Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Thực trạng về tình hình gia công quốc tế của ngành dệt may Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.23 KB, 51 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ GIA CÔNG QUỐC TẾ 2
1.1. Khái niệm về gia công quốc tế 2
1.2. Đặc điểm của gia công quốc tế 2
1.3. Tác dụng của gia công quốc tế 3
1.4. Những vấn đề cần lưu ý khi tiến hành hoạt động gia công quốc tế 4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH GIA CÔNG QUỐC TẾ CỦA NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM 5
2.1. Tổng quan và sự phát triển của ngành dệt may trong những năm gần đây 5
Bảng 1: Tình hình ngành dệt may Việt Nam năm 2013 5
Biểu đồ 1: Các thị trường xuất khẩu chủ lực năm 2012 10
Biểu đồ 2: Tình hình kim ngạch xuất khẩu dệt may (2007-2014) 11
2.2. Các hình thức gia công quốc tế hàng dệt may xuất khẩu 14
2.3. Thực trạng gia công quốc tế của ngành dệt may Việt Nam 18
2.3.1. Nêu thực trạng chung 18
Biểu đồ 3: Tỷ trọng xuất khẩu theo các loại hình của hàng Dệt may năm 2012 19
Bảng 2: Kim ngạch và tỷ trọng xuất gia công trong những năm qua 20
Nguồn: Tập đoàn dệt may Việt Nam 20
Biểu đồ 4: Các thị đối tác gia công chính trong ngành dệt may 20
Biểu đồ 5: Cơ cấu hàng xuất gia công ngành dệt may năm 2013 22
2.3.2. Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động gia công quốc tế của ngành dệt
may Việt Nam 26
2.3.3. Những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại trong hoạt động gia công
quốc tế của ngành dệt may Việt Nam 28
2.3.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động gia công dệt may Việt Nam
31
Biểu đồ 6: Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu và xuất khẩu dệt may (2005 – 2013).32
Lớp HP: 1451ECIT0311 Nhóm: 05
Nguồn: Báo cáo ngành dệt may năm 2013 32
CHƯƠNG III: CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG GIA


CÔNG QUỐC TẾ CHO NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 33
3.1. Nêu phương hướng phát triển trong những năm tới 33
3.1.1. Nêu phương hướng phát triển của ngành dệt may trong những năm tới 33
Bảng 3: Định hướng phát triển ngành dệt may đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. .34
3.1.2. Nêu phương hướng phát triển của hoạt động gia công quốc tế của ngành dệt
may trong những năm tới 35
3.2. Kiến nghị giải pháp để phát triển hoạt động gia công quốc tế cho ngành dệt may
Việt Nam 35
3.2.1. Giải pháp từ Nhà nước 35
3.2.2. Giải pháp từ doanh nghiệp trong ngành 39
KẾT LUẬN 46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 47
Lớp HP: 1451ECIT0311 Nhóm: 05
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Lớp HP: 1451ECIT0311 Nhóm: 05
LỜI NÓI ĐẦU
Ngành Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam. Đây là một ngành
quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người,
giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội. Xu thế toàn cầu hoá có tác động đến tất cả các
nước, đặc biệt là những nước đang phát triển, và điều đó dẫn đến sự liên kết, phụ thuộc
lẫn nhau giữa các nước ngày càng chặt chẽ. Với khoảng hơn 6000 doanh nghiệp, trong đó
đa số có quy mô vừa và nhỏ với những hạn chế về khả năng tài chính, trình độ công
nghệ, tay nghề của đội ngũ lao động, trình độ quản lý và cả uy tín thương hiệu, các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc cạnh tranh với các tập
đoàn dệt may lớn trên thế giới. Dệt may Việt Nam đã trở thành một mắt xích trong chuỗi
giá trị toàn cầu ngành dệt may nhưng mới chỉ dừng lại ở khâu gia công, đặt mình vào vị
trí đáy của chuỗi giá trị toàn cầu. Chính vì thế, khi Việt Nam thâm nhập ngày càng sâu
vào thi trường thế giới, sản phẩm dệt may của Việt Nam dù được xuất đi rất nhiều nơi và
Việt Nam có tên trong top 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới nhưng giá trị thu
về lại rất thấp.

Đứng trước tình hình đó, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần định hướng phát
triển trong tương lai như thế nào? Tiếp tục xuất khẩu hàng gia công quốc tế hay cần tìm
con đường mới để thoát khỏi kiếp gia công lâu nay ?
Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề gia công quốc tế nói chung và gia công may mặc ở
Việt Nam nói riêng, nhóm 05 chọn đề tài thảo luận: “Lựa chọn 1 ngành hàng/sản
phẩm. Đánh giá hoạt động gia công quốc tế đối với ngành hàng/sản phẩm đó ở Việt
Nam hiện nay”. Để hoàn thành bài thảo luận, nhóm 5 đã nhận được sự giảng dạy và
chỉnh sửa bài nhiệt tình của Th.S Vũ Anh Tuấn. Mặc dù có nhiều cố gắng song bài không
thể tránh được những sai sót, chúng em rất mong có thêm sự đóng góp của thầy giáo để
bài thảo luận được hoàn chỉnh.
Em xin chân thành cảm ơn!
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 1 Nhóm: 05
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ GIA CÔNG QUỐC TẾ
1.1. Khái niệm về gia công quốc tế
Gia công quốc tế là phương thức trong đó bên đặt gia công nước ngoài cung cấp
máy móc, thiết bị nguyên liệu phụ kiện hoặc bán thành phẩm để bên nhận gia công trong
nước tiến hành tổ chức quá trình sản xuất thành sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia
công.Toàn bộ sản phẩm làm ra bên nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia công để
nhận về 1 khoản thù lao (phí gia công) theo thỏa thuận. Gia công quốc tế là hình thức gia
công thương mại mà bên đặt gia công hoặc bên nhận gia công là thương nhân nước
ngoài.
1.2. Đặc điểm của gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một phương thức ủy thác gia công, trong đó hoạt động xuất
nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Trong quá trình gia công, bên nhận gia công trong nước bỏ ra lao động, tiền chi phí
gia công (thù lao lao động). Do đó, có thể nói gia công quốc tế là một hình thức mậu dịch
lao động, một ìn thức xuất khẩu lao động tại chỗ thông qua hàng hóa.
Gia công quốc tế là một phương thức buôn bán gia công “hai đầu ở ngoài”, nghĩa là
thị trường nước ngoài là nơi cung cấp nguyên vật liệu, đồng thời cũng là thị trường tiêu
thụ sản phẩm đó.

