I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
PHM PHNG HOA
BảO ĐảM QUYềN Tự DO TíN NGƯỡNG và Tự DO TÔN GIáO
TRONG PHáP LUậT VIệT NAM HIệN NAY
Chuyờn ngnh: Phỏp lut v quyn con ngi
Mó s: Chuyờn ngnh o to thớ im
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: PGS. TS TNG DUY KIấN
H NI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Phƣơng Hoa
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN
NGƢỠNG VÀ TỰ DO TÔN GIÁO 7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TỰ
DO TÔN GIÁO VÀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO
TÍN NGƯỠNG, TỰ DO TÔN GIÁO 7
1.1.1. Khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo 7
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo 13
1.1.3. Một số nguyên tắc bảo đảm Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo 16
1.2. TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM BẢO ĐẢM QUYỀN
TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ TỰ DO TÔN GIÁO TRONG PHÁP
LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ý NGHĨA ĐỐI
VỚI VIỆT NAM 18
1.2.1. Tiêu chuẩn quốc tế 18
1.2.2. Các văn kiện khu vực 27
1.2.3. Kinh nghiệm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo trong pháp
luật của một số nước 29
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG,
TỰ DO TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 41
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 41
2.1.1. Khái quát về tín ngưỡng ở Việt Nam 41
2.1.2. Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam 43
2.2. BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ TỰ DO TÔN GIÁO
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY 51
2.2.1. Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo tiếp tục được thể hiện trong
các văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước Việt Nam 51
2.2.2. Các quy định pháp luật của Nhà nước Việt Nam đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng và tự do tôn giáo 53
2.3. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ
DO TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 63
2.3.1. Thành tựu 63
2.3.2. Hạn chế 74
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO
ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƢỠNG VÀ TÔN GIÁO TRONG
PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 84
3.1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TỰ
DO TÔN GIÁO 84
3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TỰ DO
TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 89
3.2.1. Dự báo xu hướng phát triển của các tôn giáo ở Việt Nam và tính tất yếu
phải bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo. 89
3.2.2. Một số yêu cầu đặt ra trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự
do tôn giáo 90
3.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo Quyền tự do tín ngưỡng và tự do
tôn giáo ở Việt Nam 95
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
PHỤ LỤC
TỪ VIẾT TẮT
TCN
Trước Công nguyên
SCN
Sau Công nguyên
UNESCO (United Nations Educational
Scientific and Cultural Organization)
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên hiệp quốc
ILO (International Labour Organization)
Tổ chức Lao động quốc tế
ICCPR (International Convenant on Civil
and Political Rights)
Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị
ICESCR (International Convenant on
Economic, Social and Cultual Rights)
Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, văn hóa và xã hội
UDHR (Universal Declaration of Human
Rights)
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
con người
ECHR (The European Convention on
Human Rights)
Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền
con người và tự do cơ bản
ACHR (The American Convention on
Human Rights)
Công ước Châu Mỹ về quyền con
người
ACHPR (The African Commission on
Human and Peoples' Rights)
Hiến chương Châu Phi về quyền con
người
FABC
Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á
châu
TĐCSPHVN
Tịnh độ Cư sỹ Phât hội Việt Nam
Nghị định 26
Nghị định số 26/NĐ-CP, ngày 19
tháng 4 năm 1999 của Chính phủ về
hoạt động tôn giáo
Vesak
Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là một quyền con người cơ bản,
được cộng đồng quốc tế ghi nhận trong hệ thống pháp luật quốc tế: Hiến chương
Liên hợp quốc (1945), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948) và các công ước
quốc tế về quyền con người.
- Thực trạng tôn giáo ở Việt Nam: Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo,
số lượng đồng bào các tôn giáo chiếm tỉ lệ cao. Các tôn giáo đều có giá trị nhân văn
cao đẹp, đạo đời hòa hợp, đều mong muốn sống „„tốt đời, đẹp đạo”, làm cho „„Nước
vinh, đạo sáng”. Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng một sự thật lịch sử, một thực
tế và đã đáp ứng kịp thời những nhu cầu, nguyện vọng tôn giáo chính đáng của tín
đồ là nhân tố quan trọng để động viên đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo tích cực
tham gia sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Xuất phát từ nhận thức mới về tôn giáo: Trong thời kỳ đổi mới, vấn đề tôn
giáo có những nội dung mới. Năm 1990, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 24 về công tác
tôn giáo đã khẳng định „Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều
điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, đây là kim chỉ nam cho mọi
hành động của hệ thống chính trị trong ứng xử đối với các đồng bào các tôn giáo.
- Xuất phát từ kinh nghiệm quốc tế về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự
do tôn giáo: xuất phát từ chính sách đối ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa
các mối quan hê quốc tế, Việt Nam tham gia hầu hết các công ước quốc tế, Việt
Nam có trách nhiệm thực hiện các công ước đã gia nhập, đòi hỏi phải nội luật hóa
các điều quốc tế để xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia tương thích với pháp luật
quốc tế và phù hợp với xu thế quốc tế hóa.
