Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Vấn đề xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc sau 30 năm cải cách, mở cửa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.61 KB, 61 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sau 30 năm Trung Quốc tiến hành cải cách, mở cửa theo tư duy
“phát triển nghiêng lệch” do Đặng Tiểu Bình đề ra, cho phép một bộ phận
dân chúng , một bộ phận khu vực giàu lên trước rồi tiến tới thực hiện cùng
giàu có, phát triển bằng mọi giá, “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” đã
làm cho Trung Quốc phát triển một cách nhanh chóng và đạt được nhiều
thành tựu trên các lĩnh vực. Song, tư duy phát triển này cũng để lại không ít
vấn đề cho thế hệ lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc do Hồ Cẩm Đào
đứng đầu như: chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các
vùng miền, giữa các tầng lớp cư dân trong xã hội; tình trạng ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng; vấn đề dân sinh trở thành điểm nóng; yêu cầu của
người dân về dân chủ trong xã hội ngày càng cao; trong xã hội tồn tại nhiều
hiện tượng hủ bại, tiêu cực và các hoạt động phạm tội, gây ra những ảnh
hưởng xấu đến sự ổn định của xã hội.
Nhằm giải quyết những vấn đề nêu trên, tập thể lãnh đạo thứ tư của
Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào
đứng đầu, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung
Quốc (tháng 9 năm 2004), lần đầu tiên đưa ra khái niệm “xây dựng xã hội
hài hòa xã hội chủ nghĩa”, tiếp đến Hội nghị Trung ương 6 khóa XVI của
Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 10 năm 2006) đã tập trung bàn về
vấn đề xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa và thông qua “Nghị
quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về một số vấn đề
quan trọng xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa”. Xây dựng xã hội
hài hòa xã hội chủ nghĩa được coi là một trong những sáng tạo về lí luận
của Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào sau khi trở thành người lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Trung Quốc.
1
Trung Quốc coi vấn đề xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ chiến lược nhằm xây dựng một xã hội công bằng và văn minh,
đồng thời đảm bảo cho sự phát triển xã hội và kinh tế bền vững ở nước này.


Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương đặt
mục tiêu xây dựng một xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa vào “vị trí nổi bật”
trong chương trình nghị sự, tiếp tục coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm. Đây là lần đầu tiên Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh các vấn đề
phát triển xã hội hơn là các vấn đề phát triển chính trị và kinh tế. Dưới sự
dẫn dắt của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, học thuyết
Đặng Tiểu Bình, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa phản ánh yêu
cầu hiện đại hóa và nguyện vọng chung của nhân dân Trung Quốc.
Hơn nữa, bước vào thế kỉ XXI, hòa bình và phát triển vẫn đang là xu
thế và chủ đề chính của thời đại. Tuy nhiên, tình hình quốc tế vẫn đang
trong quá trình biến đổi phức tạp và sâu sắc, những nhân tố ảnh hưởng đến
hòa bình và phát triển gia tăng. Các nước trên thế giới (trong đó có Trung
Quốc), nhất là những nước đang phát triển phải đối mặt với những thách
thức, rủi ro và áp lực nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, thông
tin…do cục diện mất cân bằng. Vấn đề xây dựng xã hội hài hòa được đặt ra
cấp thiết.
Đây là vấn đề có biên độ rộng, nhiều tầng ý nghĩa. Trong khuôn khổ
một Luận văn, em đi sâu vào phân tích những cở sở dẫn đến sự hình thành
và quá trình triển khai lí luận xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung
Quốc, phân tích những đặc trưng cơ bản, mục tiêu, nguyên tắc, giải pháp
của Trung Quốc trong quá trình này. Đồng thời em căn cứ vào mục tiêu
xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa mà Trung Quốc đã đề ra để đưa
ra những nhận định về thành tựu cũng như tồn tại ban đầu mà Trung Quốc
đã và chưa đạt được.
