Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

tiểu luận vấn đề mà chủ nghĩa hành vi cổ điển bỏ qua, tức là nghiên cứu xem có cái gì xảy ra giữa S và R

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 125 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lý luận
Lứa tuổi học sinh THCS bao gồm những em cĩ độ tuổi từ 11, 12 đến 14,
15 tuổi (tương đương với những em đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 ở trường
THCS). Lứa tuổi này cũn được gọi là lứa tuổi thiếu niờn và nĩ cĩ một vị trí đặc
biệt trong thời kỳ phát triển của trẻ em.
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng lứa tuổi học sinh THCS là giai
đoạn quá độ, giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn. Điều đĩ tạo nên
nội dung cơ bản của sự khác biệt giữa lứa tuổi này với lứa tuổi khác. Đĩ là sự
xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành do kết quả biến đổi mạnh mẽ
của ý thức và tự ý thức; của nội dung và hình thức hoạt động học tập; của các
kiểu quan hệ với người lớn, với bạn bè và của tớnh tích cực xã hội ở các em.
Điều này làm nảy sinh trong các em cảm giác mới lạ, độc đáo - cảm giác
mình đã trở thành người lớn. Học sinh THCS muốn tị mị, khám phá thế giới,
muốn được độc lập và bình đẳng với người lớn, muốn đứng ngang hàng với
người lớn, muốn được người lớn tơn trọng và cơng nhận vị thế của mình
trong xã hội. Nhưng trên thực tế các em vẫn là học sinh, chưa thực sự là
người lớn, vẫn phải phụ thuộc vào cha mẹ, thầy cơ, các em vẫn cũn là những
người thiếu kinh nghiệm trong mọi mặt của đời sống xã hội.
Sự mâu thuẫn giữa nhu cầu vươn lên làm người lớn và địa vị thực tế của
học sinh THCS đã tạo nên những khĩ khăn tâm lý trong tâm hồn các em.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Thế kỷ XXI, thế kỷ của cơng nghệ mới, của sự bùng nổ thơng tin mạng, thế
kỷ của mở cửa và hội nhập, của sự giao thoa văn hố giữa các quốc gia, dân tộc
và vùng lãnh thổ trên thế giới. Sự giao thoa, du nhập tất cả các lối sống, các hoạt
động, cả tích cực lẫn tiêu cực đang diễn ra mạnh mẽ trên tồn cầu.
Hoà chung xu thế mở cửa và hội nhập với thế giới, Việt Nam cũng đã và
đang ngày càng khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế và sự thực thì
1
Việt Nam cũng đang cĩ vị thế cao trên chớnh trường khơng những của khu


vực mà cũn trên toàn thế giới. Một xã hội Việt Nam đang thực sự cĩ những
bước chuyển mình vượt bậc.
Học sinh THCS là thế hệ tương lai của đất nước, là thế hệ gánh vác và
chèo lái con tàu đất nước tiến nhanh tiến vững chắc ngang tầm với những
cường quốc trên thế giới trong tương lai. Đảng và Nhà nước ta đã rất quan
tõm đến việc giáo dục thế hệ trẻ, coi giáo dục thế hệ trẻ là quốc sách hàng đầu
nhằm vào việc đào tạo đội ngũ nhõn lực cĩ chất lượng cao cho đất nước trong
tương lai. Với mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: Cần phải ưu
tiên cho trẻ quyền được sống, quyền được phát triển, quyền được bảo vệ và
đảm bảo an toàn, quyền được tham gia và tơn trọng
Nhưng trước xu thế phát triển của thời đại kéo theo những biến đổi sõu sắc
của xã hội đã đặt mọi người nĩi chung và học sinh THCS nĩi riêng vào những
cơ hội phát triển mới, đồng thời phải đối mặt, phải chịu sức ép của những
thách thức, khĩ khăn mới. Điều này địi hỏi những người cĩ trách nhiệm giáo
dục thế hệ trẻ, đặc biệt là hệ thống giáo dục nhà trường phải cĩ những biện
pháp trợ giúp, tác động tích cực nhằm giúp học sinh THCS giải toả những khĩ
khăn tõm lý trong cuộc sống, trong học tập và giúp các em ý thức được sự
phát triển bản thõn, tự tin trong hoạt động để tự tin bước vào đời. Do đĩ học
sinh THCS rất cần cĩ sự trợ giúp, hướng dẫn của người lớn, nhất là của thầy
cơ giáo trong nhà trường - những người trực tiếp giáo dục các em để các em
cĩ thể vượt qua những khĩ khăn tõm lý của mình.
Hoạt động tham vấn tâm lý ở Việt Nam hiện nay phát triển khá mạnh mẽ
với nhiều loại hình tham vấn đa dạng và phong phú khác nhau nhằm giúp cho
mỗi người cĩ khả năng tốt hơn trong việc tự giải quyết những khĩ khăn tõm lý
và tự cõn bằng cuộc sống của mình. Tuy nhiên tham vấn chuyên biệt cho học
sinh, đặc biệt là học sinh THCS để giúp các em cĩ khả năng tốt hơn trong việc
giải quyết những khĩ khăn tõm lý gặp phải trong cuộc sống và trong học tập
cũn là một lĩnh vực khá mới mẻ cần nghiên cứu và phát triển.
2
Xuất phát từ những vấn đề đĩ, chúng tơi quyết định nghiên cứu đề tài:

“Tỡm hiểu nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh trung học cơ sở”.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THCS. Trên cơ
sở đĩ kiến nghị một số biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn của các em.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng nhu cầu tham vấn tõm lý của học sinh THCS.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu ở học sinh hai khối lớp 8 và khối lớp 9 thuộc hai trường THCS
Thanh Xuõn Nam (quận Thanh Xuõn) và trường THCS Tõn Trào (quận Hoàn
Kiếm), TP Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Học sinh THCS cĩ thể gặp nhiều khĩ khăn tõm lý như: Lo lắng về sự phát
triển cơ thể, áp lực trong học tập, đặc biệt khĩ khăn trong giao tiếp với bạn bè,
với người lớn từ đĩ các em cĩ nhu cầu tham vấn về những vấn đề trên.
5. Giới hạn phạm vi nghờn cứu đề tài
5.1. Về đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tơi tập trung nghiên cứu về một số khĩ khăn tõm lý
mà học sinh THCS thường gặp trong học tập cũng như trong cuộc sống, trên
cơ sở đĩ tỡm hiểu nhu cầu tham vấn tõm lý để giải toả những khĩ khăn tõm lý
đĩ của các em.
5.2. Về khách thể nghiên cứu
Chúng tơi chọn ngẫu nhiờn tám lớp, trong đĩ cĩ bốn lớp (hai lớp thuộc khối
lớp 8 và hai lớp thuộc khối lớp 9) của trường THCS Thanh Xuân Nam (quận
Thanh Xuân) và bốn lớp (hai lớp thuộc khối lớp 8 và hai lớp thuộc khối lớp 9)
của trường THCS Tân Trào (quận Hồn Kiếm), TP Hà Nội. Tổng số khách thể
của tám lớp nghiên cứu là 286 học sinh.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
- Hệ thống hố một số vấn đề lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

- Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn của học sinh THCS.
- Từ đĩ kiến nghị một số biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham vấn của
học sinh THCS.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
7.2. Phương pháp quan sát
7.3. Phương pháp điều tra viết
7.4. Phương pháp thử nghiệm tác động sư phạm
7.5. Phương pháp trắc đạc xã hội
7.6. Phương pháp phỏng vấn sõu
7.7. Phương pháp thống kê tốn học
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề nhu cầu
- Ở nước ngồi
Quan điểm của chủ nghĩa hành vi mà J. Watson (1878 - 1958) là người
khởi xướng cho rằng: khi cĩ một kích thích nào đĩ tác động vào cơ thể sẽ tạo
ra một phản ứng tương ứng để đáp lại. Vì thế mọi hành vi của cơ thể tạo ra
đều được biểu đạt theo cơng thức:
S - R (Kích thích - phản ứng)
J.Watson hồn tồn khơng đề cập đến giữa kích thích và phản ứng cĩ cái
gì. Ơng khơng xét đến yếu tố tâm lý Èn đằng sau mỗi hoạt động, thúc đẩy
hoạt động bộc lé ra bên ngồi. Và điều đĩ cĩ nghĩa là ơng khơng chú ý đến tính
tích cực của chủ thể trong đời sống của mỗi con người. Chính vì vậy, ơng đã
khơng giải thích được nhiều hiện tượng tâm lý xảy ra trong thực tế. Sai lầm
này đã đưa lý thuyết hành vi của J. Watson vào chỗ bế tắc.
Sau J. Watson, E. Tolman (1886 - 1959) - người khởi xướng ra chủ
nghĩa hành vi mới đã đề cập đến vấn đề mà chủ nghĩa hành vi cổ điển bỏ qua,

tức là nghiên cứu xem cĩ cái gì xảy ra giữa S và R. Yếu tố trung gian này đã
can thiệp vào trong quá trình tạo ra phản ứng. Bởi vì quá trình phản ứng
khơng chỉ cĩ kích thích vật lý bên ngồi mà cịn cả những nhân tố tâm lý bên
trong đĩ là nhu cầu tiếp nhận cái kích thích đĩ.
Nhà tâm lý học người Áo S.Freud (1856 - 1939) đã đề cập tới nhu cầu
trong “Lý thuyết bản năng của con người”. Theo ơng, lực vận động hành vi
con người nằm trong bản năng. Đời sống tâm lý của con người gồm ba khối
“cái nĩ”, “cái tơi” và “cái siêu tơi”. Trong đĩ nhu cầu tự nhiên là bản năng tình
dục, “cái nĩ” khi khơng được thoả mãn, bị dồn nén sẽ thăng hoa thành động
lực chủ đạo thúc đẩy con người hoạt động trong nhiều lĩnh vực: lao động, học
5
tập, khoa học, văn hố Ơng khẳng định rằng, tất cả hành vi của con người
đều hướng tới việc mong muốn thoả mãn hay hướng tới khối lạc, những nhu
cầu cơ thể và hành vi của con người hướng tới việc mong muốn phá huỷ và
xâm lăng. Sự mong muốn này đầu tiên hướng tới mơi trường xung quanh,
nhưng do sự ngăn cấm của xã hội mà nĩ lại hướng vào chính mình (bản năng
sống). Ơng nghiên cứu động vật và chứng minh một cách hùng hồn những
hành vi hung bạo hay những hành vi phá huỷ là phương tiện thoả mãn những
nhu cầu quan trọng của cuộc sống, nĩ được nảy sinh trong những điều kiện
tồn tại. Hành vi phá huỷ hay hành vi hung bạo cũng là phương thức tự bảo vệ.
Xã hội chẳng qua là một hệ thống tổ chức và cấm đốn được hình thành từ bên
ngồi bản năng sống của con người.
Nghiên cứu của nhà tâm lý học người Mỹ Henry Murray với sự liệt kê
về những nhu cầu cơ thể (những nhu cầu bản năng) và ơng đưa ra mét danh
mục các nhu cầu thứ phát (cĩ nguồn gốc tâm lý) do kết quả của sự dạy dỗ, học
tập, huấn luyện trên cơ sở những bản năng tương ứng. Đĩ là những nhu cầu:
thành tích, hội nhập được tơn trọng, an tồn hiểu biết lẫn nhau, lẩn tránh sự
thất bại, lÈn tránh những hoạt động cĩ hại… Ngồi những nhu cầu Êy, tác giả
cịn đề xuất 8 nhu cầu nữa đặc trưng ở người đĩ là: Nhu cầu được sở hữu, nhu
cầu tránh bị trách phạt và tránh bị hại, nhu cầu về tri thức, nhu cầu về sự sáng

tạo, nhu cầu giải thích, nhu cầu về sự thừa nhận, nhu cầu về sự tiết kiệm, nhu
cầu về sự hợp tác. Theo Murray, nhu cầu được hiểu là một tổ chức cơ động, cĩ
chức năng tổ chức và hướng dẫn các quá trình nhận thức, tưởng tượng và
hành vi. Nhờ nhu cầu mà hoạt động mang tính mục đích, do đĩ hoặc là đạt
được sự thoả mãn nhu cầu, hoặc là ngăn ngõa sự đụng độ khĩ chịu với mơi
trường. Nhu cầu là một động lực xuất phát từ cơ thể, trong khi đĩ áp lực là lực
tác động vào cơ thể, chúng tồn tại trong quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Nhu cầu
địi hỏi phải cĩ sự tác động qua lại với các tình huống xã hội, phải cĩ sự cải tổ
chúng nhằm mục đích đạt được sự thích ứng, đồng thời bản thân các tình
6
huống cũng như nhu cầu của những người khác cĩ thể bộc lé cả với tư cách là
những kích thích (nhu cầu) lẫn với tư cách là trở ngại (áp lực).
Từ những năm 30 của thế kỷ XX, cĩ nhiều nghiên cứu chuyên biệt về
nhu cầu con người. Đầu tiên là lý thuyết hệ động cơ do K. Lewin đề xướng.
K. Lewin cho rằng, dưới sự tác động của nhu cầu nào đĩ, trạng thái căng thẳng
sẽ xuất hiện, đồng thời ở chủ thể cũng xuất hiện sự liên tưởng cĩ liên quan với
nhu cầu. Ơng nhấn mạnh rằng, thật sai lầm nếu chỉ nghĩ rằng những nhân tố
thực của hoạt động tâm lý con người chỉ xuất phát từ nhu cầu cơ thể mà nĩ cịn
được xuất phát từ nhu cầu xã hội. Mọi dự định, ý nghĩ là một dạng của nhu
cầu, từ đĩ dẫn đến sự xuất hiện hệ thống căng thẳng và đĩ cũng là nguyên nhân
tạo ra sự hoạt động tích cực của con người, hoạt động sẽ làm dịu đi sù căng
thẳng
Abraham Maslow (1908 - 1970) nhà tâm lý học Mĩ đại diện cho trường
phái Tâm lý học Nhân văn, với lý thuyết Phân bậc nhu cầu, đã nhìn nhận nhu
cầu của con người theo hình thái phân cấp, sắp xếp theo thứ tự tăng dần từ
nhu cầu cấp thấp đến nhu cầu cấp cao nhất. A. Maslow nhận định rằng khi
mét nhu cầu được thoả mãn thì nĩ khơng cịn là động lực thúc đẩy. Và những
nhu cầu cơ bản của con người được ơng xác định theo cấp tăng dần và thể
hiện trong các mức độ sau:
+ Mức thứ nhất: Các nhu cầu sinh lý, là nhu cầu cơ bản để duy trì bản

