Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.08 KB, 34 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng
với sự phát triển của đất nước, thủ đô Hà Nội và đã có bước phát triển nhanh, kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng lên, quốc
phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Để đẩy mạnh hơn nữa phát
triển kinh tế xã hội Thành phố Hà Nội tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Hiện nay, trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới đặt tất cả các quốc gia
trước những cơ hội và thác thức to lớn, đòi hỏi Quốc gia phải xây dựng cho mình
một nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc, đảm bảo quốc phòng an ninh. Từ lý do
trên, em đã tìm hiểu và nghiên cứu đề tài :“Thực trạng và một số giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển kinh tế Thành phố Hà Nội ” để từ đó thấy rằng vùng có rất
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, tuy nhiên vùng vẫn chưa phát huy được hết
tiềm năng và lợi thế của mình. Chính vì vậy mà vùng cần phải tiếp tục đổi mới và
tập trung nguồn lực, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát huy cao độ tiềm
năng kinh tế của Thành phố .
Với kiến thức lý luận và thực tiễn còn nhiều hạn chế nên đề tài còn những sai
lầm và thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy để đề tài của em
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ
TÀI :
- Đánh giá thực trạng kinh tế của Thành phố Hà Nội
- Đưa ra được một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế Thành phố
Hà Nội
1
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này nghiên cứu các vấn đề tiềm năng, hạn chế, đánh giá thực trạng
kinh tế của Thành phố Hà Nội .



Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian
Đề tài được tiến hành trên phạm vi Thành phố Hà Nội
- Phạm vi thời gian
Đề tài sử dụng các số liệu từ năm 2005 đến 2010
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
4.1. Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
4.2. Phương pháp thu thập số liệu
4.3. Phương pháp xử lý, phân tích số liệu
- Phương pháp toán
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp bình quân
4.4. Phương pháp so sánh
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế, nó phản ánh quy mô tăng lên hay
giảm đi của nền kinh tế ở năm này so với năm trước đó hoặc của thời kỳ này so với
thời kỳ trước đó. Tăng trưởng kinh tế có thể biểu hiện bằng qui mô tăng trưởng và tốc
độ tăng trưởng. Qui mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng lên hay giảm đi nhiều hay
ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự
gia tăng nhanh hay chậm của nền kinh tế giữa năm hay các thời kỳ. Để đo lường tăng
trưởng kinh tế người ta thường dùng hai chỉ số chủ yếu: phần tăng, giảm quy mô của
nền kinh tế (tính theo GDP), hoặc tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính theo GDP).
Ngày nay, tăng trưởng kinh tế được gắn với số lượng và chất lượng tăng trưởng.
Mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở qui mô, tốc độ của tăng trưởng.
Còn mặt chất lượng của tăng trưởng kinh tế là tính qui định vốn có của nó, là sự thống
nhất hữu cơ làm cho hiện tượng tăng trưởng kinh tế khác với các hiện tượng khác. Chất

lượng tăng trưởng được qui định bởi các yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa
các yếu tố cấu thành nên tăng trưởng kinh tế.
2. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là khái niệm có nội dung phản ánh rộng hơn so với khái
niệm tăng trưởng kinh tế. Nếu như tăng trưởng kinh tế về cơ bản chỉ là sự gia tăng
thuần tuý về mặt lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: GNP, GNP/đầu người hay
GDP, GDP/đầu người… thì phát triển kinh tế ngoài việc bao hàm quá trình gia tăng
đó, còn có một nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến đổi về
mặt chất của nền kinh tế – xã hội, mà trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
3
hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa và kèm theo đó là việc không ngừng nâng
cao mức sống toàn dân, trình độ phát triển văn minh xã hội thể hiện ở hàng loạt tiêu
chí như: thu nhập thực tế, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, trình độ dân
trí, bảo vệ môi trường, và khả năng áp dụng các thành tựu khoa học – kỹ thuật vào
phát triển kinh tế – xã hội.
3. Phát triển bền vững :
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi trường
từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong Báo cáo “Tương
lai chung của chúng ta” của Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED)
của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được định nghĩa “là sự phát triển đáp ứng
được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ mai sau”.
4
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KINH TẾ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Hà Nội là Thành phố có dân cư đông đúc và lịch sử phát triển lâu đời gắn với
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Thủ đô Hà Nội và các tỉnh thành phố quan
trọng như Hải Phòng, Quảng Ninh đã hình thành trung tâm đầu não chính trị của
nhà nước, cơ quan điều hành của các Tổ chức kinh tế lớn và các cơ sở đào tạo,
nghiên cứu và triển khai của quốc gia. Vì thế, có thể khẳng định rằng: Thành phố

Hà Nội đã, đang và sẽ giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát
triển của Tổ quốc.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cùng
với sự phát triển của đất nước, Thủ đô Hà Nội đã có bước phát triển nhanh, kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng lên, quốc
phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
2.1. Những hạn chế khó khăn của Thành phố Hà Nội :
2.1.1.Dân số đông, phân bố không đồng đều, chất lượng lao động chưa cao, và có
sức ép giải quyết việc làm lớn :
Tính đến thời điểm 1/4/2009, Thành phố Hà Nội có diện tích là 3344,60 km
2
là Thành phố có diện tích lớn nhất cả nước . Với số dân là 6,4722 triệu người, mật
độ dân số là 1932 người/km
2
(gấp 8 lần mật độ dân số trung bình cả nước ). Tuy
nhiên, dân số lại tập trung đông nhất tại trung tâm Thành phố Hà Nội ( Hà Nội chưa
mở rộng ) gây ra sức ép lớn trong giải quyết việc làm , nâng cao chất lượng đời
sống
Thành phố Hà Nội mặc dù có chất lượng lao động khá nhất trong cả nước ở
một số lĩnh vực nhưng nhìn chung chất lượng lao động của Thành phố chưa đáp
ứng được yêu cầu đặt ra. Hầu hết các chủ đầu tư FDI khi đầu tư vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất phải mất vài tháng đào tạo đối với các lao động không phức
5
tạp hoặc cử các lao động có trình độ kĩ thuật đi tu nghiệp tại nước ngoài. Điều này
làm tăng chi phí và thời gian đối với các công ty muốn đầu tư vào Thành phố và
làm giảm tính hấp dẫn của nơi đây. Các lao động trong Thành phố chủ yếu hoạt
động trong các lĩnh vực như lắp ráp máy móc, hoặc tham gia vào những ngành sản
xuất có tiền lương thấp như dệt may, da giày, …
2.1.2. Kết cấu hạ tầng (nhất là giao thông, điện) chưa tạo đủ điều kiện để phát triển
nhanh và hiệu quả cao :