2
Với tinh thần nghiên cứu khoa học nghiêm túc, Luận văn sẽ góp
phần nhỏ vào việc tìm hiểu vấn đề quan trọng trong nghiên cứu Trung
Quốc đương đại. Đó là “Vấn đề xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung
Quốc sau 30 năm cải cách, mở cửa”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Tháng 9 năm 2004, ý tưởng xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ
nghĩa được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đưa ra lần đầu tiên tại
Hội nghị Trung ương 4 khóa XVI ngay lập tức đã nhận được sự hưởng ứng
mạnh mẽ của các giới trong xã hội Trung Quốc. Từ đó đến nay, vấn đề này đã
được nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến ở những mức độ khác nhau và
những quan điểm không giống nhau. Đây là những cơ sở cần thiết, tạo điều
kiện thuận lợi giúp em hoàn thành Luận văn của mình theo mục đích, yêu cầu
đặt ra.
Có thể kể đến một số công trình như:
• Trần Lê Bảo: “Từ chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn
đến tư tưởng xã hội hài hòa của Hồ Cẩm Đào”, Tạp chí nghiên cứu
Trung Quốc, Số 7, 2007”.
• Nguyễn Văn Hồng: “Văn hóa Nho giáo về xã hội hài hòa
với thời đại mở cửa phát triển và kinh tế thị trường Trung Quốc”,
Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 6, 2007.
• Đỗ Tiến Sâm: “Trung Quốc với việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2008.
• Đỗ Tiến Sâm: “Trung Quốc 2006- 2007”, Nhà xuất bản
Khoa học, Hà Nội, 2007.
• Đỗ Tiến Sâm: “Trung Quốc 2007- 2008”, Nhà xuất bản
Khoa học, Hà Nội, 2008.
3
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề xây dựng xã hội hài hòa
xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc sau 30 năm cải cách, mở cửa.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn bước đầu tìm hiểu cội nguồn tư tưởng, cở sở thực
tiễn của vấn đề xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa; chủ trương, chính sách xây

dựng xã hội hài hòa của Đảng và Chính phủ Trung Quốc. Ngoài ra, em xin
đưa ra đánh giá về một vài nét xung quanh thành tựu và hạn chế của việc
thực hiện chương trình này của Trung Quốc.
3.3. Phạm vi
Không gian: Trung Quốc – một nước lớn ở Châu Á và thế giới
với diện tích khoảng 9,6 triệu km2, 23 tỉnh, 5 khu tự trị và 4 thành phố trực
thuộc Trung ương.
Thời gian: Từ sau cải cách, mở cửa đến nay (2008).
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu của nội dung, Luận văn sử dụng các phương
pháp như: phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích
– tổng hợp…
5. Kết cấu khóa luận
A. Mở đầu
B. Nội dung: Gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở xây dựng và mục tiêu, nhiệm vụ của xã hội hài hòa
xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc.
1.1. Cơ sở của xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc.
1.1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1.1. Tư tưởng Nho gia, Đạo gia, Tôn Trung Sơn.
1.1.1.2. Tư tưởng hài hòa trong Chủ nghĩa Mác.
1.1.2. Cơ sơ thực tiễn.
4
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa
ở Trung Quốc.
Chương 2. Chủ trương, chính sách xây dựng xã hội hài hòa
xã hội chủ nghĩa của Đảng và Chính phủ Trung Quốc.
2.1. Phát triển kinh tế nhịp nhàng.
2.2. Thúc đẩy xây dựng xã hội hài hòa.
2.3. Hoàn thiện chế độ Pháp luật đảm bảo công bằng chính nghĩa.

2.4. Xây dựng văn hóa hài hòa.
Chương 3. Đánh giá bước đầu về việc xây dựng xã hội hài hòa
xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc.
3.1. Một số thành tựu và hạn chế về lí luận.
3.1.1. Thành tựu về kế thừa và bổ sung lí luận.
3.1.2. Hạn chế về lí luận.
3.2. Một số thành tựu và hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn.
3.2.1. Thành tựu.
3.2.2. Hạn chế.
5
B. nI DUNG
Chơng 1:
cơ sở xây dựng và mục tiêu, nhiệm vụ của
xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở trung quốc
1.1. C s xõy dng xó hi hi hũa xó hi ch ngha Trung Quc
1.1.1. C s lớ lun
T tng hi hũa ca Nho gia, o gia, Tụn Trung Sn.