thân cuộc sống của con người, như: Nhu cầu về thức ăn, nước uống, nhà ở,
thoả mãn tình dục
+ Mức thứ hai: Các nhu cầu an ninh, an tồn, là nhu cầu tránh sự nguy
hiểm về thân thể, sự đe doạ mất việc làm, mất tài sản.
+ Mức thứ ba: Các nhu cầu xã hội, là nhu cầu giao lưu với người khác
và được người khác thừa nhận.
+ Mức thứ tư: Các nhu cầu được tơn trọng, là xu thế muốn được độc
lập và muốn được người khác tơn trọng của con người khi được chấp nhận là
thành viên của xã hội. Đĩ là nhu cầu về quyền lực, uy tín, địa vị và lịng tự tin.
7
+ Mc th nm: Cỏc nhu cu hin thc h bn thõn (hay cn gi l nhu
cu t khng nh mỡnh) (Self actualization needs), l cỏc mong mun th
hin ht kh nng, bc lộ tim nng ca mỡnh mc ti a nhm thc hin
mc tiờu no . Nhu cu ny c A. Maslow xp hng cao nht trong phõn
cp cỏc nhu cu.
Cỏc mc trờn c sp xp thnh Thỏp nhu cu.
A. Maslow gi bn mc nhu cu u tiờn l nhm cỏc nhu cu thiu
ht, cỏc nhu cu nhm th nm (cỏc nhu cu hin thc h bn thõn Self
actualization needs) c ng chia thnh cỏc nhu cu nh hn: nhu cu
hiu bit, nhu cu thm m, nhu cu sỏng to v c gi l nhm cỏc nhu
cu phỏt trin.
S : H thng th bc nhu cu theo A. Maslow
Trong tỏc phm Nhng vn lý lun v phng phỏp lun tõm lý hc, tỏc
gi B.Ph.Lomov ó nhn xột rng: Thỏp Maslow bao gm c nhng nhu cu
c ngun gc sinh hc v xó hi, nhng c im ca cỏc mc nờu trờn l
ht sc v nh hỡnh. Theo tỏc gi, nguyờn nhõn a n cỏch phõn cp
nhu cu nh vy ca A. Maslow l do vic tỏch nhu cu ca cỏ nhõn ra khi
h thng quan h xó hi, v t nhu cu nm ngi mi liờn h xó hi, khng
ch ra c trong nhng iu kin xó hi no nhu cu c tho món v
nhng nguyờn nhõn chuyn tip no t mc ny sang mc khỏc.

8
Nhu
cầu tự khẳng
định mình
Nhu cầu
tôn trọng
Nhu cầu tình cảm
Nhu cầu an toàn
Nhu cầu sinh lý
Nh vậy, các nghiên cứu trên đều đã cĩ những đĩng gĩp nhất định nh thừa
nhận vai trị quan trọng của nhu cầu, nhu cầu qua mối quan hệ với ý thức con
người. Tuy nhiên, cũng cịn nhiều điều phải bàm như: Cĩ phải việc thoả mãn
nhu cầu tình dục là động lực duy nhất để thúc đẩy con người hoạt động như
quan niệm của S. Freud, hoặc các nhu cầu bậc cao ở con người cĩ nhất thiết
phải tuân theo các tầng, bậc như cách phân cấp của A. Maslow v.v hay
khơng.
Sau cách mạng tháng Mười Nga, năm 1917, các nhà tâm lý học Xơ
Viết đã bắt tay vào thử nghiệm để thiết lập và giải quyết vấn đề động cơ trong
hoạt động của con người. Dùa vào học thuyết của các tác gia kinh điển của
chủ nghĩa Mac - Lênin về con người, họ đã nhấn mạnh ý nghĩa căn bản của
nhu cầu, coi nĩ là động lực thúc đẩy con người hoạt động.
Đầu tiên là D. N. Uznadze. Trong cuốn Tâm lý học đại cương, xuất bản
năm 1940 bằng tiếng Gruzia, ở chương “Tâm lý học của hoạt động”, ơng
viết: “Khơng cĩ gì cĩ thể đặc trưng cho một cơ thể sống hơn là sự cĩ mặt ở nĩ
các nhu cầu Nhu cầu, đĩ là cội nguồn của tính tích cực, với ý nghĩa này thì
khái niệm nhu cầu rất rộng Các nhu cầu phát triển và điều khơng thể phủ
nhận là ở giai đoạn phát triển cao nhất thì con người cĩ vơ số những nhu cầu
mới, mà những nhu cầu này khơng những khơng cĩ ở động vật mà cịn khơng
thể cĩ ở con người trong giai đoạn phát triển sơ khai” [5, 12]. Ơng viết: “Cần
xuất phát từ cái gì trong khi phân loại các hình thái hành vi người? Vấn đề

động cơ hay nguồn gốc của tính tích cực cĩ ý nghĩa cơ bản và ở đây khái niệm
nhu cầu phải giữ vai trị quyết định”. D. N. Uznadze cho rằng khi cĩ một nhu
cầu cụ thể nào đĩ xuất hiện, chủ thể hướng sức lực của mình vào thực tại xung
quanh nhằm thoả mãn nhu cầu đĩ, đấy chính là cách nảy sinh hành vi. Nh vậy,
D. N. Uznadze quan niệm rằng nhu cầu là yếu tố quyết định tạo ra tính tích
cực, nĩ xác định xu hướng, tính chất hành vi. Ơng là người đã khám phá ra
quan điểm mới về nhu cầu và sự liên quan của nĩ với các dạng khác nhau
trong hành vi con người.
9
Trong các cơng trình nghiên cứu của mình, X. L. Rubinstein đã bàn
nhiều về vấn đề nhu cầu. Theo ơng, con người cĩ nhu cầu sinh vật nhưng bản
chất con người là sản phẩm của xã hội lồi người. Do đĩ, X. L. Rubinstein nhấn
mạnh mối quan hệ lẫn nhau của con người với tự nhiên, đĩ là mối quan hệ nhu
cầu, cĩ nghĩa là sự cần thiết của con người về một cái gì đĩ nằm ngồi con
người. Nhu cầu sẽ xác định những biểu hiện khác nhau của nhân cách, đĩ là
xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thĩ, niềm tin. Theo ơng, trong thực tế nhu cầu
là xuất phát điểm của một loạt các hiện tượng tâm lý, vì thế tâm lý học khơng
nên chỉ xuất phát từ nhu cầu mà cịn phải tiến dần và khám phá ra nhiều biểu
hiện đa dạng của nã; trong nhu cầu của con người xuất hiện sự liên kết con
người với thế giới xung quanh và xuất hiện sự phụ thuộc của cá nhân với thế
giới. Khi nĩi tới nhu cầu là nĩi đến sự địi hỏi cần thiết của con người về một
cái gì đĩ hay một điều gì đĩ nằm ngồi con người. Chính “cái gì đĩ” (đối tượng)
sẽ cĩ khả năng đáp ứng cho nhu cầu của con người thơng qua hoạt động của
chính bản thân họ.
Theo hướng phân tích bản chất tâm lý của nhu cầu, A.N Lêonchiev
(1903 - 1979) cho rằng, nhu cầu cũng như các đặc điểm tâm lý khác của con
người cĩ nguồn gốc trong hoạt động thực tiễn: “Hoạt động và duy nhất chỉ cĩ
trong đĩ mà thơi, các nhu cầu mới cĩ được tính cụ thể về mặt tâm lý học” [16,
221]. Ơng cho rằng nhu cầu với tính chất là một sức mạnh nội tại chỉ cĩ thể
được thực thi trong hoạt động. Đầu tiên nhu cầu xuất hiện như là điều kiện

