Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

luận văn Nhân cách và sự hình thành nhân cách theo các nhà tâm lý học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.03 KB, 56 trang )

Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau,
như triết học, xã hội học, kinh tế - chính trị học, luật học, tâm lý học, y học, giáo
dục học… Trong đó, quan điểm tâm lý học về nhân cách con người, về cơ bản,
có những khác biệt so với quan điểm của các khoa học cụ thể. Theo đó, nhân
cách trước hết là đặc trưng xã hội của con người, là "phẩm chất xã hội" của con
người. Khi nghiên cứu về nhân cách, một trong những vấn đề đầu tiên và cũng
là then chốt, là vấn đề sự hình thành nhân cách. Giải quyết vấn đề này theo
những cách khác nhau sẽ dẫn tới quan niệm khác nhau về bản chất của nhân
cách.
Nhân cách là đỉnh cao nhất của sự phát triển tõm lớ cuả con người, của tự
ý thức và tự điều chỉnh bản thân con người. Sự phát triển và hoàn thiện nhân
cách con người đang trở thành trung tâm chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Trong
điều kiện của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay, nhân tố con người trở
lên cấp bách thì sự hiểu biết về vấn đề nhân cách là tiền đề của việc đầu tư có
hiệu quả vào sự phát triển con người - yếu tố quyết định mọi sự phát triển trong
xã hội. Vấn đề nhân cách được coi là một trong những vấn đề cơ bản song cũng
là một vấn đề phức tạp nhất của khoa hoc tõm lớ nói riêng và của khoa học xã
hội và nhân văn nói chung. Giải quyết đúng vấn đề nhân cách sẽ cho phép giải
quyết được những vấn đề khác của tõm lớ học và của nhiều lĩnh vực đời sống
đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Bởi vì, giáo duc tác động vào từng nhân
cách để trở thành những nhân cách theo yêu cầu phát triển của xã hội. Giáo dục
là một nhân tố tích cực tạo nên nguồn nhân lực. Phẩm chất năng lực con người
quyết định sự phát triển xã hội.
Ở Việt Nam cùng với Khoa học công nghệ, Giỏo dục được coi là quốc
sánh hàng đầu. Tốc độ công nghiệp phát triển cao về kinh tế, văn hoá, xã hội
đang có sự thay đổi rõ nét. Bên cạnh đó còn tồn tại các tệ nạn xã hội, như các tệ
nạn tham nhũng gây ảnh hưởng rất lớn đến chủ nhân tương lai của đất nước đó
là trẻ em.


Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
1
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
Sự hình thành và phát triển nhân cách con người là một vấn đề rất quan
trọng, trẻ em có nhiều thay đổi về mặt tâm lý và sinh lý nên nhu cầu hoàn thiện
nhân cách để thích nghi với xã hội hoá và có thái độ tích cực hơn trong cuộc
sống là cực kỳ quan trọng. Chính vì vậy từ xưa đến nay không chỉ cú cỏc nhà
tâm lý học Việt Nam Nghiên cứu về sự hình thành và phát triển nhân cách. Vấn
đề này đã được các nhà triết học Phương Đông nghiên cứu như Khổng Tử,
Mạnh Tử, các nhà tâm lý học Phương Tây như S.Freud, J.Piaget,
A.N.Leonchiev…Ở Việt Nam có những nhà nghiên cứu như Chủ Tịch Hồ Chí
Minh, hay các nhà tâm lý học như Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn
Ngọc Bích đã rất tâm huyết về vấn đề nhân cách.
Chính vì lý do đó mà tôi chọn đề tài "Nhân cách và sự hình thành nhân
cách theo các nhà tâm lý học Việt Nam" làm tiểu luận của chuyên đề Tâm lý học
nhân cách trẻ em.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích của đề tài tìm hiểu các quan điển, tư tưởng của các nhà tâm lý
học Việt Nam nghiên cứu về sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Để thực hiện được mục đích đề ra đề tài cần phải giải quyết hai nhiệm vụ:
Tỡm hiểu một số vấn đề chung về sự hình thành và phát triển nhân cách
con người.
Tìm hiểu các quan điểm, tư tưởng nghiên cứu về sự hình thành và phát
triển nhân cách.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của tâm lý học xã hội.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Cơ sở lý luận :Dựa trên cơ sở góc độ khoa học tâm lý, chủ nghĩa Mác –
Lờnin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
Giỏo dục và Đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển của đất nước.

Phương pháp quan sát và tự quan sát.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu,sỏch bỏo.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
2
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH CON NGƯỜI
Khi nhìn nhận và đánh giá một quốc gia một khu vực nào đó trên thế
giới,về mức độ phát triển cao hay thấp, giàu hay nghốo thỡ trước hết chúng ta
phải xem xét về nền giáo dục của quốc gia khu vực đó, quả thực vấn đề giáo dục
là một vấn đề rất quan trọng, mà bất cứ một quốc gia nào, khu vực nào trên thế
giới, cũng phải đầu tư và quan tâm hàng đầu. Bởi giáo dục và đào tạo là tạo ra
những đội ngũ tri thức, công nhân, học sinh, giáo dục để tạo điệu kiện cho con
người ngày càng hoàn thiện nhân cách của mình …
Đú chính là nguần nhân lực dồi dào, tạo cho con người có cả ý thức, tri
thức, đạo đức năng lực phẩm chất nhân cách, để bổ sung vào sự nghiệp xây
dựng đất nước ngày càng phát triển hơn, cả về kinh tế, văn hoá, xã hội.
Trải qua hàng nghìn đời vấn đề giáo dục ở Việt Nam ngày càng được phát
triển và được Đảng Nhà nước ta quan tâm hàng đầu. Nhất là giáo dục ở vựng
sõu, vùng xa, vùng núi cao và hải đảo những nơi mà nền kinh tế, văn hoá chưa
phát triển, để sao cho mặt bằng dân trí giữa cỏc vựng, các tỉnh thành không có
sự cách biệt quá xa về trình độ văn hoá, đặc biệt trong giai đọan hiện nay, khi
nước ta đang hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng xã hội, xã hội chủ nghĩa ngày
càng giàu đẹp văn minh lịch sự, thì sự nghiệp giáo dục là một vấn đề quan trọng
và được quan tâm hàng đầu, trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hoá và
hiện đại hóa đõt nước, và xây dựng đát nước ngày càng phát triển hơn.
Bên cạnh đào tạo đội ngũ tri thức, công nhân lành nghề, thì cần giáo dục
cỏi tõm yờu nghề, năng lực đạo đức.Theo ứng xử giữa con người, để con người

