Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.49 KB, 82 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng
định “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN và mục đích nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với quan hệ sản xuất mới, phù hợp trên
cả mặt: sở hữu, quan hệ, phân phối”.
Chính vì vậy, đổi mới và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
cần thiết. Đó là yêu cầu hết sức quan trọng, làm đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế đất nước và giải quyết những vấn đề xã hội.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, các doanh nghiệp đã bộc lộ những yếu kém và còn nhiều vấn đề cần được
tiếp tục tháo gỡ để kinh doanh có hiệu quả.
Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, VII, VIII và IX, đặc biệt
là nghị quyết trung ương 3, khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh của
ngân hàng TMCP công thương Việt Nam phải quán triệt sâu sắc đường lối, quan
điểm của Đảng để tiếp tục đổi mới, qua đó để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Qua thực tiễn hoạt động của mình, trong điều kiền kinh tế thị trường và sự hội
nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới hiện nay, các chi nhánh thuộc ngân
hàng TMCP công thương Việt Nam cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần sớm
được khắc phục, hoàn thiện để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của mình.
Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ An thời gian
qua đã có nhiều đổi mới, nâng cao được năng lực cạnh tranh nhưng vẫn chưa đáp
ứng được thực tế đặt ra. Vì vây, đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của
1
Ngân hàng TMCP Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ An” đã được tôi lựa chọn
làm luận văn tốt nghiệp.


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nâng cao cạnh tranh nói chung được nhiều tổ chức, doanh nghiệp và các nhà
khoa học lý luận, khoa học kinh tế nghiên cứu từ những cách tiếp cận và nhằm
mục đích, đối tượng khác nhau và đã có nhiều bài viết dưới dạng trao đổi, nghiên
cứu chuyên khảo,…đăng trên các tạp chí, thời báo. Cụ thể :
Đề tài : “ Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam trong xu thế hội nhập”, luận văn thạc sĩ
của Phạm Tấn Mến;
Đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Thương Mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam thời hậu WTO ”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Phương
Thảo;
Đề tài “ Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại quốc
doanh Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Bích Thủy;
Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu về “Nâng cao năng lực cạnh
tranh của Ngân hàng TMCP Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ An”. Vì vậy đề
tài vẫn có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ khoa học của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ cơ sơ lý luận và thực tiễn về vấn đề cạnh tranh nói chung và cạnh
tranh trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng trong nền kinh tế thị trường.
- Dựa trên phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP công
thương Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
- Xác định phương hướng và đưa ra các giải pháp có tính khả thi để nâng cao
năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam trên địa
bàn tỉnh Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ khoa học của đề tài:
2
- Hệ thống hóa các lý thuyết cạnh tranh và những vấn đề cơ bản về năng lực

cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
- Xác định tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của ngân hàng.
- Sự cần thiết khách quan phải nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
TMCP công thương Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP
công thương Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP
công thương Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tương nghiên cứu : Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng của
Ngân hàng TMCP Công thương trên địa bàn tỉnh Nghệ An
- Thời gian nghiên cứu : Từ năm 2007 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú ý quan điểm lịch sử cụ thể, phương pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp kết hợp logic với lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu thống kê, so sánh và các phương pháp khác để làm
rõ đối tượng nghiện cứu.
- Tổng hợp những tài liệu thực tiễn liên quan đến đối tượng nghiện cứu.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề về lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
- Đánh giá năng lực cạnh tranh, từ đó đưa ra quan điểm và các giải pháp nâng
cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam trên địa
bàn tỉnh Nghệ An trong điều kiện nước ta giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục chữ viết tắt, danh mục sơ
đồ bảng biểu và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 03 chương:
3

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng TMCP công
thương Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam trên địa bàn tỉnh Nghệ
An.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và phân loại cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh có thể hiểu một cách tổng quát như sau: “Cạnh tranh là
quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau để đạt mục tiêu kinh tế
của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các
điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của chủ thể kinh tế
trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích”.
Đặc trưng của cạnh tranh là: Chủ thể tham gia cạnh tranh là các nhà sản
xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ, gọi chung là doanh nghiệp; Thủ pháp cạnh tranh là
tìm ra những ưu thế vượt trội về nhiều mặt so với đối thủ; Mục tiêu của cạnh tranh là
chiếm lĩnh thị phần và đạt lợi nhuận ngày càng cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập tài chính – tiền tệ nói riêng
đặt các doanh nghiệp vào tình thế phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. NHTM là
loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, tất
yếu phải cạnh tranh theo quy luật của thị trường.
Cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là sự ganh đua giữa các chủ thể ngân
hàng bằng cách sử dụng tổng hợp các thủ pháp, các yếu tố bên trong và bên ngoài
nhằm giành được phần thắng trên thị trường, đạt được các mục tiêu kinh doanh cao

hơn các đối thủ khác.
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng có vai trò rất quan trọng, là một trong
những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy phát triển ngành ngân hàng. Nó buộc các
NHTM phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao công nghệ, trình độ người lao
động, áp dụng khoa học kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất
lao động, hiệu quả kinh tế. Đó chính là cạnh tranh lành mạnh. Ở đâu thiếu cạnh tranh
5
hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường trì trệ, kém phát triển.
1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh
Cạnh tranh doanh nghiệp là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị
trường nhằm tạo lợi thế cho mình và thu được nhiều lợi nhuận hơn, là sự cạnh tranh
về lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị trường bao gồm những người mua và những
người bán. Người tiêu dùng với vai trào là người mua, luôn luôn mang muốn mua
được những hàng hóa đáp ứng được những nhu cầu của họ với giá rẻ nhất. Còn các
doanh nghiệp, với tư cách là người bán, luôn muốn bán được nhiều hàng và thu được
lợi nhuận cao nhất. Để bán được nhiều hàng và thu được lợi nhuận, các doanh
nghiệp vừa phải tìm cách giảm thiểu chi phí sản xuất, vừa phải giành giật khách
hàng và mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình và đay là cơ sơ cho cạnh tranh
xuất hiện. Cạnh tranh là cuộc chạy đua khốc liệt mà doanh ghiệp muốn tồn tại thì
không được lẫn tránh, phải trực tiếp đối đầu với thủ thách, tìm ra những giải pháp
để giành thắng lợi trong cuộc chiến đó. Nói cách khác là các doanh nghiệp phải nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình.
Tùy vào điều kiện khác nhau mà người ta có thể phân loại cạnh tranh như
sau:
- Căn cứ vào loại thị trường mà trong đó cạnh tranh diễn ra, có cạnh tranh
trên các thị trường đầu vào nhằm giành được các nguồn lực sản xuất có chất lượng
tốt và chi phí thấp nhất; Cạnh tranh trên thị trường sản phẩm nhằm chiếm lĩnh thị
trường, tăng thị phần, giành khách hàng, cạnh tranh hoàn hảo và không hoàn hảo.
- Căn cứ theo phường thức cạnh tranh, có cạnh tranh bằng giá và cạnh tranh
phi giá (cạnh tranh bằng chất lượng hàng hóa, thời gian giao hàng, dịch vụ khách