tiền đề cho hoạt động, chỉ đến khi chủ thể thực sự bắt đầu hành động với đối
tượng nhất định thì lập tức xảy ra sự biến hố của nhu cầu và nĩ khơng cịn
giống như khi nĩ tồn tại một cách tiềm tàng, tồn tại tự nĩ nữa. Sự phát triển
của hoạt động càng đi xa bao nhiêu thì nhu cầu càng chuyển hố bấy nhiêu
thành kết quả của hoạt động. Và: “nhu cầu gặp đối tượng là hiện tượng kỳ thĩ
nhất trong tâm lý học! Nĩ tác động làm chủ thể bị đối tượng hố”. Nh vậy, nhu
cầu muốn hướng được hoạt động thì phải đối tượng hố trong một khách thể
nhất định. Nhu cầu thực sự bao giờ cũng phải là nhu cầu về một cái gì đĩ. Nhu
10
cầu chỉ cĩ chức năng định hướng khi cĩ sự gặp gỡ giữa chủ thể và khách thể.
Muốn được nh vậy thì chủ thể phải thực hiện một hoạt động tương ứng với
khách thể, mà trong khách thể này cĩ nhu cầu đối tượng hố trong đĩ. Mối liên
hệ giữa nhu cầu và hoạt động được A.N. Lêonchiev mơ tả bằng sơ đồ:
Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động
Đây là luận điểm cĩ ý nghĩa quan trọng đối với tâm lý học mà trong đĩ
“khơng một quan niệm nào dùa trên cơ sở của tư tưởng cho là cĩ một “động
lực” mà trên nguyên tắc là tồn tại trước bản thân hoạt động, lại cĩ thể đĩng vai
trị một quan niệm xuất phát, cĩ khả năng dùng làm cơ sở đầy đủ cho mét lý
thuyết khoa học về nhân cách của con người” [16, 224].
Như vậy, theo quan điểm của A.N. Lêonchiev, một hoạt động diễn ra
bao giê cũng nhằm vào mục đích đạt được kết quả nhất định nào đĩ. Động cơ
của hoạt động chính là nhu cầu đã được đối tượng hố và được hình dung
trước, dưới dạng các biểu tượng của kết quả hoạt động. Ơng viết: “Khơng
phải nhu cầu, khơng phải sự trải nghiệm về nhu cầu Êy mà là động cơ, một
cái khách quan, mà trong đĩ nhu cầu tìm thấy bản thân mình trong những điều
kiện nhất định”.
Bên cạnh những tác giả trên, cịn cĩ nhiều tác giả trong quá trình nghiên
cứu của mình đề cập đến vấn đề nhu cầu ở nhiều gĩc độ khác nhau như nhà
tâm lý học A. A. Xmirnơv, B.Ph.Lơmơv, L.I. Bơjơvich, v.v Họ khơng chỉ
vận dụng lý luận về nhu cầu vào thực tiễn hoạt động mà cịn bổ sung, làm

phong phú hơn lý luận về các loại nhu cầu đặc trưng của con người.
- Ở Việt Nam:
Bên cạnh các nghiên cứu nhu cầu mang tính lý thuyết của các nhà tâm
lý học như Đỗ Long, Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn Quang Uẩn,… cịn cĩ một số
cơng trình tiếp cận nghiên cứu nhu cầu trên khách thể là học sinh, sinh viên
và một số nhĩm quần chúng nhân dân đã được thực hiện. Một số cơng trình cĩ
thể kể đến như:
11
+ Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thạc về Nhu cầu đạt được trong học
tập của sinh viên (1984).
+ Nghiên cứu của Hồng Thị Thu Hà về Nhu cầu học tập của sinh viên
ĐHSP Hà Nội (2003).
+ Nghiên cứu của Bộ mơn Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
- Khoa Tâm lý giáo dục thuộc trường ĐHSP Hà Nội về Nhu cầu tham vấn
tâm lý của học sinh THCS và THPT (2005).
+ Nghiên cứu của Hồng Trần Dỗn về Nhu cầu điện ảnh của sinh viên
(năm 2006)
Hầu hết các cơng trình này đều nhằm phát hiện các đặc điểm và biểu
hiện của nhu cầu trong các hoạt động cụ thể của con người, trên cơ sở lý
thuyết và thực nghiệm tìm ra giải pháp làm thoả mãn và nâng cao hơn nữa
chất lượng của nhu cầu đĩ.
Tĩm lại, nhu cầu là khái niệm quan trọng gắn với sự phát triển của cá
nhân và xã hội và được nhiều tác giả, nhiều lĩnh vực quan tâm nghiên cứu.
Nhưng nhìn chung, các tác giả đánh giá cao vai trị trong cấu trúc nhân cách,
động cơ hoạt động của nhu cầu đối với sự phát triển của cá nhân, xã hội. Các
tác giả đều thống nhất rằng: Nhu cầu là những địi hỏi tất yếu, khách quan
được con người phản ánh trong những điều kiện cụ thể và thấy cần được thoả
mãn để tồn tại và phát triển.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tham vấn
- Ở nước ngồi:

Tham vấn là một tiến trình trong đĩ diễn ra mối quan hệ giúp đỡ giữa
hai người khi một bên cảm thấy cần được sự giúp đỡ đặc biệt khi cĩ vấn đề mà
bản thân khơng cĩ khả năng tự giải quyết. Con người được trang bị đầy đủ để
đối phĩ với cuộc sống, nhưng đơi khi vẫn tỏ ra bất lực trước một số khĩ khăn
hoặc vấn đề. Đây là lúc họ cần giúp đỡ.
Qua tham vấn làm tăng khả năng của thân chủ để đối phĩ và thực hiện
chức năng một cách đầy đủ trong cuộc sống. Cơng tác tham vấn nhằm giúp
12
một người nào đĩ cĩ khả năng đương đầu tốt hơn với sự căng thẳng, tìm ra các
cung cách riêng mang tính thực tế để giải quyết các vấn đề và ra quyết định cĩ
hiểu biết về việc sẽ làm gì để giảm bớt ảnh hưởng của các vấn đề đĩ đối với
bản thân, gia đình và bạn bè. Nhà tham vấn ở đây cĩ thể là một người lớn tuổi,
những người đứng đầu bộ téc, buơn làng, cha xứ hay những nhà hiền triết,
v.v.
Là quá trình xin và cho lời khuyên của một người cĩ kinh nghiệm với
một người đang gặp khĩ khăn cần sự trợ giúp, tham vấn đã xuất hiện ngay từ
buổi bình minh của xã hội lồi người. Tuy nhiên, với tư cách là một hoạt động
chuyên mơn, được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong xã hội như một
nghề mang tính chuyên nghiệp thì mãi đến thế kỷ XIX người ta mới thấy cĩ
những dấu hiệu chính thức.
Sù ra đời và phát triển của tham vấn với tư cách là một nghề mang tính
chuyên nghiệp như hiện nay chịu tác động của nhiều yếu tố:
Trong phong trào đổi mới trợ giúp xã hội vào những năm cuối của thế
kỷ XIX với phương pháp làm việc với cá nhân (case work), người ta đã chú
trọng sử dụng việc trao đổi trực tiếp với cá nhân nhằm tìm hiểu những nhu
cầu cụ thể để giúp đỡ các cá nhân và gia đình.
Các quá trình can thiệp để giúp đỡ những người bị tâm thần của các
nhà tâm thần học cũng như các cách tiếp cận nhân đạo trong giáo dục cuối
thế kỷ XIX là một trong những cơ sở quan trọng làm tiền đề cho tham vấn ra
đời với tư cách là một nghề chuyên nghiệp.

Sù ra đời và phát triển của tham vấn hướng nghiệp gắn liền với tên tuổi
Frank Parsens đã tạo ra sự phát triển nở ré của các cơng trình nghiên cứu sau
đĩ. Quá trình tham vấn hướng nghiệp này là những tiền đề cần thiết cho tham
vấn ra đời.
Trong quá trình tiến hành tham vấn, việc sử dụng những thang đo
khách quan để gĩp phần đánh giá hiện trạng của thân chủ là một trong những
phương tiện rất cần thiết. Chính trong thời điểm này việc phát triển mạnh mẽ
13
của các trắc nghiệm khách quan đã cung cấp cho các nhà tham vấn những
phương tiện cần thiết để tiến hành hoạt động tham vấn.
Hoạt động tham vấn bao giê cũng được tiến hành dùa trên cơ sở những
kiến thức về tâm lý học. Ví dụ lý thuyết được các nhà tham vấn quan tâm hơn
cả và được lùa chọn là lý thuyết hoạt động, tiếp đĩ là việc áp dụng các lý
thuyết làm tham vấn như tham vấn trị liệu bằng thuyết phân tâm học, trị liệu
hành vi, trị liệu nhĩm xĩc cảm - hành vi. Vì vậy cĩ thể nĩi, hoạt động tham vấn
ra đời và lịch sử phát triển của nĩ gắn liền với sự phát triển của các học thuyết
trong tâm lý học. Vào khoảng cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, một số lý
thuyết tâm lý ra đời và phát triển đánh dấu một bước ngoặt thực sự cĩ ý nghĩa
cho sù ra đời của tham vấn đĩ là sự ra đời của tâm lý đặc điểm và tâm lý học
nhân tố; Tâm lý phân tâm với phương pháp trị liệu phân tâm.
Những năm 30 - 40 của thế kỷ XX, Carl Goger (1902 - 1987) với
những nghiên cứu về cách tiếp cận nhân văn là một trong những lý thuyết
thực sự cĩ ý nghĩa, được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động tham vấn.
Sau những năm 50 của thế kỷ XX, các lý thuyết tâm lý được phát triển
rộng rãi và ứng dụng phổ biến vào trong tham vấn. Điển hình là: Lý thuyết
các giai đoạn phát triển tâm lý cá nhân của H.Erikson (1950); Lý thuyết về
các giai đoạn phát triển tâm lý và trí tuệ của J.Piaget (1954) đã cung cấp cho
các nhà tham vấn những kiến thức cần thiết về các giai đoạn phát triển tâm lý
của cá nhân làm nền tảng cho sự tương tác với đối tượng. Các nghiên cứu của
Albert Ellis về trị liệu hành vi cảm xúc (Rational emotion therapy) (1957)