Ở đây cần lưu ý, nghiệp vụ gia công quốc tế khác với nghiệp vụ nhập khẩu thành
phẩm (mua đứt bán đoạn). Tuy nó cùng về phương thức buôn bán gia công “Hai đầu ở
ngoài” nhưng nó có điểm khác biệt rõ rệt với gia công quốc tế ở chỗ:
Thứ nhất, trong nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu thành phẩm là hai vụ giao dịch
khác nhau, đều xảy ra chuyển dịch quyền sở hữu, người cung ứng nguyên liệu và người
mua thành phẩm không có liên hệ chắc chắn nào. Trong nghiệp vụ gia công quốc tế, nhập
nguyên liệu đầu vào và xuất thành phẩm đi không có sự chuyển dịch quyền sở hữu, hoặc
nếu có chuyển dịch quyền sở hữu trong nhập nguyên liệu nhưng chúng đều thuộc một
cuộc giao dịch, các việc có liên quan đều được quy định trong cùng một hợp đồng. Vì
nghiệp vụ gia công quộc tế thuộc về ủy thác gia công, do đó người cung ứng nguyên liệu
lại chính là người nhận thành phẩm.
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 2 Nhóm: 05
Thứ hai, trong nghiệp vụ nhập khẩu nguyên liệu gia công và xuất khẩu thành phẩm,
nhà máy trong nước mua từ nước ngoài nguyên liệu, gai công thành phẩm, làm tăng giá
trị, sau đó bán ra thị trường nước ngoài, kiếm giá trị chênh lệch từ nguyên liệu đến thành
phẩm, nhà máy trong nước phải chịu những rủi ro khi tiêu thụ trên thị trường. Trong
nghiệp vụ gia công quốc tế, vì thành phẩm giao cho bên đặt gia công tự tiêu thụ, nhà máy
trong nước không phải chịu rủi ro, nhưng phần nhận được cũng chỉ là thù lao sức lao
động, còn giá trị lao động lớn như thế nào thì không cần quan tâm, do đó, lợi nhuận thu
được từ nghiệp vụ gia công quốc tế thường thấp hơn nhiều so với nhập khẩu nguyên liệu
gia công.
Nên, phấn đấu để tăng dần tỷ lệ “mua đứt bán đoạn” lên thay thế gia công thuần túy
đang là mục tiêu quan trọng của các doanh nghiệp đang thực hiện gia công quốc tế tại các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
1.3. Tác dụng của gia công quốc tế
Áp dụng phương thức giao dịch gia công quốc tế đều có tác dụng tích cực đối với
bên đặt gia công cũng như bên nhận gia công, nên gia công quốc tế ngày nay khá phổ
biến trong thương mại quốc tế của nhiều nước. Tác dụng đối với bên đặt gia công
* Tác dụng đối với bên đặt gia công:
− Hạ thấp giá thành sản phẩm, do đó làm tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường

quốc tế.
− Có thể điều chỉnh cơ cấu ngành nghề ở nước sở tại
* Tác dụng đối với bên nhận gia công:
− Giảm tải dư thừa lao động hay thất nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, tăng thu nhập
thêm ngoại tệ.
− Phát triển nguồn lao động, tạo cơ hội việc làm và làm phát triển kinh tế.
− Thu hút sự đầu tư kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước
ngoài, thúc đẩy kinh tế hướng xuất khẩu phát triển.
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 3 Nhóm: 05
1.4. Những vấn đề cần lưu ý khi tiến hành hoạt động gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một phương thức thương mại quốc tế mà các nước đang phát
triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thường áp dụng, nhằm tận dụng những
lợi ích mà gia công quốc tế đem lại. Khi áp dụng gia công quốc tế vần lưu ýcác vấn đề
sau:
− Khi phát triển nghiệp vụ thương mại quốc tế phải có quan điểm toàn cục, chú ý xử
lý tốt mối quan hệ với xuất khẩu thông thường.
− Xác định hợp lý chi phí lao động: cần tăng cường hoặch toán kinh tế, chú ý tới hiệu
quả kinh tế. Với nước có giá thành gia công thấp hơn nước ngoài, khi quyết định mức chi
phí lao động, không những phải xem xét xem có hợp lý hay không, đồng thời phải tham
khảo mức chi phí lao động của thị trừơng nước ngoài để hoặch toán, cân nhắc hiệu quả,
để cho tiêu chuẩn chi phí của mình vừa có sức cạnh tranh, lại thu về nhiều ngoại tệ cho
nước mình, tránh sự cạnh tranh với các đơn vị gia công khác trong nước, tự ý hạ thấp
mức chi phí lao động.
− Dần dần mở rộng tỷ trọng sử dụng nguyên liệu, linh kiện nước mình sản xuất: ở
những khu vực hoặc đơn vị có điều kiện, cần cố gắng sử dụng nhiều nguyên vật liệu hoặc
linh kiện do nước mình sản xuất, tranh thủ nâng cao tỷ trọng ở mặt này, dần dần quá độ
sang tự kinh doanh xuất khẩu.
− Nâng cao năng lực của doanh nghiệp: Nỗ lực nâng cao năng lực của doanh nghiệp
về mọi mặt. Không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh về mặt
chất lượng. Những đơn vị có điều kiện cần có kế hoặch dần dần nâng cao trình độ kỹ

thuật của nghiệp vụ gia công. Từ gia công nhiều sức lao động quá độ sang gia công tập
trung kỹ thuật, tập trung vốn.
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 4 Nhóm: 05
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH GIA CÔNG QUỐC TẾ CỦA
NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
2.1. Tổng quan và sự phát triển của ngành dệt may trong những năm gần đây
2.1.1. Đánh giá tình hình ngành Dệt May Việt Nam qua một vài chỉ tiêu năm 2013
Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị
Số lượng công ty Công ty 6700
Quy mô doanh nghiệp Người SME 200-500+ chiếm tỷ trọng lớn
Cơ cấu Cty theo hình thức SH Tư nhân (84%), FDI (15%), NN (1%)
Cơ cấu công ty theo HĐ
May (70%), se sợi (6%), dệt/đan (17%),
nhuộm (4%), công nghiệp phụ trợ (3%)
Vùng phân bố công ty
Miền Bắc (30%), Miền Trung và cao
nguyên (8%), Miền Nam (62%)
Số lượng lao động Người 2,5 triệu
Thu nhập bình quân VND 4,5 triệu
Số ngày làm việc/tuần Ngày 6
Số giờ làm việc/tuần Giờ 48
Số ca/ngày Ca 2
Giá trị xuất khẩu dệt may USD 18,5 tỷ
Giá trị nhập khẩu dệt may USD 13,5 tỷ
Thị trường xuất khẩu chính Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc
Thị trường nhập khẩu chính Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan
Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu Áo jacket, áo thun, quần, áo sơ mi
Phương thức sản xuất Gia công đơn giản (70%); khác (30%)
Thời gian thực hiện đơn hàng Ngày 90 – 100
Bảng 1: Tình hình ngành dệt may Việt Nam năm 2013