từ một cá thể sinh học trở thành một nhân cách sống trong mỗi con người, bởi
tài và đức phải luụn đi đôi với nhau, không tách rời nhau thì mới có thể đem lại
hiệu quả tốt trong công việc và trong giao tiếp ứng xử con người với con người.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
3
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
1. Khái niệm:
1.1. Khái niệm nhân cách.
Khái niệm nhân cách biểu hiện tính chính thể dải thể cuộc sống. Ngày nay
vấn đề nhân cách được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trong quá trình
phát triển của các khoa học đặc biệt là các khoa học xã hội, đòi hỏi phải nghiên
cứu nhân cách, trong xã hội loài người có quan hệ lẫn nhau, và con người là
trung tâm của các mối quan hệ, vì vậy con người phải được thể hiện như là một
nhân cách.
Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải gắn liền với xây dựng nhân
cách phát triển hài hoà, đó là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp, xây dưng con
người đạo đức trí tuệ, trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Nhân cách là một cấu tạo trọn vẹn thuộc loại đặc biệt,nhõn cách không
phải là chính thể được chế định theo kiểu di truyền tức lá “người ta sinh không
phải là nhân cách người mà người ta phải trở thành một nhõn cỏch”.“Nhân cách
là một sản phẩm tương đối muộn của sự phát triển xã hội lịch sử và của sự tiến
hoá cá thể con người” nhân cách là một cấu tạo chuyên biệt của con người mà
không thể rút ra từ hoạt động thích ứng của nó, cũng không thể tự hoạt động đó
mà rút ra ý thức của con người hay nhu cầu.
Hiện nay về mặt tâm lý học người ta chú ý đến vấn đề sau đây về nhân
cách, bản chất nhân cách, cấu trúc nhân cách các yếu tố hình thành nhân cách,
các cơ chế hình thành nhân cách, các phương pháp nghiên cứu nhân cách, vị trí
của tâm lý học nhân cách trong hệ thống khoa học khác. Nhưng ở đây tôi chỉ đề
cập đến vấn đề khái niệm nhân cách, hay bản chất nhân cách trước hết điểm qua
một số quan điểm về nhân cách tồn tại quan diểm.

Quan điểm cho bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật hay nói cách
khác là sinh vật hoá bản chất nhân cách. Nhân cách được coi là bản năng tình
dục (s.freud) là đặc điểm của hinh thể (krestchmer) …
Bản chất nhân cách là tính con người (trường phái nhân văn đại diện là
C:ROGERS, A.MASLOW…Những người ở trường phái này đều quan tâm đến
giá trị tiềm năng bẩm sinh của con người. A.MASLOW cho rằng xã hội nằm
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
4
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
trong bản năng con người,những nhu cầu như giao tiếp, tình yêu kính trọng đều
có tính bản năng …đặc trưng cho giống người, nhân cách là động cơ tự động
điều hành (G.ALLPORT.) những quan điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên
sinh vật của con người, phủ nhận bản chất của nhận bản chất xã hội của nhân
cách.
Nhân cách đồng nghĩa với khái niệm con người, K.K.dlatnov nhân cách
con người có ý thức, còn con người có tâm lý từ khi có ngôn ngữ lao động, quan
điểm này nói về cái chung cái đặc trưng nhất của con người, mà không chú ý
đến đặc cái thù riêng cỏi riờng của nhân cách.
Nhân cách được hiểu như cá nhân con người với tư cách là chủ thể của
mỗi quan hệ và hoạt động có ý thức (A.Gkovalev,X.Ikon) hiện nay quan điểm
này được đa số các nhà tâm lý học xã hội chấp nhận, coi nhân cách là cá nhân,
cá thể so vơi tập thể xã hội.
Nhân cách được hiểu như là thuộc tính nào đó tạo nên bản chất nhân cách
như thuộc tính ổn định. Các thuộc tính sinh vật, hoặc tính xã hội. Pbueva cho
rằng nhân cách là con người với toàn bộ phẩm chất xã hội của nó.
Nhân cách là tâm thế (D.N.ZNAdze, là thái độ V.N.Mia XiSev là phương
thức tồn tại của con người trong xã hội, trong điều kiện lịch sử, cụ thể. Những
quan điểm này chỉ chú ý đến các đặc điểm chung nhất của nhân cách, đó cũng
chưa thể hiện được tính toàn diện trong định nghĩa nhân cách.
Nhân cách cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong mụĩ quan hệ sông

của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó. K.Obuchowxki định
nghĩa nhân cách như sau. Nhân cách là sự tổ chức những thuộc tính tâm lý của
con người có tính chất điểu kiện lịch sủ xã hội, ý nghĩa của nó cho phép giải
thích và dự đoán hành động cơ bản của con người (K. Obuchowxki, lý luận tâm
lý của việc xây dựng và phát triển nhân cách trong cuốn M.1981).
Từ bảy quan niệm nhân cách trên, cho đến nay vẫn chưa có trường phái
nào giải quyết thoả đáng vấn đề bản chất của nhân cách.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
5
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
Các nhà tâm lý học cho rằng khái niệm nhân cách là phạm trù xã hội và
có bản chất xã hội lịch sử” Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc
tính tâm lý, biểu hiện bản sắc và giá trị của con người”
Ở Việt Nam theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học nhân
cách thì chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Song cách
hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng
lực hoặc là con người cú cỏc phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người
Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ, yêu
nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người.
Theo cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quang Uẩn trong cuốn tâm lý học đại
cương (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu lên định nghĩa nhân cách như
sau:Nhõn cỏch là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân,
biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng hoà
không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy
định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội,
giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu

hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng hoà không
phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con
người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và
cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Đây là định nghĩa về nhân cách được chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam.
Như vậy nhân cách là sự tổng hoà, không phải là những đặc điểm của con
người. Mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của
xã hội nói lên bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Qua khái niệm về nhân cách trên chúng ta thấy nhân cách có một số đặc
điểm sau.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
6
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
Tính thống nhất :Thống nhất giữa lời nói và việc làm, thống nhất, giữa đạo
đức và tài, giữa ý thức và hành động, hành vi ứng xử trong cộng đồng, nhóm.
Tính ổn định : nhân cách con người là quá trình hình thành từ từ, nhân
cách là tổ hợp các thuộc tính ổn định, tiềm tàng của cá nhân, nó khú hình thành
mà nó cũng khó mất đi.
Tính tích cực của nhân cách : Nhân cách của con người là chủ thể của
hoạt động và giao lưu các mỗi quan hệ giữa người này và người khác.
Nhân cách con người luân cải tạo thế giới khách quan và biến thế giới
khách, thành sản phẩm phục vụ cho con người, không phải ai cũng có mà chỉ có
ở người có nhân cách mới có.
Tính giao lưu :Nhân cách của con người có thể tồn tại và phát triển thông
qua hoạt động và giao lưu với người khác và nhờ đó con người tiếp thu,lĩnh hội
các tri thức, kinh nghịờm, văn hoá, xã hội của loài người mà biến thành nhân
cách riêng của mỡnh. Đú chớnh là bốn đặc điểm của nhân cách nó rất quan
trọng đối với đới sống con người.
1.2. Khái niệm con người.
Từ trước đến nay có rất nhiều ngành khoa học nghiên cứu con người chứa

đựng những nội dung khác nhau dựa trên mục đích và phương diện nghiờn
cứu,cú khái niệm cho rằng
“Con người là thành viên của một cộng đồng một xã hội, và vừa là thực
thể tự nhiên, và thực thể xã hội”.
Ở định nghĩa về con người được thừa nhận rộng rãi "con người là thực thể
sinh vật- xã hội và văn hoỏ” cần nghiên cứu con người theo cả ba mặt.
Con người bản năng, coi con người là tồn tại sinh vật, con từ khi hinh
thành là tồn tại sinh vật. Trên thực tế con người có bản năng sinh tồn, nhưng bản
năng của con người khác hẳn bản năng con vật.
Các nhà nghiên cứu cho rằng sự phát triển xã hội loài người " con người
bản năng con người kỹ thuật con người chính tri và con người xã hội” đều nói
lên tiờu trớ tâm lý cực kỳ quan trọng của con người.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
7
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
Khác với quan điểm trờn, Mỏc đưa ra một quan điểm khoa học về con
người… "Bản chất của con người không phải là cái gì trìu tượng, vốn có của
mỗi cá nhân riêng biệt, trong hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà
các mối quan hệ xã hội"
Như vậy con người là một sản phẩm của lịch sử xã hội mang những phẩm
chất thuộc tính có ý nghĩa xã hội được hình thành trong qỳa trỡnh tác động qua
lại giữa người với người, trong xã hội con người cũng là chủ thể các hoạt động,
là lực lượng sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
Có thể nói con người là nấc thang tiến hoá cao nhất của tự nhiên và là một
thực thể mang bản chất tự nhiên sinh học, mang trong mình sức sống tự nhiên.
Mác cũng đã chỉ ra rằng "con người là thực thể tự nhiên".
Đảng và nhà nước ta từ quan điểm coi mục tiêu là động lực chính của sự
phát triển vì con người do con người. Từ khái niệm trên cho thấy nhân cách bao
gồm nhiều phẩm chất tâm lý của con người.
2. Sự hình thành và phát triển nhân cách con người.

Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng khi sinh ra con người chưa có nhân cách
"nhân cách cũng không có sẵn, phải bằng cách bộc lộ dần dần các bản năng
nguyên thuỷ,mà một lúc nào đó đã bị kiềm chế chốn ộp” (Phạm Minh Hạc
Sách đã dẫn trang 23),chính trong quá trình sống học tập, lao động, giao lưu,
giải trớ…Con người đã tự hình thành và phát triển nhân cách của mình theo quy
luật lĩnh hội tri thức và các di sản văn hoá vật chất và tinh thần, của các thế hệ
trước để lại trong công cụ lao động thông qua các hoạt động.
Vậy con người vốn sinh ra chưa có nhân cách mà nhân cách là cấu tạo
mới do mỗi người tự hình thành nên và phát triển trong quá trình sống. Giao
tiếp, học tập, lao động, vui chơi…Nhõn cách không có sẵn mà bằng cách hoạt
động xã hội con người ngay từ khi còn nhỏ đã dần dần lĩnh hội nội dung chứa
đựng trong các mối quan hệ xã hội có liên quan tới hoạt động của trẻ.
Phương pháp giáo dục có hiệu quả là tổ chức cho trẻ hoạt động lĩnh hội
các cái đó để hình thành nhân cách. LờNin núi "cùng với dòng sữa mẹ con
người hấp thụ tâm lý của xã hội mà nó là thành viên" nhân cách của con ngươi
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
8
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
hình thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài vào nội tâm, từ các quan
hệ với thế giới tự nhiên và thế giới đồ vật do các thế hệ trước và bản thân tạo ra
qua các mỗi quan hệ xã hội mà nó gắn bó từ đó nhân cách của con người đã
được hình thành và phát triển. Sự phát triển nhân cách bao gồm : Sự phát triển
về mặt thể chất, điều này thấy rõ ở sự phát triển về chiều cao, cân nặng, cơ bắp
và sự hoàn thiên của các giác quan vvv…đú là điều dễ thấy ở mỗi con người.
Sự phát triển về mặt tâm lý, được biểu hiên ở những biến đổi cơ bản,
trong các quá trình nhận thức, tình cảm, ý chí, nhu cầu, nếp sống.v.v nhất là ở
sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách con người.
Sự phát triển về mặt xã hội điều này thể hiện rõ ở việc tích cực,tự giác
tham gia vào các mặt khác nhau của đời sống xã hội cũng như có sự thay đổi rõ
nét về ứng sử với những người xung quanh. Chúng ta đang phấn đấu xây dựng

và phát triển nhân cách con người Việt Nam trong quá trình đổi mới, đó là nhân
cách của con người sáng tạo, năng động, có kỷ luật, kỹ năng, tay nghề cao cũng
như phẩm chất tốt đẹp của nền văn hoá giàu bản sắc dân tộc được đúc kết lại qua
nhiều thế hệ để có được điều đó, thế hệ trẻ Việt Nam trong đó có học sinh, sinh
viên cần trở thành các chủ thể có ý thức đối với các hoạt động như học tập, lao
động, giao lưu, vui chơi giải trí …Cần tự giác thích ứng và chủ động tu dưỡng,
rèn luyện bản thân mình ngay từ khi ngồi ở trên ghế nhà trường để trở thành
nhân cách làm chủ nhân của đất nước.
Sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Con người chịu sự tác
động của nhiều nhân tố khác nhau trong đó có nhân tố sinh học và xã hội, các
nhân tố này tác động tới con người không phải là song song với nhau có giá như
nhau. Chính vì vậy cần phải xem xét đúng đắn nhìn nhận một cách khách quan
khoa học các tác động của di truyền và môi trường tự nhiên, môi trường xã hội
trong các công tác giáo dục.
3. Các động lực phát triển nhân cách
3.1. Nhu cầu là động lực phát triển nhõn cách
Nhu cầu là trạng thái của cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần
những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó là
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
9
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
nguồn gốc tính tích cực của cá nhân. Nhu cầu vừa là tiền đề, vừa là kết quả
của hoạt động. Nhu cầu vừa có tính chất vật thể (nhu cầu vật chất) vừa có
tính chức năng (nhu cầu tinh thần). Thoả mãn nhu cầu thực chất là quá trình
con người chiến lĩnh một hình thức hoạt động nhất định trong xã hội. Nhu
cầu thể hiện ở động cơ, cái thúc đẩy con người hoạt động và động cơ trở
thành hình thức thể hiện của nhu cầu
Nhu cầu được hiểu là sự biểu hiện mối quan hệ tích cực của cá nhân
đối với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả
mãn để tồn tại và phát triển.

Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản sau:
Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng, chớnh vỡ cú đối tượng mới có thể
phân biệt được các loại nhu cầu. Tuy nhiên sự tồn tại của đối tượng ấy trong
tõm lớ học cá nhân có thể có nhiều mức độ khác nhau. Ở mức thấp, đối
tượng có thể còn “mơ hồ” chưa được xác định thật cụ thể, mà mới chỉ xác
định về loại. Ở mức cao hơn, đối tượng của nhu cầu được phản ánh trong óc
người mang nhu cầu một cách cụ thể hơn. Cuối cùng, đối tượng của nhu cầu
có thể được nhận thức về mặt đặc trưng và về ý nghĩa của nó đối với đời
sống cá nhân. Chính nhờ sự tồn tại đối tượng của nhu cầu trong tõm lớ cá
nhân mà cá nhân định hướng được hoạt động của mình trong môi trường
Đặc điểm quan trọng thứ hai là mỗi nhu cầu đều có một nội dung cụ
thể tuỳ theo nó được thoả mãn trong những điều kiện nào và bằng phương
thức nào. Nội dung cụ thể của nhu cầu phụ thuộc vào những điều kiện và
những phương thức thoả món nó.
Đặc điểm thứ ba là nhu cầu thường có tính chất chu kì. Khi một nhu
cầu nào đó được thoả mãn, không có nghĩa là nhu cầu đó chấm dứt, nếu con
người vẫn sống và phát triển trong những điều kiện và phương thức sinh
hoạt như cũ.
Những nhu cầu về ăn, mặc, học tập, giao tiếp với người khác
thường xuyên được tái diễn trong cuộc sống. Sự tái diễn đó thường có tính chất
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
10
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
chu kì. Một khi nhu cầu tái hiện là một lần nó được củng cố, phát triển và phong
phú thêm lên.
3.2. Động cơ
Trong tâm lý học, động cơ là một vấn đề được các nhà nghiên cứu
quan tâm từ rất lâu và có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Song,
tựu chung lại các trường phái tâm lý học đều cho rằng:
Trước hết, động cơ đó là phản ánh tâm lý về đối tượng có khả năng