nhằm giúp đối tượng xố bỏ những niềm tin phi lý của mình từ đĩ xố bỏ những
hành vi tiêu cực với tư cách như là hậu quả của những niềm tin phi lý đĩ.
Virginia Axline với phép trị liệu bằng trị chơi cho trẻ em; Frederick Perls với
phép trị liệu Gestal tập trung vào kinh nghiệm hiện tại và nâng cao nhận thức
của đối tượng là những lý thuyết được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong
tham vấn khơng chỉ trong thời điểm đĩ và cả sau này. Vào thời gian này các
trung tâm, các trường học đào tạo về tham vấn bắt đầu được thành lập.
14
Ngày nay tham vấn đã được ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống của con
người. Các cán bộ tham vấn với tư cách là các chuyên gia tham vấn hay các
cán bộ xã hội được làm việc trong các trường giáo dưỡng, trong các trung tâm
tham vấn tại cộng đồng, trong bệnh viên, nhà tù v.v. Các cán bộ tham vấn
chuyên nghiệp, đặc biệt trong các nghề trợ giúp như luật pháp, y học, tâm lý
học, cơng tác xã hội… phải được đào tạo Ýt nhất ở bằng thạc sĩ, được tập
huấn về chuyên mơn và phải cĩ bằng hành nghề do hội đồng quốc gia cấp.
Người ta xem tham vấn là một dịch vụ trí tuệ, một hoạt động “chất xám” trợ
giúp cho thân chủ cĩ khả năng đối diện với các vấn đề phức tạp, khĩ khăn
trong cuộc sống. Vì thế nĩ cĩ vai trị quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
cuộc sống tinh thần cho mỗi cá nhân và gia đình. Cơng tác tham vấn cĩ thể
được thực hiện với các cá nhân,gia đình và các nhĩm xã hội, cụ thể nĩ được
thực hiện thơng qua:
+ Cơng tác tham vấn cá nhân giải quyết các vấn đề tâm lý như: lo sợ,
chán nản, muốn tự tử, sầu khổ, nạn nhân của bạo lực, tham vấn cải tạo/phục
hồi và các vấn đề cá nhân khác.
+ Tham vấn gia đình giải quyết các vấn đề tâm lý như: hơn nhân, bao
gồm cả việc hành hạ vợ/chồng, nạn bạo hành gia đình, mối quan hệ giữa bố
mẹ với con cái và mối quan hệ anh em ruét thịt.
+ Tham vấn nhĩm gồm các cá nhân cĩ những nhu cầu và những mối
quan tâm chung.
- Ở Việt Nam:

Hiện nay hầu như chưa cĩ tài liệu nào ghi lại sự phát triển của ngành
tham vấn ở Việt Nam trước năm 1945.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hồ chính thức ra đời, các hình
thức tham vấn trợ giúp dưới dạng đài, báo đã bắt đầu xuất hiện. Hình thức
tham vấn trực tiếp tại các trung tâm hay các văn phịng cịn hạn chế. Các vấn
đề tâm lý xã hội được can thiệp nhưng khơng mang tính chính quy, thường
15
được triển khai qua các tổ hồ giải tại các cụm dân cư hay tổ chức cơng đồn,
hoặc các hội phụ nữ, tổ chức đồn thanh niên trong các cơ quan nhà nước.
Tư vấn nghề là một trong những loại hình mang tính chuyên mơn rõ nét
nhất ở nước ta trong những năm vừa qua. Các cán bộ tham gia vào loại hình
hoạt động này thường được đào tạo ở nước ngồi vào khoảng thập kỷ 50; 60, ở
các nước như Liên Xơ và các nước Đơng Âu khác.
Hình thức tham vấn qua đài, báo và các phương tiện thơng tin đại
chúng khác ngày càng trở nên phổ biến hơn ở nước ta. Nhưng điều đáng chú
ý là dù qua đài báo hay tham vấn trực tiếp cho đối tượng thì sự trợ giúp ở
nước ta vẫn mang tính “tư vấn”, “thuyết phục” nhiều hơn, Ýt chĩ ý đến cách
tiếp cận coi thân chủ là trọng tâm. Cũng giống như ở các nước phát triển, ở
nước ta, tham vấn vào thời kỳ phát triển sơ khai của nĩ mới chỉ tồn tại dưới
dạng cung cấp thơng tin thuyết phục là chủ yếu.
Nội dung tham vấn thường là các vấn đề về chính sách, pháp luật,
hướng nghiệp, các vấn đề về giáo dục, sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hố gia
đình. Về khía cạnh tâm lý và nâng cao khả năng của thân chủ để đối phĩ và
thực hiện chức năng một cách đầy đủ trong cuộc sống cịn Ýt được chú ý đến.
Những năm gần đây hồ vào xu thế hội nhập quốc tế, trào lưu cơng tác
xã hội chuyện nghiệp được du nhập vào Việt Nam cùng với những đổi mới về
chính sách kinh tế xã hội, do đĩ lý luận và thực hành về trợ giúp xã hội đã cĩ
sự thay đổi và phát triển vượt bậc. Tham vấn ở nước ta đang ngày càng chú ý
hơn đến cách tiếp cận coi thân chủ là trọng tâm, tránh áp đặt ý kiến chủ quan
của cán bộ tham vấn và ra lời khuyên đơn thuần như trước đây. Các cán bộ