So với nhiều tỉnh & Thành phố trong nước, Thành phố Hà Nội tuy có lợi thế về
các công trình hạ tầng được đầu tư nhiều, tuy nhiên đa số lại rất khó cải tạo, nâng cấp và
mở rộng các công trình hiện có đặc biệt là đường giao thông, đường điện nước. Nguyên
nhân chủ yếu là do việc quy hoạch không hợp lý và thiếu diện tích đồng thời rất tốn kém
khi phải đền bù tiền giải phóng mặt bằng. Nhiều khu đô thị mới nhanh chóng xuống
cấpvà thiếu các khu dịch vụ hoặc các kết cấu hạ tầng xã hội đi kèm nên đã không thể
phát huy được hiệu quả.
Hệ thống vận tải chưa được tổ chức và vận hành đồng bộ, gây cản trở cho việc
thông thương. Giao thông đô thị hiện là một trong những vấn đề lớn. Tính đến năm
2008, riêng số xe máy đăng kí ở trung tâm TP Hà Nội là hơn 2,4 triệu xe máy. Ở các đô
thị , đa số người dân sử dụng xe gắn máy. Ở Hà Nội đang có xu hướng chuyển từ xe gắn
máy sang xe ô tô và số xe ô tô hiện lên tới 220 nghìn xe. Các điểm đỗ xe máy và xe hơi
đã lấn chiếm đáng kể lối đi dành cho người đi bộ. Mặc dù tình trạng tắc nghẽn giao
thông ở Hà Nội chưa đến mức trầm trọng như một số đô thị trên thế giới, nhưng cũng đã
bắt đầu gây ảnh hưởng xấu tới hiệu quả kinh tế. Theo báo cáo, ở Hà Nội (chưa mở rộng),
diện tích đường quá nhỏ, chỉ chiếm khoảng 6,8% diện tích đô thị, trong khi trung bình
thế giới là 15% – 25%. Trên thực tế, không gian giao thông vẫn đang bị chiếm dụng cho
các mục đích khác, chủ yếu là để kinh doanh hoặc để làm nhà ở. Nhiều con đường trong
đô thị, ven đô thị, trong các làng và đường nội đô bị giảm hiệu suất sử dụng do vi phạm
hành lang giao thông.
Mật độ dân số quá cao đặc biệt là ở trung tâm Thành phố dẫn đến căng thẳng về
việc làm với một diện tích nhỏ hẹp, dân số đông nên việc bố trí không gian lãnh thổ của
6
Thành phố gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là việc phát triển, xây dựng thêm các trục
đường giao thông, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các khu đô thị. Tiền bồi thường
khi giải phóng mặt bằng thường rất cao. Để phát triển, Thành phố Hà Nội bắt buộc phải
đi vào chiều sâu, phải chồng GDP lên một không gian nhỏ bé. “Giá đất tại Hà Nội và các
vùng lân cận rất đắt. Ước tính gần đây cho thấy giá 1m
2
đất ở Hà Nội hoặc các tỉnh lân

cận cao gần bằng Nhật Bản, trong khi thu nhập quốc dân đầu người chỉ bằng 2% của
Nhật Bản. Đây là một biến dạng kinh khủng gây khó khăn cho quá trình phát triển hợp lý
của công nghiệp và đô thị hóa… Điều này gây ra rất nhiều khó khăn. Nông dân không
muốn giao đất theo mức đền bù dựa trên giá trị “cũ” là đất nông nghiệp – thường chỉ
chưa đầy 1 USD/m
2
– mà chỉ muốn bán với giá đất phi nông nghiệp. Ngay ở các tỉnh
mức giá này cũng có thể lên tới trên 100 USD/m
2
và đôi khi lên tới trên 1000 USD/m
2
.
Khó khăn về đền bù đã dẫn đến những trì hoãn và những tranh chấp kéo dài ở các
tỉnh
quanh Hà Nội – những vấn đề đó có thể làm trì trệ đầu tư và tăng trưởng… vì chi phí cho
nhà ở và chi phí cho các doanh nghiệp mới thành lập tăng lên”.
(Nguồn: CIEM-UNDP: Lịch sử hay chính sách: Tại sao các tỉnh phía Bắc không tăng
trưởng nhanh hơn? Hà Nội – Việt Nam, tháng 6/2004)
2.1.3. Cơ cấu ngành nghề chưa hiện đại, trình độ công nghệ còn thấp, hiệu suất phát
triển chưa cao dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp:
Nhìn chung , hiệu quả sản xuất trong vùng còn tương đối thấp cụ thể là năng suất lao
động các ngành nghề thấp, tiêu hao điện cao, hệ số ICOR cao… Trình độ khoa học công
nghệ - kỹ thuật và trình độ quản lý của các cơ sở sản xuất còn thấp xa so với khu vực và
thế giới, các sản phẩm công nghiệp chủ yếu đều thuộc nhón thay thế nhập khẩu, chu kỳ
sản phẩm ngắn, năng lực cạnh tranh yếu. Đi liền với tình trạng đó là phát triển chưa bền
vững (phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài, thiếu điện, tắc nghẽn giao thông…) và
khả năng cạnh tranh thấp. Các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp còn yếu. Trong nền kinh tế
thị trường, các cơ sở kinh doanh đều rất cần các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp từ phía các
7
cơ quan công quyền cũng như một thể chế hỗ trợ thị trường mà dựa vào đó, các hoạt

động dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển như hỗ trợ thông tin, hỗ trợ pháp lý, tư
vấn… TP Hà Nội tuy là nơi có các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp khá hơn nhiều tỉnh và
các TP khác, nhưng so với yêu cầu hội nhập và phát triển thì còn yếu. Quán tính của cơ
chế kế hoạch hóa tập trung có thể là một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình hình
này.
Giai đoạn vừa qua, trong khi các khu công nghiệp, khu chế xuất phát triển nhanh,
nhưng công tác quản lý và quy hoạch của vùng này còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển nhanh cả về kinh tế lẫn xã hội. Nhiều vấn đề liên quan tới
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tạo công ăn việc làm, quy hoạch kiến trúc đô thị,…
đang được đặt ra cần phải có những nghiên cứu hoàn chỉnh, tổng thể nhằm giải quyết
những yếu kếm bất cập này.
2.1.4. Tổ chức lãnh thổ đã có bước phát triển nhưng còn tồn tại nhiều bất hợp lý
Sự phối hợp giữa các vùng chưa đảm bảo phát triển cân đối và hài hòa trong
toàn Thành Phố. Chế độ kế hoạch hóa tập trung gây ra tình trạng trì trệ kéo dài, tâm lý
ỉ lại, thụ động, tình trạng hành chính hóa, cát cứ địa phương ở trong Thành Phố còn rất
nặng nề là một chướng ngại cực lớn đối với quá trình đổi mới và mở của, chuyển
đổi cơ chế kinh tế hiện nay. Từng quận , từng huyện là một đơn vị kinh tế - xã hội
độc lập. Sự liên kết gắn bó giữa các quận, huyện với nhau lỏng lẻo, không tạo được
sự phân công lao động trong Thành phố. Do đó, thiếu bổ xung, hỗ trợ lẫn nhau,
chưa tạo thành được sức mạnh tổng hợp, làm cơ sở cho tăng năng suất lao động,
tăng hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thêm vào đó sự chênh lệch giàu nghèo của Thành phố còn rất lớn, đặc
biệt tỉ lệ nghèo đô thì có xu hướng tăng . Điều tra nghèo đô thị 2009 (UPS-09) là
8
hoạt động nằm trong dự án “Hỗ trợ đánh giá sâu về nghèo đô thị ở Hà Nội và TP.
Hồ Chí Minh”. Dự án được triển khai dưới sự hỗ trợ của Chương trình Phát triển
Liên hợp quốc (UNDP) nhằm thu thập thông tin, phân tích và đánh giá tình trạng
nghèo ở hai thành phố lớn nhất cả nước.
Kết quả điều tra cho thấy, tuy tỷ lệ hộ nghèo trong phạm vi cả nước theo
chuẩn nghèo của Chính phủ tiếp tục giảm, nhưng tỷ lệ nghèo tại Thành phố Hà Nội

lại có xu hướng tăng. Sự chênh lệch về thu nhập giữa nhóm người nghèo nhất và
giàu nhất gấp trên 6 lần. Cụ thể, trong năm 2009, thu nhập bình quân một
người/tháng của Thành phố là 2,321 triệu đồng theo giá hiện hành. Thu nhập bình
quân của nhóm hộ nghèo nhất là 805 nghìn đồng/người/tháng và nhóm giàu nhất là
5,219 triệu đồng/người/tháng (chênh lệch giàu nghèo là 6,5 lần).
Hệ số bất bình đẳng về thu nhập GINI (nhận giá trị từ 0 - hoàn toàn bình
đẳng đến 1 – hoàn toàn bất bình đẳng) cao nhất từ trước đến nay là 0,37 cho thấy
mức độ chênh lệch thu nhập và phân hóa giàu nghèo ở Thành phố ngày càng rõ nét.
Tỷ lệ dân nhập cư ngày càng đông làm gia tăng tỷ lệ nghèo ở khu vực đô
thị. Trong khi đó, việc làm của họ luôn trong tình trạng bấp bênh, thu nhập thấp.
Điều này chính là lý do cản trở họ tiếp cận đến các dịch vụ xã hội và an sinh. Hay
nói cách khác, họ đang bị đẩy ra khỏi các dịch vụ này. UPS-09 cũng cho thấy, Hà
Nội là đô thị lớn với các chỉ tiêu kinh tế xã hội ở mức cao. Tuy nhiên, vẫn tồn tại
chênh lệch về thu nhập cũng như tiếp cận các dịch vụ xã hội giữa các nhóm dân cư,
đặc biệt là nhóm dân di cư không hộ khẩu và dân thường trú có đăng ký hộ khẩu.
Dân di cư chiếm tỷ trọng lớn trong dân số và có xu hướng tăng lên.
Hà Nội là một trong hai thành phố có mức và tốc độ đô thị hóa đạt cao nhất.
Năm 2010, Tỷ lệ đô thị hóa đạt ở Hà Nội là 30 - 32%. Quá trình đô thị hóa của Hà
Nội đã phát triển mạnh theo chiều rộng và có sức lan tỏa mạnh (đô thị hóa theo
chiều rộng). Tuy nhiên các vấn đề như Chất lượng nguồn nhân lực , phát triển cơ sở
9
hạ tầng , ô nhiễm môi trường…là những khó khăn lớn trong quá trình đô thị hóa của
TP Hà Nội.
2.2. Tiềm năng và lợi thế của Thành phố Hà Nội :
2.2.1. Thành phố Hà Nội có thực lực và trình độ phát triển khá hơn so với nhiều
tỉnh , Thành phố trong cả nước :
Năm 2009, GDP/người của Hà Nội đã đạt tới 32 triệu đồng, trong khi đó mức thu
nhập trung bình quả cả nước chỉ đạt khoảng 17- 18 triệu đồng/người. Theo xu
hướng này, dự báo đến 2015, với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 9 -9,5%, thu nhập
bình quân đầu người của Hà Nội sẽ lên tới 72-73 triệu đồng (tương đương với xấp