thoả mãn nhu cầu của chủ thể. Các nhà tâm lý học khẳng định rằng: nhu cầu
bao giờ cũng là nhu cầu về một điều gì đó, tức là nhu cầu có tính đối tượng.
Song lúc đầu khi ở chủ thể xuất hiện trạng thái cần một cái gì đó thì đối
tượng thoả mãn nhu cầu chưa được xác định rõ. Chỉ khi nhu cầu gặp được
đối tượng có khả năng thoả món nó, thỡ nhu cầu mới đạt được tính đối
tượng. Đối tượng thoả mãn nhu cầu được tri giác tư duy đạt được khả năng
thúc đẩy và định hướng hoạt động của chủ thể sẽ trở thành động cơ. Vậy,
động cơ đó là tất cả những gì xuất hiện ở cấp độ phản ánh tâm lý thôi thúc
con người hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu.
Các động cơ đặc trưng của con người mang tính lịch sử xã hội. Bởi
động cơ đặc trưng của con người nảy sinh và hình thành trong quá trình phát
triển cá thể chứ không phải là cái gì đó sẵn có từ lúc đứa trẻ sinh ra. Tính
lịch sử xã hội của động cơ con người còn thể hiện ở chỗ đối tượng thoả mãn
nhu cầu của con người là sản phẩm của quá trình sản xuất xã hội.
3.3. Hệ thống thái độ
Thái độ là một thuộc tính của nhân cách, do đó, có mối liên hệ với các
thành phần khác trong nhân cách. Trong khi đó, nhân cách luôn là một hệ
thống trọn vẹn thống nhất của các thành phần, thuộc tớnh…tham gia vào hệ
thống đó, cho nên việc tách bạch rành rọt thái độ với các khái niệm khỏc
cựng phản ánh hiện thực khách quan trong nhân cách là điều không dễ dàng,
song cần thiết phải làm, dù chỉ là trên bình diện lý luận.
Thái độ và ý thức cá nhân: Ý thức là hình thức phản ánh tõm lớ cao
nhất, đặc trưng của loài người, là năng lực nhận thức cái phổ biến, cái bản
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
11
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
chất trong hiện thực khách quan, do đó đồng thời là năng lực định hướng,
điều khiện một cách tự giác thái độ, hành vi, quan hệ giữa con người với
hoàn cảnh tự nhiên và xã hội.
Thái độ và nhu cầu: Nhu cầu có vị trí quan trọng trong hình thành

nhân cách, là nền tảng của động cơ, mục đích hành động. Sự hình thành mọi
thuộc tính nhân cách đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhu cầu.
Quá trình thoả mãn nhu cầu cũng chính là quá trình hình thành sự sẵn sàng
hành động, củng cố thái độ cá nhân cũng như các thành phần của nó (nhận
thức, cảm xúc, cử chỉ, hành vi…). Thái độ được hình thành trên cơ sở kinh
nghiệm của cá nhân trong trường hợp có sự “gặp gỡ” giữa nhu cầu với đối
tượng và điều kiện thoả mãn nhu cầu đó.
Thái độ và hứng thú: Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đới
với đối tượng nào đó vì ý nghĩa của nó trong cuộc sống và sự hấp dẫn tình
cảm của nó. Như vậy, qua quá trình xác định đối tượng và nhận thức đối
tượng, có thể phán xét về thái độ của cá nhân với đối tượng. Hứng thú càng
ổn định, mạnh mẽ thì thái độ càng được củng cố, sự ham muốn tác động tới
đối tượng càng được tăng cường hơn.
Thái độ và tâm thế: Giữa thái độ và tâm thế có một số những điểm
trùng nhau nhưng cũng nhiều điểm không giống nhau về nội hàm. Thái độ là
thuộc tính tõm lớ được hình thành trong các hoàn cảnh xã hội thông qua
hoạt động và giao tiếp, có ý thức, có cấu trúc phức tạp và đa tầng, tham gia
vào điều khiển, điều chỉnh hành vi của cá nhân trong nhiều lĩnh vực hoạt
động khác nhau
Thái độ và định hướng giá trị: Trong các nghiên cứu về thái độ, có hai
quan điểm xem xét về quan hệ giữa thái độ và định hướng giá trị. Trong cấu
trúc hoạt động của cá nhân, định hướng giá trị tạo thành mặt nội dung của
xu hướng nhân cách. Do vậy, định hướng giá trị có thể được coi là cơ sở bên
trong của thái độ cá nhân đối với hiện thực.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
12
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
Thái độ và tính cách: Tính cách là sự kết hợp độc đáo các đặc điểm
tõm lớ ổn định của con người, bao gồm một hệ thống thái độ đối với hiện
thực, thể hiện trong hệ thống hành vi cử chỉ, cách nói năng tương ứng.

Thái độ và xúc cảm, tình cảm: Xúc cảm, tình cảm là sự biểu thị thái
độ của cá nhân đối với các hiện tượng xảy ra trong hiện thực khách quan,
trong cơ thể, lien quan đến việc thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu của
con người. Tình cảm được hình thành từ những xúc cảm đồng loại được lặp
đi lặp lại, có tính ổn định tương đối và là một trong ba thành phần cấu trúc
của thái độ. Qua biểu hiện của xúc cảm, tình cảm, có thể thu được những dữ
liệu về tính chất và đặc điểm thái độ chủ quan của cá nhân với hiện thực
khách quan
Thái độ và ý chí: Ý chí là mặt năng động của ý thức, thể hiện khả
năng đề ra mục đích và nỗ lực khắc phục trở ngại nhằm đạt mục đích đã
định. Theo định nghĩa trờn thỡ ý chí và thái độ là hai thành phần của mộ hệ
thống chức năng – ý thức. Thái độ là sự biểu hiện của các phẩm chất của ý
chí.
Thái độ và hoạt động cá nhân: Hoạt động là yếu tố trực tiếp, quyết
định sự hình thành nhân cách, thái độ chủ quan của cá nhân với hiện thực
khách quan. Hoạt động có mục đích nhằm bộc lộ các khía cạnh khác nhau
của các quan hệ xã hội mà ở đó cá nhân sống và phát triển. Sự phản ánh của
những quan hệ này trong ý thức cá nhân là yếu tố quyết định hình thành thái
độ. Mặt khác, thái độ quy định phương hướng hoạt động, hành động.
4. Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và phát triển
nhân cách con người.
4.1. Ảnh hưởng của yếu tố giáo dục đến sự hình thành và phát triển
nhân cách
Như đã nói ở phần I giáo dục có vai trò hết sức quan trọng tới sự hình
thành và phát triển nhân cách con người, ngoài ra cũn cú một số các yếu tố khác
thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
13
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
Như yếu tố di truyền, tõp thể, giao tiếp và đặc biệt hoạt động là nhân tố quyết

định đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Trong đời sống thường ngày hoạt động là phương thức duy nhất để con
người tồn tại và phát triển và cũng là nhân tố quyết định tới sự hình thành và
phát triển nhân cách con người. Hoạt động của con người là hoạt động có mục
đích mang tính xã hội, cộng đồng để con người lĩnh hội những chi thức, kinh
nghiệm lịch sử của hoạt đông bản thân để hình thành và phát triển nhân cách, sự
hình thành nhân cách ở mỗi con người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi
thời kỳ nhất định. Ví dụ như với học sinh – sinh viên hoạt động chủ đạo là học
tập. Muốn hình thành nhân cách thì con người phải tham gia vào các hoạt động
đa dạng và phong phú nhất là hoạt động ở giai đoạn trên. Việc đánh giá các hoạt
động hết sức quan trọng đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Hoạt động có vai trò trực tiếp tới sự hình thành và phát triển nhân cách con
người. Nên trong công tác giáo dục cần có sự phong phú về nội dung, hình thức,
cách thức tổ chức hoạt động sao cho lôi cuốn sự tham gia của cá nhân một cách
tích cực nhất và tự giác nhất vào hoạt động đó. Mỗi hoạt động của con người luôn
luôn mang tính cộng đồng và luôn đi kèm với giao tiếp. Chính vì vậy giao tiếp
cũng là nhân tố cơ bản trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
Sự hình thành và phát triển nhân cách con người mang tính xã hội, lịch
sử chính giáo dục là sự phát triển nhân cách đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát
triển của đất nước nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Giáo dục là hoạt động
có mục đích có kế hoạch của con người, là hoạt động có ý thức của các nhà giáo
dục hoặc tổ chức giáo dục nhằm hình thành nhân cách trẻ em. Ở đây không chỉ
hiểu giáo dục theo tác động một chiều của các nhà giáo dục đến đối tượng giáo
dục mà quá trình này luôn diễn ra qua quá trình tác động hai chiều giữa người
giáo dục và người được giáo dục. Bởi vì trẻ em vừa là chủ thể vừa là khách thể
của quá trình giáo dục.
Mạnh Tử núi: “Nhõn chi sơ tính bổn thiện, tính tương cận tập tương
viễn”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ lương thiện, tính tình khá đồng
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
14

Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
nhất, nhưng do môi trường và sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra
khác biệt nhau.
Tuân Tử núi: “Nhõn chi sơ tính bổn ác, lý tính hậu lai tập đắc”, nghĩa là
con người sinh ra ban đầu vốn dĩ là ác, nhưng sau này do học tập mà có lý trí,
biết cỏi đỳng cỏi sai.
Mạnh Tử và Tuân Tử đều là bậc thầy của Nho giáo thời Chiến quốc, dự
cú những đánh giá khác nhau về tính con người nhưng đều thống nhất rằng môi
trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi, nghĩa là giáo dục đóng vai trò
quyết định cho bản tính của con người trong tương lai.
Thật ra, đánh giá khác nhau về bản chất con người của hai ông không có
gì mâu thuẫn. Tuân Tử nhìn theo hướng tiến hóa của vạn vật, cho rằng con
người là một loài động vật trong thế giới sinh học nên theo nguồn gốc ban đầu
vốn dữ tính, muốn thành người có lý trí thì phải được giáo dục.
Mạnh Tử nhìn con người từ khía cạnh xã hội học, cho rằng con người
được sinh ra trong cộng đồng, có tình thương của cha mẹ, anh em, bè bạn nên
bản tính ban đầu lương thiện, nhưng khi tiếp xúc, học tập trong các điều kiện xã
hội khác nhau thì tính tình ắt sẽ khác nhau. Từ đó có thể thấy từ xưa đến nay,
mọi thế hệ nhân loại đều khẳng định vai trò vô cùng to lớn của giáo dục đối với
con người.
Mục tiêu của giáo dục thật sự rất rõ ràng là dạy làm người, nghĩa là rèn
luyện đạo đức và nhân cách con người. Giáo dục đồng thời cung cấp kiến thức,
kỹ năng để con người xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn minh. Nền giáo dục
của nước ta cũng phải tìm ra các biện pháp để đạt được hai mục tiêu trên.
Nước ta có lịch sử lâu đời, đạo đức con người Việt Nam không những
được hình thành từ sự đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên, tạo nên sức mạnh
cộng đồng thương yêu bảo vệ nhau, mà còn tiếp thu được nhiều nguồn tư
tưởng và đạo đức của loài người, trong đó Phật giáo dạy lòng từ bi, vị tha, yêu
thương mọi sinh linh…; Nho giáo dạy cách xử lý mối quan hệ giữa người với
người, với cha mẹ (chữ hiếu), với cộng đồng quốc gia (chữ trung) và các mối

quan hệ với người chung quanh khác, hình thành nên hệ thống đạo đức “lễ,
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
15
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
nghĩa, liêm, sỉ, nhõn, trớ, tớn, dũng”…; Thiên Chúa giáo và đạo Tin Lành dạy
lòng bác ái, yêu tự do…; tư tưởng của Karl Marx dạy sự bình đẳng, yêu thương
bênh vực người cô thế, đứng về phía quyền lợi người nghèo khú…Cỏc luồng
tư tưởng và đạo đức của loài người quy tụ đến Việt Nam trên 2.000 năm qua đã
được con người Việt Nam tiếp thu và chọn lọc, hình thành nên đạo đức tư
tưởng văn hóa Việt Nam. Chính nền tảng văn hóa này là nguồn sức mạnh vô
biên cho con người Việt Nam.
Trở lại thực trạng xã hội chúng ta. Sau ngày đất nước thống nhất, người
Việt Nam ta thật sự làm chủ đất nước, hoàn toàn có quyền thiết kế một thể chế
xã hội phù hợp với văn hóa, đạo đức, con người Việt Nam. Hơn 30 năm qua,
tuy đã có tiến bộ về mặt xóa đói giảm nghèo, đời sống chung của người dân có
được nâng cao, nhưng thành quả đó vẫn còn khá khiêm tốn so với tiềm năng
của đất nước.
Nếu so sánh với các nước xung quanh thì khoảng cách vẫn còn lớn. Điều
đau lòng hơn là đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội ngày càng có nhiều biểu hiện
suy đồi, người lớn phải hổ thẹn với trẻ em, cấp trên phải hổ thẹn với cấp dưới
khi nói về đạo đức. Nguy hại hơn, đáng phẫn nộ hơn là những kẻ đạo đức giả
không hề ngại ngùng đứng bên trên giảng giải đạo đức cho người khác, những
kẻ phạm pháp nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật Đây mới chính là nguyên nhân
trực tiếp nhất làm cho nền giáo dục của ta không thể đổi mới được.
Khi đạo đức con người, đạo đức xã hội bị suy đồi thì mọi cố gắng nỗ lực
cho đầu tư phát triển kinh tế sẽ khó đạt được hiệu quả cao. Bộ máy công quyền
dễ bị tê liệt và thậm chí bị lợi dụng làm nơi trú ẩn, làm công cụ cho những kẻ vô
đạo đức trục lợi (các vụ tham nhũng, hối lộ, ăn chặn tiền cứu trợ dân nghèo là
những biểu hiện rõ nhất). Đương nhiên, ngành giáo dục không đủ khả năng giải
quyết thảm họa này, bởi đó không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành giáo dục.