tham vấn đã bắt đầu được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thơng qua
các khố tập huấn ngắn ngày. Chương trình đào tạo cán bộ xã hội quốc gia đã
bắt đầu cĩ bộ mơn tham vấn. Hi vọng trong thời gian tới chúng ta sẽ cĩ các địa
chỉ chuyên nghiên cứu, đào tạo các chuyên gia tham vấn để hoạt động này
ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn.
16
Trong thời điểm hiện nay, để đáp ứng nhu cầu đang bức xúc của xã hội,
các chuyên gia tâm lý và tham vấn ở nước ta đang đẩy mạnh việc nghiên cứu
và ứng dụng tham vấn vào nhà trường. Đã cĩ một số cơng trình nghiên cứu,
khảo sát thực trạng những khĩ khăn tâm lý và tìm hiểu nhu cầu tham vấn của
học sinh. Đã bắt đầu xuất hiện những mơ hình trợ giúp tâm lý trong nhà trường
nhưng mới chỉ đang trong giai đoạn thử nghiệm. Như vậy, mặc dù tham vấn
trong học đường đã bắt đầu được quan tâm nghiên cứu nhưng mới trong giai
đoạn thăm dị thử nghiệm. Đặc biệt những nghiên cứu về thực trạng thực hiện
hoạt động tham vấn và khả năng đáp ứng nhu cầu tham vấn của lực lượng giáo
viên trong nhà trường, lực lượng mà từ trước đến nay vẫn tiến hành hoạt động
tham vấn mang tính chức năng cho học sinh, cịn Ýt được nghiên cứu.
Tĩm lại, hoạt động tham vấn chuyên nghiệp ở nước ta cịn rất mới mẻ
khơng chỉ về nghiên cứu lý luận mà cịn cả về ứng dụng trong hoạt động thực
tiễn. Trong khi đĩ, nhu cầu tham vấn của xã hội, đặc biệt là nhu cầu tham vấn
của học sinh, sinh viên và thế hệ trẻ hiện nay là rất lớn. Việc này địi hỏi các
nhà nghiên cứu, những chuyên gia tham vấn đầu ngành cần nỗ lực rất nhiều
trong việc nghiên cứu và phát triển ngành tham vấn trên mọi phương diện.
1.2. Những vấn đề chung về nhu cầu tham vấn tâm lý
1.2.1. Khái niệm nhu cầu trong tâm lý học
1.2.1.1. Định nghĩa về nhu cầu
Theo tư tưởng của C. Mac thì “tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của
con người, và do đĩ, là tiền đề của mọi lịch sử, đĩ là: người ta phải cĩ khả năng
sống đã rồi mới cĩ thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết
cần phải cĩ thức ăn, nước uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như

vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thoả mãn
những nhu cầu Êy (sản xuất ra bản thân đời sống vật chất). Hơn nữa đĩ là một
hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của lịch sử mà người ta phải thực hiện
hằng ngày, hằng giê, chỉ nhằm để duy trì đời sống con người”.
17
Theo Từ điển Bách khoa Tồn thư Triết học (Liên Xơ) thì nhu cầu là sự
cần hay thiếu hụt một cái gì đĩ thiết yếu để duy trì hoạt động sống của cơ thể
một cá nhân con người, một nhĩm xã hội hoặc tồn bộ xã hội nĩi chung. Nhu
cầu là động cơ bên trong của tính tích cực.
Định nghĩa trên đây nhấn mạnh thêm đặc trưng của nhu cầu nh là trạng
thái thiếu hụt cần bù đắp của cơ thể để đảm bảo sự tồn tại và sự phát triển
bình thường.
A.G. Cơvaliơp tiếp cận khái niệm nhu cầu với tư cách là nhu cầu của
nhĩm xã hội. Ơng cho rằng: “Nhu cầu là sự địi hỏi của các cá nhân và của
nhĩm xã hội khác nhau muốn cĩ những điều kiện nhất định để sống và để phát
triển. Nhu cầu quy định sự hoạt động xã hội của cá nhân, các giai cấp và tập
thể”. Nh vậy, dù là nhu cầu cá nhân hay nhu cầu xã hội, nĩ vẫn là sự biểu hiện
mối quan hệ tích cực của con người đối với hồn cảnh sống. Nhờ cĩ nhu cầu
mới cĩ hoạt động, con người nhờ đĩ mà cĩ khả năng vượt qua khĩ khăn thử
thách nảy sinh trong hoạt động. Hoạt động của con người luơn hướng vào đối
tượng nào đĩ và nhờ đĩ mà nhu cầu được thoả mãn. Tính tích cực của cá nhân
bộc lé trong quá trình chiếm lĩnh đối tượng để thoả mãn nhu cầu và muốn vậy
địi hỏi con người phải cĩ kinh nghiệm, tri thức và sáng tạo ra cơng cụ lao
động. Cơng cụ lao động và hiểu biết là điều kiện để con người tác động vào
thế giới sự vật hiện tượng làm cho đối tượng bộc lé để chiếm lĩnh, đồng thời
với sự thoả mãn nhu cầu, con người lại tích luỹ thêm tri thức, kinh nghiệm
phong phú hơn. Điều đĩ cho thấy nhu cầu thể hiện mối quan hệ tích cực của
cá nhân với hồn cảnh.
Theo quan điểm của A.N. Lêonchiev thì: Nhu cầu là một trạng thái của
con người, cần một cái gì đĩ cho cơ thể nĩi riêng, con người nĩi chung sống và

hoạt động. Nhu cầu luơn cĩ đối tượng, đối tượng của nhu cầu là vật chất hoặc
tinh thần, chứa đựng khả năng thoả mãn nhu cầu. Nhu cầu cĩ vai trị định
hướng, đồng thời là động lực bên trong kích thích hoạt động của con người.
18
Nhìn chung, các quan niệm về nhu cầu như trên cĩ sự tương đồng, đều
đi đến khẳng định:
Nhu cầu của con người và xã hội là một hệ thống đa dạng, bao gồm
nhu cầu tồn tại (ăn uống, duy trì nịi giống, tự vệ…), nhu cầu phát triển (học
tập, giáo dục, văn hố…), nhu cầu chính trị, tơn giáo v.v Nhu cầu của con
người xuất hiện nh những địi hỏi khách quan của xã hội, do xã hội quy định,
đồng thời nhu cầu mang tính cá nhân với những biểu hiện phong phú và phức
tạp.
Nhu cầu là hình thức tồn tại của mối quan hệ giữa cơ thể sống và thế
giới xung quanh, là nguồn gốc của tính tích cực, mọi hoạt động của con người
đều là quá trình tác động vào đối tượng nhằm thoả mãn nhu cầu nào đĩ. Do
vậy, nhu cầu được hiểu là trạng thái cảm nhận được sự cần thiết của đối tượng
đối với sù tồn tại và phát triển của mình. Nhu cầu khi được thoả mãn sẽ tạo ra
những nhu cầu mới ở mức độ cao hơn, con người sau khi hoạt động để thoả
mãn nhu cầu thì phát triển, và nảy sinh ra nhu cầu cao hơn nữa. Và như vậy,
nhu cầu vừa được coi là tiền đề, vừa được coi là kết quả của hoạt động. Nhu
cầu là tiền đề của sự phát triển.
Trên cơ sở phân tích, tiếp thu quan điểm của các nhà nghiên cứu về nhu
cầu và trong khuơn khổ của đề tài, chúng tơi sử dụng định nghĩa: “ Nhu cầu
là những địi hỏi tất yếu, khách quan được con người phản ánh trong
những điều kiện cụ thể và thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển”
là khái niệm cơ bản của đề tài.
1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của nhu cầu
- Nhu cầu bao giê cũng cĩ đối tượng: Khi chủ thể gặp đối tượng được ý
thức là cĩ giá trị để thoả mãn nhu cầu của mình và cĩ điều kiện thực hiện
phương thức thoả mãn thì nhu cầu đĩ trở thành động cơ thúc đẩy chủ thể hoạt