Nho gia
Nho giỏo l sn phm v l dũng chớnh ca vn húa Trung Quc.
Hũa l phm trự quan trng trong t tng ca Nho gia. V mt ch m
núi thỡ Hũa chớnh l Hi, Hi chớnh l Hũa. Hai ch ny u ch s
nhp nhng hũa phỏch trong õm nhc. Hay núi cỏch khỏc, hũa nhi bt
ng, trung hũa, d hũa vi quý, quõn t hũa nhi bt ng, tiu nhõn
ng nhi bt hũa (Khng T) [14, tr 436] u l nhng din t c th ca
Hũa. Trc ht, Nho gia ch trng nhõn tõm hi hũa, cho rng ngi cú
o c l ch tn ti cn bn cho mt xó hi n nh v hi hũa. Ngoi ra,
Nho gia cũn coi nhõn ỏi l nguyờn tc c bn. Khụng ch cú vy, Nho gia
cũn ch trng thiờn nhõn hp nht, theo ui s hũa hp gia con ngi
vi t nhiờn.
o gia

Ging nh Nho gia, phỏi o gia trc ht cng ch trng hi hũa
v hp nht gia th xỏc v tinh thn, nhng o gia li cao quy lut
ca t nhiờn v v tr, hy vng con ngi b i nhng gi di quay li
nhng iu chõn thc, hon ton tr li vi t nhiờn. Lóo T cho rng, bn
thõn tri t v vn vt chớnh l s hi hũa, ngha l trong muụn vt, khụng
6
vật nào mà không cõng Âm và bồng Dương [16, tr 29]. Là đại diện của
phái Đạo gia, Lão Tử đã từng đưa ra tư tưởng “vô vi” : giữa người với
người phải thành thực giữ chữ tín, con người chung sống hài hòa với tự
nhiên, tuân theo quy luật vận hành của tự nhiên. Mối quan hệ hài hòa trong
tư tưởng của Đạo gia sâu sắc ở phương diện hài hòa giữa con người với tự
nhiên, phù hợp với việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ngày
nay, xử lí tốt mối quan hệ giữa con người với tự nhiên để làm sao giảm tới
mức thấp nhất sự trả thù của tự nhiên đối với nhân loại.
Tôn Trung Sơn
Trong lịch sử cận đại Trung Quốc chúng ta phải kể đến tư tưởng
theo đuổi xã hội hài hòa của Tôn Trung Sơn. Ông là nhà cách mạng dân
chủ, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng dân tộc và tư tưởng tự do,
bình đẳng, bác ái. Nhìn chung, tư tưởng của Tôn Trung Sơn về giải quyết
ba vấn đề dân tộc, dân quyền, dân sinh là những vấn đề bức thiết nhất của
thời đại. Trong đó, chủ nghĩa Tam dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối
với quá trình cách mạng của Trung Quốc [6, tr 70]. Tôn Trung Sơn nói: “ Ý
nghĩa của chủ nghĩa Tam dân chính là dân có, dân trị, dân hưởng, chính là
thế giới đại đồng mà Khổng Tử hi vọng”. Điều đó làm cho học thuyết Tam
dân của Tôn Trung Sơn gần gũi hơn đối với nhân dân Trung Quốc.
 Tư tưởng hài hòa trong chủ nghĩa Mác
Qua những phân tích trên có thể thấy rằng, tư tưởng về sự hài hòa và
xã hội hài hòa trong các dòng tư tưởng truyền thống của Trung Quốc rất
phong phú. Vậy, lí luận trong chủ nghĩa Mác có liên hệ gì với tư tưởng xã
hội hài hòa ngày nay của Đảng Cộng sản Trung Quốc?