xỉ 4000$).Tốc độ tăng trưởng GDP theo giá thực tế giai đoạn 2006-2009 là 27,1% .
Từ năm 1990 đến nay, cơ cấu ngành kinh tế của Hà Nội có sự chuyển dịch khá tích
cực. Ngành dịch vụ có xu hướng giảm tỷ trọng phản ánh xu thế tăng trưởng mạnh
của ngành công nghiệp. Với tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 53,61% (năm 2009), tỷ
trọng ngành phi nông nghiệp (công nghiệp và dịch vụ) chiếm khoảng 98%, kinh tế
Hà Nội được xem như ở trình độ phát triển khá cao xét theo các tiêu chí phân kỳ
phát triển kinh tế.
2.2.2. Thành phố Hà Nội có lợi thế về quy mô dân số, lực lượng lao động dồi dào và
tay nghề khá ở trong những ngành nghề quan trọng :
Tính đến thời điểm 1/4/2009 , Dân số TP Hà Nội là 6,472 triệu người , chiếm
khoảng 7,5 dân số cả nước . Trình độ học vấn của các nhóm dân cư, trình độ văn
hóa chung của người Hà Nội ở mức cao hơn so với các vùng khá trong cả nước.
Thủ đô Hà Nội là nơi tập trung nguồn nhân lực khoa học – công nghệ được đào
tạo có bằng cấp cao. Tại đây, có mạng lưới gần 600 cơ quan khoa học và công nghệ
kể cả của Trung ương và tỉnh, thành phố trong tổng số cả nước có trên 1200 cơ
quan khoa học và công nghệ (Viện, Trung tâm,…). Ngoài ra, vùng thủ đô Hà Nội
10
còn có 63 trường đại học trong tổng số 230 trường đại học của cả nước (chiếm
30%).
Trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, xây dựng nền kinh tế trí thức và nâng cao
năng lực cạnh tranh, lợi thế to lớn trên về nguồn nhân lực so với các vùng khác đã
tạo ra một sức mạnh cạnh tranh hấp dẫn cho Thành phố .
2.2.3. Thành phố có một hệ thống đô thị và các cơ sở tương đối mạnh
Hà Nội có một sự phát triển lâu đời, Hà Nội từ lâu đã trở thành một trung
tâm kinh tế lớn trong cả nước và kèm theo đó là nhiều cơ sở kinh tế, các doanh
nghiệp có tiềm lực khá, tạo điều kiện cho xã hội có bước phát triển tốt. Hà Nội đã
thu hút được các tập đoàn lớn trong nước và quốc tế đầu tư vốn, công nghệ, ví dụ
như Canon, LG, Toyota… Tỷ lệ phần trăm đường được dải nhựa của Thành phố đạt
mức cao . Các trục đường lớn: Quốc lộ 1, 5, 10, 18 đã hoàn thành việc nâng cấp
hoặc đang được cải tạo, đang tiến hành xây dựng tuyến đường mới Láng - Hòa

Lạc…
Hà Nội là nơi tập trung nhiều ngành công nghiệp của đất nướcvà cơ cấu công
nghiệp tương đối phát triển so với các vùng khác. Các ngành dịch vụ phát triển với
nhịp độ ngày càng tăng và thu hút nhiều lao động, các dịch vụ quan trọng như vận
tải, viễn thông, tài chính – ngân hàng, thương mại đều đật tốc độ tăng trưởng cao.
Mô hình kinh doanh các loại hình dịch vụ ngày càng được đổi mới theo hướng hiện
đại, chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao với các trung tâm phát triển dịch
vụ lớn…
2.3. Thực trạng phát triển kinh tế Thành phố Hà Nội thời kỳ 2005- 2008
2.3.1. Giá trị sản xuất công nghiệp
Trong hai năm 2006 - 2007 giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng của khu
vực công nghiệp và xây dựng đạt kết quả cao nhất. sản phẩm công nghiệp trong giai
đoạn này phát triển ngày càng đa dạng và phong phú hơn về chủng loại, chất lượng
được cải thiện, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo cung cầu nền kinh
tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu . Năm 2007 ,
tổng giá trị sản xuất công nghiệp theo so sánh năm 1994 của TP Hà Nội là 56.213
11
tỷ đồng . Đến năm 2008, sau khi mở rộng tổng giá trị đó đã tăng lên 63.903 tỷ đồng
và xếp thứ 2 cả nước chỉ sau TP. Hồ Chí Minh với tổng giá trị là 137.894 tỷ đồng .
Hiện nay, Hà Nội đang tập trung phát triển một số ngành, sản phẩm công nghiệp
công nghệ cao, kĩ thuật cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử, cơ khí chế
tạo, sinh học, hóa phẩm, phát triển mạnh công nghiệp bổ trợ của trong nước để
giảm nhập khẩu, hạ giá thành và nâng dần giá trị nội địa của sản phẩm.
12
Bảng 01: Giá trị sản xuất công nghiệp tính theo giá năm 1994 của 1 số tỉnh Thành trong cả nước
2005 2006 2007 2008 Tốc độ tăng trưởng (%)
2006/2005 2007/2006 2008/2007 BQ 2005-2008
Cả nước
416.613 486.637 568.141 647.232 116,8 116,7 113,9 115,8
Hà Nội

34.560 41.694 56.213 63.903 120,6 134,8 99,2 114,2
Hà Tây
5.316 6.458 7.388 - 121,5 114,4 - -
Hải Phòng
17.625 20.776 24.323 28.336 117,9 117,1 116,5 117,1
Thanh Hóa
7.180 7.908 8.368 9.749 110,1 105,8 116,5 110,8
Nghệ An
3.005 3.215 3.515 4.282 106,9 115,5 115,3 112,6
Đồng Nai
34.741 42.473 50.844 61.040 122,3 119,7 120,1 120,8
Bà rịaVũng tàu
37.243 41.176 41.849 41.872 110,6 101,6 100,1 104,1
TP.HCM
98.404 110.928 125.113 137.894 112,7 112,8 110,2 111,9