hàng, cạnh tranh bằng các thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế…).
- Căn cứ vào chủ thể tham gia cạnh tranh, có cạnh tranh giữa người mua và
người bán, cạnh tranh với những người bán với nhau và cạnh tranh giữa những
người mua với nhau.
- Theo phạm vị canh tranh, có cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh tranh giữa
các ngành, cạnh tranh trong phạm vị lãnh thổ quốc gia và cạnh tranh quốc tế.
6
- Theo cấp độ cạnh tranh, có cạnh tranh giữa các quốc gia, cạnh tranh giữa
các ngành, giữa các doanh nghiệp và cạnh tranh sản phẩm. Giữa các cấp độ cạnh
tranh đó có mối quan hệ tương hỗ và suy cho cùng vẫn là cạnh tranh sản phẩm.
Thông qua cung cấp sản phẩm mà các chủ thể là các doanh nghiệp, ngành, nhà nước
mong giành thắng lợi trong cạnh tranh, đạt được mục tiêu của mình.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các tiêu chí đánh giá năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp cần cung cấp cho thị trường những sản
phẩm chất lượng cao, giá cả hợp lý và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đó chính là
những sản phẩm có năng lực cạnh tranh chỉ có thể sản xuất và cung cấp bởi những
doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh. Do vậy, doanh nghiệp muốn duy trì và phát
triển thì cần phải có năng lực cạnh tranh mạnh và bền vững. Môi trường cạnh tranh
ngày càng gay gắt bao nhiêu, doanh nghiệp cần tạo dựng năng lực cạnh tranh mạnh
và bền vững bấy nhiêu.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, quan điểm tương đối phổ biến của daonh nghiệp chính là khả năng duy trì và
mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong
nước và nước ngoài.
Quan điểm khác cho rằng: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện
thực lực và lợi thế của nó so với các đối thủ khác trong việc thỏa mãn các đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp mình.
Cũng có quan điểm cho rằng: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mang

tính chiến lược, thể hiện ở việc xây dựng và thực hiện thành công chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp mà đối thủ cạnh tranh không thể hoặc rất khó bắt chước hay
sao chép. Khi những điều kiện đó xuất hiện, doanh nghiệp sẽ có lợi thế cạnh tranh
“bên vững”. Tính chất “bền vững” của lợi thể cạnh tranh phụ thuộc vào các nhân tố
nội tại của doanh nghiệp và các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài. Do
đó, lợi thế cạnh tranh bền vững sẽ không tồn tại mãi mãi với doanh nghiệp, doanh
7
nghiệp chỉ duy trì được lợi thế cạnh tranh trong một khoảng thời gian nhất định, đối
thủ cạnh tranh sẽ có khả năng bắt chước được chiến lược và cách làm của doanh
nghiệp để gặt hái được thành công. Lợi thê cạnh tranh của doanh nghiệp tồn tại
nhanh chóng hay lâu dài phụ thuộc vào tốc độ sao chép chiến lược kinh doanh của
đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tổng hợp lại những quan điểm nêu trên, khi nghiên cứu năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp, cần chú ý một số vấn đề cơ bản sau:
- Nghiên cứu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với việc phân tích các
yếu tố nội tại của doanh nghiệp và của đối thủ cạnh tranh để so sánh đối chiếu nhằm
phát hiện các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ. Chỉ từ đó mới có
thể nhận định một cách chính xác năng lực cạnh tranh của mình. Nếu chỉ “tự so sánh
với chính mình” sẽ không đánh giá một cách khách quan, chính xác năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Trong môi trường kinh doanh năng động và rộng mở, dưới tác động của quá
trình toàn cầu hóa kinh tế, ranh giới giữa thị trường trong nước và thị trường nước
ngoài ngày càng trở nên mờ nhạt. Đồng thời , sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh
quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn nâng tầm năng lực cạnh tranh của
mình.
- Cần lấy yêu cầu của khách hàng làm căn cứ đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Bởi lẽ, nhu cầu của khách hàng vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích cuối cùng của doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh vẫn là thu được càng nhiều lợi ích càng tốt trên cơ sở
cung cấp những hàng hóa, dịch vụ đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng.

Những lợi ích kinh tế của doanh nghiệp bao gồm: đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn
trung bình, gia tăng khối lượng lợi nhuận (xét về giá trị tuyệt đối), gia tăng thị phần
và mở rộng thị phần, thu hút nhiều thêm khách hàng…
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một phạm trù tổng hợp, không thể chỉ
được xác định bằng một vài tiêu chí đơn lẻ. Do đó, khi phân tích năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp cần đứng trên quan điểm toàn diện, tức là phải phân tích toàn diện
8
và có hệ thống các yếu tố hữu quan trong mối quan hệ tương tác nhiều chiều giữa
chúng.
Từ những quan điểm nêu trên, có thể đưa ra một quan điểm tổng quan sau
đây: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng tạo dựng, dùy trì và
sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu
khách hàng (so với đối thủ cạnh tranh) và đạt được mục tiêu của doanh nghiệp trong
môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế: Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là tổng thể các yếu tố gắn trực tiếp với hàng hóa cùng với các điều kiện,
công cụ và biện pháp cấu thành khả năng của doanh nghiệp trong việc ghanh đua
nhằm chiếm lĩnh thị thường, ghành khách hàng và đem lại nhiều lợi ích cho doanh
nghiệp.
Nói đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ là nói đến chất
lượng sản phẩm do doanh nghiệp đó sản xuất ra, mà còn nói đến các biện pháp tiếp
thị, quảng cáo, dịch vụ sau bán hàng…, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bao
gồm cả năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó lẫn năng lực cạnh tranh của hành
hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó cung cấp trên thị trường.
Quan điểm này cho thấy, nếu doanh nghiệp có khả năng duy trì và sáng tạo
liên tục các lợi thế cạnh tranh của mình, nó sẽ luôn đi trước các đối thủ và giành
phần thắng trong cuộc cạnh tranh để đạt mục đích duy trì và mở rộng thị trường, gia
tăng lợi nhuận. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh là doanh nghiệp có khả
năng tạo dựng, duy trì và phát triển các lợi thế cạnh tranh “bền vững”. Nếu lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp được xây dựng trên những yếu tố dễ sao chép và
không được đổi mới, sáng tạo thì lợi thế đó nhanh chóng bị “biến mất” trước các áp