- Xuất phát từ chính sách và thực hiện chính sách về tôn giáo: Tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là một xu thế tiến bộ của nhân
loại, đã trở thành một chính sách lớn của nhiều nhà nước. Tôn trọng quyền tự do tín
2
ngưỡng và tự do tôn giáo, theo hay không theo một tôn giáo nào là tư tưởng nhất
quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là một nguyên tắc trong quan hệ của
Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tôn giáo; là động lực quan trọng giúp đồng bào
tôn giáo nhận thức rằng, Nhà nước không phân biệt đối xử, bình đẳng giữa đồng
bào có tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo; là một nhân tố quan
trọng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong quá trình triển khai thực hiện, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng
và Nhà nước ta cũng đã và đang bộc lộ những hạn chế, chưa phù hợp với tình hình
thực tế. Có nơi, có lúc còn hiện tượng hạn chế, thu hẹp thậm chí vi phạm quyền tự do
tín ngưỡng và tự do tôn giáo; chính sách của Đảng về tự do tín ngưỡng và tự do tôn
giáo chưa được thể chế hóa kịp thời thành pháp luật; hoặc chưa rõ ràng, cụ thể dẫn
đến việc áp dụng không thống nhất giữa các địa phương, thậm chí sai chủ trương,
chưa đáp ứng được nhu cầu tôn giáo ngày càng tăng của tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật, văn hóa nhân quyền của người
dân đến nay vẫn chưa cao, chưa đồng đều, ngay cả cán bộ trong bộ máy nhà nước
cũng chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tín ngưỡng, tôn giáo; về chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo;
đặc biệt là khuôn khổ pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Ngoài
ra, khó khăn trong việc luật pháp hóa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo còn gặp phải
từ sự thiếu thiện chí xây dựng của một số cá nhân trong và ngoài nước. Một bộ phận
tín đồ, chức sắc trong tôn giáo đã bị các thế lực xấu tìm cách lợi dụng để chống phá
công cuộc xây dựng đất nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; những
phần tử cực đoan ở nước ngoài cấu kết với bọn phản động trong nước lợi dụng vấn
đề tôn giáo với chiêu bài „tự do, dân chủ, nhân quyền”, coi đó như là con bài gây
sức ép với Việt Nam trong thảo luận về các vấn đề kinh tế, chính trị, ngoại giao để
can thiệp sâu vào công việc nội bộ của ta.
Như vậy, từ những nhận thức lý luận mới về tôn giáo, về bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; từ kinh nghiệm quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tự
3
do tôn giáo; từ thực trạng chính sách và việc thực hiện chính sách đối với tôn giáo,
mặc dù có nhiều thành tựu, song chưa tạo được hành lang pháp lý vững chắc, tính
khả thi và hiệu quả chưa cao.
Với những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng và tự do tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình, với mục đích góp phần khắc phục những hạn chế trong nghiên cứu
khoa học về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của cá nhân, tổ chức
tôn giáo trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay, nhằm bổ sung, hoàn thiện và phát triển các quan điểm, chính sách đã có,
đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do
tôn giáo ở Việt Nam trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ lâu, giới nghiên cứu nước ngoài, nhất là các học giả Liên Xô, Trung
Quốc, Pháp, Mỹ đã có nhiều công trình nghiên cứu lý luận về tôn giáo, mối quan hệ
giữa Nhà nước và giáo hội đã giới thiệu quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về tôn
giáo, thái độ của các Đảng Cộng sản cũng như kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn
giáo của các nước Xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng „„tôn giáo và xã hội xã hội chủ nghĩa cùng chung sống” của Bành
Diệu (Nghiên cứu tôn giáo, số 9/2007); Luật pháp tôn giáo ở Trung Quốc: Tiến
trình lịch sử và những phát triển gần đây (Nghiên cứu tôn giáo, số 4 và 5/2009) đã
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo dưới nhãn quan mới,
khẳng định sự tồn tại của tôn giáo trong xã hội chủ nghĩa, đặc biệt các tác phẩm nêu
trên đã đi sâu nghiên cứu về luật pháp tôn giáo, cũng như kinh nghiệm giải quyết
vấn đề tôn giáo ở Trung quốc. Đây là kinh nghiệm quan trọng để Việt Nam tham
khảo để hoàn thiện luật pháp về tôn giáo.
Liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo và chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong
nước, như các tác phẩm:Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận và thực
tiễn, PGS.TS Đỗ Quang Hưng, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008, giúp tác giả có
4
cái nhìn toàn diện, hệ thống về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta qua
các thời kỳ lịch sử, nhất là sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.
Tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam, Viện Khoa học xã
hội nhân văn quân sự thuộc Bộ quốc phòng, NXb. Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2005. Cuốn sách đã cung cấp cho tác giả những thông tin khái quát về một số vấn
đề cơ bản về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, sự lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
chống phá cách mạng của các thế lực thù địch và quan điểm, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, nhiều bài viết đã đề cập đến quan điểm, đường lối của Đảng và
Nhà nước ta, nhất là trong thời kỳ đổi mới, trong đó là các bài viết: Tôn trọng tự do
tín ngưỡng, tự do tôn giáo – Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước của Đặng
Tài Tính (Công tác tôn giáo, số 1/2005); Trở lại những quan điểm đổi mới về tôn giáo
của Nghị quyết 24 của Nguyễn Thanh Xuân (Công tác tôn giáo, số 2/2005); Quá
trình nhận thức của Đảng về vấn đề tôn giáo, công tác tôn giáo và chính sách tôn
giáo qua cương lĩnh, văn kiện, nghị quyết từ đổi mới đến nay (Nghiên cứu tôn giáo,
số 1/2011), Luận văn thạc sĩ – Nguyễn Thị Diệu Thúy – Mã số 603810 về Quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực
tiễn; đặc biệt là cuốn sách Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, của Ban Tôn
giáo Chính phủ, đã giúp tác giả có cái nhìn toàn diện hơn về tình hình tôn giáo; hiểu
rõ quan điểm nhận thức tư duy lý luận mới của Đảng ta về vấn đề tôn giáo, tôn trọng
tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, các công trình trên mới nghiên cứu, phân tích về chính sách, hoặc
pháp luật Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc về tình hình tôn giáo, chưa có
công trình nào nghiên cứu tổng thể về vấn đề bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo trong pháp luật Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Nghiên cứu tổng quát về khuôn khổ pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Đánh giá lại hệ
thống chính sách, pháp luật liên quan đến tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo
5
trong thời kỳ mới, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nói trên, tác giả đã đưa ra và
giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, làm rõ về nhận thức lý luận về tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
- Nghiên cứu, phân tích khuôn khổ pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng,
tự do tôn giáo.
- Quan điểm, chính sách, pháp luật liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, tự do tôn giáo. Từ đó đối chiếu, so sánh pháp luật Việt Nam về bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo với các chuẩn mực quốc tế.