C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã
thể hiện mong muốn xây dựng một mô hình xã hội hài hòa tương lai như
một thể liên hợp tự do của tất cả mọi người. Hai ông đã chỉ ra một cách sâu
sắc căn nguyên của sự không hài hòa, bất bình đẳng xã hội của chủ nghĩa
7
tư bản chính là ở mâu thuẫn giữa xã hội hóa sản xuất và chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất. C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, nhân loại chỉ có bước
vào chủ nghĩa xã hội cộng sản thì mới thực hiện xã hội hài hòa một cách
thực sự. Tuy C.Mác và Ph.Ăngghen không thể đề ra nhiệm vụ hay một đáp
án tiêu chuẩn cho việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa của Trung
Quốc ngày nay, song những luận điểm khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen
về xã hội tương lai là cơ sở lí luận cho việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội
chủ nghĩa ở Trung Quốc. Tư tưởng hài hòa xã hội trong chủ nghĩa Mác thể
hiện ở mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên, con người với
xã hội và con người với con người. Điều đó trở thành những gợi ý cho
Trung Quốc để xây dựng xã hội hài hòa. Một là, xây dựng xã hội hài hòa,
Trung Quốc cần phải đẩy mạnh sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên,
đi theo con đường lấy phát triển bền vững làm trung tâm, coi khoa học kĩ
thuật, kinh tế - xã hội, tài nguyên và môi trường là hệ thống tổng hợp với
con người làm trung tâm không thể phân tách. Hai là, Trung Quốc cần phải
cải thiện thể chế quản lí xã hội, nâng cao năng lực lãnh đạo của Chính phủ.
Ba là, làm nhịp nhàng phân phối lợi ích của nhân dân, tạo ra môi trường
phát triển cân bằng. Điều này có nghĩa là, kinh tế thị trường là con đường
phát triển tất yếu ở Trung Quốc, trong quá trình phát triển đó không thể
tránh khỏi nảy sinh những mâu thuẫn, giải quyết tốt những mâu thuẫn này
không chỉ không ngừng phát triển sức sản xuất mà còn xây dựng xã hội hài
hòa xã hội chủ nghĩa theo phương hướng cùng giàu có.
Như vậy, kế thừa tư tưởng về sự hài hòa và xã hội hài hòa trong các
dòng tư tưởng truyền thống đồng thời tìm ra mối liên hệ và những gợi ý từ
Chủ nghĩa Mác, Trung Quốc có thể xây dựng cơ sở lí luận cho việc xây

dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa.
8
1.1.2. Cơ sở thực tiễn.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển và hoàn thiện của
nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, với tốc độ phát triển nhanh chóng
của tiến trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, sự thay đổi của các hình thức tổ
chức xã hội, kết cấu xã hội và cơ cấu việc làm, sự phát triển kinh tế - xã hội
Trung Quốc xuất hiện những đặc điểm mới, xu thế mới cần được nhận thức
và giải quyết đúng đắn. Sau 30 năm cải cách, mở cửa, mặc dù Trung Quốc
đã hóa giải được nhiều mâu thuẫn và nhiều vấn đề do lịch sử để lại, nhưng
xã hội Trung Quốc lại nảy sinh nhiều mâu thuẫn và vấn đề xã hội mới cần
giải quyết.
 Phân hóa xã hội và bất bình đẳng gay gắt.
Theo báo cáo điều tra của Sở Kinh tế, Viện Khoa học xã hội Trung
Quốc, chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn Trung Quốc đứng
đầu thế giới, xu thế phân hóa của cải xã hội trở thành một vấn đề quan
trọng. Có thể dẫn một ví dụ, tất cả những đứa trẻ mới nhập cư đều học ở
các trường tỉnh, nơi cha mẹ chúng được cấp giấy phép cư trú. Nhưng đến
thăm một trường Tiểu học hoặc một trường Cao học ở Bắc Kinh, người ta
sẽ dễ dàng nhận thấy, không có bất kì học sinh mới nhập cư nào ngồi vào
đây. Trung Quốc có hệ thống đăng kí trường học nhưng vẫn rất khắt khe
với trẻ em nông thôn muốn đến học ở các trường thành phố.