(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
13

2.3.2.Giá trị sản xuất Nông nghiệp :
Vượt qua nhiều khó khăn thách thức, thiên tai, dịch bệnh,… ngành nông
nghiệp trong giai đoạn này đã phát triển với tốc độ tăng khá 6,2%/năm. Sự phát triển
ổn định của nông nghiệp đã tạo điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế, ổn định xã
hội và nâng cao đời sống nhân dân; đồng thời tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm
công nghiệp và dịch vụ, nhất là trong điều kiện xuất khẩu giai đoạn này đang gặp khó
khăn do thị trường bị thu hẹp, giá cả xuất khẩu xuống thấp.
Kinh tế nông thôn và đời sống nhân dân được cải thiện hơn trước. Việc tập
trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có
năng xuất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề tiểu thủ công
nghiệp,… đã có tác động tích cực tới việc phát triển sản xuất, tạo việc làm và xóa

đói giảm nghèo.
Sau khi mở rộng , Hà Nội đã có giá trị sản xuất Nông nghiệp lớn nhất trong
vùng Đồng bằng Sông Hồng : 5845 tỷ đồng . So với nhiều tỉnh và Thành phố trong
nước , Thành phố Hà Nội có lợi thế vượt trội về hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Đó
là hệ thống các công trình thuỷ lợi khá hoàn chỉnh; hệ thống giao thông, bến cảng
tiện lợi; hệ thống thông tin hiện đại; hệ thống các trạm trại kỹ thuật phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp và các trường đại học, viện nghiên cứu rất tập trung. Đó là lợi thế
mà các vùng khác trong thời gian ngắn không thể theo kịp.
Tuy nhiên, khó khăn nhất hiện nay mà Thành Phố Hà Nội gặp phải là sự biến mất
dần đất nông nghiệp. Quy hoạch các ngành dự báo, do phát triển đô thị và các khu
công nghiệp, dịch vụ, Thành phố Hà Nội có diện tích đất nông nghiệp bị mất nhiều
nhất.
Tuy nhiên, Thành phố Hà Nội vẫn cần tiếp tục hoàn chỉnh thủy lợi để duy trì
diện tịch gieo trồng, tăng năng suất để tăng sản lượng. Chuyển đổi cơ cấu phải
chuyển mạnh được sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, đa dạng và cơ cấu
hợp lý các loại sản phẩm có chất lượng, giá trị lớn, phù hợp với nền kinh tế thị
trường. Các sản phẩm nông nghiệp được tập trung phát triển: Lúa – gạo; rau, thực
phẩm cao cấp và trái cây; thịt gia súc, gia cầm; hoa và cây cảnh.
14
Bảng 02: Giá trị sản xuất nông nghiệp tính theo giá năm 1994 của Thành phố Hà Nội , vùng ĐBSH và cả nước
2005 2006 2007 2008
Tốc độ tăng trưởng (%)
2006/2005 2007/2006 2008/2007 BQ 2005-2008
Cả nước 137.112 142.711 147.847 156.682 104,1 103,6 106,0 104,5
Hà Nội 1.249 1.270 1.302 5.845 101,7 102,5 114,2 106,2
Hà Tây 3.614 3.730 3.814 - 103,2 102,3 - -
Vĩnh Phúc 1.638 1.699 1.737 1.653 103,7 102,2 95,2 100,3
Bắc Ninh 1.595 1.600 1.585 1.652 100,3 99,1 104,2 101,2
Quảng Ninh 966 863 956 953 89,3 110,8 99,7 99,5
Hải Dương 2.878 2.919 2.989 3.063 101,4 102,4 102,5 102,1

Hải Phòng 1.997 2.082 2.166 2.269 104,3 104,0 104,8 104,4
Hưng Yên 2.328 2.337 2.572 2.656 100,4 110,1 103,3 104,5
Thái Bình 3.817 3.939 4.026 4.195 103,2 102,2 104,2 103,2
Hà Nam 1.219 1.283 1.359 1.412 105,3 105,9 103,9 105,0
Nam Định 2.545 2.911 2.900 2.976 114,4 99,6 102,6 105,3
Ninh Bình 1.261 1.375 1.418 1.467 109,0 103,1 103,5 105,2
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
15
2.3.3. Giá trị sản xuất lâm nghiệp
Thành quả lớn nhất mà ngành lâm nghiệp đạt được trong những năm vừa qua là
vốn rừng được giữ vững và phát triển. Sở dĩ đạt được kết quả trên một mặt do công tác
trồng và khoanh nuôi tái sinh rừng đạt kết quả cao; mặt khác chủ trương đóng cửa rừng
để bảo vệ và phát triển vốn rừng đã được thực hiện nghiêm túc trong. Thực hiện chủ
trương này, phần lớn các lâm trường đã chuyển sang làm nhiệm vụ trồng và bảo vệ
rừng và làm dịch vụ lâm nghiệp cho cả vùng, việc khai thác gỗ giảm đến mức tối đa.
16
Bảng 03: Giá trị sản xuất Lâm Nghiệp tính theo giá năm 1994 của Thành phố Hà Nội , vùng ĐBSH và cả nước :
2005
(tỷ đồng)
2006
(tỷ đồng)
2007
(tỷ đồng)
2008
(tỷ đồng)
Tốc độ tăng trưởng (%)
2006/2005 2007/2006 2008/2007 BQ 2005-2008
Hà Nội
7 6 5 34 85,7 83,3 97,1 94,7
Hà Tây