Nguồn: Báo cáo ngành dệt may năm 2013
Năm 2013, sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu đến hơn 180 quốc gia và vùng
lãnh thổ với kim ngạch xuất khẩu đạt 17,9 tỷ USD; chiếm 13,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu Việt Nam và 10,5% GDP cả nước. Tốc độ tăng trưởng dệt may trong giai đoạn
2008-2013 đạt 14,5%/năm đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ
tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dệt may nhanh nhất thế giới. Xuất khẩu đứng thứ nhất
cả nước, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; Việt Nam lọt trong “top”
10 trong 153 quốc gia xuất khẩu dệt may, sau Trung Quốc, Hong Kong, Ấn Độ, Đài
Loan
2.1.2. Sự phát triển của ngành dệt may trong những năm gần đây (2010 – 2013)
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 5 Nhóm: 05
Ngành dệt may Việt Nam, từ năm 1990 đến nay, đã phát triển mạnh mẽ và ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng của nền kinh tế. Trong tất cả các
mặt hàng công nghiệp xuất khẩu hiện nay, dệt may Việt Nam là ngành có kim ngạch xuất
khẩu và tốc độ tăng trưởng lớn nhất.
Năm 2010, với giá trị xuất khẩu lên tới 11,2 tỷ đô la dệt may đã đóng góp trên 16%
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thị trường xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu của
Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, và Nhật Bản. Thị phần của Việt Nam trên thế giới giai đoạn
2005-2008 tăng từ 1,7% lên 2,5%, thuộc nhóm 5 quốc gia có quy mô xuất khẩu dệt may
lớn nhất thế giới. Ngành dệt may hiện sử dụng trên 3 triệu lao động - trong đó hơn 1,3
triệu lao động công nghiệp, chiếm tỉ trọng trên 10% so với lao động công nghiệp cả nước,
với những thành tựu này, dệt may Việt Nam đang là ngành công nghiệp quan trọng cho
sự phát triển của đất nước.
Hiện nay ở nước ta ngành công nghiệp dệt may ngày càng có vai trò quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao và phong
phú, đa dạng của người tiêu dùng trong nước mà còn là ngành giúp nước ta giải quyết
được nhiều công ăn việc làm cho xã hội và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách
quốc gia, tạo điều kiện để phát triển nền kinh tế.
Ông Lê Tiến Trường, Phó Tổng giám đốc thường trực Tập đoàn Dệt May Việt Nam
(Vinatex) ví von: Dệt may Việt Nam như một “quầy hàng ngon” nên trong bối cảnh kinh

tế khó khăn, thị trường tiêu thụ tăng trưởng rất chậm nhưng thị phần xuất khẩu của dệt
may Việt Nam tại những thị trường chủ lực vẫn tăng trưởng rất khả quan.
Ngành may Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời. Dệt may là ngành hàng mũi
nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Từ nhiều năm qua, sản
phẩm dệt may Việt Nam không ngừng phát triển về số lượng, cơ cấu chủng loại và giá trị
kim ngạch, trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân. Hiện nay ngành dệt may đã đạt được khá nhiều thành tựu đáng kể:
− Sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam được ghi nhận với những kết quả đáng
khích lệ. Đến thời điểm hiện nay dệt may là một trong những ngành công nghiệp sản
xuất, xuất khẩu quan trọng nhất của nền kinh tế Việt Nam, là một ngành thu hút lượng
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 6 Nhóm: 05
lao động lớn, vừa tạo ra giá trịhàng hóa, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu.
Trong nhiều năm qua ngành dệt may Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
tương đối cao - bình quân 20%/năm trong giai đoạn 2010-2013. Hàng dệt may Việt Nam
hiện đã có mặt tại trên 180 nước và vùng lãnh thổ với kim ngạch đạt trên con số gần 20 tỷ
USD, chiếm 16,35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong đó có các thị
trường quan trọng của thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản
− Năng lực sản xuất của ngành dệt may phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Số
lượng doanh nghiệp tăng gấp 5-6 lần so với 10 năm trước. Trình độ công nghệ được cải
thiện đáng kể, nhiều công đoạn sản xuất đạt trình độ công nghệ tiên tiến của thế giới.
Những thành công của sản phẩm may mặc trên thị trường quốc tế đã đánh dấu bước
khởi đầu tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong toàn
ngành Dệt may, may mặc là ngành có nhiều tiềm năng phát triển, có lợi thế cạnh tranh
lớn trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, ngành dệt may Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều hạn chế, thách
thức.
− Thứ nhất, năng lực sản xuất tuy đã được nâng cao nhưng mức sản xuất thực tế vẫn
thấp hơn năng lực sản xuất thiết kế. Tay nghề công nhân còn kém, việc đào tạo chuyên
gia kỹ thuật và thiết kế mẫu còn chưa theo kịp với nhu cầu thị trường và đòi hỏi phát

triển của ngành
Thứ hai, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng hiệu quả xuất khẩu còn thấp do có
tới 70-80% kim ngạch xuất khẩu thực hiện theo phương thức gia công đơn giản, thiếu
khả năng cung cấp trọn gói, nên giá trị gia tăng còn thấp, trong khi đó ngành dệt may vẫn
chưa chủ động được nguồn nguyên liệu mà chủ yếu phải nhập nước ngoài.
− Thứ ba, thị trường xuất khẩu còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có,
còn bị phụ thuộc vào hạn ngạch, chưa tận dụng hết khả năng khai thác thị trường và mặt
hàng xuất khẩu không hạn ngạch, chưa thâm nhập được vào mạng lưới phân phối của các
thị trường lớn, thường phải xuất khẩu qua trung gian.
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 7 Nhóm: 05
− Thứ tư, thị trường nội địa với sức mua ngày càng tăng đang bị bỏ ngỏ chưa được
quan tâm đúng mức.
Dệt may Việt Nam cũng như những ngành kinh tế khác đứng trước nhiều cơ hội và
thách thức của quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh, mở rộng thị phần đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành phải liên kết với nhau
tạo ra nhiều Tập đoàn kinh tế mạnh có nhiều đơn vị thành viên, sử dụng nhiều lao động,
kinh doanh đa lĩnh vực và có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Bên cạnh đó,
ngành công nghiệp phụ trợ vẫn chưa phát triển là một trong những thách thức lớn trong
việc khai thác những lợi ích từ các Hiệp định thương mại tự do như TPP, FTA EU-Việt
Nam được kỳ vọng sẽ thông qua trong thời gian tới.
2.1.3. Tình hình Dệt may trong nước:
Cùng với đẩy mạnh xuất khẩu thì chuỗi sản xuất của ngành dệt may đã có sự cải
thiện tích cực về tỷ lệ nội địa hóa. Nếu như 10 năm trước, tỷ lệ nội địa hóa chỉ đạt 20%
thì năm 2012 đã đạt 45%, riêng Vinatex đạt trên 60%. Trong năm 2013, thị phần dệt may
sản xuất trong nước chiếm khoảng 50% tổng mức tiêu thụ tại thị trường nội địa, 50% còn
lại là hàng dệt may nước ngoài, trong đó có 40% hàng dệt may Trung Quốc dưới dạng
tiểu ngạch. Có thể thấy thị trường trong nước nhiều năm nay đã bị các doanh nghiệp dệt
may bỏ ngỏ vì:
− Thực tế, sản phẩm may bình dân do Việt Nam sản xuất chất lượng tốt nhưng còn
hạn chế trong chiếm lĩnh thị trường trong nước do từ trước đến nay chỉ tập trung xuất