lực cạnh tranh ngày càng gay gắt. Khi mất lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp sẽ không
thể thu được tỷ suất lợi nhuận trên mức trung bình, mức mà các nhà đầu tư kỳ vọng
thu được từ những khoản mục đầu tư với mức rủi ro tương đương.
Quan điểm trên đây không mâu thuẫn với các cách tiếp cận khác và đồng
thời làm rõ được nguyên nhân dẫn đến thành công của doanh nghiệp là do no có khả
năng duy trì và phát triển liên tục các lợi thế cạnh tranh của mình. Để xác định các
9
chỉ tiêu đo lường năng lực cạnh tranh doanh nghiệp cần làm rõ những vấn đề về lợi
thế cạnh tranh, trên cơ sở cuả lợi thế cạnh tranh và các phương thức duy trì và phát
triển lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
- Khả năng duy trì và mở rộng thị phần của doanh nghiệp:
Thị phần của doanh nghiệp là phần thị trường mà doanh nghiệp đã chiếm lĩnh
được so với đối thủ cạnh tranh khác. Thị phần nói lên sức mạnh mà doanh nghiệp có
thể dành được trong cạnh tranh. Trong cùng một môi trường, doanh nghiệp có thị
phần càng lớn sẽ là biểu hiện cụ thể về năng lực cạnh tranh cũng như ưu thế vượt
trội về khả năng giành thắng lợi trong cạnh tranh. Trong một thị trường đang tăng
trưởng, việc duy trì thị phần sẽ làm tăng doanh thu cùng nhịp với tốc độ tăng trưởng
của thị trường. Trong một thị trường trì trệ hoặc xuống dốc, việc tăng doanh thu đòi
hỏi phải tăng thị phần.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm:
Giá cả sản phẩm và dịch vụ: Giá cả với tư cách là công cụ cạnh tranh cảu
các nhà sản xuất được hiểu là số tiền mà người bán dự kiến nhận được của người
mua cho một đơn vị sản phẩm thông qua trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Giá cả được hình thành là do chi phí, nhu cầu của thị trường và do chính sách của
các Công ty quyết định. Giá cả có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến
doanh thu, là khâu cuối cùng thể hiện kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Giá cả quyết định việc mua hàng hóa hay không của người tiêu dùng, mặt khác nó
còn quyết định tình hình biến động của thị trường. Thông qua giá cả, các doanh
nghiệp có thể nhận biết được sự tồn tại, sức chịu đựng cũng như năng lực của minh

trên thương trường. Cùng một sản phẩm, với cùng một chất lượng, sản phẩm nào có
giá cả thấp hơn sẽ hấp dẫn khách hàng hơn. Doanh nghiệp nào đưa ra mức giá thấp
hơn ma vẫn đảm bảo được lợi nhuận sẽ thể hiện năng lực cạnh tranh cao hơn vì họ
đã giảm được chi phí, hạ giá thành của sản phẩm.
Chất lượng của sản phẩm và dịch vụ: Chất lượng của sản phẩm là tập hợp
các thuộc tính của sản phẩm, đáp ứng vai trò và phù hợp với tên gọi của sản phẩm.
10
Chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu tổng hợp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau như:
Tính chất cơ, lý hóa, hình dáng, màu sắc…các tiêu chí này có những đặc trưng riêng
đối với từng loại sản phẩm. Muốn bán được sản phẩm, các daonh nghiệp phải luôn
giữ vững và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Nói cách khác, nâng cao chất
lượng sản phẩm là quy luật bắt buộc trong nền kinh tế thị trường, là vũ khí cạnh
tranh quan trọng nhất và là vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
Chất lượng sản phẩm được hình thành trong suốt quá trình sản xuất, từ khâu
thiết kế đến khâu nghiên cứu, thí nghiệm, sản xuất, bán hàng và các khâu hậu mãi
sau khi bán hàng…Do vậy, muốn nâng cao chất lượng sản phẩm, một mặt phải nâng
cao chất lượng tại các khâu của quá trình sản xuất, mặt khác phải coi trọng và kiểm
tra chất lượng sản phẩm bằng các thiết bị máy móc cũng như kinh nghiệm thực tiễn
của các nhân viên phụ trách về kỹ thuật. Tùy theo đặc điểm của quá trình sản xuất
mà các doanh nghiệp lựa chọn phương pháp kiểm tra thích hợp. Các nhân viên kiểm
tra chất lượng sản phẩm phải được đào tạo có chuyên môn, có trách nhiệm và một
điều tất yếu là phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan
Chủng loại sản phẩm và dịch vụ: Chủng loại sản phẩm và dịch vụ là yếu tố
rất quan trọng và có tính chất quyết định việc giành được thị trường. Khi chúng ta đa
dạng hóa được các sản phẩm, sản phẩm có nhiều mức, cấp độ về chất lượng và mẫu
mã… cũng như phù hợp về túi tiền của nhiều tầng lớp dân cư. Khi chủng loại sản
phẩm đa dạng thì sẽ khiến cho khách hàng khi bước khỏi nơi bán hàng sẽ lựa chọn
được sản phẩm mà người ta mong muốn lại phù hợp với mục đích tiêu dùng mà vẫn
phù hợp với khả năng tài chính của mình sẵn sàng chi trả cho sản phẩm. Cạnh tranh
sẽ làm cho doanh nghiệp tự hoàn thiện mình, nâng cao chất lượng tối ưu cho sản

phẩm, đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ như mong muốn của người tiêu dùng.
- Năng lực duy trì và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp:
Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu quan trọng thể hiện mục tiêu cuối cùng của các
chỉ tiêu đánh giá các mặt của hiệu quả kinh doanh. Các chỉ tiêu liên quan là lợi
nhuận và năng suất của doanh nghiệp, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thể
hiện qua một số chỉ tiêu như:
11
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh: H = Lợi nhuận/tổng vốn sản xuất
kinh doanh
Tiêu chí này cho chúng ta biết tỷ suất lợi nhuận so với tổng số vốn mà doanh
nghiệp bỏ ra kinh doanh. Nghĩa là cứ bỏ ra một đồng vốn thì tương lai sẽ mang về
một tỷ lệ lợi nhuận cụ thể. Giá trị của tiêu chí này càng cao, chứng tỏ tình hình hoạt
động của doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, sức cạnh tranh trên thị trường từ đó cũng
được cải thiện.
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí sản xuất kinh doanh: H = Lợi nhuận/tổng
chi phí sản xuất kinh doanh.
Tiêu chí này phản ánh doanh nghiệp thu được bao nhiêu lợi nhuận khi bỏ ra
một đơn vị chi phí. Cũng như tiêu chí ở trên, giá trị tiêu chí này càng cao thì càng tốt
cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, để góp phần nâng cao sức cạnh tranh của chính mình
thì doanh nghiệp nên tham khảo và tính toán cả hai chỉ tiêu này của đối thủ cạnh
tranh. Từ đó, có sự so sánh những thuận lợi, khó khăn, những tồn tại, hạn chế của
mình và của các đối thủ cạnh tranh để có những quyết định kinh doanh đúng đắn và
phù hợp góp phần phát triển sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên
trương trường.
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng doanh thu: H = Lợi nhuận/tổng doanh thu.
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thu lợi nhuận của hoạt động bán hàng khi bán
được một đơn vị doanh thu thì thu được bao nhiêu lợi nhuận. Tiêu chí này tuy không
quan trọng bằng các tiêu chí đánh giá khác. Tuy nhiên, đây cũng chính là những nội
dung cần thiết để xác định mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Khi
xác định tiêu chí này ta cần xác định một số các chỉ tiêu liên quan đê so sánh và