28 31 30 - 110,7 96,8 - -
Vĩnh Phúc
38 39 36 36 102,6 92,3 100,0 98,2
Bắc Ninh
6 6 7 7 100,0 116,7 100,0 105,3
Quảng Ninh
118 123 131 143 104,2 106,5 109,2 106,6
Hải Dương
17 19 19 17 111,8 100,0 89,5 100,0
Hải Phòng
24 23 24 24 95,8 104,3 100,0 100,0
Hưng Yên
8 8 7 7 100,0 87,5 100,0 95,6
Thái Bình
11 12 11 10 109,1 91,7 90,9 96,9
Hà Nam
17 18 18 18 105,9 100,0 100,0 101,9
Nam Định
25 23 24 23 92,0 104,3 95,8 97,3
Ninh Bình
26 32 38 36 123,1 118,8 94,7 111,5
(Nguồn: Tổng cục Thống kê
17
Giá trị sản xuất lâm nghiệp từ năm 2005 đến năm 2008 của cả nước tăng bình
quân mỗi năm 2,3% . Nhìn chung giá trị sản xuất lâm nghiệp của Thành phố còn khá
thấp, tốc độ tăng trưởng không ổn định, có những năm giá trị sản xuất lâm nghiệp sụt
giảm rõ rệt như Hà Nội năm 2006-2007 giá trị sản xuất lâm nghiệp đã thấp nhất vùng
thì giá trị sản xuất lâm nghiệp lại giảm xuống chỉ bằng 83,3% so với năm 2005 –
2006. Không dừng lại ở đó, giá trị sản xuất lâm nghiệp của Hà nội vẫn tiếp tục giảm ở
những năm tiếp theo và không có dấu hiệu tăng lên của cả nước. Ngược lại với Hà

Nội có Quảng Ninh, cũng nằm trong vùng Đồng bằng Sông Hồng , cũng là một trung
tâm văn hóa, chính trị, kinh tế lớn của vùng nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp cũng
như tốc độ tăng trưởng lại khác hoàn toàn. Giá trị sản xuất lâm nghiệp của Quảng
Ninh lớn nhất vùng, năm 2008 đạt 143 tỷ đồng chiếm 40,3% giá trị toàn vùng, tốc độ
gia tăng bình quân hàng năm từ 2005 – 2008 cao, đạt 6,6% gấp 2,4 lần tốc độ tăng
toàn vùng và gần gấp 3 lần so tốc độ tăng trưởng của cả nước. Đây cũng là một điều
đáng lưu ý trong việc phát triển ngành Lâm nghiệp của Thành phố Hà Nội .
2.3.4. Giá trị sản xuất Thủy sản :
Nhìn chung, trong giai đoạn 2005-2008, giá trị sản xuất thuỷ sản bình quân ở
các tỉnh Đồng Bằng sông Hồng có xu hướng tăng, đặc biệt ở các vùng có vị trí địa lý
và điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển ngành Thuỷ sản như các tỉnh Quảng
Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, ngoài điều kiện sông ngòi nhiều còn có vị trí
giáp biển nên việc sản xuất thuỷ sản gặp nhiều thuận lợi, dẫn đến giá trị sản xuất thuỷ
sản ở các vùng này thường ở mức cao. Ngoài ra, các tỉnh có hệ thống sông ngòi phát
triển như Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, Bắc Ninh, Hà Tây… cũng có sản lượng
thuỷ sản khá cao. Hà Nội do điều kiện để phát triển ngành Thuỷ sản không nhiều, lại
có xu hướng tập trung phát triển thương mại và dịch vụ nên sản lượng thuỷ sản ở mức
thấp so với các tỉnh lân cận. Từ năm 2008, do sát nhập với tỉnh Hà Tây cũ, diện tích
đất đai được mở rộng, ngành Thuỷ sản có thêm điều kiện phát triển nên giá trị sản
xuất tăng vọt (từ 89 tỉ đồng lên 298 tỉ đồng), nhưng tốc độ sản xuất không
18
đồng đều, lại tập trung phát triển các ngành trọng điểm dẫn đến việc làm cho tốc độ
tăng trưởng Thuỷ sản giảm. Một số tỉnh khác do điều kiện phát triển thuỷ sản không
thuận lợi nên giá trị sản xuất không cao.
Qua đó, ta thấy cần tập trung vào các tỉnh gần biển để phát triển ngành Thuỷ sản, bên
cạnh đó cũng chú trọng tới các tỉnh có điều kiện tự nhiên thuận lợi nhưng ngành thuỷ
sản đạt giá trị chưa cao để tận dụng triệt để và có hiệu quả nguồn tài nguyên.
19
Bảng 04: Giá trị sản xuất Thủy sản tính theo giá năm 1994 của các tỉnh vùng ĐBSH
2005

(tỷ đồng)
2006
(tỷ đồng)
2007
(tỷ đồng)
2008
(tỷ đồng)
Tốc độ tăng trưởng (%)
2006/2005 2007/2006 2008/2007 BQ 2005-2008
Hà Nội
82 85 89 298 103,7 104,7 91,4 99,7
Hà Tây
189 200 237 - 105,8 118,5 - -
Vĩnh Phúc
75 81 90 101 108,0 111,1 112,2 110,4
Bắc Ninh
138 161 188 194 1167 116,8 103,2 112,0
Quảng Ninh
435 464 542 579 106,7 116,8 106,8 110,0
Hải Dương
243 277 338 387 114,0 122,0 114,5 116,8
Hải Phòng
544 570 585 617 104,8 102,6 105,5 104,3
Hưng Yên
105 122 136 150 116,2 111,5 110,3 112,6
Thái Bình
487 559 605 665 114,8 108,2 109,9 110,9
Hà Nam
98 109 117 106 111,2 107,3 90,6 102,7
Nam Định