khẩu. Bên cạnh đó, mặc dù triển vọng phát triển thị trường may mặc ở khu vực nông thôn
là rất lớn nhưng việc triển khai hệ thống phân phối tại khu vực này còn gặp nhiều khó
khăn do nhu cầu tiêu dùng còn chưa cao, các kênh phân phối nhỏ khi giao hàng thường
nợ đọng vốn, nên lượng vốn lưu động cần rất lớn.
− Thị trường bán lẻ trong nước rất phân tán, các nhà bán lẻ quy mô nhỏ chiếm 86%
tổng thị phần bán lẻ trong năm 2013, các sản phẩm hàng dệt may Trung Quốc được bán
ra khá đa dạng, từ các sản phẩm với giá thành rất rẻ tới các thiết kế đắt tiền. Ngoài ra các
cửa hàng bán lẻ kinh doanh hàng xách tay từ Châu Âu, Mỹ và Thái Lan ngày càng trở
nên phổ biến.
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 8 Nhóm: 05
Nếu như trước đây, khách hàng Việt Nam không mấy mặn mà với hàng dệt may
Việt Nam thì trong những năm gần đây, xu hướng sử dụng hàng Việt đang tăng dần lên.
− Theo ông Trường, các doanh nghiệp thuộc Tập đoàn nói riêng và ngành dệt may nói
chung vẫn còn bộc lộ những hạn chế cần tiếp tục được khắc phục. Đó là liên kết chuỗi
cung ứng cần chặt chẽ hơn nữa để đạt giá trị gia tăng cao hơn cho hàng hóa trong nước
bởi nhiều doanh nghiệp vẫn còn triển khai rất chậm định hướng này.
− Lý do khiến người tiêu dùng quay trở lại với các sản phẩm trong nước là vì: giá cả
hợp lý, tính đa dạng, dịch vụ khuyến mại, bảo hành tốt và quan trọng hơn là giảm mối
quan ngại về vấn đề an toàn sức khỏe của sản phẩm may mặc Trung Quốc tràn lan trên
thị trường hiện nay.
Hiện nay, chuỗi cung ứng dệt may Việt Nam sau nhiều năm chật vật nay đã đi vào
hoạt động hiệu quả. Tuy vậy, ngành vẫn tiếp tục cải thiện năng suất và phương thức quản
lý sản xuất tiên tiến cũng như quan tâm nghiên cứu để chuẩn bị đầu tư đón đầu khả năng
khi Hiệp định Thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) được ký kết cơ hội cho phát
triển ngành dệt may sẽ còn được mở rộng hơn nữa.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hội đồng thành viên Vinatex yêu cầu các đơn vị
thành viên thuộc Vinatex cần tiếp tục thực hiện chiến lược chung của ngành dệt may; cần
tăng cường mở rộng thị trường nội địa. Tăng cường các chương trình marketing và dịch
vụ, đặc biệt đẩy mạnh khâu thiết kế thời trang, khai thác nguồn nguyên liệu tốt để có sản
phẩm mẫu mã đẹp, hấp dẫn phục vụ người tiêu dùng trong nước. Đồng thời hình thành và

nâng cao chất lượng chuỗi liên kết nội tại giữa các doanh nghiệp trong Tập đoàn như sợi
- dệt - nhuộm hoàn tất - may nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tăng sức cạnh tranh của Tập
đoàn nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Mặt khác, chủ động chuyển từ hình thức
gia công sang làm hàng FOB và hàng thiết kế mẫu trên vải (ODM) để gia tăng giá trị, thị
phần cũng như kim ngạch xuất khẩu.
2.1.4. Tình hình xuất khẩu:
2.1.4.1. Thị trường xuất khẩu:
Ngành Dệt may Việt Nam xuất khẩu tại một số thị trường chủ lực như: Mỹ, EU,
Nhật Bản, Hàn Quốc… Năm 2012, tổng kim ngạch hàng dệt may xuất sang 4 thị trường
này đạt 15,3 tỷ USD, chiếm tới 85,5% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 9 Nhóm: 05
nước. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ liên tục tăng mạnh qua các
năm và đạt 8,6 tỷ USD năm 2013; chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt
Nam. Đồng thời trong số các nhóm hàng của Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ thì
hàng dệt may dẫn đầu với tỷ trọng chiếm 38% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mỹ vẫn là thị
trường nhập khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam với tỷ trọng 49%. Thị phần dệt may
Việt Nam tại Mỹ đang cải thiện trong khi các nước Trung Quốc, Bangladesh, Campuchia
đều giảm. Điều này cho thấy, khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam đang tăng
dần trên thị trường Mỹ.
Biểu đồ 1: Các thị trường
xuất khẩu chủ lực năm
2012
Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, ngoài các thị
trường truyền thống, các doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm thị trường ngách mà Việt
Nam có lợi thế, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến nghiên cứu thị trường ngoài nước và đặc
biệt quan tâm tổ chức mời khách hàng tiềm năng vào thương lượng tại Việt Nam. Có
chiến lược tiếp cận với thị trường Nhật Bản để khai thác tốt Hiệp định đối tác kinh tế Việt
Nam-Nhật Bản, đồng thời khai thác thị trường mới đầy tiềm năng tại Trung Ðông, Nam
Phi, Nga.
Với sự nỗ lực của nhiều doanh nghiệp đã ký được những hợp đồng xuất khẩu mặt

hàng sợi cao cấp, sợi trung bình sang thị trường Trung Ðông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ma-
lai-xi-a, Phi-li-pin, Trung Quốc Các mặt hàng áo jacket, măng-tô, vét-xtông, khăn các
loại, vải cao cấp đã có thêm hợp đồng mới tại thị trường EU, Trung Ðông, Nhật Bản Tỷ
trọng sản xuất hàng FOB tăng do nhiều DN đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, nguyên
phụ liệu. Sản phẩm vải 100% cốt-tông cao cấp của Công ty Pang-rim, do Hàn Quốc đầu
tư 100% vốn, đã được khách hàng Nhật Bản, Hàn Quốc, EU chấp nhận làm nguyên liệu
đặt hàng may mặc xuất khẩu; vải lụa, tơ tằm của Công ty dệt Thái Tuấn được xuất khẩu
sang thị trường Trung Ðông; khăn cao cấp của TCT Phong Phú xuất khẩu sang Nhật Bản,
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 10 Nhóm: 05
EU. TCT cổ phần may Việt Tiến đã đầu tư 11 nhà máy sản xuất các sản phẩm cho hệ
thống của NIKE, xuất khẩu không chỉ sang thị trường Mỹ, EU mà năm nay còn mở thêm
thị trường châu Á.
2.1.4.2. Kim ngạch xuất khẩu:
Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam có khoảng 6.000 doanh nghiệp, trong đó chủ
yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ (số lượng doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 15%). Xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam chủ yếu từ các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI
(doanh nghiệp FDI luôn chiếm hơn 60% trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may của cả
nước). Những năm gần đây, ngành dệt may đã bứt phá vươn lên thành công. Có nhiều
nguyên nhân dẫn tới thành công của ngành dệt may Việt Nam như, ngành đã tận dụng có
hiệu quả đội ngũ lao động có trình độ và có khả năng tiếp thu những công nghệ dệt may
tiên tiến, hiện đại. Điều này cho phép hàng dệt may Việt Nam có giá thành thấp để cạnh
tranh với hàng dệt may của các nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia,… Đây là
điều kiện để hàng dệt may Việt Nam thâm nhập sâu vào thị trường thế giới. Nhờ đó, mà
kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam liên tục tăng qua các năm 2010 – 2013. Điều này
được thể hiện rất rõ qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2: Tình hình kim ngạch xuất khẩu dệt may (2007-2014)
Từ biểu đồ ta thấy kim ngạch xuất khẩu dệt may liên tục tăng cao trong những năm
gần đây, đặc biệt từ năm 2010, dệt may là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng đầu
trong tất cả các loại hàng hóa xuất khẩu (năm 2010 là 11,2 tỷ USD chiếm 15,6%, năm
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 11 Nhóm: 05