đánh giá từ vốn, chi phí, doanh thu, lợi nhuận từ đó xem xét trong từng khâu, từng
công đoạn, từng quy trình, quá trình có những thuận lợi, khó khăn gì để đưa ra
những quyết định kinh doanh phù hợp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của
chính mình trên thương trường.
1.2. Các yếu tố cấu thành, những nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết nâng cao
năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
12
1.2.1. Ngân hàng thương mại và đặc điểm cạnh tranh của ngân hàng thương
mại
1.2.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế
với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng
và cung ứng các dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng còn thực
hiện cung cấp các dịch vụ tài chính khác như: mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá,
quản lý ngân hàng quỹ, tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê
thiết bị trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới
đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ đại lý.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế.
Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đề
gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu
nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng
cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, các nhân, hộ gia đình và
một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng
thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây
dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi các doanh nghiệp và người tiêu dùng phải
thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ , họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm
chi, thẻ tín dụng hay các tài khoản điện tử…Và khi họ cần thông tài chính hay lập kế
hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín
dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua các chứng khoán của Chính phủ) là
nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triền.

Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là
một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế.
Vai trò của ngân hàng thương mại
Cung ứng vốn cho nền kinh tế: Từ chức năng làm trung gian tín dụng, thông
qua nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng đã tập hợp những khoản vốn nhàn rỗi tạm
thời của các tổ chức, cá nhân và thực hiện cung ứng vốn cho nền kinh tế, góp phần
vào lưu thông hàng hóa tiền tệ cũng như đẩy mạnh tiêu dùng cá nhân. Từ đó huy
13
động được sức mạnh tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế vào quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hóa. Có thể nói là “chất dầu bôi trơn” cho bộ máy kinh tế hoạt động.
Bên cạnh đó, các ngân hàng thúc đẩy sự luân chuyển vốn trong nền kinh tế.
Thông qua chức năng thanh toán, ngân hàng thực hiện dịch vụ thanh toán cho toàn
bộ nền kinh tế, góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo sự ổn định
trong đời sống kinh tế xã hội. Với nguồn vốn huy động, bên cạnh cung ứng vốn cho
nền kinh tế, ngân hàng thực hiện mở rộng đầu tư trong và nước ngoài, tạo điều kiện
tốt nhất giúp các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả bằng các dịch vụ cần thiết
như: tư vấn đầu tư; thuê mua tài chính; bảo lãnh; kiểm tra số dư trên tài khoản giao
dịch thường xuyên;…
Với vai trò tạo tiền do tham gia vào quá trình cung ứng tiền tệ, ngân hàng
còn là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Để thực hiện
các chính sách đó, ngân hàng trung ương phải sử dụng các công cụ điểu tiết đảm bảo
thực hiện được các chính sách vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ. Phần lớn
các công cụ đó chỉ thực hiện có hiệu quả khi có các ngân hàng thương mại và trung
gian tài chính tham gia đầy đủ theo quy định của ngân hàng trung ương (về tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, tham gia thị trường mở, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt….)
Với những ý nghĩa to lớn trong nền kinh tế thị trường: Góp phần giảm
chi phí lưu thông; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; thúc đẩy kinh tế tăng trường; và
đặc biệt là tăng cường mối giao lưu kinh tế quốc tế;… thì sự ra đời và tồn tại của
ngân hàng thương mại là một xu hướng tất yếu khách quan.
1.2.1.2. Đặc điểm cạnh tranh của ngân hàng thương mại

Cạnh tranh về sản phẩm: Sản phẩm chính sử dụng trong hoạt động kinh
doanh của NHTM là tiền, đó là loại sản phẩm có tính xã hội và tính nhạy cảm cao,
chỉ một biến động nhỏ (thay đổi lãi suất, thu phí giao dịch ATM,…) cũng có ảnh
hưởng to lớn đến hoạt động kinh doanh của các NHTM nói riêng và hoạt động của
toàn xã hội nói chung. Sự sụp đổ của một NHTM kéo theo nó là những hệ lụy to lớn
đối với toàn hệ thống NHTM và nền kinh tế. Do đó, yêu cầu giữa các NHTM phải
có tính liên kết, hợp tác nhất định cùng tồn tại và phát triển.
Cạnh tranh về khách hàng: Một trong những đặc điểm quan trọng của ngành
14
ngân hàng là tất cả các cá nhân, tổ chức kinh doanh sản xuất hay tiêu dùng, thậm chí
là các ngân hàng khác cũng đều có thể vừa là người mua các sản phẩm dịch vụ ngân
hàng, vừa là người bán sản phẩm dịch vụ cho ngân hàng. Những người bán sản
phẩm thông qua các hình thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch hay cho vay đều có
mong muốn là nhận được một lãi suất cao hơn; trong khi đó, những người mua sản
phẩm (vay vốn) lại muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn nhỏ hơn thực tế.
Như vậy, ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi nhuận
có hiệu quả và giữ chân được khách hàng cũng như có được nguồn vốn thu hút rẻ
nhất có thể. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải định hướng, chiến lược rõ ràng trong
kinh doanh, từ đó có chính sách đầu tư hợp lý.
Cạnh tranh về hệ thống phân phối: Hoạt động chủ yếu của NHTM là huy
động vốn nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế và cung ứng các dịch vụ tín dụng,
các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh… Do đó, các NHTM có hệ thống mạng lưới chi
nhánh rộng khắp để phục vụ mọi đối tượng khách hàng và ở bất kỳ vị trí địa lý nào.
Cạnh tranh về tính bảo mật thông tin: Đặc thù hoạt động của NHTM là nhận
tiền gửi, cấp tín dụng và các dịch vụ thanh toán,… nên các NHTM có đầy đủ các
thông tin, thậm chí những thông tin quan trọng liên quan đến kết quả hoạt động của
khách hàng như: bí mật kinh doanh của doanh nghiệp, tình trạng tài chính của khách
hàng,… Do đó, yêu cầu bảo mật thông tin khách hàng đặc biệt quan trọng. NHTM
phải có cơ sở hạ tầng vững chắc, hệ thống công nghệ hiện đại, đảm bảo lưu trữ an
toàn, đầy đủ số lượng lớn thông tin, dữ liệu của khách hàng và khả năng truy xuất