- Đánh giá thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo
trong pháp luật Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó rút ra nguyên nhân của những
bất cập trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
- Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và tự do tín ngưỡng, tự do tôn
giáo; quan điểm của cộng đồng quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo;
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về bảo đảm thực hiện
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của công dân.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, xã hội
học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận văn cũng khai
thác thông tin tư liệu của các công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho
các luận điểm.
5. Những nét mới của luận văn
- Luận văn đưa ra cái nhìn tổng thể về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn
giáo: khái niệm, bản chất, đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; một
số nguyên tắc liên quan đến quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
6
- Luận văn phân tích những tiêu chuẩn quốc tế và kinh nghiệm bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong pháp luật một số nước có ý nghĩa
với Việt Nam;
- Góp phần làm rõ thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo
trong pháp luật Việt Nam hiện nay, tính tương thích của pháp luật Việt Nam và
pháp luật quốc tế về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
- Phân tích, làm rõ nhận thức lý luận mới về tín ngưỡng, tôn giáo; chính sách
mới về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam.
- Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, phân tích, đánh giá, luận văn cũng đưa
ra các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức khoa
học cơ bản mang tính lý luận về quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo; giúp người
đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về khuôn khổ pháp luật quốc tế và quan
điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
Luận văn cũng nêu lên những thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo; những bất cập trong việc bảo đảm thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo ở Việt Nam; từ đó nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn kết
cấu gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
- Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo
trong pháp luật Việt Nam hiện nay
- Chương 3. Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do
tôn giáo trong pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
TỰ DO TÍN NGƢỠNG VÀ TỰ DO TÔN GIÁO
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TỰ
DO TÔN GIÁO VÀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TỰ DO TÔN GIÁO
1.1.1. Khái niệm về quyền tự do tín ngƣỡng và tự do tôn giáo
1.1.1.1. Khái niệm về tín ngưỡng và tôn giáo
Hiện nay với nhiều khái niệm về tín ngưỡng và tôn giáo với nhiều hướng tiếp
cận khác nhau. Năm 1871, Taylor với câu nói “tôn giáo là lòng tin vào những vật
linh", đúng hơn là những "vật siêu nhân", hay nói rộng ra là những "lực lượng phi
nhân". Đầu thế kỷ XX, nhà nghiên cứu xã hội học tôn giáo nổi tiếng người Đức
Max Weber tuy không đưa ra một định nghĩa chính thức nào về tôn giáo nhưng ông
cho rằng tôn giáo "như một dạng đặc biệt của hoạt động trong cộng đồng" gắn với
"các thế lực siêu nhiên".
Theo cách nhìn tôn giáo từ góc độ tư tưởng, triết học của các nhà kinh điển
Mác- Lênin. Mác định nghĩa "tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là
thế giới trái tim không có trái tim. Cũng như nó là tinh thần của trạng thái xã hội mà
ở đó tinh thần bị loại bỏ Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân" "Tôn giáo là sản
phẩm của Nhà nước và xã hội mà Nhà nước và xã hội là thế giới đảo ngược" [5].
Cũng trong tác phẩm góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác
đã khẳng định lại: "Tôn giáo là cái ý thức về bản thân và cái cảm giác về bản thân
con người chưa tìm thấy trong bản thân mình hoặc đánh mất bản thân mình một lần
nữa". Sau này một số người đã tiếp cận phân tích trích dẫn những định nghĩa của
Mác, Ăng ghen, Lênin một cách giáo điều, không đầy đủ, thậm chí còn cắt xén làm
sai lạc đi nhiều.
Gần đây một số nhà nghiên cứu tôn giáo Việt Nam cũng đưa ra những lý giải
hoặc chia sẻ quan điểm của mình về tín ngưỡng, tôn giáo. Tác giả Hoàng Phê trong
8
Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1992, đưa ra định nghĩa "Tôn giáo là hình thức xã
hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu
nhiên, cho rằng có lực lượng siêu tự nhiên quyết định số phận con người, con người
phải phục tùng, tôn thờ". Tác giả Mai Thanh Hải trong Từ điển Tôn giáo xuất bản
năm 2001, đưa ra định nghĩa "tôn giáo là một hình thái nhận thức xã hội, phản ánh
hiện thực qua các khái niệm, hình ảnh mang tính chất ảo ảnh, ảo vọng. Nói chung
đó là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên, vô hình mà con người cho là linh thiêng,
được sùng bái và cầu khấn để nhờ cậy, che chở hoặc ban phát điều tốt lành". Giáo
sư Đặng Nghiêm Vạn trong sách Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt
Nam xuất bản năm 1998 cho rằng "tôn giáo là thế giới siêu nhiên vô hình được
chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại hư ảo giữa con người và thế giới
đó nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế, cũng như ở thế giới bên kia trong những
hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau, của từng cộng đồng tôn giáo hay xã hội khác
nhau". Tiến sĩ Nguyễn Thanh Xuân, Phó trưởng Ban Ban Tôn giáo Chính phủ đã
đưa ra một định nghĩa về tôn giáo khá bao trùm là, “tôn giáo là những hành vi (hoạt
động) của con người để thực hiện niềm tin vào thế giới siêu nhiên”. Với định nghĩa
này, tôn giáo gồm hai phạm trù là niềm tin và hanh vi của con người để thực hiện
niềm tin vào thế giới siêu nhiên và đấng siêu nhiên.
Như vậy, tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào thế giới
siêu nhiên mà họ cho rằng đã chi phối thế giới và con người, niềm tin này không
nhận biết được. Tôn giáo là hành vi hay hoạt động của con người để thực hiện niềm
tin vào thế giới siêu nhiên và đấng siêu nhiên. Khái niệm này nhấn mạnh những
hoạt động của con người như: thờ phụng, cúng bái, cầu nguyện, việc thực hiện các
nghi lễ khác, Các hoạt động này đều được thể hiện ra bên ngoài và đều nhận biết
được. Tín ngưỡng là phạm trù rộng, còn tôn giáo là phạm trù cụ thể, là cái biểu hiện
bên ngoài của tín ngưỡng. Không thể có những hoạt động tôn giáo nếu như không
có niềm tin tôn giáo.