động nhằm vào đối tượng. Đối tượng của nhu cầu càng được xác định cụ thể, ý
nghĩa của nhu cầu đối với đời sống cá nhân và đời sống xã hội càng được nhận
thức sâu sắc thì nhu cầu càng nhanh chĩng được nảy sinh, củng cố và phát triển.
19
Đối tượng của nhu cầu nằm ngồi chủ thể, đồng thời là cái chứa đựng khả năng
thoả mãn nhu cầu. Bản thân đối tượng đáp ứng nhu cầu luơn tồn tại một cách
khách quan và khơng tự bộc lé ra khi chủ thể tiến hành hoạt động. Nhờ vậy mà
nhu cầu cĩ được tính đối tượng (tính vật thể) và chính bản thân vật thể được
nhận biết, nghĩa là được chủ thể hình dung, tư duy ra lại trở thành động cơ cĩ
chức năng thúc đẩy, hướng dẫn hoạt động. Khi đã xác định được hướng, tức là
đối tượng của nhu cầu được chủ thể ý thức thì nhu cầu thực sự là một sức mạnh
nội tại, sức mạnh tâm lý kích thích và hướng dẫn hoạt động.
Tính đối tượng của nhu cầu được xuất hiện trong hoạt động cĩ đối
tượng của chủ thể. Nhu cầu với tư cách là một năng lực hướng dẫn, điều
chỉnh hoạt động khi được “đối tượng hố” là điều kiện nảy sinh tâm thế. Với ý
nghĩa đĩ, nhu cầu thực sự là một cấp độ của phản ánh tâm lý, ở cấp độ này,
nhu cầu được phát triển thơng qua sự phát triển nội dung đối tượng của nhu
cầu. Đây chính là đặc điểm đặc trưng của nhu cầu ở người [5, 47].
Quá trình phát triển của nhu cầu thực chất là quá trình phát triển nội
dung đối tượng của các nhu cầu và ở mức độ cao hơn của thế giới đối tượng,
là sự phát triển của các động cơ hoạt động cụ thể của con người. Như vậy, sự
phát triển các nhu cầu diễn ra theo con đường phát triển các hoạt động tương
ứng với một phạm vi đối tượng ngày càng phong phú và đa dạng.
- Nhu cầu cĩ tính ổn định: Trong xu thế vận động, nhu cầu cĩ thể xuất
hiện lặp đi lặp lại (thơng thường ở mức độ cao hơn) khi sự địi hỏi gây ra nhu
cầu tái hiện. “Một yêu cầu về điều gì đĩ chỉ xảy ra một lần mang tính đơn lẻ
và khơng lặp lại nữa thì sẽ khơng biến thành nhu cầu và khơng đặc trưng cho
những đặc điểm tâm lý của con người” [24, 332].
Tính ổn định của nhu cầu được thể hiện bởi tần số xuất hiện một cách
thường xuyên, liên tục. Tính ổn định của nhu cầu thể hiện cấp độ cao của nhu

cầu: cấp độ tâm lý, nhu cầu là một thuộc tính tâm lý. Nhu cầu càng phát triển
ở mức độ cao thì càng ổn định, càng bền vững. Nhu cầu được thể hiện qua ba
mức độ là ý hướng, ý muốn, ý định. Ở mức độ ý định - mức độ cao nhất của
20
nhu cầu, khi chủ thể đã ý thức được đầy đủ cả về trạng thái địi hỏi của bản
thân cũng như về đối tượng và phương thức thoả mãn nhu cầu.
- Phương thức thoả mãn nhu cầu: Nhu cầu được thoả mĩn thơng qua
hoạt động. Chỉ cĩ thơng qua hoạt động thì đối tượng của nhu cầu mới được
bộc lé và đáp ứng sự địi hỏi của nhu cầu. Chỉ cĩ thơng qua hoạt động cĩ đối
tượng nhu cầu mới được cụ thể hố vê mặt tâm lý học và mới được thoả mãn.
Chính vì lẽ đĩ mà nhu cầu luơn cĩ mối quan hệ mật thiết với động cơ. Phương
thức thoả mãn nhu cầu của chủ thể phụ thuộc vào sự phát triĨn, phong tục,
truyền thống v.v của mỗi xã hội mà chủ thể sống, phụ thuộc vào trạng thái
tâm lý riêng cũng như khả năng hoạt động của chủ thể. Mỗi loại nhu cầu cụ
thể được thoả mãn trong quá trình chủ thể tiến hành hoạt động tương ứng.
Nhu cầu và hoạt động cĩ mối quan hệ mật thiết với nhau. Theo khẳng
định của A.N. Lêonchiev thì nhu cầu nĩi riêng, tâm lý của con người nĩi chung
cĩ nguồn gốc từ hoạt động thực tiễn. “Hoạt động và duy nhất chỉ cĩ trong đĩ
mà thơi, các nhu cầu mới cĩ được tính cụ thể về mặt tâm lý học” [5, 50]. Ơng
nĩi: “Tơi xin nhắc lại một lần nữa rằng nhu cầu với tính chất là một sức mạnh
nội tại, chỉ cĩ thể được thực thi trong hoạt động” [16, 221]. Ơng xem nhu cầu
là điều kiện bên trong hoạt động: nhu cầu luơn gắn liền với hoạt động cĩ đối
tượng của chủ thể. Thơng qua hoạt động, nhu cầu được hình thành, phát triển
và được thoả mãn, đồng thời lại nảy sinh nhu cầu mới ở cấp độ cao hơn. Đặc
biệt thơng qua hoạt động cụ thể làm xuất hiện các nhu cầu chức năng như:
nhu cầu lao động, nhu cầu sáng tạo nghệ thuật, nhu cầu học tập Sơ đồ biểu
hiện mối quan hệ giữa nhu cầu với hoạt động theo A.N. Lêonchiev:
Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động
- Trạng thái ý chí - xĩc cảm: Nhu cầu thường đi kèm với các trạng thái ý
chí cảm xúc, đặc biệt khi nhu cầu ở mức độ cao. Những trạng thái cảm xúc tiêu

biểu như tính hấp dẫn của một đối tượng cĩ liên quan đến một nhu cầu nhất
định, sự khơng hài lịng hoặc thậm chí đau khổ khi nhu cầu khơng được thoả
mãn. Trạng thái ý chí - cảm xúc thúc đẩy hoạt động tìm kiếm cách thức cần
21
thiết nhằm thoả mãn nĩ. Chính vì vậy, nhu cầu trở thành một trong những động
cơ mạnh mẽ thúc đẩy chủ thể hoạt động nĩi chung và thực hiện các hành vi ý
chí nĩi riêng. Trạng thái ý chí - cảm xúc sẽ bị giảm, thậm chí cĩ lúc hồn tồn biến
mất hoặc chuyển sang trạng thái ngược lại thì nhu cầu đã được thoả mãn.
Tĩm lại, nhu cầu phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể với điều kiện sống.
Nĩ là nguồn gốc của tính tích cực, đồng thời được bộc lé thơng qua tính tích
cực của chủ thể. Hoạt động là phương thức thoả mãn nhu cầu, mặt khác thơng
qua hoạt động, nhu cầu và cả hoạt động của con người cũng khơng ngừng
được phát triển.
1.2.1.3. Phân loại nhu cầu
Hệ thống nhu cầu của con người rất đa dạng. Cĩ nhiều cách phân loại
nhu cầu khác nhau:
- Cách thứ nhất: Dùa vào hình thức tồn tại của đối tượng của nhu cầu,
cĩ thể chia thành nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
- Cách thứ hai: Dùa vào hình thức vận động của vật chất, cĩ thể chia
thành nhu cầu sinh lý học và nhu cầu xã hội.
- Cách thứ ba: Dùa vào chủ thể của nhu cầu, cĩ thể chia thành nhu cầu
xã hội, nhu cầu cá nhân
Các cách phân loại này chỉ mang tính chất tương đối vì trên thực tế
khơng thể tìm ra mét nhu cầu vật chất nào mà lại khơng cĩ yếu tố tinh thần
trong đĩ và ngược lại Cịng như vậy, khơng một nhu cầu nào của con người
lại khơng mang tính xã hội. Ở con người điều cĩ ý nghĩa lớn nhất trong cuộc
sống và hoạt động là nhu cầu tâm lý, nhu cầu lao động, nhu cầu học tập, nhu
cầu giao lưu, tự khẳng định.
Các loại nhu cầu luơn cĩ quan hệ với nhau, việc thoả mãn nhu cầu bản
năng trước hết là đảm bảo sự tồn tại của cơ thể, tiếp đến là hoạt động. Ngược