457 497 535 574 108,8 107,6 107,3 107,9
Ninh Bình
121 147 155 171 121,5 105,4 110,3 112,2
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
20
2.3.5. Giá trị sản xuất dịch vụ
Mặc dù chịu ảnh hưởng chung từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới
và suy thoái kinh tế nhưng nhờ thực hiện tốt những chính sách kích cầu đầu tư
và tiêu dùng, hoạt động thương mại, dịch vụ nội địa đã đạt nhiều kết quả tốt.
Kinh doanh thương mại diễn ra sôi nổi, đảm bảo lưu thông hàng hoá và vật tư trong
và ngoài tỉnh. Hàng hoá bán ra phong phú về chủng loại đáp ứng nhu cầu người tiêu
dùng trên các địa bàn.
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống của người dân ngày càng được cải
thiện và nâng lên. Tốc độ tăng trưởng của hoạt động thương mại dịch vụ có xu
hướng ngày càng tăng cao và không có dấu hiệu sụt giảm trong thời gian tới . Hà
Nội có tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng là 36,5% đạt trên
mức bình quân chung từ 2005 -2008 của cả nước . Tuy đó chỉ là con số tương đối
nhưng nó cũng phản ánh được phần nào sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Kinh doanh du lịch hiện nay là một trong những lĩnh vực sôi động và cũng
phát triển nhất. Khi đời sống của người dân ngày một nâng cao thì nhu cầu về vui
chơi, giải trí, du lịch… cũng ngày càng cao chính vì thế mà các khu du lịch ngày càng
được đầu tư phát triển, các dịch vụ du lịch, công ty du lịch cũng từ đó mà mọc lên
ngày càng nhiều để phục vụ nhu cầu của người dân.
Vận tải: kinh tế - xã hội phát triển làm cho nhu cầu của toàn xã hội tăng lên
như đi lại, vận chuyển hàng hóa cũng tăng lên và chiếm ưu thế. Vận tải đường sắt
còn nhiều hạn chế mặc dù do nhu cầu tăng nhưng do năng lực thông qua ở một số
tuyến đường sắt chủ đạo như tuyến Bắc – Nam, Hà Nội – Lào Cai, chưa phát huy
được lợi thế cạnh tranh của vận tải khối lượng lớn và đường dài. Phương tiện bay
của ngành hàng không đã được đầu tư cải thiện, bổ xung nhiều máy bay mới tầm
trung và tầm xa loại hiện đại. Đường bay được mở rộng cả về tầm bay xa và tần

suất bay. Đã hình thành hệ thống cảng hàng không quốc tế để tiến tới xây dựng các
trung tâm vận chuyển, quá cảnh hành khách, hàng hóa của khu vực. Vận tải đường
sông chưa có chuyển biến đáng kể do các dự án đầu tư ở diện rộng mới đang ở giai
21
đoạn khởi động. Về vận tải biển, dự kiến trong năm 2010 xây dựng được hệ thống
cảng biển trên các vùng trong cả nước, xây dựng được các cảng biển quan trọng tại
ba vùng kinh tế trọng điểm, bước đầu chuyển sang xây dựng hệ thống cảng nước
sâu, cảng trung chuyển quốc tế, tạo tiền đề phát triển hệ thống cảng biển có vị trí
quan trọng trong khu vực .
Về Bưu chính viễn thông: có tốc độ tăng trưởng khá trong các năm qua.
Nhu cầu dịch vụ bưu chính viễn thông của nhân dân ngày càng phát triển đã có
đóng góp lớn vào tốc độ tăng các ngành dịch vụ nói chung. Mạng lưới bưu chính
viễn thông phát triển nhanh, dần được nâng cấp và hiện đại đại hóa, giá cuớc được
điều chỉnh phù hợp, đáp ứng tốt yêu cầu người sử dụng. Tính tới năm 2008, Hà Nội
đạt 37 máy/100 dân là địa phương có mật độ điện thoại cao nhất cả nước. Các dịch
vụ về internet với tốc độ nhanh chóng với tốc độ tăng trung bình khoảng 100%
trong vài năm trở lại đây. Hiện nay số thuê bao ADSL/1000 dân của thủ đô Hà Nội
là 109 thuê bao/1000 dân, cao nhất cả nước và nhiều hơn 24 thuê bao/1000 dân so
với địa phương đứng thứ 2 là thành phố Hồ Chí Minh (số liệu của Bộ Bưu Chính
Viễn Thông), lượt người khai thác internet ngày càng tăng.
22
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
3.1. Một số biện pháp phát triển kinh tế của các địa phương trong Thành phố Hà Nội :
3.1.1 Phối hợp trong huy động vốn đầu tư phát triển
Phối hợp huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp
vào đầu tư tại địa phương trong Thành phố trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội đã đề ra. Các cơ quan quản lý, các địa phương trong vùng phối hợp nhau trong xúc
tiến đầu tư và huy động vốn nhất là vốn ODA và FDI.