Giáo dục hiện nay chỉ cố gắng ngăn chặn thế hệ tiếp theo không ngộ nhận,
không xem cái bất cập là mô hình phải noi theo. Nếu làm được như thế đã là
“cụng đức vô lượng” đối với đất nước.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
16
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
Đạo đức nói chung là chuẩn mực hành vi của con người, trong đó đa số
xuất phát từ lợi ích trực tiếp của cá nhân và đối tượng có quan hệ hay cộng
đồng. Ví dụ phải hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng thầy cô vì cha mẹ sinh ra và
nuôi nấng ta, thầy cô dạy dỗ ta nên người, hoặc phải tận trung với nước, vì nước
mất thì nhà tan… Dạng này tạm gọi là đạo đức riêng, thể hiện tư cách đạo đức
cá nhân. Dạng đạo đức thứ hai không trực tiếp đem lợi gì ngay cho cá nhân,
nhưng nếu cá nhân không có thì sẽ làm cho cộng đồng xấu đi nên tạm gọi là
công đức tâm.
Người có công đức tâm thể hiện như sau: Đi đường nếu thấy một vật
chướng ngại như tảng đá, hố sâu ngang đường có thể nguy hại cho người đi sau
thì tự động dẹp đi hay làm một điều gì đó để người sau chú ý; thấy vòi nước
chảy lãng phí thì khóa lại; để xe đúng chỗ không làm cản trở sự lưu thông trên
đường… Những hành vi đó diễn ra một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi
trách nhiệm, không mưu cầu lợi ích cho riêng mình. Nó hoàn toàn khác với hành
vi của những người có lợi ích, có trách nhiệm, nhưng không chịu thực hiện
nghĩa vụ. Người có công đức tõm luụn là người có nhân cách và đạo đức tốt.
Đối với mục tiêu giáo dục con người có ích cho xã hội, công đức tâm là
dạng đạo đức không thể thiếu trong nội dung giáo dục, nó được lồng ghép trong
kỷ luật học đường, trong sinh hoạt nhà trường, trong những bài giáo dục công
dân và trong mọi nội dung sách giáo khoa. Khi thế hệ mới được đánh thức trở lại
đạo đức này thì sự đùm bọc và thương yêu nhau sẽ làm cho trật tự xã hội được
cải thiện, vốn xã hội sẽ được hồi phục, việc phát triển kinh tế ắt sẽ có những tiến
bộ vượt bậc, đời sống ắt sẽ được nâng cao hơn, sức mạnh của đất nước, của con
người Việt Nam sẽ to lớn hơn.

Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
17
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
Trường học - tác nhân xã hội hóa quan trọng
Nhà trường là nơi con người bắt đầu được tiếp xúc với tính đa dạng xã
hội, tương tác với những thành viên không phải trong tập thể cơ bản là gia đình
mình, được dạy dỗ nhiều điều khác với nền tảng trong gia đình. Nhà trường
cung cấp cho trẻ em những kiến thức và kỹ năng từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp mà có những thứ không phải các thành viên lớn tuổi trong gia đình
của chúng đã được hấp thụ. Tính đa dạng xã hội ở nhà trường thường tạo ra
nhận thức rõ ràng hơn về vị trí của mình trong cấu trúc xã hội đã hình thành
trong quá trình xã hội hóa ở gia đình. Thông qua tương tác với các thành viên
khác, trẻ nhận biệt thêm những khía cạnh của chủng tộc, giới tính, đẳng cấp giàu
nghèo Trường học cũng là bộ máy hành chính đầu tiên mà hầu hết trẻ em được
tiếp xúc, những thời khóa biểu, nội quy cho chúng có ý niệm về một nhóm, tổ
chức lớn cũng như vai trò là một bộ phận trong đó. Ngoài những gì được in
thành sách giáo khoa, giáo dục ở nhà trường cũn cú một thứ mà các nhà xã hội
học, giáo dục học gọi là chương trình giảng dạy ẩn hay giáo dục ẩn. Nó cũng
góp phần hình thành nên những giá trị, tiêu chuẩn văn hóa quan trọng. Các môn
thể thao ngoài rèn luyện thể chất còn dạy cho trẻ tinh thần thi đua; nam và nữ
được hướng đến những gì cho là phù hợp với giới tính theo quy ước: nữ sinh
được khuyến khích nhiều hơn đến cỏc môn khoa học xã hội và nhân văn còn
nam sinh thì đến cỏc môn khoa học tự nhiên Một khía cạnh khá quan trọng
của giáo dục ẩn là việc đánh giá kết quả học tập về cơ bản được dựa trên các tiêu
chuẩn phổ biến chứ không phải các quan hệ cá nhân cụ thể như trong gia đình,
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
18
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
điều này tác động mạnh đến sự tự nhận thức bản thân của trẻ em. Theo các lý
thuyết gia duy xung đột thì giáo dục chịu ảnh hưởng của văn hóa thống trị xột

trờn góc độ những giá trị được đưa vào để giảng dạy cũng như trên tổng thể, nó
có xu hướng khuyến khích duy trì nguyên trạng.
Như đã phân tích ở trên trong quá trình giáo dục, người được giáo dục giữ
vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo, tự giác dưới sự hướng dẫn, tác động của các
tác nhân giáo dục để hình thành và phát triển nhân cách còn nhà giáo dục (thầy
giáo và tập thể sư phạm) giữ vai trò tổ chức điều khiển, điều chỉnh quá trình
giáo dục ấy. Vì vậy trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục phải biết phát huy vai
trò chủ động, tự giác, tích cực, sáng tạo của người được giáo dục nghĩa là phải
biết phát huy cao độ và triệt để những điều kiện bên trong của trẻ em.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng để xem xét hiện tượng giáo dục
và phát triển nhân cách, khoa học giáo dục xã hội chủ nghĩa đánh giá đúng đắn
vị trí các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ em
trong đó giáo dục giữ vai trò chủ đạo.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
19
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
4.2. Ảnh hưởng của yếu tố môi trường đến sự hình thành và phát triển
nhân cách
Yếu tố môi trường tác động đến trẻ bao gồm, môi trường tự nhiên (đất,
nước, khụng khớ…), môi trường xã hội (quan hệ giữa người với người…).
3.2.1. Gia đình
Gia đình là tác nhân xã hội hóa đầu tiên và quan trọng, khi mới sinh ra,
con người hoàn toàn phụ thuộc vào người khác trong việc đáp ứng các nhu cầu
của mình. Đối với hầu hết các cá nhân, gia đìnhlà tập thể cơ bản đầu tiên, dạy
cho trẻ em những kinh nghiệm xã hội, các giá trị, tiêu chuẩn văn hóa và dần dần
trẻ em kết hợp được nó vào ý thức của cá nhân. Thông qua quá trình đó, gia đình
không chỉ đưa trẻ em đến với thế giới hữu hình mà còn đặt chúng vào trong xã
hội. Nhiều nhà xã hội học cho rằng các đặc điểm như chủng tộc, tôn giáo, dân
tộc, đẳng cấp xã hội đều được gia đình truyền thụ trực tiếp cho trẻ em và trở
thành một phần trong khái niệm cái tôi của trẻ. Trước khi đứa trẻ đủ lớn khôn để

thực sự hiểu được vấn đề thỡ nó đó có thể nắm bắt được vị trí của mình trong
cấu trúc xã hội do gia đình xác lập. Trong quá trình trưởng thành, vị trí nắm bắt
được này có thể được cá nhân tìm cách thay đổi nhưng dù sao chăng nữa, cá
nhân đó phải giải quyết nó. Gia đình cũng là nơi đầu tiên truyền cho những
thành viên mới sinh ra của xã hội những ý niệm về giống phái, giới tính, trên
lĩnh vực này, phần lớn những gì chúng ta xem là bẩm sinh ở bản thân thực ra
đều là sản phẩm của văn hóa, kết hợp vào nhân cách của chúng ta thông qua xã
hội hóa. Cũng chính tại gia đình, trong hầu hết các nền văn hóa, trẻ nhỏ được
dạy rằng con trai cần phải mạnh mẽ, dũng cảm , con gái cần phải dịu
dàng Xó hội hóa giới tính luôn là một trong những chức năng quan trọng nhất
của gia đình.