một cách dễ dàng. Bên cạnh đó, yêu cầu đối với người lao động đảm nhiệm các
nghiệp vụ chuyên môn trong NHTM phải có năng lực, kỹ năng và phẩm chất đạo
đức.
Quá trình cạnh tranh của các NHTM chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà
nước: Cạnh tranh của hệ thống NHTM có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Vì vậy
cạnh tranh của NHTM cần phải được giám sát chặt chẽ của các cơ quan nhà nước
nói chung và NHNN nói riêng. Sự giám sát này được thông qua một hệ thống văn
bản pháp luật. Các NHTM được tự chủ trong hoạt động kinh doanh của mình nhưng
đồng thời phải chịu sự ràng buộc của luật pháp. Vì vậy có thể nói hiệu quả của các
15
chính sách, biện pháp ưu đãi của các chính sách, biện pháp ưu đãi trong lĩnh vực tài
chính ngân hàng có tác động rất lớn đến đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các
NHTM.

1.2.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển của ngân hàng thương
mại
Thứ nhất, xây dựng chiến lược phát triển ngân hàng thương mại: Chiến lược
được hiểu là những định hướng kinh doanh, những phương pháp hay sự lựa chọn và
các khả năng để giải quyết các vấn đề kinh doanh đặt ra, một sự chuẩn bị thấu đáo
và dài hạn của quản trị doanh nghiệp cho những vấn đề chắc chắn sẽ xảy ra trong
kinh doanh. Chiến lược kinh doanh xác định các mục tiêu dài hạn, các chính sách
cũng như các giải pháp cần thiết để thực hiện các mục tiêu đã định trước. Kế hoạch
hóa chiến lược kinh doanh là quá trình lặp đi lặp lại công tác hoạch định và tổ chức
thực hiện chiến lược kinh doanh đã hoạch định.
Thứ hai, xây dựng quy hoạch phát triển của ngân hàng thương mại: Quy
hoạch phát triển liên quan đến các yếu tố tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội và công
nghệ. Quy hoạch phát triển ngân hàng thương mại được coi là việc xây dựng trước
một kế hoạch để đánh giá thực trạng của ngân hàng thương mại trong hiện tại, dự
báo phát triển của ngân hàng thương mại trong tương lai và lựa chọn một chương

trình hành động phù hợp để tạo được nhiều cơ hội sẵn có nhất cho sự phát triển ngân
hàng thương mại trong tương lai.
Thứ ba, xây dựng kế hoạch phát triển của ngân hàng thương mại: Kế hoạch
phát triển ngân hàng thương mại là hình thức chủ yếu trong công tác kế hoạch hóa
ngân hàng thương mại. Chức năng của kế hoạch là cụ thể hóa chiến lược dài hạn,
những phương hướng chủ yếu phát triển ngân hàng thương mại và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả của ngân hàng thương mại.
1.2.2.2. Ứng dụng khoa học công nghệ vào kinh doanh của ngân hàng thương
mại
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng sâu sắc và khoa học công nghệ
16
phát triển như vũ bão, tiến bộ khoa học công nghệ trở thành yếu tố quan trọng nhất
trong tất cả các yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Bên cạnh việc đầu tư vào tài sản cố định, máy móc thiết bị thì đầu tư vào công
nghệ góp phần quyết định chất lượng sản phẩm, quyết định giá thành sản phẩm từ đó
quyết định khách hàng và sự chiếm lĩnh của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu công
nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất thấp, tiêu hao nguyên vật liệu và năng lượng cao,
gây ô nhiễm môi trường, cuối cùng là sản xuất ra sản phẩm không thoả mãn nhu cầu
thị trường về giá cả và chất lượng.
Trong khi đó, áp lực từ phía khách hàng đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản
phẩm, cùng với bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt sẽ luôn luôn tạo sức ép
phải đổi mới công nghệ, phương thức sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp. Đứng trước vấn đề này các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng đổi mới
tư duy, phương thức sản xuất và đầu tư công nghệ hiện đại.
Đối với các NHTM cũng vậy, ngày nay, trong điều kiện công nghệ cao, các
NHTM khó có thể cạnh tranh nếu chỉ duy trì những phương thức cung ứng dịch vụ
truyền thống. Để theo kịp mức phát triển kinh tế, theo đó là mức sống và chất lượng
cuộc sống tăng lên, các ngân hàng phải sử dụng công nghệ thông tin hiện đại để đưa
tiện ích tới từng doanh nghiệp từng người dân. Ngân hàng cần tính toán kỹ phương
án đầu tư vào mức công nghệ ngân hàng nào để đáp ứng nhu cầu của thị trường và

giữ được thị phần dịch vụ.
Cũng chính sự thay đổi công nghệ sẽ dẫn tới sự thay đổi về cơ cấu lao động,
trong đó lao động có trình độ chuyên môn sâu sẽ có lợi thế, còn lao động giản đơn
có kỹ năng thấp sẽ bị đe doạ. Vì vậy, các ngân hàng khi có ý tưởng đổi mới công
nghệ, thiết bị cần phải tính đến yếu tố việc làm, thu nhập, để tránh làm ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và không gây áp lực việc làm, thu nhập
cho xã hội và người lao động.
Khi ngân hàng đầu tư công nghệ mới cần có kế hoạch đào tạo, tuyển dụng nhân
lực để đáp ứng vận hành ngay được thiết bị, quy trình công nghệ, đảm bảo tính liên
kết công nghệ giữa các ngân hàng và tính độc đáo về công nghệ của mỗi ngân hàng.
17
1.2.2.3. Nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy của ngân hàng thương mại
Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người, là một trong những nguồn
lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được hiểu trên
hai khía cạnh. Thứ nhất, nguồn nhân lực là toàn bộ sức lao động và khả năng hoạt
động của lực lượng lao động xã hội. Thứ hai, nguồn nhân lực là sức lao động, trình
độ, ý thức của từng cá nhân và mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân. Mặt thứ hai nói
lên chất lượng của nguồn nhân lực và đang ngày càng được chú trọng, quan tâm
hơn.
Để tồn tại và không ngừng phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp mà ở đây là các
NHTM phải biết đầu tư và sử dụng một cách hiệu quả các nguồn lực của mình.
Trong đó, nguồn nhân lực với nguồn tri thức sáng tạo vô tận là nguồn lực duy nhất
có khả năng suy nghĩ về những thay đổi và làm cho những thay đổi này được thực
hiện, là nguồn lực khiến cho các nguồn lực khác hoạt động và được xem là nguồn
lực quý giá nhất trong việc tạo động lực phát triển cho ngân hàng, là chìa khoá để
giải quyết mọi vấn đề, là nhân tố quyết định mọi sự thành bại trong các hoạt động
của ngân hàng.
Trong bất kỳ một tổ chức hay ngân hàng nào, nếu có được những con người
nhiệt tình với công việc, năng động, dám nghĩ, dám làm, chịu trách nhiệm vì công
việc thì mới có thể giải quyết tốt được một loạt các bài toán đặt ra như: tìm thị