Ở Việt Nam, bên cạnh khái niệm tín ngưỡng, tôn giáo, còn có khái niệm tín
ngưỡng dân gian. Trước đây, khái niệm tín ngưỡng đã bao gồm cả tôn giáo, nên khi
9
nói các loại hình tôn giáo sơ khai (nguyên thủy) trong các dân tộc thiểu số, tôn giáo
truyền thống trong người Kinh, người ta gọi "sang ngang" luôn là tín ngưỡng
nguyên thủy hay tín ngưỡng dân gian (truyền thống). Như vậy, khái niệm tín
ngưỡng ở nước ta được hiểu theo hai nghĩa, tùy theo từng văn cảnh khác nhau, khi
chỉ niềm tin của con người vào thế giới siêu nhiên (tín ngưỡng), khi chỉ các loại
hình tôn giáo nguyên thủy, tôn giáo truyền thống hay tín ngưỡng dân gian.
1.1.1.2. Khái niệm về quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo
Xét về nguồn gốc, quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ra đời gắn liền với
quá trình phát triển của các tôn giáo. Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ của lực
lượng sản xuất và điều kiện sinh hoạt vật chất còn thấp, con người cảm thấy yếu
đuối và bất lực trước thiên nhiên. Vì vậy, người nguyên thủy đã gắn cho thiên nhiên
những sức mạnh siêu nhiên. Giai đoạn này tôn giáo chỉ phản ánh những nhận thức
hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới quanh mình. Nhưng khi
xuất hiện giai cấp thì tôn giáo cũng phản ánh lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Kitô giáo ra đời ở La Mã cổ đại, Phật giáo là đời ở ấn Độ cổ đại (thế kỷ 6TCN), Hồi
giáo ra đời ở bán đảo Ả Rập (TK7 TCN) đều để đáp ứng nhu cầu của quần chúng bị
nô lệ, quần chúng lao khổ khát vọng về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái.
Vào thế kỷ III (SCN), những người theo đạo Phật bị ngược đãi hành hạ ở Ấn
Độ bởi vì họ đã tin tưởng vào những giáo huấn của Đức Phật. Bắt đầu từ thế kỷ IX
(SCN) được gọi là “thời kỳ tăm tối” ở Châu Âu. Đạo Hồi và các đạo khác không
phải đạo Cơ Đốc, bị ngược đãi hành hình “trên danh nghĩa chúa Trời”. Kế tiếp đó,
chiến tranh mở rộng của Đế chế Ottoman và Đạo Hồi đã làm châu Âu khiếp sợ.
Những người Do Thái bị dồn vào sống trong những khu riêng biệt không chỉ bởi
người Cơ Đốc mà còn bởi người Hồi Giáo trước đấy. Những hành động chống đối
người Ấn ở Mỹ La tinh cũng xảy ra trong quá trình Cơ Đốc hóa.
Ngay sau khi các cuộc cách mạng tư sản thành công, các chế độ dân chủ (tư
sản) cộng hoà ra đời, tình trạng đó cơ bản chưa thay đổi, dù quyền lực thần quyền
đã bị hạn chế. Trong khi đó, các vấn đề khủng bố, bạo lực, kết tội tôn giáo hoặc
chiến tranh sắc tộc tôn giáo vẫn không ngừng diễn ra. Nhu cầu lớn đầu tiên trong
10
quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo với rất nhiều quốc gia là nhu cầu mỗi công
dân có thể theo một tín ngưỡng riêng hay cải đạo mà không sợ bị chính phủ phạt tội
hoặc các “tôn giáo chính thống” trả thù. Trong quá khứ và cả hiện tại, những người
theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều bị đe dọa bởi điều họ tin hay không tin.
Do đó, nhu cầu tin theo một tín ngưỡng và biểu hiện niềm tin của tín ngưỡng ấy ra
bên ngoài cần được bảo vệ.
Quan niệm về tự do tôn giáo được hình thành ở châu Âu với các cuộc cách
mạng tư sản thế kỷ XVII - XVIII. Những nhà tư tưởng như John Locke, đã đặt nền
móng cho quyền tự do tôn giáo khi cho rằng, tôn giáo là vấn đề của cá nhân hơn là
của xã hội. Vai trò của Nhà nước không phải là khuyến khích phát triển tôn giáo mà
cơ bản là bảo vệ quyền của mỗi cá nhân có thể sở hữu niềm tin tôn giáo của chính
mình và cách tốt nhất là hãy để con người tự lựa chọn tôn giáo cho mình.“Không ai
tự nhiên bị trói buộc phải theo một nhà thờ hay một giáo phái, nhưng mọi người đều
có thể tự nguyện tham gia vào xã hội mà ở đó anh ta tin là anh ta đã tìm thấy tín
ngưỡng và sự tôn sùng thực sự có thể được Chúa Trời chấp nhận. Hy vọng cứu rỗi
linh hồn, là lý do duy nhất khiến mỗi người bước vào thế giới đó, và vì vậy cũng có
thể là lý do duy nhất để anh ta ở lại đó […]. Nhà thờ, vì vậy, là một xã hội mà thành
viên tự nguyện hợp nhất lại” [49].
Sự bảo vệ thoả đáng ngày càng trở nên cấp thiết trong những năm gần đây
bởi vì không khoan dung về tôn giáo và ngược đãi luôn ở vị trí hàng đầu của các
xung đột bi thảm trên toàn thế giới liên quan đến các vấn đề về sắc tộc, mâu thuẫn
chủng tộc, hay sự hận thù giữa các nhóm tôn giáo. Ngược đãi trên khía cạnh tôn
giáo có thể được nhận ra trong các xung đột hiện nay giữa những tín đồ của một tín
ngưỡng, tôn giáo và những người không theo tín ngưỡng, tôn giáo ấy; giữa tín
ngưỡng truyền thống và tín ngưỡng “mới” ở những quốc gia đa tôn giáo, hoặc giữa
các quốc gia với một tôn giáo chính thống hay được ưa chuộng với những cá nhân
hoặc cộng đồng không thuộc tôn giáo đó.