Hệ thống giáo dục của Trung Quốc thể hiện rõ sự bất bình đẳng gay
gắt. Con em nông thôn bị bỏ lại phía sau trong giáo dục đào tạo sau phổ
thông, do đó mà bị hạn chế con đường tiến thân trong một xã hội phát triển
như vũ bão. Hai trường Đại học hàng đầu của Trung Quốc là Thanh Hoa và
Bắc Kinh, mỗi trường có 3 vạn sinh viên, chủ yếu là con em dân thành thị.
Do chi phí học hành và điều kiện tiếp cận kiến thức, kĩ năng để vào đại học
hạn chế, năm 1999, sinh viên Đại học Bắc Kinh chỉ có 16,3 % sinh viên
9

đến từ nông thôn. Năm 2000, Đại học Thanh Hoa chỉ có 17,6 % sinh viên
đến từ nông thôn.
Theo một bài báo đăng ngày 26/6/2009, một thành viên của Bộ
Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc nêu một vài con số chính thức về sự
phân hóa giàu –nghèo : 70 % tài sản tại Trung Quốc tập trung trong tay 0,4
% dân số. Nói cách khác, 99,6 % tổng dân số Trung Quốc chỉ hưởng có 30
% của cải của nước họ; cách biệt thu nhập ở các thành thị cao hơn nông
thôn gấp 6 lần; gần 30 % số hộ nông thôn không đủ ăn, thu nhập trung bình
dưới 1 USD/ ngày.
Trung Quốc đã bước vào giai đoạn “lấy công nghiệp thúc đẩy nông
nghiệp, lấy thành thị lôi kéo nông thôn”, việc xây dựng quan hệ bình đẳng
giữa thành thị và nông thôn trở thành thách thức lớn.
 Bất mãn xã hội ngày càng gia tăng.
Năm 1993, có 8.700 vụ biểu tình và nổi loạn của nông dân. Năm
1999 có 32.000 vụ, năm 2003 có 58.000 vụ, năm 2004 có 74.000 vụ và
năm 2005 có 87.000 vụ. Theo một số liệu của Bộ Công an Trung Quốc,
số lượng các cuộc biểu tình nổi loạn đã tăng 10 lần trong thời gian 10
năm qua.
 Ô nhiễm trở thành một vấn đề lớn.
Những ngôi “làng ung thư” gặp ở khắp nơi, trở thành một vấn đề an
ninh khi “bạo động xanh” nổ ra để xả bớt sự uất ức của người dân khi môi
trường sống của họ bị hủy hoại.
 Tham nhũng và lạm quyền là một cặp bài trùng.
Vấn đề nhận hối lộ của nước ngoài là hiện tượng ngày càng phổ
biến ở Trung Quốc. Việc các công ty đa quốc gia làm ăn tại Trung Quốc lợi
dụng các phương thức như trả tiền tư vấn, du lịch nước ngoài, hay giúp đỡ
con cái quan chức sở tại đi du học … nhằm xây dựng mạng lưới quan hệ
trong kinh doanh không còn là chuyện hiếm. Rất nhiều công ty đa quốc gia,
10
gồm cả những công ty có chi nhánh tại Hông Kông đều tự nguyện trả tiền

lương cao một cách khác thường cốt sao có thể chiêu mộ được các nhân vật
có quan hệ với các giới quyền lực, để mở đường làm ăn hay kiếm chiếc ô
bảo vệ sự nghiệp kinh doanh tại Đại lục.
