người đầu tiên
ứng dụng thành công logistics trong hoạt động quân sự chính là vua Quang

Trung-Nguyễn Huệ trong cuộc hành quân thần tốc ra miền Bắc đại phá quân
Thanh (1789) và sau đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện
Biên Phủ (1954).
Trải qua dòng chảy lịch sử, logistics được nghiên cứu và áp dụng sang
lĩnh vực kinh doanh. Dưới góc độ doanh nghiệp, thuật ngữ “logistics” thường
được hiểu là hoạt động quản lý chuỗi cung ứng (supply chain management)
1
Dịch vụ quản lý tích hợp các dịch vụ logistics trong cả chuỗi cung ứng
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
15
Đề án kinh tế thương mại
hay quản lý hệ thống phân phối vật chất (physical distribution management)
của doanh nghiệp đó. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về logistics trên thế
giới và được xây dựng căn cứ trên ngành nghề và mục đích nghiên cứu về
dịch vụ logistics, tuy nhiên, có thể nêu một số khái niệm chủ yếu sau:
Liên Hợp Quốc (Khóa đào tạo quốc tế về vận tải đa phương thức và
quản lý logistics, Đại học Ngoại Thương, tháng 10/2002): Logistics là hoạt
động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho, sản
xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng
Ủy ban Quản lý logistics của Hoa Kỳ: Logistics là quá trình lập kế
hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di
chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với
nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin
tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu
dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng
Hội đồng quản trị logistics Hoa Kỳ-1988: Logistics là quá trình liên kế
hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết kiệm chi phí của dòng lưu
chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm và các thông tin liên
quan từ điểm xuất xứ đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn những yêu
cầu của khách hàng

Trong lĩnh vực quân sự, logistics được định nghĩa là khoa học của việc
lập kế hoạch và tiến hành di chuyển và tập trung các lực lượng, … các mặt trong
chiến dịch quân sự liên quan tới việc thiết kế và phát triển, mua lại, lưu kho, di
chuyển, phân phối, tập trung, sắp đặt và di chuyển khí tài, trang thiết bị.
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 (Điều 233): Trong Luật Thương
mại 2005, lần đầu tiên khái niệm về dịch vụ logistics được pháp điển hóa. Luật
quy định “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ
chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển,
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
16
Đề án kinh tế thương mại
lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách
hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hạng hoặc các dịch vụ khác có liên
quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
2.1.2.Dịch vụ logistic
* Các dịch vụ lô-gi-stíc chủ yếu, bao gồm:
a) Dịch vụ bốc xếp hàng hoá, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container.
Loại hình dịch vụ này thường được cung cấp tại các cảng biển, cảng hàng
không hay tại các cửa khẩu biên giới.
b) Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh
doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị. Các doanh nghiệp
thường nhập hàng hay xuất hàng với khối lượng lớn. Trong khi đó quá trình
vận chuyển luôn bị ngưng đọng ở một khâu nào đó như thời gian giao hàng,
thời gian đợi thuê phương tiện vận tải hay dự trữ hàng hóa nhằm đảm bảo
khả năng cung ứng hàng hóa ra thị trường… Tất cả những điều đó cần phải
có kho bãi để chứa hàng và bảo quản hàng hóa.
c) Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải
quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa. Có những lô hàng xuất khẩu hay nhập
khẩu phải sử dụng đa phương tiện do đó các dịch vụ vận tải sẽ giúp người có
nhu cầu vận chuyển hàng hóa dễ dàng thuê được phương thức vận tải phù