trường, quyết định lựa chọn sản phẩm, dịch vụ và thiết bị công nghệ đưa vào hoạt
động, Và khi những vấn đề này được giải quyết tốt thì lập tức ngân hàng sẽ tạo ra
được những sản phẩm, dịch vụ có giá trị cao với chi phí thấp và một loạt các vấn
đề khác liên quan cũng sẽ được giải quyết nhanh chóng, có hiệu quả.
Một đặc thù của ngân hàng là cán bộ ngân hàng trực tiếp thực hiện các nghiệp
vụ ngân hàng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ đến cho khách hàng, thực hiện các
chiến lược, định hướng của lãnh đạo. Do đó, ngân hàng nào có được đội ngũ cán bộ
có trình độ, cơ cấu hợp lý ngân hàng đó sẽ có điều kiện hoạt động có hiệu quả. Vấn
đề đó đặt ra cho mỗi ngân hàng phải có chế độ thu hút, đãi ngộ nhân tài, có chính
sách đào tạo cho cán bộ của mình để nâng cao và cập nhật kiến thức. Ngày nay, cuộc
18
cạnh tranh giữa các ngân hàng, suy cho cùng là sự ganh đua giữa các nhân tài.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực được thực hiện dưới các hình thức: đầu tư vào
công tác đào tạo, tuyển dụng, chế độ tiền lương, tiền thưởng, đầu tư cho cải thiện
môi trường làm việc của người lao động, đầu tư xây dựng cơ chế điều hành hữu
hiệu, cho công tác thi đua khen thưởng… Các hoạt động đầu tư đó đảm bảo lợi ích
của người lao động, làm cho người lao động nhận thấy được lợi ích của mình gắn bó
chặt chẽ với lợi ích của ngân hàng. Nhưng trước hết là đầu tư vào bộ máy nhân sự
lãnh đạo, quản trị, điều hành của ngân hàng, với khả năng đưa ra quyết định ứng phó
trước diễn biến của thị trường.
1.2.2.4. Thị trường và phát triển thị trường của ngân hàng thương mại
Thị trường là môi trường kinh doanh rất quan trọng đối với các NHTM. Thị
trường vừa là nơi tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm các đầu vào thông qua hoạt động
mua- bán hàng hoá dịch vụ đầu ra và các yếu tố đầu vào. Thị trường đồng thời còn là
công cụ định hướng, hướng dẫn hoạt động của các NHTM, thông qua mức cầu, lãi
suất, lợi nhuận để định hướng chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Như vậy, sự ổn
định của thị trường có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của NHTM . Để
nâng cao vai trò thị trường đối với các NHTM cần có sự can thiệp của nhà nước
nhằm ổn định thị trường (hạn chế những biến động lớn của thị truờng), ổn định cân
đối vĩ mô, tạo lập môi trường cạnh tranh tích cực, lành mạnh, cải tiến quy trình sản

xuất, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, đổi mới và đa dạng hoá sản
phẩm tạo động lực cho NHTM phát triển.
Để tạo lập và duy trì môi trường thị trường ổn định và hiệu quả thì nhà nước cần
xây dựng và thực hiện tốt pháp luật nhằm khuyến khích cạnh tranh tích cực, chống
độc quyền, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý nghiêm các hành vi gian lận thương
mại Trong điều kiện thị trường lành mạnh và ổn định thì các NHTM mới có điều
kiện thuận lợi cho việc gia nhập thị trường, tạo ra nhiều nhà cung cấp cũng như
nhiều đối tác kinh doanh, nhiều khách hàng của NHTM.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân
hàng thương mại
19
1.2.3.1. Cỏc chớnh sỏch ca nh nc
Nhà kinh tế học Franc Ellis cho rằng, chính sách đ ợc xác định nh là đờng lối
hành động mà Chính phủ lựa chọn với mọi lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả mục tiêu
mà Chính phủ tìm kiếm và lựa chọn các phơng pháp để theo đuổi các mục tiêu đó.
Mỗi chính sách thờng không tồn tại riêng rẽ, mà bao giờ cũng có sự liên kết và tác
động qua lại với các chính sách khác. Chính sách thờng có tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến một diện rất rộng các tầng lớp dân c trong xã hội theo những mức độ
khác nhau. Nó có thể mang lại những lợi ích khác nhau cho những tầng lớp dân khác
nhau, do đó, mức độ hởng ứng đối với mỗi chính sách trong mỗi tầng lớp dân c là
khác nhau.
Chức năng của hệ thống các chính sách là tạo ra những kích thích cần thiết để
biến các mục tiêu đề ra thành hiện thực, thông qua việc khai thác, khai thông và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực. Các chính sách mang lại hiệu quả cao khi nó phù
hợp với điều kiện thực tế của đất nớc, của khu vực và quốc tế, khai thác tốt mọi
nguồn lực và cơ hội, hạn chế, xoá bỏ đợc các tác động phản kháng, ngợc chiều từ
mọi phía.
Cỏc chớnh sỏch l yu t tỏc ng n mụi trng kinh t v mụ cng nh mụi
trng kinh doanh ca ngõn hng thng mi núi riờng.
Hot ng kinh doanh cỏc ca ngõn hng thng mi luụn tim n v cha