Tuy nhiên trong đầu tư phát triển phải đi đôi với bảo vệ môi trường: phối hợp
trong đầu tư phát triển đối với những công trình, dự án liên quan đến nhiều địa phương
thuộc các lĩnh vực chủ yếu như: xử lý nước thải, chất thải rắn, nhất là chất thải rắn
nguy hại, phát triển cảng biển, sân bay, xây dựng hệ thống đường giao thông liên tỉnh,
đường cao tốc,… phối hợp trong công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường. Việc xây
dựng các công trình , các dự án xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường phải phù hợp với
quy hoạch của các địa phương lân cận và đảm bảo sự đồng bộ với triển khai các dự án
có liên quan.
3.1.2. Phối hợp trong phát triển đào tạo sử dụng lao động
Để tiếp thu, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới thì con
người phải có trình độ, nhận thức và có hiểu biết về khoa học công nghệ chính vì thế ta
phải phối hợp xây dựng các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, các
trường dạy nghề để đào tạo lao động cho vùng
Phối hợp trong sử dụng lao động, nhất là lao đông di chuyển, lao động khu vực
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp trong các khu công nghiệp, khu kinh tế;
đồng thời định hướng, hướng dẫn các địa phương phối hợp, hỗ trợ việc làm, hợp tác bố
trí lao động, xử lý tranh chấp lao động khi cần thiết.
3.1.3. Phối hợp trong rà soát, sửa đổi, bổ xung và ban hành thực hiện cơ chế chính
sách tài chính, chính sách đầu tư, cơ chế bù và giải phóng mặt bằng
Có những cơ chế chính sách tài chính mở, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
và chủ đầu tư đầu tư vào địa phương. Có những chính sách ưu đãi và hỗ trợ về thuế,
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại,… Cơ chế tài chính
23
hỗ trợ phát triển khu công nghệ cao, sản phẩm công nghệ cao, phát triển khu nông
nghiệp công nghệ cao, các công trình nghiên cứu khoa học kĩ thuật trực tiếp gắn với
sản xuất
Hỗ trợ công tác đền bù giải phóng mặt bằng nhanh, đảm bảo quyển lợi của cả
hai bên, đền bù thỏa đáng cho người dân trong diện di dời, có những biện pháp cứng
rắn yêu cầu chấp hành nghiêm chủ trương và quyết định của các cấp có thẩm quyền về
việc giải phóng mặt bằng nhằm nhanh chóng thu hồi đất đai cho việc xây dựng công

trình đúng tiến độ đề ra.
3.1.4. Phối hợp trong việc thiết lập hệ thống thông tin và cung cấp thông tin vùng
Trên cơ sở về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội , quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của từng địa phương trong Thành phố Hà Nội đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt, các Bộ, Ngành, các địa phương có trách nhiệm cung cấp cho
nhau thông tin về các lĩnh vực liên quan tới nội dung, cơ chế phối hợp phát triển trong
Thành phố Hà Nội để xây dựng hệ thống thông tin chung cho Thành phố . Các nội
dung cần cung cấp gồm: các dự án đầu tư, cơ chế chính sách, dự báo thị trường, tiến
bộ công nghệ và tình hình thực hiện hàng năm và 5 năm về các chỉ tiêu kinh tế tổng
hợp, các chỉ tiêu về đầu tư nước ngoài, các chỉ tiêu về đầu tư từ ngoài tỉnh, các chỉ tiêu
xã hội và môi trường
Việc thiết lập hệ thống thông tin và cung cấp thông tin vùng là hết sức quan
trọng. Có như vậy thông tin mới được truyền tải nhanh tới các địa phương để kịp thời
phối hợp với các cấp thực hiện các kế hoạch, nhiệm vụ đã đề ra, những vấn đề khó
khăn được giải quyết nhanh chóng và kịp thời…
3.1.5. phối hợp trong việc hình thành các tour du lịch trong Thành phố Hà Nội :
Hà Nội là trung tâm kinh tế , văn hóa , chính trị , xã hội của đất nước , có rất
nhiều địa điểm du lịch lí tưởng và nằm ở nhiều địa phương, tỉnh khác nhau. Để phát
huy thế mạnh của vùng, các tỉnh cần phối hợp để hình thành nối các tour du lịch, tạo
điều kiện cho khách từ nơi này tới nơi kia một cách thuận tiện và dễ dàng, các doanh
nghiệphoạt động lữ hành cần phối hợp chặt chẽ hơn. Các địa phương cần phải có sự
thống nhất trong điều hành đề có thể hình thành tuyến du lịch xuyên suốt Thành phố .
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội trung tâm Thành phố
Hà Nội :
24
3.2.1. Giải pháp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, năng động và có hiệu quả trên cơ sở phát
triển những ngành, lĩnh vực cơ bản có giá trị lớn, chất lượng cao và có sức cạnh tranh
quốc tế, gia tăng nhanh chóng giá trị quốc gia.
Mở rộng ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ kĩ thuật và công nghệ đặc biệt là

công nghệ sinh học trong sản xuất. Xây dựng phát triển các khu , cụm công nghiệp
nông thôn gắn với các thị trấn, thị tứ, phát triển chế biến nông, lâm sản. Xây dựng khu
công nghiệp chuyên nghiên cứucải tiến kỹ thuật và công nghệ cho các xí nghiệp công
nghiệp hiện có cho cả Thành phố .
Chuyển đổi diện tích đất lúa hiệu quả thấp sang phát triển các loại cây trồng,
vật nuôi hiệu quả cao hơn. Hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng các vùng chuyên canh hàng
hóa xuất khẩu rau màu, cây công nghiệp, thúc ăn chăn nuôi. Tận dụng những thế mạnh
của vùng phát triển mạnh các ngành dịch vụ, du lịch.
3.2.2. Giải pháp về phát triển doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh
Việc gia nhập WTO đã đưa các doanh nghiệp lên vị trí hàng đầu trong vai trò
mở cửa, hội nhập và phát triển. Đẩy mạnh và phát triển doanh nghiệp trong nước, bao
gồm doanh nghiệp Trung Ương trên địa bàn và doanh nghiệp địa phương. Các địa
phương xây dựng chương trình phát triển và nâng cao sức cạnh tranh hội nhập cho
doanh nghiệp. Tập trung phát triển một số tổng công ty lớn của nhà nước và tư nhân
trên địa bàn có năng lực sản xuất cạnh tranh cao với công ty nước ngoài khi hội nhập.
Phát động phong trào cổ vũ, tôn vinh tinh thần lập nghiệp kinh doanh, sáng kiến kinh
doanh của các cá nhân, doanh nghiệp trong xã hội.
Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết kế, mẫu mã, công nghệ để
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đầu tư mở rộng sản xuất, phát triển các
ngành nghề mới, sản phẩm mới. Đẩy nhanh hoạt động xúc tiến thương mại để tìm
kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp.
Phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu.
Khuyến khích phát triển mạnh hình thức kinh tế đa sở hữu mà chủ yếu là các
doanh nghiệp cổ phần mới để hình thức kinh tế này trở thành phổ biến, chiếm tỷ trọng
25

×