Tất cả các vấn đề nói trên cấu thành những mâu thuẫn xã hội và rất
dễ bùng phát thiêu hủy mọi thành quả do quá trình cải cách, mở của mang
lại. Từ thực tiễn đó, kế thừa, bổ sung đường lối chiến lược phát triển của
Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân, tập thể lãnh đạo thứ tư, đứng đầu là
Hồ Cẩm Đào đề ra chiến lược phát triển toàn diện, đồng đều, bền vững,
trong đó đề cập đến tính tổng thể phát triển cân bằng giữa các vùng miền,
giữa thành thị và nông thôn, giữa kinh tế với xã hội, giữa con người với
thiên nhiên, giữa trong nước và ngoài nước. Có thể nói rằng, từ nhận thức
này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra việc xây dựng xã hội hài hòa xã
hội chủ nghĩa. Đây được coi là sáng tạo mới về lí luận dựa trên yêu cầu đòi
hỏi của thực tiễn.
1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở
Trung Quốc.
Để xây dựng được xã hội hài hòa, Nghị quyết Trung ương 6 khóa
XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra 9 yêu cầu mục tiêu và nhiệm vụ
đối với việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa.
Một là, pháp chế dân chủ xã hội chủ nghĩa được hoàn thiện hơn nữa,
phương châm sách lược cơ bản quản lí đất nước theo pháp luật được thực
hiện một cách toàn diện, quyền lợi của nhân dân được thực sự tôn trọng và
được bảo vệ.
Hai là, tình trạng mở rộng khoảng cách chênh lệch phát triển giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền từng bước được thay đổi; cục
diện phân phối thu nhập hợp lí có trật tự cơ bản hình thành; tài sản của gia
đình tăng lên, nhân dân có cuộc sống đầy đủ, sung túc hơn.
11
Ba là, xã hội có đủ việc làm, hệ thống an sinh xã hội bao phủ lên cả
người dân thành thị lẫn nông thôn được cơ bản xây dựng.

Bốn là, hệ thống dịch vụ công cơ bản hoàn thiện hơn, trình độ quản
lí và phục vụ của chính phủ được nâng cao một cách mạnh mẽ.
Năm là, tố chất tư tưởng đạo đức, văn hóa, khoa học kĩ thuật và
sức khỏe của toàn dân tộc được nâng cao một cách rõ rệt, tác phong đạo
đức tốt, quan hệ giữa con người với con người hài hòa dần được định hình
rõ hơn.
Sáu là, sức sáng tạo trong toàn xã hội được nâng cao rõ rệt, cơ bản
trở thành một quốc gia theo mô hình sáng tạo.
Bảy là, hệ thống quản lí xã hội được hoàn thiện hơn nữa, có trật tự xã
hội tốt.
Tám là, hiệu quả sử dụng tài nguyên được nâng cao rõ rệt, môi
trường sinh thái thực sự có chuyển biến tốt.
Chín là, thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội khá giả ở mức cao hơn
nữa, cố gắng hình thành cục diện mà toàn thể nhân dân đều có thể phát huy
hết khả năng của mình, thu được những gì mà mình cần có và đồng thời
cùng chung sống hòa bình.
Đồng thời, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI cũng yêu cầu việc
xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa phải tuân theo 6 nguyên tắc, đó là
: lấy con người làm gốc, kiên trì sự phát triển khoa học, kiên trì cải cách
mở cửa, kiên trì pháp trị dân chủ, kiên trì giải quyết đúng đắn mối quan hệ
giữa cải cách, phát triển và ổn định, kiên trì toàn xã hội cùng xây dựng
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Qua phân tích về bối cảnh kinh tế - xã hội Trung Quốc, bối cảnh thế
giới ảnh hưởng đến sự phát triển của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay,
mục tiêu và nhiệm vụ của việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa
trên đây có thể thấy là Hội nghị Trung ương khóa XVI Đảng Cộng sản
12
Trung Quốc đưa ra việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa đánh dấu
cho một giai đoạn mới trong tiến trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc, đó
là nhằm giải quyết các vấn đề bất cân bằng sau 30 năm cải cách, mở cửa:

Thứ nhất, điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế hướng tới nhịp
nhàng, cân bằng giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền, giữa
tăng trưởng kinh tế với môi trường.