Trong tiến trình vận động của lịch sử, quan niệm về tự do tôn giáo dần dần
trở nên hoàn thiện hơn. Trước khi quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trở thành
11
quy tắc trong luật quốc tế, ở phạm vi các quốc gia, một số nước đã đề cập đến tự do
trong đó có mầm mống của quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong các bản
Tuyên ngôn của Quốc gia.
Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776 đề cập đến tự
do: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền
tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc" [24]. Mặc dù chưa nói cụ thể về tự do tôn
giáo nhưng văn kiện này ảnh hưởng lớn đến tuyên ngôn độc lập của nhiều quốc gia,
trong đó có Việt Nam.
Bộ Luật về Quyền của Hoa Kỳ năm 1791 ghi nhận các quyền và tự do trong
các tu chính án, trong đó tu chính án thứ 1 "Quốc hội sẽ không ban hành một đạo
luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận,
báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị chính phủ sửa chữa
những điều gây bất bình" [24].
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789 đã nói đến tự do
cá nhân, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, song cũng chưa nói rõ về tự do tôn giáo:
“Không ai phải lo ngại vì nêu ý kiến, kể cả tín ngưỡng của mình, miễn là không có
biểu hiện gây rối trật tự công cộng do pháp luật quy định” [28].
Tuyên bố về tự do tôn giáo của Hội đồng nhà thờ thế giới năm 1948. Mọi
người đều có quyền bày tỏ niềm tin tôn giáo của mình trong giảng dạy, thờ phượng
và thực hành, và công bố tác động của niềm tin của mình cho các mối quan hệ trong
một cộng đồng xã hội hay chính trị.
Ngày 10-12-1948, Liên hợp quốc thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới về
nhân quyền thì tự do tôn giáo mới thực sự trở thành một quyền mang tính quốc tế,
được tái khẳng định trong nhiều văn bản quốc tế khác.
Nếu như khái niệm về tín ngưỡng, tôn giáo có nhiều cách tiếp cận khác nhau,
thì việc đưa khái niệm phổ quát cho Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo cũng rất
khó khăn, ngay cả khi soạn thảo Điều 18 Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới đã có
nhiều quan điểm, tranh luận về vấn đề tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
12
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Wikipedia, tự do tín ngưỡng hay tự do tôn
giáo thường được coi là một nguyên tắc ủng hộ quyền tự do của cá nhân hay cộng
đồng trong việc công khai hoặc bí mật thực hành, thờ phụng, rao giảng, hay tu tập
một tôn giáo hay tín ngưỡng. Khái niệm này thường được thừa nhận là có bao gồm
cả việc tự do thay đổi tôn giáo hoặc tự do không theo một tôn giáo nào.
Quan điểm về tự do tôn giáo của Công đồng Vatican II, Thánh Công đồng
Vatican II tuyên bố: "Con người có quyền tự do tôn giáo, quyền tự do này con
người không bị lệ thuộc vào áp lực của cá nhân, đoàn thể xã hội hay của bất cứ
quyền bính trần gian nào khác. Với ý nghĩa đó, trong lĩnh vực tôn giáo, không ai bị
ép buộc hành động trái với lương tâm, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo
lương tâm, dù cho đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với
người khác, trong những giới hạn chính đáng" [19]. Ngoài ra, theo Công đồng
Vatican II, "Tự do tôn giáo còn có nghĩa là các cộng đoàn tôn giáo không bị ngăn
cản trong việc tự do biểu lộ các hiệu năng riêng của giáo thuyết mình trong việc tổ
chức xã hội và làm cho toàn thể sinh hoạt nhân loại được sống. Sau hết, theo bản
tính xã hội của con người, cũng như theo bản chất của tôn giáo, con người có quyền
dự to hội họp hay thành lập những hiệp hội giáo dục, văn hóa, từ thiện và xã hội do
cảm thức tôn giáo thúc đẩy" [20].
Tiếp cận theo các yếu tố cấu thành, thì khái niệm về Quyền tự do tín ngưỡng,
tự do tôn giáo được khẳng định tại Điều 18 Tuyên ngôn Thế giới về nhân quyền và
tái khẳng định ở Điều 18 Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị năm 1966. Điều
18 của Tuyên ngôn định nghĩa Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo như sau: “Mọi
người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo; kể cả tự do thay đổi tín
ngưỡng hoặc tôn giáo của mình, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình
bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ,
dưới hình thức cá nhân hay tập thể tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư" [29].
Về mặt nội dung, Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo bao gồm: quyền
theo hoặc không theo một tôn giáo; quyền tự do thay đổi tôn giáo; quyền tự do thể
hiện, bày tỏ tín ngưỡng, tôn giáo (quyền tự do thực hiện các hoạt động tôn giáo):
13
- Tự do lựa chọn theo hay không theo một tôn giáo nhất định, không thể ép
buộc con người từ bỏ đức tin của mình hay buộc phải tôn thờ điều mà họ không có
đức tin. Do đó con người phải được tự do lựa chọn đức tin của mình, tự do lựa chọn
theo một tín ngưỡng, tôn giáo nhất định.
- Quyền tự do thể hiện, thực hành tín ngưỡng, tôn giáo dưới nhiều hình
thức: thờ cúng, cầu nguyện, hành lễ, giảng đạo, truyền bá đức tin; đào tạo, bổ
nhiệm những người đứng đầu phù hợp với quy định và tiêu chuẩn của tôn giáo
theo tín ngưỡng; thành lập và duy trì các cơ sở nhân đạo hoặc từ thiện thích hợp;
chế tạo, thu mua và sử dụng đồ vật cần thiết liên quan đến phong tục của một tôn
giáo hay tín ngưỡng; phát hành và phổ biến các ấn phẩm tôn giáo; được có ngày
nghỉ và kỷ niệm những ngày lễ và buổi lễ phù hợp với giáo luật tôn giáo hay tín
ngưỡng của mỗi người.