hợp. Hay bất cứ hàng hóa nào muốn vào thị trường của một nước đều phải
làm thủ tục thông quan hàng hóa, bên cạnh đó không phải doanh nghiệp nào
cũng nắm rõ được các quy trình thủ tục hải quan, do đó các đại lý hải quan se
cung ứng dịch vụ hải quan nhằm đảm bảo quá trình làm thủ tục hải quan
được nhanh gọn và giảm thiểu chi phí.
d) Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và
quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả
chuỗi lô-gi-stíc; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
17
Đề án kinh tế thương mại
tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động
cho thuê và thuê mua container.
* Các dịch vụ 1ô-gi-stíc liên quan đến vận tải, bao gồm:
a) Dịch vụ vận tải hàng hải, thường được áp dụng với những loại hàng
hóa có trọng lượng lớn, có thể chịu được thời gian vận chuyển lâu, cước dịch
vụ thì không cao lắm. Hiện nay, có rất nhiều đội tàu lớn trên thế giới tham gia
vào loại hình này.
b) Dịch vụ vận tải thuỷ nội địa, loại hình vận tải này chỉ được áp trong
nước với những hàng hóa có trọng lương lớn, mức độ hư hại ít trong quá
trình vận chuyển như vận chuyển than, cát, đá. Loại hình vận tải này thường
phát triển ở các quốc gia có hệ thống sông ngòi phát triển.
c) Dịch vụ vận tải hàng không, loại hình dịch vụ này thường chỉ phù
hợp với những hàng hóa có khối lượng nhỏ, giá trị cao, nhất là các loại hàng
hóa cần vận chuyển trong thời gian ngắn. Loại hình dịch vụ này có phí vận
chuyển rất cao, thủ tục phức tạp, đòi hỏi nhiều loại giấy tờ…
d) Dịch vụ vận tải đường sắt, loại hình dich vụ này thường có chi phí
phục vụ thấp, do hạn chế về địa điểm nhận hàng các ga đường sắt là được bố
trí cố định, không phải chỗ nào cũng có tuyến đường sắt đi qua. Vì vậy loại
hình dịch vụ này ít được áp dụng trong logistic như một phương thức vận tải

độc lập, mà thường áp dụng dưới dạng đa phương thức.
đ) Dịch vụ vận tải đường bộ, là loại hình vận tải nội địa phổ biến, cung
cấp dịch vụ vận tải nhanh chóng, đáng tin cậy. Ưu điểm nổi bật của phương
thức này là tính linh hoạt cao, có thể cung cấp dịch vụ tới tận cửa. Phương
thức vận chuyển này thực sự là một bộ phận quan trọng trong mạng lưới
logistic.
e) Dịch vụ vận tải đường ống., đây là loại hình thức vận tải chuyên
dụng, chỉ để vận chuyển những mặt hàng như khí đốt, dầu thô, nước sạch,
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
18
Đề án kinh tế thương mại
hóa chất hay than bùn. Vận tải đường ống cung cấp cho khách hàng mức độ
dịch vụ rất cao và với chi phí có thể chấp nhận được. Trong phương thức này
sản phẩm được giao đúng hạn vì luồng sản phẩm đi qua đường ống được điều
khiển và kiểm soát bằng hệ thống máy tính nhờ đó cắt giảm được nhân công
và hạn chế thất thoát.
3. Các dịch vụ lô-gi-stíc liên quan khác, bao gồm
a) Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật
b) Dịch vụ bưu chính
c) Dịch vụ thương mại bán buôn
d) Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu
kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng;
đ) Các địch vụ hỗ trợ vận tải khác.
2.1.3.Vai trò của logistic
*** Vai trò của logistic đối với nền kinh tế
Logistic là một chuỗi các hoạt động dịch vụ liên tục,có liên hệ mật
thiết với nhau,tác động qua lại với nhau.Nếu xem xét ở góc độ tổng thể ta
thấy logistic có mối liên kết kinh tế xuyên suốt gần như toàn bộ quá trình sản
xuất,lưu thông,phân phối hàng hóa.
Logictis hỗ trợ cho luồng chu chuyển các giao dịch kinh tế.Nền kinh tế