Thứ hai, vừa phát triển kinh tế vừa chú trọng đến công bằng trong xã
hội, đến phân phối lợi ích cho mọi tầng lớp trong xã hội để mọi người dân
đều được hưởng thành quả của cải cách, mở cửa. Trong đó đặc biệt chú
trọng đến các tầng lớp yếu thế.
Thứ ba, để thực hiện được những điều nêu ở trên Trung Quốc cần
phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm sự công bằng chính
nghĩa, khẳng định giá trị đạo đức tư tưởng.
Tóm lại, từ những phân tích trên, chúng ta có thể thấy, các nhà lãnh
đạo Trung Quốc đã rất khéo léo trong việc kế thừa, phát huy có chọn lọc tư
tưởng truyền thống, đồng thời kết hợp những nguyên lí cơ bản của Chủ
nghĩa Mác với thực tiễn cụ thể của quá trình cải cách, mở cửa, xây dựng
chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, hướng tới xây dựng một mô hình xã
hội lí tưởng – xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa.
13
CHƯƠNG 2 :
CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH
XÂY DỰNG XÃ HỘI HÀI HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ TRUNG QUỐC
2.1. Phát triển kinh tế nhịp nhàng
Trải qua 3 thập kỉ cải cách, mở của với tư duy “phát triền nghiêng
lệch” do Đặng Tiểu Bình đề ra đã làm cho Trung Quốc phát triển một cách
nhanh chóng và đạt được rất nhiều thành tựu. Nhưng đằng sau sự tăng
trưởng phát triển một cách nhanh chóng đó của Trung Quốc cũng còn
những mặt hạn chế không dề gì giải quyết, trong đó nổi lên sự chênh lệch
phát triển giữa các vùng miền, giữa thành thị và nông thôn, bất cân bằng
trong phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề dân số đông đồng nghĩa với nhu
cầu lượng tiêu dùng lớn, mâu thuẫn với nguồn tài nguyên môi trường có

hạn …. Những vấn đề này đã trở thành áp lực đối với Đảng và Chính phủ
Trung Quốc. Điều đó đòi hỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc phải thay đổi tư
duy, điều chỉnh chiến lược phát triển từ nghiêng lệch sang nhịp nhàng,
bền vững.
2.1.1. Xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, thúc
đẩy phát triển nhịp nhàng cân đối giữa thành thị và nông
thôn.
Sau khi Trung Quốc thực hiện cải cách, mở cửa, vấn đề Tam nông
tuy đã có những bước phát triển, song để lại không ít tồn tại. Thực trạng
này là một bài toán khó và đòi hỏi tập thể lãnh đạo thứ tư của Đảng Cộng
sản Trung Quốc do Hồ Cẩm Đào đứng đầu cần phải giải quyết.
Quán triệt phương châm “lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp, lấy
thành thị lôi kéo nông thôn, cho nhiều lấy ít, làm sống động”, ngày
14
31/12/2005 Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã chính thức đưa ra Văn kiện
giải quyết vấn đề Tam nông kể từ khi Trung Quốc thực hiện cải cách, mở
cửa đến nay với tiêu đề: “Một số ý kiến của Trung ương Đảng Cộng sản và
Quốc Vụ viện Trung Quốc về thúc đẩy xây dựng nông thôn mới xã hội chủ
nghĩa” với những nội dung cơ bản sau:
- Thúc đẩy cải cách tổng hợp nông thôn, thúc đẩy nông nghiệp
không ngừng tăng cao hiệu suất, nông thôn đẩy nhanh phát triển, thu nhập
nông thôn liên tục tăng lên.
- Tăng cường các chính sách hỗ trợ và ưu đãi nông nghiệp, tăng
nguồn đầu tư của Nhà nước đối với nông nghiệp và nông thôn.
- Đẩy nhanh tiến bộ khoa học trong nông nghiệp, thúc đẩy xây dựng
nông thôn hiện đại, phát triển đa dạng hóa ngành nghề nông nghiệp, nâng
cao năng lực sản xuất tổng hợp của nông nghiệp.