2011 là 14,0 tỷ USD chiếm 14,4%, năm 2012 với 15,1 tỷ USD chiếm 13,2%, năm 2013
với 18,5 tỷ USD chiếm 14,0 %).
2.1.4.3. Xuất khẩu Dệt may chịu áp lực cạnh tranh lớn.
Là ngành đang phát triển mạnh mẽ và được đầu tư tối đa tại Việt Nam, dệt may Việt
Nam đang phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ của nhiều nước khiến xuất khẩu vào
nhiều thị trường bị sụt giảm. Khi xâm nhập vào thị trường dệt may thế giới đặc biệt là thị
trường EU, Nhật Bản, Mỹ bằng con đường xuất gia công thì đối thủ cạnh tranh khổng lồ
và đáng gờm nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là Trung Quốc.
Ngành dệt may của Trung Quốc là một ngành có sức cạnh tranh mạnh nhất trên thị
trường thế giới vì ngành này có nhiều lợi thế rất lớn từ nguyên liệu bông, xơ, hóa chất,
thuốc nhuộm đến máy móc thiết bị sợi, dệt hoàn tất đều do các ngành sản xuất trong nước
cung cấp cộng với giá nhân công thấp và các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ
Trung Quốc đã làm cho ngành này phát triển nhanh chóng.
Bên cạnh Trung Quốc thì các đối thủ cạnh tranh khác như: Hàn Quốc, Đài Loan,
Thái Lan, Singapore, Philippines… là các nước xuất khẩu hàng may với kim ngạch xuất
khẩu cao hơn Việt Nam bởi họ tạo được nhiều lợi thế hơn so với các sản phẩm hàng dệt
may củaViệt Nam. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng may của Thái Lan bằng 4 lần,
Trung Quốc bằng hơn 25 lần của Việt Nam. Ngoài ra, Ấn Độ, cộng hoà dân chủ nhân dân
Triều Tiên cũng là những nhà sản xuất tơ lụa có tiếng mà các doanh nghịêp Việt Nam
phải tính đến khi tham gia vào thị trường khu vực và thế giới.
Rõ ràng đối với ngành dệt may Việt Nam có quá nhiều đối thủ cạnh tranh nặng ký.
Điều này làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu thế giới rất gay gắt và
quyết liệt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư đúng mức về mọi phương diện để
trụ được một cách vững vàng trên thị trường thế giới.
2.1.4.4. Rào cản thương mại trong xuất khẩu dệt may
Các rào cản thương mại ngày càng gia tăng từ các thị trường nhập khẩu lớn, nhất là
từ Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản.
Với thị trường EU, việc các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường
này ngày càng trở nên khó khăn hơn vì bị kiểm tra chất lượng gắt gao và phía EU thường
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 12 Nhóm: 05

xuyên gây sức ép đối với ta. Với thị trường Mỹ có rất nhiều các yêu cầu khắt khe về trách
nhiệm xã hội, nhẵn mác sinh thái, bảo vệ môi trường, biểu tượng hàng may… Với thị
trường Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch quan trọng nhất. Nhưng trong thời gian gần
đây, xuất khẩu sang thị trường này cũng gặp nhiều khó khăn do Nhật Bản kiểm soát
nghiêm ngặt các sản phẩm có chứa các chất nguy hiểm, cấm nhập hàng hoá ghi nước
xuất xứ giả hoặc vi phạm sở hữu trí tuệ.
Từ thành công trong hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may, có thể rút ra một số
kinh nghiệm, đó là: ngành dệt may không ngừng đẩy mạnh đầu tư, phát triển công nghiệp
dệt may và phụ kiện cho dệt may. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, ngành dệt may đã
tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp phụ liệu để trên cơ sở đó dệt may Việt Nam có
thể chủ động được các yếu tố đầu vào và từng bước khắc phục dần tính phụ thuộc vào
nguyên liệu nhập khẩu, làm tăng giá trị cho hàng dệt may. Đồng thời, không ngừng cải
tiến và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại trong phát triển ngành dệt may.
Không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may thông qua việc huy động vốn từ
các nguồn lực khác nhau của các thành phần kinh tế.
2.1.5. Một vài vấn đề khác:
2.1.5.1. Nguồn nhân lực trong ngành:
Nghề dệt may không đòi hỏi kĩ thuật cao siêu, điêu luyện nên ngành rất dễ thu hút
nhiều lao động. Đến nay các doanh nghiệp Dệt may đã thu hút hơn 2,5 triệu lao động góp
phần đáng kể trong việc giải quyết khó khăn về việc làm cho người lao động.
Tuy rằng lao động Việt Nam có đôi bàn tay khéo léo, tiếp thu kiến thức mới nhanh
nhưng do chưa được đào tạo bài bản, hệ thống nên trình độ của họ còn rất hạn chế. Hơn
nữa, do điều kiện làm việc chuyên môn hoá cao nên cường độ làm việc căng thẳng trong
khi tiền lương nói chung còn thấp (chỉ khoảng 4,5 triệu đồng/tháng) và có sự chênh lệch
lớn giữa các doanh nghiệp nên có nhiều biến động lớn trong đội ngũ lao động ngành.
Thực tế cho thấy rằng các công ty sản xuất phát triển, đủ việc làm, thu nhập cao, biến
động lao động nhỏ, công nhân gắn bó với công ty, thậm chí nhiều người xin vào làm
việc. Ngược lai ở những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, sản xuất đình trệ, thiếu việc
làm, thu nhập thấp sẽ nảy sinh tình trạng “đất không lành, chim không đậu”, công nhân
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 13 Nhóm: 05