chỉ có thể phát triển nhịp nhàng,đồng bộ một khi dây chuyền logistic hoạt
động nhịp nhàng,liên tục.
Hàng loạt các hoạt động kinh tế liên quan diễn ra trong chuỗi
logistic,theo đó các nguồn tài nguyên được biến đổi thành vật phẩm và điều
quan trọng là giá trị được tăng lên cho cả khách hàng và người sản xuất,giúp
thỏa mãn nhu cầu của mỗi người.
Hiệu quả hoạt động logistic tác động trực tiếp khả năng hội nhập của
nền kinh tế.Theo nhà kinh tế học người Anh Ullman :“ khối lượng hàng hóa
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
19
Đề án kinh tế thương mại
lưu chuyển giữa hai nước tỷ lệ thuận với tiềm năng kinh tế của hai nước và tỷ
lệ nghịch với khoảng cách giữa hai nước đó ”.Khoảng cách ở đây được hiểu
là khoảng cách kinh tế.Khoảng cách kinh tế càng rút ngắn thì khối lượng
hàng hóa tiêu thụ trên thị trường càng lớn.Điều này lý giải tại sao khoảng
cách địa lý từ Thái lan tới Mỹ xa hơn đến Việt Nam nhưng khối lượng kim
ngạch xuất nhập khẩu của Thái lan và Mỹ lớn hơn so với Việt Nam.Do vậy
việc giảm chi phí logistic có ý nghĩa rất quan trọng trong chiến lược thúc đẩy
xuất khẩu phát triển và tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia.
Hoạt động logistic hiệu quả làm tăng tính cạnh tranh của mỗi quốc gia
trên thị trường thế giới. Ở các nước phát triển, chi phí logistics chiếm 8-12%
GDP; trong khi đó, ở Trung Quốc là 19% GDP, Việt Nam là 20% GDP, thậm
chí có nước đến 30% GDP. Chính vì vậy, nhiều quốc gia đang chú trọng
nâng cao hiệu quả hoạt động logistics nhằm giảm thiểu chi phí.
*** Vai trò của logistic đối với các doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp logistic có vai trò hết sức to lớn.Logistic giải
quyết cả đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp một cách hiệu quả.Nhờ có thể
thay đổi các nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển
nguyên vật liệu,hàng hóa,dịch vụ logistic giúp giảm chi phí,tăng khả năng
cạnh tranh cho các doanh nghiêp.Có nhiều doanh nghiệp thành công lờn nhờ

có được chiến lươc và hoạt động logistic đúng đắn,ngược lại không có ít
doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thất bại,phá sản do có những quyết định sai
lầm trong hoạt động dịch vụ logistic,ví dụ:chọn vị trí sai,nguồn tài nguyên
cung cấp sai,dự trữ không phù hợp,tổ chức vận chuyển không hiệu quả
Logistic góp phần nâng cao hiệu quả quản lý,giảm thiểu chi phí,nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.Doanh nghiệp chủ động trong việc
lựa chọn nguồn cung cấp nguyên liệu,công nghệ sản xuất,thiết kế mẫu mã,tìm
kiếm thị trường tiêu thụ thông qua nhiều kênh phân phối khác nhau Chủ
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
20
Đề án kinh tế thương mại
động trong việc lên kế hoạch sản xuất,quản lý hàng tồn kho và giao hàng theo
đúng thời gian với chi phí thấp nhất.
Logistic còn góp phần giảm phí thông qua việc tiêu chuẩn hóa chứng
từ.Theo các chuyên gia ngoại thương,giấy tờ rườm rà chiếm một chi phí
không nhỏ trong mậu dịch quốc tế và vận chuyện.Thông qua dịch vụ
logistic,các công ty logistic sẽ đứng ra đảm nhiệm ký một hợp đồng duy nhất
sử dụng chung cho mọi loại hình vận tải để đưa hàng từ nơi gửi hàng đến nơi
nhận hàng cuối cùng.
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm gia tăng sự hài lòng và
giá trị cung cấp cho khách hàng của dịch vụ logistic.Đứng ở góc độ
này,logistic được xem như là công cụ hiệu quả để đạt được lợi thế cạnh tranh
lâu dài về sự khác biệt hóa và tập trung.
Ngoài ra,logistic còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt đông marketing,đặc biệt
là marketing hỗn hợp.Chính logistic đóng vai trò then chốt trong việc đưa sản
phẩm đến đúng nơi cần,vào đúng thời điểm thích hợp.Sản phẩm/dịch vụ chỉ
có thể làm thỏa mãn khách hàng và có giá trị chỉ khi nó đến được với khách
hàng đúng thời hạn và địa điểm quy định.
2.2 Dịch vụ hải quan
Dịch vụ hải quan bao gồm:khai báo hải quan, làm thủ tục hải quan,

thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu,giao nhận kho vận hàng hóa xuất nhập
khẩu (xét tới tại kho ngoại quan), tư vấn pháp luật về hải quan.
2.2.1.Dịch vụ khai báo hải quan
Tất cả hàng hóa xuất nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan để thông
quan hàng hóa thì hàng hóa mới được đưa vào thị trường trong nước hay xuất
ra thị trường nước ngoài.Hiện nay việc khai báo hải quan có thể do doanh
nghiệp xuất nhập khẩu tự đảm nhiệm.Tức là doanh nghiệp cử nhân viên của
mình đi khai báo hải quan cho lô hàng xuất khẩu (nhập khẩu) hay làm các thủ
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
21
Đề án kinh tế thương mại
tục hải quan có liên quan tới lô hàng để thông quan hàng hóa.Hay doanh
nghiệp có thể thuê các doanh nghiệp chuyên cung cấp các dịch vụ hải
quan,thường là các đại lý hải quan,họ sẽ thay mặt doanh nghiệp (gọi tắt là
chủ hàng) thực hiện trách nhiệm của người khai hải quan và thực hiện các
công việc khác về thủ tục hải quan theo thỏa thuận trong hợp đồng (giữa chủ
hàng và đại lý hải quan).Việc kê khai phải đảm bảo đầy đủ, chi tiết về đặc
điểm, số lượng, trọng lượng, trị giá, quy cách, phẩm chất và mã số của hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Người xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp tờ khai hải
quan theo mẫu do Tổng cục Hải quan ban hành.
2.2.2.Thủ tục hải quan
Sau khi khai báo hải quan cho lô hàng thì doanh nghiệp xuất nhập khẩu
cần làm thủ tục hải quan cho lô hàng đó.Thủ tục hải quan là các khâu công
việc mà người xuất nhập khẩu và cán bộ nhân viên hải quan thực hiện theo
đúng qui định của pháp luật về Hải quan đối với hàng hoá, phương tiện vận
tải khi xuất khẩu, nhập khẩu hoặc xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.
Luật Hải quan Việt Nam – 2005 điều 16, Khoản 1 qui định trình tự thủ
tục Hải quan bao gồm 3 nội dung là: khai báo hải quan, Đưa hàng hoá,
phương tiện vận tải đến địa điểm được qui định cho việc kiểm tra thực tế
hàng hoá, phương tiện vận tải và nộp thuế hải quan cùng các nghĩa vụ khác

theo qui định của pháp luật.Trong quá trình làm thủ tục hải quan,sau khi nhận
được thông tin từ trong doanh nghiệp tại khâu khai báo hải quan,thì hải quan
sẽ tổ chức phân luồng hàng hóa và thực hiện tổ chức kiểm tra.Hàng hóa sẽ
được phân làm 3 luồng:luồng xanh,luồng vàng và luồng đỏ.
Mức 1: Luồng xanh: miễn kiểm tra chi tiết hồ sơ, miễn kiểm tra thực tế
hàng hoá
Mức 2: Luồng vàng: Kiểm tra chi tiết hồ sơ, miễn kiểm tra thực tế hàng hoá
Mức 3: Luồng đỏ: Kiểm tra chi tiết hồ sơ, kiểm tra thực tế hàng hoá.
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
22
Đề án kinh tế thương mại
Sau khi hoàn thành các thủ tục hải quan thì hàng hóa sẽ được thông
quan.Để quá trình thông quan được diễn ra thuận lợi,các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu cần đảm bảo quá trình khai báo hải quan là chính xác.Bởi quá
trình khai báo hải quan sẽ ảnh hưởng tới việc phân luồng hàng hóa,nếu hàng
hóa rơi vào phân luồng vàng và đỏ thì sẽ rất tốn thời gian và chi phí của
doanh nghiệp trong quá trình thông quan cho hàng hóa.
2.2.3.Kho ngoại quan
Kho ngoại quan là khu vực kho, bãi được ngăn cách với khu vực xung
quanh để tạm lưu giữ, bảo quản hoặc thực hiện các dịch vụ đối với hàng hóa
từ nước ngoài hoặc từ trong nước đưa vào kho theo hợp đồng thuê kho ngoại
quan được ký giữa chủ kho ngoại quan và chủ hàng.Kho ngoại quan là kho
của hải quan hoặc của tư nhân đặt dưới sự giám sát của hải quan và được
dùng để tạm chứa hàng chưa làm thủ tục hải quan và nộp thuế (nếu có). Tại
các kho này, chủ hàng có thể sửa chữa, đóng gói là phân chia lại hàng hóa
dưới sự giám sát của hải quan.Khi chủ hàng hoàn thành thủ tục xuất nhập
khẩu và nộp thuế (nếu có), hải quan sẽ cấp một chứng từ gọi là giấy phép
xuất kho ngoại quan cho phép hàng được rời để chuyển tiếp vào nội địa hoặc
tái xuất đi nước ngoài.
Các dịch vụ kho ngoại quan được cung cấp cho các đối tượng hàng hóa:

• Hàng hoá xuất khẩu đã làm xong thủ tục hải quan chờ xuất khẩu.
• Hàng hoá hết thời hạn tạm nhập phải tái xuất.
• Hàng hoá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc tái xuất khẩu.
• Hàng hoá của chủ hàng nước ngoài chưa ký hợp đồng bán hàng cho
doanh nghiệp Việt Nam.
• Hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu từ nước ngoài chờ
đưa vào thị trường trong nước, chưa phải nộp thuế nhập khẩu.
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
23
Đề án kinh tế thương mại
• Hàng hoá từ nước ngoài quá cảnh, lưu kho tại Việt Nam để chờ xuất
khẩu sang nước thứ ba.
2.2.4.Dịch vụ tư vấn pháp luật về hải quan
Việc làm thủ tục thông quan cho hàng hóa xuất nhập khẩu phải trải qua
nhiều công đoạn, và được quy định thông qua luật hải quan cũng như các văn
bản,thông tư do đó nếu doanh nghiệp nào không nắm rõ luật sẽ dẫn tới
những sai sót không cần thiết gây nên thiệt hại rất lớn cho doanh nghiệp do
quá trình thông quan phải kéo dài. Bên cạnh đó không phải doanh nghiệp nào
cũng có phòng ban chuyên về hoạt động xuất nhập khẩu,do đó không có cán
bộ chuyên sâu về nghiệp vụ hải quan. Hiện nay trên thị trường đã có các
doanh nghiệp khai thuê hải quan, họ cũng cung cấp cả dịch vụ tư vấn về luật
hải quan và các thủ tục liên quan tới thông quan cho hàng hóa. Điều này sẽ
giúp cho doanh nghiệp rất nhiều trong việc giải quyết những thắc mắc hay
khiếu nại với cơ quan hải quan về vấn đề thuế hay vấn đề thông quan chậm.
Tại các chi cục hải quan cũng thành lập bộ phận tư vấn về luật hải quan, hay
các website để giải thích các vấn đề thắc mắc của doanh nghiệp. Hàng năm,
tổng cục hải quan cũng tổ chức những buổi nói chuyện giữa hải quan và
doanh nghiệp nhằm nâng cao sự phối hợp giữa hải quan và doanh nghiệp,bên
cạnh đó cũng để trả lời những câu hỏi bức xúc của doanh nghiệp về các thủ
tục hải quan hiện hành còn gây những cản trở nào cho doanh nghiệp. Để có

thể có những sự thay đổi phù hợp tạo điều kiện thông thoáng, nhanh chóng
hơn cho các doanh nghiệp khi làm thủ tục hải quan.
2.3 Tầm quan trọng của dịch vụ hải quan trong chuỗi các dịch vụ logistic.
Theo ước tính,giá trị dịch vụ logistic toàn cầu đạt trên 1200 tỷ
USD/năm,chiếm khoảng 16%tổng GDP toàn cầu.Nếu giảm 10% chi phí vận
chuyển có thể làm tăng 20% lưu lượng thương mại hay giảm một nửa chi phí
vận chuyển và làm tăng 0.5% tổng GDP đối với mỗi quốc gia.Điều đó chứng
SV: Vũ Thị Duyên Lớp: QTKD thương mại 49B
24

×