- Quyền thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo, việc theo hay không theo một tín
ngưỡng, tôn giáo nào là biểu hiện của sự tự nguyện, tự do lựa chọn theo hay không
theo hoặc từ bỏ một tôn giáo mà cá nhân họ đang theo.
Như vậy, Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo là một trong những quyền
cơ bản của con người, thuộc nhóm các quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật
của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo bao
gồm các quyền: được tự do tin theo hoặc không tin theo, được tự do thay đổi tôn
giáo; được thực hành, thờ phụng, rao giảng, hay tu tập một tôn giáo hay tín ngưỡng
(trong khuôn khổ quy định của pháp luật). Việc thực hành quyền Tự do tín
ngưỡng tôn giáo được luật pháp quy định và các giới hạn cần thiết để bảo vệ an
toàn, trật tự, sức khỏe xã hội, hay tinh thần hoặc các quyền cơ bản và quyền tự do
của những người khác.
1.1.2. Đặc điểm của quyền tự do tín ngƣỡng và tự do tôn giáo
- Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là một quyền con người cơ bản
thuộc nhóm các quyền dân sự, chính trị, gắn liền với nhân thân của mỗi cá nhân,
không thể chuyển giao, không thể chia cắt và không thể bị tước bỏ bởi bất cứ ai, và
bất kỳ thể chế chính trị nào.
14
- Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo được xác lập, thực hiện và phát
triển phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
trong xã hội. Vì vậy, nó luôn phản ánh bản chất của chế độ chính trị xã hội và trình
độ phát triển của xã hội.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng sự tồn tại và phát triển của một tôn giáo
phụ thuộc sự bành trướng của một thế lực chính trị có trong tay một tiềm lực kinh tế
nhất định. Hồi giáo ra đời ở bán đảo Ảrập vào đầu thế kỷ VII (SCN) gắn liền với sự
biến chuyển của xã hội công xã nguyên thủy sang chế độ xã hội có giai cấp, đòi hỏi
phải thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập thành một Nhà nước phong kiến. Phật
giáo ra đời trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại bắt nguồn từ những nguyên nhân chính trị
sâu xa, là trào lưu chống lại chế độ đẳng cấp và đạo Bà - la - môn. Kitô giáo ra đời là
phản ứng của quần chúng trước chính sách áp bức bóc lột của đế quốc La Mã.
- Những quy tắc về tôn giáo trọng quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo là
quy tắc đối nhân xử thế giữa con người với con người, giữa con người với thế
giới; quy tắc đề cao, cổ vũ tình yêu thương đồng loại, sự công bằng, bình đẳng, tự
do và nhân phẩm, là nền tảng của quyền con người. Do đó, việc bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tự do tôn giáo không chỉ là một vấn đề luật pháp mà còn là một vấn
đề về đạo đức. Tín ngưỡng tôn giáo có ảnh hưởng mạnh đến nhận thức cá nhân,
hiểu biết về thế giới quan của mỗi cá nhân. Niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên
nào đó, được coi là một nhân tố chủ đạo trong việc thể hiện bản sắc văn hóa của
mỗi người, đó là lý do vì sao tự do tôn giáo lại là một chủ đề nhạy cảm và có vẻ
như là một quyền khi đề cập đến bị gây nhiều khó khăn hơn so với những vấn đề
quyền con người khác.
- Quyền và tự do của cá nhân luôn gắn liền với quyền và lợi ích của cộng
đồng, của dân tộc; quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo cũng gắn liền với độc lập
dân tộc, chủ nghĩa xã hội, chủ quyền quốc gia, với an ninh và ổn định chính trị-xã
hội. Bởi vậy, quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo không thể thoát ly khỏi tính
đặc thù của điều kiện lịch sử, truyền thống văn hoá, hệ thống chính trị-xã hội của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là có thể viện dẫn những
15
truyền thống văn hóa đặc thù để biện luận cho những vi phạm hoặc để bảo vệ và duy
trì những tập tục có tính chất phân biệt, đối xử về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
- Quyền và tự do cơ bản của mỗi người luôn gắn liền với nghĩa vụ và trách
nhiệm của mỗi cá nhân. Việc thừa nhận sự tôn trọng và bảo đảm quyền là tự do cơ
bản của mỗi người không thể tách rời sự tôn trọng quyền và tự do của người khác
cũng như quyền của tập thể và cộng đồng, rộng ra nữa là của dân tộc, quốc gia và
cộng đồng nhân loại. Sẽ chỉ là ảo tưởng, mơ hồ và sai lầm về nhận thức luận và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn nếu quyền con người tách biệt khỏi nghĩa vụ và trách nhiệm
của mỗi người với tư cách là thành viên của xã hội và cộng đồng nhân loại. Quyền
tự do tín ngưỡng và tôn giáo hoàn toàn không phải là trường hợp ngoại lệ. Quyền tự
do tín ngưỡng và tôn giáo bản thân nó đã hàm chứa nghĩa vụ và trách nhiệm của
người theo cũng như không theo, có cũng như không có, tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhưng thực tế vẫn có không ít người có đạo chưa nhận thức đầy đủ về mối quan hệ
khăng khít giữa quyền và nghĩa vụ của công dân dẫn đến hậu quả là trong khi thực
hiện Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của mình mà đã làm ảnh hưởng đến lợi
ích chung xã hội, hay không làm tròn nghĩa vụ của một công dân.