ng nhiu ri ro (k c ri ro trong hot ng v ri ro h thng) nờn ũi hi hot
ng ca cỏc ngõn hng thng mi phi chu s qun lý v giỏm sỏt cht ch ca c
quan nh nc núi chung v ca ngõn hng nh nc núi riờng thụng qua h thng
vn bn phỏp lut. Do vy, cỏc ngõn hng c t ch trong hot ng kinh doanh
ca mỡnh nhng phi tuõn th cỏc iu kin, quy nh ca phỏp lut nhm m bo
hot ng an ton v cú hiu qu. Chớnh vỡ vy, cỏc chớnh sỏch ca nh nc cú nh
hng rt ln n hot ng ca cỏc ngõn hng thng mi ng thi qua ú cng
cú tỏc ng n nng lc cnh tranh ca ngõn hng thng mi.
1.2.3.2. Quỏ trỡnh hi nhp kinh t quc t
Ton cu húa l quỏ trỡnh tng lờn mnh m nhng mi liờn h nh hng tỏc
ng ln nhau, ph thuc ln nhau ca tt c cỏc khu vc, cỏc quc gia, cỏc dõn tc
trờn th gii , lm ni bt hng lat bin i cú quan h ln nhau m t ú phỏt sinh
hng lot iu kin mi. Ton cu húa l kt qu ca cỏch mng lc lng sn xut
20
nhất là sự bùng nổ của cách mạng khoa học và công nghệ dẫn đến cách mạng hóa
quan hệ sản xuất . Đây là vấn đề mang tính qui luật, tất yếu khách quan.
Toàn cầu hóa về kinh tế là sự liên kết của nhiều nước trong chiều huớng phát
triển chung, tham gia hoạt động trong một thị trường chung, mang ý nghĩa của một
sự hội nhập vào hệ thống kinh tế thế giới, thúc đẩy nhanh chóng quan hệ kinh tế
thương mại trên phạm vi quốc tế . Toàn cầu hóa về kinh tế là xu thế khách quan chịu
ảnh hưởng của các nhân tố: sự phát triển cao của lực lượng sản xuất dẫn đến quốc tế
hóa sản xuất và phân công lao động quốc tế ; sự phát triển vượt bậc của khoa học và
công nghệ ra đời kinh tế tri thức; nền sản xuất vật chất phát triển cao đòi hỏi sự phân
công và hợp tác lao động ngày càng sâu trên phạm vi toàn thế giới. Nó tạo ra các tổ
chức thương mại, tài chính quốc tế và khu vực: WTO, IMF, WB, ADB, EU,
NAFTA, APEC… dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị, kinh tế , văn hóa, xã
hội rất lớn: UNDP, UNFPA, UNESCO, UNICEF, UNTAD, FAO …. đã và đang tác
động mạnh đến tất cả các nước trên phạm vi toàn cầu . Toàn cầu hóa về kinh tế là
quá trình phát triển ẩn chứa những cơ hội và thách thức rất to lớn, đòi hỏi mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia phải chủ động, tỉnh táo trong đón nhận toàn cầu hóa kinh tế, nhất

là đối với các nước đang phát triển và kém phát triển.
Gắn liền với quá trình toàn cầu hóa là sự hội nhập kinh tế của các nước vào
nền kinh tế quốc tế.
Từ giữa những năm 50 của thế kỷ 20, đã xuất hiện thuật ngữ hội nhập kinh tế
quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học
công nghệ giữa các nước trên qui mô toàn cầu; là quá trình tham gia giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu như : dân số, tài nguyên thiên nhiên, môi
trường, dịch bệnh nguy hiểm… là quá trình loại bỏ dần các hàng rào trong thương
mại quốc tế, thanh toán quốc tế và việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các
nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế có tính 2 mặt : mặt tích cực là tạo khả năng phát
triển có hiệu quả các nguồn lực trong nước và sử dụng nguồn lực quốc tế theo
nguyên lý lợi thế so sánh, thị trường mở rộng, trao đổi hàng hóa phát triển; dòng vốn
vượt biên giới quốc gia theo lợi thế so sánh có lợi cho nước đầu tư và nước nhận đầu
21
tư, thành tựu khoa học và công nghệ chuyển giao nhanh, ứng dụng rộng rãi, mạng
thông tin và giao thông vận tải phủ toàn cầu, giảm chi phí, tăng năng suất và hiệu
quả; tăng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, có lợi cho đấu tranh vì hòa bình,
hợp tác, phát triển.
Mặt tiêu cực là các nước phát triển thao túng, phân cực giàu nghèo thêm sâu
sắc; nền kinh tế toàn cầu hóa dễ bị chấn thương, trục trặc ở một khâu sẽ lan nhanh
toàn cầu; tự do hóa thương mại mang lại lợi ích nhiều hơn cho các nước phát triển;
kéo theo tội phạm xuyên quốc gia, bản sắc văn hóa dân tộc bị xâm hại.
Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng đã
trở thành xu thế tất yếu của nền kinh tế. Hội nhập kinh tế mang lại nhiều cơ hội cũng
như nhiều thách thức buộc các ngân hàng thương mại phải luôn tìm ra các giải pháp
để nâng cao hoạt động kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của mình. Thông
qua hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng thương mại trong nước có thể mở rộng
thị trường ra các nước khác trong khu vực và trên thế giới, đồng thời các đối thủ
cạnh ranh của ngân hàng thương mại không chỉ còn là các ngân hàng trong nước mà

còn là các tập đoàn tài chính lớn, ngân hàng lớn trên thế giới. Chính vì vậy đây cũng
chính là một yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại.
1.2.3.3. Năng lực cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh
Một là, trình độ và năng lực quản lý ngân hàng thương mại:
Một yếu tố ảnh hưởng đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ
doanh nghiệp nào là vai trò của những người lãnh đạo doanh nghiệp, những quyết
định của họ có tầm ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
Năng lực quản trị, kiểm soát và điều hành của nhà lãnh đạo trong ngân hàng có
vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả, an toàn trong hoạt động ngân
hàng. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo là yếu tố then chốt để ngân hàng có một chiến lược
kinh doanh đúng đắn trong dài hạn. Thông thường đánh giá năng lực quản trị,
kiểm soát, điều hành của một ngân hàng người ta xem xét đánh giá các chuẩn mực
và các chiến lược mà ngân hàng xây dựng cho hoạt động của mình. Hiệu quả hoạt
động cao, có sự tăng trưởng theo thời gian và khả năng vượt qua những bất trắc là
bằng chứng cho năng lực quản trị cao của ngân hàng.
22
Một số tiêu chí thể hiện năng lực quản trị của ngân hàng là:
- Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: bao gồm chiến lược marketing (xây
dựng uy tín, thương hiệu), phân khúc thị trường, phát triển sản phẩm dịch vụ.
- Cơ cấu tổ chức và khả năng áp dụng phương thức quản trị ngân hàng hiệu quả.
- Sự tăng trưởng trong kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hai là, trình độ thiết bị công nghệ: Đây là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến năng
lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của các NHTM. Một NHTM có trụ sở làm việc
khang trang, bề thế, cơ sở vật chất tiện nghi, đầy đủ sẽ tạo được tâm lý tốt và gây ấn
tượng với mỗi khách hàng khi đến giao dịch, từ đó sẽ thu hút được ngày càng nhiều
khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.
Mặt khác, khi NHTM muốn đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, đặc biệt là các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại thì cần phải có sự gắn kết chặt chẽ với yếu tố
công nghệ ngân hàng. Công nghệ ngân hàng tiên tiến, hiện đại sẽ giúp ngân hàng
cung cấp được cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ tiện ích, đáp ứng được nhu