Tuy vậy cần lưu ý rằng không phải tất cả những gì gia đình truyền
thụ cho trẻ em đều là có chủ ý, trẻ em còn bị ảnh hưởng và học hỏi ở chính môi
trường được tạo ra trong gia đình. Những gì đứa trẻ dần nhận thức về bản thân
mình như mạnh mẽ hay yếu ớt, thông minh hay tối dạ, được yêu thương và tha
thứ hay bị ghét bỏ cũng như về thế giới như thế giới này đáng tin cậy hay đầy
rủi ro, nguy hiểm có vai trò rất quan trọng của xã hội hóa trong gia đình.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
20
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
3.2.2. Bạn bè
Theo George Hebert Mead, nhóm bạn cùng lứa tuổi là những người khác
quan trọng. Hầu hết trẻ em đó cú nhóm bạn, thường là cùng lứa tuổi, cùng mối
quan tâm và quan điểm xã hội ở trường học hay gần nơi cư trú. Đây là bối cảnh
khác với gia đình, trường học khi mà trẻ có thể tham gia các hoạt động không
hoặc ít có sự giám sát trực tiếp của người lớn. Trong nhóm bạn, vai trò độc lập
của cá nhân góp phần hình thành các kinh nghiệm trong quan hệ xã hội cũng
như ý thức về bản thân khác với những gì có trong gia đình. Nhóm bạn cũng tạo
ra cơ hội cho các thành viên chia sẻ, thảo luận về các mối quan tâm mà trong đó

có những cái thường không làm được điều tương tự với cha mẹ hay các thầy cô
giáo. Vai trò của nhóm bạn có vai trò quan trọng nhất ở lứa tuổi thiếu niên và
thanh niên, đặc biệt là khi các thành viên bắt đầu sống xa gia đình và trong quá
trình xã hội hóa thường phát sinh mâu thuẫn giữa gia đình với nhóm bạn. Mâu
thuẫn này được tạo ra do sự khác biệt về thế hệ trong khi các mẫu văn hóa luôn
thay đổi hoặc do mối quan tâm của gia đình thường có tính chất định hướng,
mục tiêu dài hạn trong khi nhóm bạn lại tạo ra những sở thích nhất thời, ngắn
hạn Tuy nhiên, trong khi tham gia nhóm bạn, các thành viên dễ có xu hướng
tuân thủ và đánh giá tích cực về nhóm của mình đồng thời nhận dạng một cách
đối lập thậm chí tiêu cực với nhiều nhúm khỏc. Trờn một khía cạnh khác, nhóm
bạn cũng có khi tạo ra tác động rất tiêu cực đến thành viên của nhúm đú hoặc
nhúm khỏc bằng cách cùng hành động để ruồng bỏ, làm xấu hổ thậm chí hành
hạ người đó.
4.3. Yếu tố cá nhân
Vai trò của cá nhân của chủ thể giáo dục trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách của chính mình. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì
điều kiện để hình thành ý thức đú chớnh là phải có thế giới khách quan, phải có
não bộ, phải có sự hoạt động cá nhân. Nhưng nếu chỉ có thế giới khách quan và
có não bộ hoàn chỉnh nhưng cá nhân không chịu hoạt động thì ý thức con người
vẫn nông cạn, vẫn không phản ánh được đầy đủ, phong phú, đa dạng hình ảnh
thế giới khách quan.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
21
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
Vậy theo quan điểm duy vật biện chứng thì hoạt động cá nhân giữ vai trò
quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách của chính mình với điều
kiện biết phát huy triệt để yếu tố sinh học, biết tận dụng
4.4. Di truyền
Tục ngữ cú cõu: “giỏ nhà ai quai nhà ấy”, “con nhà tông chẳng giống lông,
cũng giống cỏnh”, quan niệm dân gian từ xưa đã đánh giá vai trò quan trọng của yếu

tố di truyền và bẩm sinh có tính chất tiền định về “số phận, tính cách con người”
Di truyền là những đặc trưng sinh học của cha mẹ truyền cho con cái
không chỉ biểu hiện một cách hiện hưu khi đứa bé mới sinh ra mà có thể có
những mầm mống, tư chất sau một thời gian mới bộc lộ thành dấu hiệu của một
số năng khiếu như: Hội hoạ, thơ ca, toán học vv…hoặc thiểu năng trong những
lĩnh vực cần thiết đối với cuộc sống cá nhân. Còn bẩm sinh là những thuộc tính,
đặc điểm sinh học có ngay khi đứa trẻ mới sinh.
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng những mầm mống , tư chất để
phát triển thành năng lực về phẩm chất về một lĩnh vực hoạt động nào đó (toán
học, văn học, nghệ thuật, kiến trỳc…) mang tính bẩm sinh di truyền, phản ánh
sự kế thừa tài năng. Điều này thể hiện ở một số gia đình liên tục xuất hiện người
tài trong các thế hệ nối tiếp nhau. Tuy nhiên di truyền, bẩm sinh chỉ là tiền đề
vật chất (mầm mống) của sự phát triển tâm lý nhân cách. Nó nói lên chiều
hướng, tốc độ, nhịp độ của sự phát triển. Những đứa trẻ có gen di truyền về một
lĩnh vực hoạt động nào đó sẽ sớm bộc lộ thiên hướng về lĩnh vực hoạt động đó.
Song để trở thành một tài năng cần phải có môi trường thuận lợi và hoạt động
tích cực của cá nhân.
Mã di truyền mang bản chất, sức sống tự nhiên tích cực hoặc tiêu cực là
những mầm mống, tư chất tạo tiền đề vô cùng thuận lợi cho con người đó hoạt
động có kết quả trong một lĩnh vực nào đó. Tuy nhiên, có phát triển thành năng
lực, phẩm chất, tài năng hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố môi
trường, hoàn cảnh sống và sự giáo dục, tự giáo dục.
Trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ, chúng ta cần quan tâm đúng mức yếu
tố di truyền, bẩm sinh, đó là những mầm mống, tư chất sinh học có vai trò tiền đề
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
22
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
phát triển một số phẩm chất, năng lực của cá nhân. Tất nhiên nếu quá coi nhẹ
hoặc tuyệt đối hoá, đánh giá quá cao nhân tố di truyền, sinh học thì cũng sẽ phạm
sai lầm khi phân tích so sánh, đánh giá vị trí vai trò tác động của môi trường, hoàn