- Xét về vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước đóng vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo ở 3 cấp độ: tôn
trọng quyền, bảo vệ và thực hiện quyền. Theo đó đòi hỏi Nhà nước phải kiềm chế
không can thiệp, kể cả trực tiếp và gián tiếp vào việc hưởng thụ quyền tự do tín
ngưỡng và tự do tôn giáo đã được ghi nhận trong pháp luật; ngăn chặn sự vi phạm
quyền từ bên thứ ba bằng cách đưa ra biện pháp và xây dựng những cơ chế phòng
ngừa, xử lý những hành vi vi phạm. Đồng thời, để thực hiện được quyền tự do tín
ngưỡng và tự do tôn giáo được tốt, Nhà nước phải có những kế hoạch, chương trình,
chính sách, luật cụ thể để bảo đảm cho mọi công dân, mọi người có tín ngưỡng, tôn
giáo có thể hưởng thu quyền đến mức cao nhất.
- Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng không phải là quyền tuyệt đối,
theo khoản 2 Điều 18 Công ước ICCPR, quyền này cũng có thể bị giới hạn và
những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe
16
hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác.
Những giới hạn này chỉ được xem là căn cứ để phân biệt những hoạt động lợi dụng
tôn giáo hay truyền bá những niềm tin đi ngược đạo đức, luân lý (tà giáo). Nhà
nước được quyền dùng những biện pháp cần thiết để trấn áp những hành vi phi tôn
giáo đó. Những giới hạn này chỉ được hình thành và áp dụng trên cơ sở luật pháp.
1.1.3. Một số nguyên tắc bảo đảm Quyền tự do tín ngƣỡng và tự do tôn giáo
1.1.3.1. Quyền tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo là quyền con người cơ bản
Mọi cá nhân đều được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo mà
không phải chịu bất kỳ sự ép buộc hay áp bức nào. Quyền tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo dành cho mọi người song những người thuộc các nhóm thiểu số, phụ
nữ, trẻ em, người tàn tật, những người bị giam giữ hay những người tị nạn cần
được quan tâm và bảo vệ đặc biệt. Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo thể
hiện ở quyền tự do lựa chọn; giữ gìn, thay đổi tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện tín
ngưỡng bằng những cách thức hợp lý.
1.1.3.2. Không phân biệt đối xử về tín ngưỡng và tôn giáo
Tất cả các hình thức kỳ thị và phân biệt đối xử về tự do tín ngưỡng, tự do
tôn giáo phải bị phản đối. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử thể hiện ở bất kỳ hình
thức nào, ngăn cản, hạn chế hay thành kiến về tôn giáo hoặc tín ngưỡng, nhằm
loại bỏ hay làm tổn hại đến việc công nhận và thực hiện quyền đó trên cơ sở
công bằng. Cộng đồng quốc tế thừa nhận rằng, cần ủng hộ sự hiểu biết, khoan
dung và sự tôn trọng tôn giáo khi giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền
tự do tín ngưỡng. Bất kỳ một quốc gia, một thể chế, tổ chức hay cá nhân khác vì
lý do tín ngưỡng. Tất cả các quốc gia cần phải áp dụng những biện pháp ngăn
chặn và loại bỏ sự phân biệt đối xử về tín ngưỡng trong nước mình.
1.1.3.3. Tự do tín ngưỡng và tự do tôn giáo phải được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ
Tất cả các quốc gia có chủ quyền cần phải thực thi và bảo vệ quyền tự do
tín ngưỡng, tự do tôn giáo thông qua các biện pháp lập pháp và các biện pháp
17
khác. Việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo không được vi phạm
pháp luật và làm tổn hại tới lợi ích công cộng, các quyền và tự do cơ bản của
những người khác.
Chính phủ của các quốc gia cần phải ban hành hay hủy bỏ các luật và áp
dụng những biện pháp nhằm bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo và
ngăn cấm bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.
Trong khi thể hiện quyền tự do tín ngưỡng của mình, mọi cá nhân phải tuân thủ
những quy định của pháp luật, nhằm mục đích giữ gìn an ninh, trật tự công cộng,
đạo đức xã hội hoặc tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của những người khác.
Trên phương diện quốc gia, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo từ lâu đã là
một quyền hiến định trong Hiến pháp nhiều nước trên thế giới. Theo nghiên cứu
của Dự án Hiến pháp so sánh (Comparative Constitution Project - CCP), cho
thấy sự hiện diện của tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo trong Hiến pháp các nước
trên thế giới luôn đạt ở tỉ lệ cao. Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo luôn
được coi là quyền cơ bản và được các quốc gia trên thế giới quan tâm rất sớm.
Trước bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948, đã có trên
nửa số quốc gia trên thế giới ghi nhận, con số này tăng mạnh đến những năm
2000. Theo nghiên cứu của tổ chức CCP, ở thời điểm năm 2000 đã có khoảng
80% Hiến pháp thành văn đã được thông qua trên thế giới.
1.1.3.4. Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác
Không được sử dụng tôn giáo như một công cụ để can thiệp vào công việc
nội bộ của các quốc gia khác là một nguyên tắc tối quan trọng trong quan hệ
quốc tế. Nguyên tắc này phản đối việc xúi giục sự thù địch giữa các dân tộc, giữa
các quốc gia hay can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác với lý do có
sự kỳ thị về tín ngưỡng, tôn giáo. Cộng đồng quốc tế cần phải tôn trọng và xem
xét toàn bộ việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo ở mỗi quốc gia
trên cùng một tiêu chuẩn, với một thái độ khách quan, bình đẳng, công bằng.
18
1.2. TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM BẢO ĐẢM QUYỀN
TỰ DO TÍN NGƯỠNG VÀ TỰ DO TÔN GIÁO TRONG PHÁP LUẬT CỦA
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1.2.1. Tiêu chuẩn quốc tế
Cuộc đấu tranh cho tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo diễn ra liên tục trong
nhiều thế kỷ, đã dẫn đến có vô số các cuộc xung đột bi thảm. Thế kỷ XX đã chứng
kiến sự hệ thống hóa các giá trị phổ biến liên quan đến tự do tôn giáo và tín ngưỡng,
mặc dù cuộc đấu tranh đã không giảm bớt. Liên Hiệp Quốc công nhận tầm quan
trọng của tự do tôn giáo và tín ngưỡng trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người năm 1948. Theo Điều này, mọi người đều có quyền tự do chính kiến, niềm
tin, tín ngưỡng và tôn giáo, kể cả tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình,
và tự do bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền
giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ, dưới hình thức cá nhân hay tập
thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư [28].