cầu của khách hàng. Bên cạnh những sản phẩm dịch vụ truyền thống, ngày nay
khách hàng có nhu cầu ngày càng cao với những sản phẩm dịch vụ hiện đại gắn liền
với sự phát triển của khoa học công nghệ như thanh toán bằng thẻ, Internet banking,
Phone banking Tất cả những sản phẩm dịch vụ đó NHTM chỉ có thể cung cấp
được khi áp dụng những công nghệ hiện đại như máy rút tiền tự động ATM, máy
móc thẻ POS, các chương trình hỗ trợ hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.
Ba là, chất lượng nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại: Để phù hợp
với môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt vào tạo ra năng lực cạnh tranh cho
các sản phẩm dịch vụ của NHTM thì lợi thế thông qua con người được xem là yếu
tố căn bản.Phát triển nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực có năng lực, có
trình độ cao được coi là yếu tố then chốt mang lại sự thành công cho các NHTM.
Các NHTM muốn đưa ra được những sản phẩm dịch vụ tốt, có chất lượng để thu
hút được khách hàng và năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ thì cần phải có trong
tay một đội ngũ cán bộ có chất lượng. Chất lượng ở đây thể hiện ở nhiều mặt: về
chuyên môn nghiệp vu thì cần phải nắm vững, có kiến thức chuyên sâu, am hiểm
các mặt nghiệp vụ; về tác phong phải nhanh nhẹn, năng động; có đạo đức nghề
nghiệp, động cơ phấn đấu và mức độ cam kết gắn bó với NHTM. Hơn nữa, do đặc
thù của ngành ngân hàng là cung cấp các sản phẩm dịch vụ nên công tác chăm sóc,
23
phục vụ khách hàng lại càng quan trọng. Đối với bộ phận giao dịch trực tiếp với
khách hàng ngoài những yếu tố trên cần phải có thái độ niềm nở, chu đáo, tận tình
phục vụ và có khả năng tư vấn cho khách hàng. Đây chính là động lực để lôi kéo
khách hàng đến sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngày càng đông.
Bốn là, năng lực tài chính của ngân hàng thương mại: Năng lực tài chính của
NHTM thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài chính có, khả năng thanh toán và khả
năng sinh lời, khả năng tồn tại và phát triển một cách an toàn không để xảy ra đổ vỡ
hay phá sản. Để thực hiện mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dịch vụ,
các NHTM cần có vốn để mua sắm trang thiết bị, đầu tư công nghệ ngân hàng, đào
tạo nguồn nhân lực và mở rộng mạng lưới hoạt động Đối với các NHTM có quy
mô vốn nhỏ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư phát triển các sản phẩm dịch vụ

thì phải xây dựng chiến lược tăng vốn dài hạn, theo những lộ trình thích hợp, phù hợp
với nhu cầu phát triển và khả năng kiểm soát của mỗi NHTM trong từng thời kỳ.Vốn
chủ sở hữu của NH mẹ lớn hay nhỏ quyết định tới các dịch vụ:
- Dịch vụ tín dụng: Cho vay một khách hàng không quá 15% vốn chủ sở hữu.
Nếu vốn nhỏ sẽ mất cơ hội cho vay các dự án lớn, trong khi đó các NH nước ngoài
có cơ hội cạnh tranh.
- Dịch vụ đầu tư tài chính dài hạn (góp vốn, liên doanh, mua cổ phần của doanh
nghiệp khác) bị giới hạn tối đa 40% so với vốn chủ sở hữu.
- Đầu tư công nghệ thẻ, tin học khó thực hiện
Năm là, năng lực marketing của ngân hàng thương mại: Marketing có vị trí
quan trọng trong hoạt động của NHTM. Mục tiêu của marketing là phát triển và đưa
ra các loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới; ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện
đại để phục vụ khách hàng; nâng cao khả năng cạnh tranh và thu hút thêm khách
hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ, qua đó mở rộng thị phần hoạt động của NHTM.
Nhiệm vụ của marketing là xác định được các thị trường tiềm năng, lực chọn thị
trường cụ thể, làm sáng tỏ nhu cầu của khách hàng về sản phẩm dịch vụ và quan
trọng hơn là phải xây dựng được chương trình đồng bộ cũng như kế hoạch hoạt động
để đảm bảo thành công những mục tiêu chính của nó.
1.2.4. Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM.
Thứ nhất, nâng cao năng lực cạnh tranh để đảm bảo thị phần của NHTM
Trong cơ chế thị trường thì việc cạnh tranh là lẽ tất yếu, bởi chỉ có như vậy thì
xã hội mới phát triển. Hiểu được điều đó để doanh nghiệp nhận thấy sự khó khăn khi
24
tham gia vào bất cứ hoạt động kinh doanh nào. Muốn có lợi nhuận cao, muốn chiến
thắng một cách bền vững trong cuộc đấu tranh trên thương trường các doanh nghiệp
không thể xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh dựa trên việc nghiên cứu,
phân tích các yếu tố khách quan cũng như chủ quan có ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó có sách lược đúng đắn.
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, trong một thị trường
cùng có nhiều doanh nghiệp hoạt động thì vấn đề cạnh tranh càng trở nên phức tạp

và khốc liệt hơn. Với nền kinh tế thị trường luôn mở rộng cửa chào đón các doanh
nghiệp nhưng tạo ra cũng không ít những thách thức cho các doanh nghiệp, khi
doanh nghiệp đi vào hoạt động thì vấn đề làm thế nào để cạnh tranh với các doanh
nghiệp có cùng hàng hóa dịch vụ đang là mối quan tâm của hầu hết các doanh
nghiệp.
Cũng như nhiều ngành kinh tế khác, ngành kinh doanh ngân hàng cũng không
nằm ngoài quy luật cạnh tranh này. Ở Việt Nam sự có mặt của các ngân hàng trong
nước, ngân hàng nước ngoài hay các ngân hàng liên doanh đã làm cho hoạt động
ngân hàng ngày càng sôi động hơn. Để khai thác thị trường ngân hàng đạt hiệu quả
cao nhất mỗi ngân hàng đều có biện pháp cạnh tranh riêng, tùy thuộc vào năng lực
của mỗi ngân hàng. Hiện nay, với xu thế hội nhập nói chung và ngành ngân hàng
Việt Nam nói riêng để khẳng định vị thế trên thị trường bắt buộc các ngân hàng phải
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Thứ hai, nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM là nhân tố quyết định sự
thành công của NHTM trong phát triển kinh tế thị trường và trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế
Để tồn tại và phát triển, các NHTM cần cung cấp cho thị trường những sản
phẩm có chất lượng cao, lãi suất hợp lý và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Đó
chính là những dịch vụ có năng lực cạnh tranh chỉ có thể cung ứng bởi ngân hàng
có năng lực cạnh tranh. Do vậy, NHTM muốn duy trì sự tồn tại và phát triển thì cần
phải có năng lực cạnh tranh lành mạnh và bền vững. Môi trường cạnh tranh càng gay
gắt bao nhiêu, các NHTM càng cần tạo dựng năng lực cạnh tranh mạnh và bền vững
bấy nhiêu, đáp ứng nhu cầu trong phát triển kinh tế quốc dân. Nâng cao năng lực
25

×