lành nghề, công nhân mới đào tạo sau thời gian quen việc cũng sẽ dần chuyển sang công
ty khác.
Bên cạnh đó ngành đang có tình trạng thiếu nguồn lao động quản lý và kĩ thuật và
nghiệp vụ chuyên nghiệp. Hầu hết, các cán bộ quản lý chủ chốt trong các doanh nghiệp
Dệt may đều có trình độ đại học hoặc cao đẳng, chuyên môn khá nhưng trình độ quản lý
theo phong cánh công nghiệp còn yếu, tiếp cận với phương thức quản lý hiện đại còn ít.
Cán bộ kĩ thuật chủ yếu trưởng thành từ công nhân bậc cao nên chỉ giỏi về chuyên môn
của nhưng sản phẩm cụ thể còn như việc sáng tác mẫu, tạo dang sản phảm còn rất kém.
Các doanh nghiệp rất cần những kỹ sư có bằng cấp, công nhân kĩ thuật và các nhà quản
lý- những người có khả năng nắm bắt công nghệ hiện đại. Có một thực tế là nhiều doanh
nghiệp bỏ ra một số tiền lớn để mua thiết bị và công nghệ hiện đại, giá cao để chuẩn bị
cho việc sản xuất các mặt hàng cao cấp, song người vận hành các thiết bị này lại có trình
độ chuyên môn thấp.
Nhìn chung tăng trưởng nhanh trong khi những cán bộ kĩ thuật và quản lý được đào
tạo tại các trường có xu hướng giảm dần nên dẫn đến tình trạng thiếu đội ngũ công nhân
lành nghề và cán bộ khoa học cho ngành Dệt may.
2.1.5.2. Chính sách và cơ chế chính sách của nhà nước:
Tình hình chính trị ổn định trong nước luôn luôn tạo sự tin tưởng vững chắc cho
việc đầu tư vào ngành, giúp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các cơ chế chính sách ngày
càng thông thoáng và hoàn thiện hơn, giúp các doanh nghiệp rất nhiều trong hoạt động
kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó, tình hình chính trị, môi trường kinh doanh của các thị trường xuất
khẩu cũng tác động trực tiếp đến đầu ra của sản phẩm. Những cơ chế chính sách, các yêu
cầu và kiểm soát ngày càng nghiêm ngặt khi nhập khẩu hàng may mặc là những rào cản
lớn mà các doanh nghiệp trong ngành luôn cần quan tâm.
2.2. Các hình thức gia công quốc tế hàng dệt may xuất khẩu
2.2.1. Các hình thức gia công quốc tế hàng dệt may xuất khẩu
a. Phương thức nhận nguyên vật liệu, giao thành phẩm
Đây là một phương thức gia công quốc tế đơn giản nhất. Khi hợp tác theo phương
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 14 Nhóm: 05

thức này, các khách mua, các đại lý mua hàng và các tổ chức mua hàng cung cấp cho
doanh nghiệp gia công toàn bộ đầu vào để sản xuất sản phẩm bao gồm mẫu thiết kế,
nguyên liệu, vận chuyển, các doanh nghiệp gia công Việt Nam chỉ thực hiện việc cắt,
may và hoàn thiện sản phẩm. Doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu theo phương thức này
chỉ cần có khả năng sản xuất và một chút khả năng thiết kế để thực hiện mẫu sản phẩm.
Ở nước ta, hầu hết các doanh nghiệp may gia công đang áp dụng phương thức
này. Bên đặt gia công giao cho bên nhận gia công nguyên vật liệu, có khi cả các thiết
bị máy móc kỹ thuật phục vụ cho quá trình gia công. Ngoài ra, bên đặt gia công có
thể chỉ giao một phần nguyên liệu còn lại họ giao cho phía nhận gia công tự đặt mua tại
các nhà cung cấp mà họ đã chỉ định sẵn trong hợp đồng với giá cả được ấn định từ
trước hoặc thanh toán thực tế trên hoá đơn. Các doanh nghiệp may mặc nước ta tiến
hành sản xuất gia công theo yêu cầu về số lượng chủng loại, mẫu mã, thời gian; sau
thời gian sản xuất bên đặt gia công sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công cho
doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất gia công, không có sự chuyển đổi quyền sở hữu về
nguyên vật liệu. Tức là bên đặt gia công vẫn có quyền sở hữu về nguyên vật liệu của
mình. Và khi thực hiện công việc gia công, họ thường cử các chuyên gia nước ngoài
giám sát hoặc đứng vị trí kỹ thuật cho nên tranh chấp về chất lượng ít khi xảy ra lúc giao
hàng.
Một số bạn hàng đặt gia công như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Canada
Do trình độ kỹ thuật máy móc trang thiết bị của ta còn hạn chế, chưa đủ điều kiện
để cung cấp nguyên vật liệu, thiết kế mẫu mã nên việc phụ thuộc vào nước ngoài là
điều không thể tránh khỏi.
Đây là hình thức sản xuất cho giá trị thấp nhất. Ông Phạm Xuân Hồng, Tổng giám
đốc Công ty May Sài Gòn 3, cho rằng, doanh nghiệp chỉ hưởng được khoảng 1 - 3% phí
gia công. Tuy nhiên do làm theo yêu cầu của hợp đồng gia công nên dễ dàng hơn trong
việc thiết kế mẫu mã, tận dụng được các lợi thế của nước đặt gia công về mẫu mã, kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý
b. Phương thức mua đứt, bán đoạn
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 15 Nhóm: 05

Đây là một phương thức xuất khẩu ở bậc cao hơn so với phương thức nhận nguyên
vật liệu, giao thành phẩm. Bên đặt gia công dựa trên hợp đồng mua bán, bán đứt nguyên
vật liệu cho bên nhận gia công, bên nhận gia công sẽ mở L/C để mua nguyên phụ liệu và
như vậy quyền sở hữu nguyên liệu sẽ được chuyển sang bên nhận gia công. Sau một thời
gian sản xuất, bên đặt gia công sẽ mua lại toàn bộ sản phẩm theo như định mức đã duyệt
với số tiền phải trả là toàn bộ chi phí mua nguyên vật liệu và giá gia công được quy định
trong hợp đồng.
Hợp đồng này còn quy định số sản phẩm làm ra với số lượng nguyên liệu nhất định
và phải bán lại cho bên đặt gia công. Phương thức này ngày càng được áp dụng nhiều với
các nước đang phát triển vì nó vừa tiết kiệm cho bên đặt gia công vừa thuận lợi cho bên
nhận gia công.
Theo phương thức này, các doanh nghiệp gia công Việt Nam phải chủ động tham
gia vào quá trình sản xuất, từ việc mua nguyên liệu đến cho ra sản phẩm cuối cùng. Khác
với phương thức nhận nguyên vật liệu, giao thành phẩm, các nhà xuất khẩu theo phương
thức mua đứt bán đoạn sẽ chủ động mua nguyên liệu đầu vào cần thiết thay vì được cung
cấp từ các người mua của họ.
Như vậy thông qua phương thức này ta thấy nó không những nâng cao được trình
độ quản lý cho cán bộ công nhân mà còn làm tăng hiệu quả sản xuất, không phải nhận
một khoản chi phí thấp từ phía khách hàng nước ngoài nữa. Nó còn giúp ta chủ động
trong vấn đề giá cả, từ đó nâng cao một phần giá trị của hàng hóa sản xuất ra, lao động
cũng nâng cao tay nghề và có trách nhiệm trong sản xuất hơn.
c. Phương thức kết hợp
Đây là phương thức phát triển cao nhất của hoạt động gia công xuất khẩu được áp
dụng khi trình độ kỹ thuật, thiết kế mẫu mã của ta đã phát triển cao. Khi đó bên đặt gia
công sẽ cung cấp nguyên vật liệu chính, mẫu mã và các thông số kỹ thuật của sản phẩm.
Còn bên nhận gia công tự lo nguyên vật liệu phụ và tự tổ chức quá trình sản xuất gia
công theo yêu cầu của bên đặt gia công. Sau 20 năm tập trung cho sản xuất gia công đơn
giản, ngành dệt may Việt Nam bước đầu chuyển sang phương thức sản xuất này.
Trong phương thức này, các doanh nghiệp may mặc Việt Nam hầu như chủ động
hoàn toàn trong quá trình gia công sản phẩm, phát huy được lợi thế về nhân công

Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 16 Nhóm: 05
cũng như công nghệ sản xuất, nguyên phụ liệu trong nước. Gia công theo hình thức này
các doanh nghiệp có thể bán một phần nguyên liệu trong nước theo giá quốc tế giúp
mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, góp phần tăng khả năng cạnh tranh với hàng ngoại
nhập.
Xuất gia công theo phương thức này rất hấp dẫn khi giá trị tăng thêm có thể tăng từ
10-15%. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải chịu nhiều rủi ro, thường là bị khách hàng phạt
bởi khâu làm mẫu chưa chuẩn, chất lượng lao động. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải
chịu áp lực từ do ngành dệt may trong nước không đáp ứng được yêu cầu nguyên liệu
cho nhu cầu may xuất khẩu nên các doanh nghiệp phải nhập vải may, trong khi giá trị vải
nhập để sản xuất gia công lại chiếm tỷ lệ cao trong kim ngạch xuất khẩu, chưa kể các loại
phụ liệu khác cũng phải nhập khẩu phần lớn từ các nước thuê gia công nên chi phí
nguyên phụ liệu cao làm giá cả độn lên nhiều phần….
Hiện nay, chỉ có các công ty xuất sắc mới đạt được trình độ cao của phương thức
này, chẳng hạn nổi tiếng là công ty Youngor của Trung Quốc, hiện tại rất ít nhà cung cấp
có khả năng thực hiện được phương thức này. Hiện nay có một vài doanh nghiệp dệt may
đã sử dụng hình thức gia công này nhưng một trong những doanh nghiệp thành công nhất
phải kể đến Cty may Thăng Long thông qua sản phẩm mang thương hiệu THALOGA.
Ngoài ra còn các công ty khác như: Việt Tiến, Đức Giang, Công ty SX và xuất nhập khẩu
tổng hợp Hà Nội (HAPROSIMEX)
2.2.2. Tỷ trọng các phương thức gia công.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay vẫn sản xuất theo phương thức gia
công đơn giản, thiếu khả năng cung cấp trọn gói. Theo thống kê của Hiệp hội dệt may
Việt Nam năm 2013 tỷ lệ xuất khẩu hàng may mặc theo phương thức nhận nguyên vật
liệu, giao thành phẩm vẫn chiếm chủ yếu (khoảng 70%), xuất khẩu theo phương thức
mua đứt, bán đoạn chỉ khoảng 20%, xuất khẩu theo phương thức kết hợp chỉ chiếm tỷ lệ
rất nhỏ là 10%. Vì vậy mà các doanh nghiệp Việt Nam chỉ thu về tỷ suất lợi nhuận
khoảng 5-10% của và phải nhập khẩu đến 70-90% nguyên phụ liệu. Điều này giải thích
cho một nghịch lý là Việt Nam đang là một trong năm nước xuất khẩu hàng dệt may
nhiều nhất trên thế giới nhưng lại là quốc gia duy nhất không dùng nguyên phụ liệu trong

nước.
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 17 Nhóm: 05
Nếu vẫn phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu từ nước ngoài, các doanh nghiệp
may mặc ở Việt Nam sẽ gặp phải một số rủi ro sau: rủi ro về thời gian và chất lượng
nguyên phụ liệu trong quá trình vận chuyển, rủi ro về thời gian khi tìm nguyên liệu thay
thế trong trường hợp sản phẩm bị lỗi dẫn tới ảnh hưởng hợp đồng giao hàng.
2.3. Thực trạng gia công quốc tế của ngành dệt may Việt Nam
2.3.1. Nêu thực trạng chung
2.3.1.1. Tình hình gia công quốc tế hàng dệt may trong những năm vừa qua
Tình hình chung:
Hiện nay, hoạt động gia công quốc tế đang là hoạt động chính trong ngành Dệt may
của Việt Nam trong nhiều năm qua. Từ nhiều năm qua, hàng dệt may của Việt Nam xuất
khẩu chủ yếu theo hình thức gia công cho nước ngoài (xuất gia công) và xuất hàng sản
xuất từ nguyên liệu nhập khẩu (xuất sản xuất xuất khẩu). Có thể thấy được rằng tỷ trọng
xuất gia công các sản phẩm trong ngành dệt may Việt Nam rất cao, được thể hiện điển
hình qua các năm như sau:
* Năm 2011:
Năm 2011, ngành dệt may Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 14,0 tỷ USD, đạt
mức tăng trưởng 10,5% so với năm 2010. Trong đó, tỷ lệ hàng xuất gia công dệt may
chiếm 76,5% với kim ngạch xuất gia công khoảng 10,71 tỷ USD.
* Năm 2012:
Năm 2012, ngành dệt may Việt Nam đã về đích thành công với 15,1 tỷ USD kim
ngạch, đạt mức tăng trưởng 8,5% so với năm 2011. (Nguồn: Vinatex). Trong đó, tỷ trọng
hai loại hàng xuất gia công và xuất hàng sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu của dệt may
Việt Nam chiếm hơn 96% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước;
trong đó, xuất khẩu hàng gia công chiếm 75,3% với kim ngạch xuất gia công khoảng
11,37 tỷ USD; xuất sản xuất xuất khẩu chiếm 21,2%.
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 18 Nhóm: 05
Biểu đồ 3: Tỷ trọng xuất khẩu theo các loại hình của hàng Dệt may năm 2012
Nguồn: Tập đoàn dệt may Việt Nam

* Năm 2013:
Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt 18,5 tỷ USD; tăng 18,5% so
với cùng kỳ; chiếm 13,6% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Nhưng theo thống kê của
Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) ngành dệt may trong nước có đến 70% doanh nghiệp
sản xuất theo hình thức gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Trong đó tỷ trọng các sản phẩm gia công chiếm từ 60%-80% tùy từng loại hình sản
phẩm gia công và tỷ trọng sản phẩm gia công xuất khẩu toàn ngành chiếm 72,5% tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước với kim ngạch xuất gia công khoảng
13,41 tỷ USD. Chuỗi sản xuất của ngành từ khâu kéo sợi, dệt, nhuộm và may nhưng đến
nay may gia công vẫn là chính, với nguyên liệu chủ yếu nhập khẩu.
* Năm 2014:
Trong 6 tháng/2014, kim ngạch xuất khẩu Dệt may Việt Nam đạt 9,38 tỷ USD, tăng
19,8% so với cùng kỳ năm 2013, chiếm 13,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước trong 6 tháng đầu năm. Trong đó, tỷ lệ hàng xuất gia công dệt may chiếm 70% với
kim ngạch xuất gia công khoảng 6,57 tỷ USD.
Có thể hình dung rõ ràng hơn qua bảng sau:
Năm
Chỉ tiêu
2011 2012 2013 6 tháng/2014
Kim ngạch XK 14,0 tỷ USD 15,1 tỷ USD 18,5 tỷ USD 9,38 tỷ USD
Kim ngạch xuất 10,71 tỷ USD 11,37 tỷ USD 13,41 tỷ USD 6,57 tỷ USD
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 19 Nhóm: 05
gia công
Tỷ trọng hàng
gia công
76,5% 75,3%, 72,5% 70%
Bảng 2: Kim ngạch và tỷ trọng xuất gia công trong những năm qua
Nguồn: Tập đoàn dệt may Việt Nam
Qua đó thấy rằng, gia công quốc tế là hoạt động chính trong ngành dệt may Việt
Nam. Gia công quốc tế đóng vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt

Nam, giúp ngành dệt may trở thành ngành xuất khẩu dẫn đầu nước.
Thị trường gia công chủ lực:
Biểu đồ 4: Các thị đối tác
gia công chính trong
ngành dệt may
Nguồn: Hiệp hội dệt may
Việt Nam
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc là 4 đối tác gia công hàng dệt may lớn nhất
của Việt Nam. Theo Số liệu thống kê từ Vitas năm 2013 cho thấy, tổng lượng xuất gia
công dệt may Việt Nam vào Mỹ đạt 3,94 tỷ USD, chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu
của toàn ngành. Xuất gia công sang thị trường EU đạt 1,85 tỷ USD, chiếm 15% tổng kim
ngạch. Thị trường Nhật Bản cũng đạt 1,7 tỷ USD, chiếm 13% tổng kim ngạch. Thị
trường Hàn Quốc cũng đạt 1,4 tỷ USD, chiếm 9% tổng kim ngạch. Các thị trường khác
đạt 1,85 tỷ USD chiếm 15%. Cũng theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 6
tháng đầu năm 2014, kim ngạch xuất gia công hàng dệt may Việt Nam vào Hoa Kỳ đạt
hơn 4,57 tỷ USD, tăng 15,8%, chiếm 48,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của
cả nước; thị trường EU đạt gần 1,49 tỷ USD, tăng 27,7% và chiếm 15,9% tổng kim ngạch
xuất khẩu dệt may cả nước; Nhật Bản đạt gần 1,17 tỷ USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ
năm 2013.
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 20 Nhóm: 05
Những con số này đã khẳng định vị thế của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường
thế giới, nhất là tại 4 thị trường quan trọng là Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trong đó
Mỹ vẫn là đối tác gia công hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, đứng thứ 2 là thị trường
Châu Âu, tiếp theo là các thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
 Thị trường EU: là một trong những thị trường lớn của Việt Nam, Việt Nam và EU
đã ký hiệp định về hàng may mặc từ tháng 12/1992, trong hiệp định có qui định rõ danh
mục hàng hoá và kim ngạch mà Việt Nam được đưa vào thị trường EU tổng cộng là 151
nhóm hàng, trong đó có 108 nhóm hàng theo hạn ngạch và 43 nhóm hàng phi hạn ngạch.
Đây là thị trường lớn, các doanh nghiệp Việt Nam cần tuân thủ các qui định để không
làm tổn hại đến quan hệ giữa nước ta và cộng đồng chung Châu Âu.

 Thị trường Mỹ : sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết và chính thức
phát huy hiệu lực vào năm 2001 đã mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam
tham gia vào thị trường lớn và đầy triển vọng này. Đây là thị trường hứa hẹn sẽ dành cho
Việt Nam nhiều hợp đồng gia công lớn, tuy nhiên thì đây cũng là một thị trường hết sức
khó tính và đòi hỏi chất lượng cao. Điều đặt ra cho các doanh nghiệp chúng ta hiện nay là
cần hoàn thiện công nghệ gia công cũng như là nâng cao tay nghề của đội ngũ lao động
nhằm đáp ứng được nhu cầu của phía đối tác. Vừa qua thì tập đoàn JC Penny, một trong
những tập đoàn tiêu dùng lớn thứ ba của Mỹ đã có chuyến khảo sát thị trường Việt Nam
để dự định triển khai dự án dệt may gồm các công đoạn từ nguyên liệu, phụ liệu, sản xuất
đến xuất khẩu sản phẩm. Và theo đánh giá nhận xét của ông phó chủ tịch tập đoàn thì ông
cho rằng Việt Nam là nước sản xuất dệt may có hiệu quả, đây là một tin mừng cho các
doanh nghiệp dệt may của chúng ta để tranh thủ cơ hội đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên đây
cũng là thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt khi nước ta phải cạnh tranh hàng dệt may sang
Mỹ và đặc biệt là sức ép của hàng dệt may Trung Quốc.
Hiện nay, Việt Nam đang cố gắng mở rộng thị phần ra nhiều nước và vùng lãnh thổ
trên toàn thế giới như: Thái Lan, các nước SNG (Cộng đồng các quốc gia độc lập),
Canada….
Cơ cấu mặt hàng gia công:
Hàng gia công ngành dệt may Việt Nam ngày càng có nhiều chủng. Với thị trường
xuất gia công rộng, rõ ràng Việt Nam đang trở thành nhà cung cấp hàng may mặc cạnh
tranh trên thế giới. Nhưng Việt Nam vẫn chỉ cạnh tranh xuất gia công ở những mặt hàng
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 21 Nhóm: 05
tương đối hẹp, những sản phẩm may mặc mà đang xuất gia công chủ yếu là các sản phẩm
từ bông và sợi tổng hợp cho phân khúc thị trường cấp trung và cấp thấp. Theo số liệu về
chủng loại các mặt hàng xuất khẩu năm 2013 cho thấy, hơn 60% giá trị xuất gia công của
ngành may mặc là từ áo sơ mi, áo khoác, quần dài và quần áo thể thao. Các sản phẩm từ
dệt kim như quần áo lót, áo thun được sản xuất với khối lượng và giá trị xuất khẩu vẫn
còn tương đối nhỏ. Các sản phẩm cao cấp như váy, đồ vest được xuất gia công với số
lượng rất hạn chế.
Biểu đồ 5: Cơ cấu hàng xuất gia công ngành dệt may năm 2013

Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam
2.3.1.2. Vai trò của hoạt động GCQT đối với ngành dệt may VN và sự phát triển kinh tế -
xã hội.
Gia công quốc tế là một hình thức phổ biến trong thương mại quốc tế. Thông qua
hình thức này cả bên đặt gia công và bên nhận gia công đều khai thác được những lợi thế
của mình. Gia công quốc tế giúp nước ta mở rộng được quan hệ kinh doanh quốc tế và
qua đó làm bước đệm để đưa sản phẩm của chúng ta ra thị trường quốc tế. Do đặc điểm
của gia công, đặc biệt là gia công hàng may mặc cần nhiều lao động sống nên nó có vai
trò to lớn trong sự phát triển kinh tế nước ta hiện nay:
− Gia công quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho vấn đề việc làm bởi hoạt động này sử
dụng nguồn lao động rất lớn. Ở Việt Nam nguồn lao động rất dồi dào, giá nhân công rẻ,
gia công quốc tế đã tận dụng được nguồn lao động này, góp phần tạo công ăn việc làm
Lớp HP: 1451ECIT0311 Page 22 Nhóm: 05

×