lại những nhu cầu tâm lý thực hiện những giá trị, ý nghĩa cuộc sống, cũng
đồng thời hướng tới việc cải thiện đời sống xã hội - lịch sử, vận động và phát
22
triển khơng ngừng cùng với sự vận động và phát triển của xã hội thơng qua
hoạt động của chủ thể.
1.2.1.4. Các mức độ của nhu cầu
Mức độ của nhu cầu được thể hiện tăng dần, từ ý hướng lên ý muốn và
cuối cùng là ý định. Ý hướng, ý muốn và ý định là các mức độ cụ thể biểu
hiện mức độ của nhu cầu.
+ Ý hướng:
Ý hướng là bước khởi đầu của nhu cầu. Ở mức độ này nhu cầu chưa
được phản ánh đầy đủ rõ ràng vào trong ý thức của con người. Ở ý hướng,
chủ thể mới ý thức được trạng thái thiếu hụt của bản thân về một cái gì đĩ
chưa ý thức được đối tượng và khả năng thoả mãn nhu cầu. Nĩi cách khác, lúc
này chủ thể đang trải nghiệm sự thiếu hụt nhưng chưa xác định được đĩ là sự
thiếu hụt về cái gì? Nghĩa là chưa ý thức được đối tượng của trạng thái thiếu
hụt đĩ - đối tượng của nhu cầu. Vì vậy cũng chưa thúc đẩy chủ thể tìm kiếm
phương thức thoả mãn nĩ, chưa ý thức được phương thức thoả mãn nã. Ở mức
độ này, nhu cầu mới chỉ tồn tại dưới một cảm giác thiếu hụt mơ hồ nào đĩ, lúc
này chủ thể đang trải nghiệm và ý thức được trạng thái thiếu hụt về một cái gì
đĩ, nhưng chưa ý thức được thiếu hụt cái gì và bằng cách nào để khoả lấp
trạng thái thiếu hụt đĩ. Vì vậy, chính trạng thái thiếu hụt được chủ thể ý thức
đĩ đã thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng và phương thức thoả mãn
nĩ.
Khi chủ thể đã ý thức được đối tượng nhu cầu nghĩa là tự trả lời được câu
hỏi “thiếu hụt về cái gì?” thì nhu cầu đã chuyển sang mức độ cao hơn: Ý muốn.
+ Ý muốn:
Ý muốn là mức độ cao hơn của nhu cầu so với ý hướng. Ở đây, chủ thể
đã ý thức được đối tượng chứa đựng khả năng thoả mãn nhu cầu, mục đích
của hành động nhằm thoả mãn nhu cầu. Tuy nhiên, chủ thể vẫn tiếp tục tìm

kiếm cách thức và các điều kiện để thoả mãn nhu cầu. Nghĩa là, chủ thể chưa
ý thức về cách thức để thoả mãn nhu cầu. Ở mức độ này, chủ thể xuất hiện
23
những trạng thái rung cảm khác nhau biểu hiện lịng mong muốn, niềm mơ
ước. Ý muốn sẽ kết thúc và chuyển sang mức độ cao hơn khi chủ thể ý thức
đầy đủ về cách thức và các phương tiện nhằm thoả mãn nhu cầu. Đĩ là ý định:
+ Ý định:
Ý định là mức độ cao nhất của nhu cầu, lúc này chủ thể đã ý thức đầy
đủ cả về đối tượng cũng như cách thức điều kiện nhằm thoả mãn nhu cầu, xác
định rõ khuynh hướng của nhu cầu và sẵn sàng hành động. Ở đây, nhu cầu đã
cĩ hướng và đã được “động cơ hố” xuất hiện tâm thế, sẵn sàng hành động thoả
mãn nhu cầu. Ở ý định, nhu cầu trở thành sức mạnh nội tại thúc đẩy mạnh mẽ
chủ thể hoạt động nhằm thoả mãn nĩ. Đồng thời lúc này, chủ thể cĩ khả năng
hình dung về kết quả của hoạt động. Ở mức độ này, chủ thể khơng chỉ ý thức
rõ về mục đích, động cơ mà cịn cả hành động dẫn tới mục đích đĩ.
Ý hướng, ý muốn và ý định biểu hiện mức độ nhu cầu từ thấp đến cao,
trên cơ sở kế thừa và phát triển. Ý hướng là cơ sở của ý muốn, ý muốn thừa
kế và phát triển ở mức độ cao hơn so với ý hướng. Tương tự như vậy ở ý
muốn và ý định. Vì vậy, mức độ ý định là sự chuyển tiếp của ý hướng lên ý
muốn và từ ý muốn lên ý định.
1.2.1.5. Sù hình thành nhu cầu
Về vấn đề sự hình thành nhu cầu, cĩ sự khác nhau trong nghiên cứu
giữa các trường phái.
Quan điểm của các nhà Tâm lý học phương Tây cho rằng nhu cầu sinh
vật sẽ quyết định đến nhu cầu xã hội. Nhu cầu sinh vật là cơ bản và cĩ nguồn
gốc bẩm sinh, con người khơng thể ý thức và can thiệp được bằng ý chí.
A.N. Lêonchiev và các nhà tâm lý học macxit khẳng định mối quan hệ
chặt chẽ giữa nhu cầu và hoạt động: “Nhu cầu là nguồn gốc của tính tích cực
của hoạt động, nhưng bản thân nhu cầu lại được nảy sinh, hình thành và phát
triển trong hoạt động”.

24
A.N. Lêonchiev đã đưa ra sơ đồ giải thích mối quan hệ giữa nhu cầu và
hoạt động: Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động. Ơng giải thích nh sau: “Thoạt
đầu nhu cầu chỉ xuất hiện nh mét điều kiện, một tiền đề cho hoạt động. Nhưng
ngay khi chủ thể bắt đầu hành động thì lập tức xảy ra sự biến hố của nhu cầu
và sẽ khơng cịn giống như khi nĩ tồn tại một cách tiềm tàng, tồn tại “tự nĩ”
nữa. Sự phát triển của hoạt động này đi xa bao nhiờu thì cái tiền đề này của
hoạt động (tức là nhu cầu) cũng chuyển hố bấy nhiêu thành kết quả của hoạt
động”. Ơng cho rằng vì bản thân thế giới đối tượng đã hàm chứa tiềm tàng
những nhu cầu, nên trong quá trình chủ thể hoạt động tích cực, tất yếu sẽ nhận
thức được những yêu cầu, địi hỏi phải được đáp ứng để tồn tại và phát triển,
tức là xuất hiện nhu cầu mới. Thơng qua hoạt động lao động sản xuất lồi
người một mặt thoả mãn nhu cầu hiện tại, đồng thời lại xuất hiện nhu cầu
mới, vì thế con người khơng ngừng tích cực hoạt động lao động sản xuất, qua
đĩ thúc đẩy tiến bộ xã hội. Sự hình thành nhu cầu là một quá trình gồm ba
mặt: Sự tác động của các điều kiện khách quan, quá trình ý thức và tự ý thức.
Để hình thành nhu cầu về một đối tượng nào đĩ, chúng ta phải làm cho
chủ thể cĩ cơ hội làm quen với đối tượng, thực hiện hoạt động với đối tượng,
chính trong quá trình trải nghiệm đĩ chủ thể sẽ cĩ cơ hội và điều kiện để thấy
được vai trị, ý nghĩa của đối tượng đối với cuộc sống của bản thân, từ đĩ mà
hình thành mong muốn về đối tượng và nhu cầu sẽ dần xuất hiện.
1.2.1.6. Mối quan hệ của nhu cầu với một số khái niệm liên quan
Trong nghiên cứu của mình, chúng tơi tập trung trình bày mối quan hệ
của nhu cầu và các hiện tượng tõm lý cĩ quan hệ trực tiếp với nĩ, với mục đích
làm rừ hơn cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
- Nhu cầu và động cơ:
Bất cứ hoạt động nào của chủ thể cũng cĩ động cơ. Đây là thành phần
khơng thể thiếu, đĩng vai trị thúc đẩy hoạt động của chủ thể. Khi quan niệm
nhu cầu là những địi hỏi về vật chất, tinh thần của cá nhân, cần được thoả
mãn để tồn tại và phát triển, mà chỉ cĩ thể thoả mãn được bằng hoạt động

25

×