cảnh và giáo dục đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
5. Ý nghĩa giáo dục nhân cách đối với bậc học mầm non
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân
có nhiệm vụ đặt nền móng cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân cách con
người mới Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Các
nghị quyết của của Đảng về giáo dục mầm non đều đã xác định rõ vị trí của giáo
dục mầm non trong chiến lược giáo dục và đào tạo con người và chỉ ra bước đi
thích hợp với khả năng thực tế ở nước ta. Ông cha ta đã từng nói “Bộ không vin,
cả gãy cành”, “măng non dễ uốn, tre già đổ đốt”, “dạy con từ thuở còn thơ"
Trong những ngày tháng đầu tiên mới sinh ra, sự giao tiếp của trẻ với
người lớn với đồ vật xung quanh có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát
triển của trẻ. Chính nhờ sự giao tiếp này, người lớn đã dẫn dắt trẻ hình thành
tình cảm, thái độ nhận thức về con người về đồ vật xung quanh. Hoạt động phản
ánh và hoạt động của trẻ từ đơn giản tự phát chuyển dần sang phức tạp hơn và
có phần tự giác khi trẻ ở tuổi biết nói. Nhờ sự biết đi, biết nói mà trẻ ngày càng
mở rộng phạm vi tiếp xúc phát triển nhận thức đối với thế giới xung quanh và
hình thành “ý thức bản ngó”. Trẻ muốn tự lập hơn thể hiện động tác và hành vi
theo ý nghĩa riêng của mình trong các trò chơi vận động, trò chơi học tập …
Muốn đặt nền móng nhân cách cho trẻ nhỏ đòi hỏi các nhà giáo dục cần
có sự hiểu biết và phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ một cách khoa học, linh
hoạt, mềm dẻo và phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, đảm bảo sự cân đối
giữa chăm sóc và giáo dục. Căn cứ vào các yếu tố của cấu trúc nhân cách mà các
nhà tâm lý học Việt Nam đã đưa ra, chúng ta cần chú ý chăm sóc sức khoẻ của
trẻ như đảm bảo chế độ dinh dưỡng sinh hoạt hàng ngày (ăn, ngủ, vệ sinh …)
tạo môi trường an toàn, ngăn nắp, bảo vệ phòng chống bệnh tật. Mặt khác phải
chú ý dạy dỗ, giáo dục trẻ như tổ chức các hoạt động phong phú, đa dạng phù
hợp với lứa tuổi dựa trên hoạt động chủ đạo.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
23
Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em

Từ mô hình cấu trúc nhân cách và những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình
thành và phát triển nhân cách của các nhà tâm lý học Việt Nam, muốn phát triển
muốn phát triển nguồn lực con người đáp ứng với đòi hỏi của xã hội, trước hết
cần nhận thức sâu sắc vai trò và nhiệm vụ quan trọng của ngành trong thời đại
mới: Giáo dục phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ mầm non, xây dựng một
nền móng vững chắc ban đầu cho sự phát triển cả về thể chất, tinh thần và trí tuệ
cho trẻ mầm non. Đặt nền tảng cho việc hình thành và phát triển nhân cách con
người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Muốn trẻ phát triển một cách toàn
diện trong quá trình giáo dục cần quan tâm đến những yếu tố sau:
Nhân cách con người chỉ hình thành trong hoạt động và thông qua hoạt
động. Sự phát triển của trẻ là một quá trình liên tục, trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau và mỗi giai đoạn lại có một hoạt động chủ đạo mang nét đặc thù riêng
ở lứa tuổi đó. Thông qua hoạt động tích cực trẻ em hiểu được và hiểu đúng
những quy luật của thế giới xung quanh và trên cơ sở đó mới biến đổi và cải tạo
nó. Quá trình giáo dục trẻ không thể tồn tại nếu thiếu tính tích cực của bản thân
trẻ. Thông qua hoạt động chủ đạo để giáo dục và phát triển được các năng lực và
phẩm chất tâm lý cá nhân.
Hoạt động của trẻ có ý nghĩa khi chúng được hoạt động khám phá trải
nghiệm trong môi trường đa dạng, hấp dẫn và có ý nghĩa thiết thực đối với trẻ.
Gắn trẻ em với cuộc sống của người lớn và xây dựng môi trường giáo dục
phong phú, hấp dẫn, lành mạnh, gần gũi với cuộc sống của trẻ. Việc tạo ra môi
trường giáo dục sẽ tạo cơ hội cho trẻ có cơ hội khám phá, trải nghiệm trong hoạt
động theo nhu cầu, hứng thú đồng thời tạo điều kiện cho trẻ tích cực, chủ động
và sáng tạo trong hoạt động của mình góp phần phát triển nhân cách trẻ.
Hơn thế nữa, gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên của trẻ. Văn hoá gia
đình có một ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Vì vậy,
cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường để thống nhất cách chăm
sóc và giáo dục trẻ một cách khoa học và hiệu quả.
Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
24

Chuyên đề: Tâm lý học nhân cách trẻ em
CHƯƠNG II
CÁC TƯ TƯỞNG, QUAN NIỆM NGHIÊN CỨU VỀ NHÂN CÁCH
CON NGƯỜI
1. Tư tưởng phương Đông cổ đại về nhân cách
Các nhà tư tưởng triết học phương Đông cổ đại cho rằng con người là tiểu
vũ trụ, mang những đặc tính của vũ trụ. Những đặc tính này chi phối sự phát
triển con người. Con người liên hệ với vũ trụ bao la nên con người cần biết được
các thông tin của vũ trụ. Thực thể con người là sản phẩm của nguyên lý âm
dương, vừa đối lập vừa thống nhất, chứa đựng và chuyển hoá lẫn nhau, trời - đất
- người hợp thành một (thiên - địa - nhân hợp nhất). Mạnh Tử nhận xét: Khi phát
triển hết mình, con người có thể biết trời mà còn hợp nhất với trời làm một.
Tính cách của con người chịu ảnh hưởng của ngũ hành và chia ra loại
người: Kim, Hoả, Thổ, Mộc, Thuỷ. Người mệnh Kim ăn ở có nghĩa khí, nếu
Kim vượng thì tính cách cương trực. Người mệnh Hoả thì lễ nghĩa, đối với mọi
người nhã nhặn, lễ độ, thích nói lý luận; nhưng nếu Hoả vượng thì nóng nảy, vội
vã, dễ hỏng việc. Người mệnh Thổ trọng chữ tín, nói là làm; nếu Thổ vượng thì
hay trầm tĩnh, không năng động, dễ bỏ thời cơ. Người mệnh Mộc hiền từ, lương
thiện, độ lượng; Mộc vượng thì tính cách bất khuất. Người mệnh Thuỷ thì khúc
khuỷu, quanh co, nhưng thông suốt; nếu Thuỷ vượng thì tính tình hung bạo, dễ
gây tai hoạ.
Người phương Đông đánh giá con người qua chất là chủ yếu, lượng là
phụ. Người phương Đông lấy “Tõm thiện” là lý tưởng. Phương Tây tôn sùng
tiến bộ, tôn sùng văn minh vật chất, không quan tâm nhiều đến phẩm chất. Do
đó nhiều người đã than phiền rằng đạo lý ngày nay suy đồi, nhân cách con người
thoỏi hoỏ không bằng ngày xưa.
Người phương Đông đề cao tính thiện, tính nhân, thích sự im lặng, nhẹ
nhàng, đề cao sự cân bằng không thái quá. Mọi tu nhân, xử thế, chính trị đều
hướng tới Thiện. Biết đủ là giàu, giản dị ở vật chất, giản dị trong nội tâm, trong
ngôn từ, trong quan hệ với mọi người.

Nguyễn Thị Nương- CHMNK20
25

×