Cụ thể hóa Điều 18 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền, Điều 18 Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (công ước CCPR) cũng
khẳng định: Mọi người đều có quyền tự do chính kiến, niềm tin, tự do tín ngưỡng và
tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do
mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng
đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng,
cầu nguyên, thực hành và truyền giảng.
1.2.1.1. Không phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo: được khẳng định ngay
trong Điều 2 khoản 1 của công ước ICCPR, các quốc gia thành viên công ước cam
kết tôn trọng và bảo đảm cho mọi người trong phạm vi lãnh thổ và thẩm quyền tài
phán của mình các quyền đã được công nhận trong công ước này, không có bất kỳ
sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm
chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần
xuất thân hoặc địa vị khác.
Trong thời gian có tình trạng khẩn cấp xảy ra đe dọa sự sống còn của quốc
19
gia và đã được chính thức công bố, các quốc gia thành viên có thể áp dụng những
biện pháp hạn chế các quyền nêu ra trong Công ước ICCPR, với điều kiện các biện
pháp này không trái với những nghĩa vụ khác của quốc gia đó xuất phát từ pháp luật
quốc tế và không chứa đựng bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da,
giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội.
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ
một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu
da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị, …
Điều 2 khoản 2 công ước ICESCR cũng ghi nhận rằng: Các quốc gia thành
viên cam kết bảo đảm các quyền được nêu trong công ước ICESCR sẽ được thực
hiện không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn
ngữ, tôn giáo
Để giải thích cho nội dung này, Bình luận chung số 22 được thông qua lần
thứ 48 năm 1993 của cơ quan nhân quyền, giải thích rằng: việc một tôn giáo
được xác định là quốc giáo, là tôn giáo chính thức hay truyền thống, hoặc có số
lượng tín đồ chiếm đa số trong xã hội không được sử dụng để làm ảnh hưởng đến
việc thực hiện các quyền tự do quy định ở các Điều 18 và 27 ICCPR, cũng như
không được tạo ra sự phân biệt đối xử với tín đồ của các tôn giáo khác, hoặc với
những người không theo tôn giáo nào. Những hình thức phân biệt đối xử với tín
đồ của các tôn giáo khác, hay với những người không theo tôn giáo trong bối
cảnh này, ví dụ, việc quy định chỉ những tín đồ thuộc tôn giáo chiếm ưu thế mới
được tham gia chính quyền hay dành những ưu đãi về kinh tế cho họ, đều trái với
các quy định về quyền bình đẳng nêu ở Điều 26 ICCPR [33, 297].
Điều 5 trong Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc
năm 1965 đã bao gồm một danh sách các quyền các nước thành viên cam kết bảo
đảm mà không phân biệt, trong đó có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo.
Công ước UNESCO chống phân biệt đối xử trong giáo dục (1960) cũng cấm
phân biệt đối xử dựa trên cơ sở tôn giáo, chính trị hay các quan điểm khác (Điều 1,
đoạn 1). Hơn nữa Điều 5 (1) (b) đề cập đến giáo dục tôn giáo, đạo đức cho rằng các
20
phụ huynh có quyền tự do để bảo đảm rằng giáo dục đạo đức phải phù hợp với ý
nguyện riêng của họ, ngoài ra điều này còn cho thấy không ai bị buộc phải tiếp thu
các kiến thức về tôn giáo không phù hợp với niềm tin của họ.
Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội diệt chủng 1948 quy định: Quốc
gia thành viên cam kết sẽ cấm và xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc đối với mọi hình
thức và đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người, không phân
biệt chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hay sắc tộc, trong đó có quyền tự do tư
tưởng, dự do tín ngưỡng và tôn giáo.
Liên quan đến phân biệt đối xử trong lao động và nghề nghiệp, Điều 1 khoản
1 Công ước số 111 của ILO năm 1958 quy định: Mọi sự phân biệt, bài trừ hoặc ưu
đãi dựa trên chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị, nguồn gốc
dân tộc hoặc xuất thân xã hội, có tác động vô hiệu hóa hoặc làm phương hại sự bình
đẳng về cơ may hoặc về đối xử trong việc làm hoặc nghề nghiệp.
1.2.1.2. Tự do theo hay không theo một tôn giáo nhất định
Theo Bình luận chung số 22, quyền tự do chính kiến, niềm tin, lương tâm và
tôn giáo có tính bao quát và sâu sắc. Nó bao gồm quyền tự do suy nghĩ về tất cả
các vấn đề, tự do tin tưởng và giữ niềm tin vào các tôn giáo hay tín ngưỡng, cả
trên phương diện cá nhân hay tập thể. Các quyền tự do này phải được tôn trọng
và không thể bị hạn chế hay tước bỏ trong mọi hoàn cảnh, kể cả trong tình trạng
khẩn cấp của quốc gia như nêu ở Điều 4 của ICCPR [33, 294].
Các khái niệm "tín ngưỡng" (belief) và "tôn giáo" (religion) trong Điều 18
ICCPR cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả những lòng tin hữu thần và
vô thần. Điều này không chỉ được áp dụng với các tôn giáo, tín ngưỡng có tính
thể chế mà còn với những tập tục truyền thống mang tính tôn giáo [33, 294].
Quyền tin hoặc theo một tôn giáo hay tín ngưỡng bao gồm quyền tự do lựa
chọn một tôn giáo hay tín ngưỡng để tin hoặc theo, kể cả việc thay đổi niềm tin
từ tôn giáo, tín ngưỡng này sang tôn giáo, tín ngưỡng khác, hay thay đổi niềm tin
từ vô thần sang hữu thần và từ hữu thần sang vô thần. Khoản 2 Điều 18 cấm
cưỡng ép tin, theo, bỏ hay thay đổi tôn giáo, tín ngưỡng, kể cả bằng những chính