- Điều chỉnh, tối ưu hóa kết cấu kinh tế nông thôn, tích cực thúc đẩy
một cách thỏa đáng mức độ đô thị hóa, phát triển lớn mạnh kinh tế khu vực
cấp huyện.

- Mở rộng mức độ xóa đói giảm nghèo, hoàn thiện cơ chế xóa đói
giảm nghèo, đẩy nhanh tốc độ cải thiện điều kiện sinh hoạt sản xuất của
nông dân nghèo.
- Các cấp chính quyền cần phải chuyển trọng điểm phát triển sự
nghiệp xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng về vùng nông thôn.
- Thi hành chế độ bảo hộ canh tác, tìm tòi các biện pháp có hiệu quả
để bảo đảm lợi ích thực tế và sự thu lợi ổn định lâu dài cho nông dân, giải
quyết tốt công ăn việc làm và an sinh xã hội cho nông dân.
- Tăng cường tuyên truyền giáo dục đối với nông dân, đẩy nhanh bồi
dưỡng những người nông dân kiểu mới, phát huy đấy đủ vai trò chủ thể của
đông đảo người nông dân trong công cuộc xây dựng nông thôn mới.
15
Những chủ trương chính sách phát triển nhịp nhàng giữa thành thị và
nông thôn trên đây còn tiếp tục được nhắc lại trong Báo cáo chính trị của
Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc. Điều này cho thấy quyết tâm
và sự nhất quán của tập thể lãnh đạo thế hệ thứ tư Đảng Cộng sản Trung
Quốc trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng nhất thể hóa giữa thành thị
và nông thôn.
2.1.2. Phát triển nhịp nhàng giữa các khu vực.
Cùng với việc điều chỉnh phát triển nhịp nhàng giữa thành thị và
nông thôn, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI cũng rất chú trọng đến
chiến lược điều chỉnh phát triển giữa các vùng miền. Giai đoạn đầu của tiến
trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đề ra tư tưởng chiến
lược “hai đại cục”, nhấn mạnh khu vực ven biển miền Đông Trung Quốc
có các điều kiện thuận lợi phát triển trước, hiện đại hóa trước, các khu vực
trong nội địa phải chấp nhận đại cục này và khi phát triển đến một giai
đoạn nhất định khu vực ven biển miền Đông phải ra sức giúp đỡ các khu
vực trong nội địa phát triển.
Tiếp tục thực hiện đường lối phát triển của Đặng Tiểu Bình, Giang
Trạch Dân đã chỉ ra : “Khu vực miền Đông thông qua nhiều hình thức giúp

đỡ khu vực kém phát triển miền Trung, miền Tây và các khu vực dân tộc
phát triển kinh tế, thúc đẩy phát triển nhịp nhàng kinh tế khu vực”.
Trên cơ sở kế thừa, bổ sung đường lối chiến lược phát triển vùng
miền của Đặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào đã đề cập đến
tính tổng thể phát triển nhịp nhàng giưa các vùng miền, coi đây là một
trong những nội dung quan trọng của việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội
chủ nghĩa. Điều này thể hiện qua các nội dung sau:
- Tiếp tục thực hiện chiến lược đại khai phát miền Tây, chấn hưng cơ
sở công nghiệp cũ vùng Đông Bắc, thúc đẩy miền Trung trỗi dậy, khuyến
khích khu vực miền Đông đi đầu phát triển.
16
- Nhà nước Trung Quốc tích cực ủng hộ các dự án ngành nghề ưu thế
của khu vực miền Trung, miền Tây, đẩy nhanh việc biến ưu thế về tài
nguyên thành ưu thế về kinh tế, tăng cường năng lực tự mình phát triển của
khu vực miền Trung và miền Tây.
- Chính phủ Trung ương tăng cường điều động đầu tư tài chính cho
các khu vực cách mạng cũ, khu dân tộc, khu biên cương, khu vực nghèo
khó, khu vực sản xuất lương thực nghèo khó, khu khai phát nguồn tài
nguyên khoáng sản, khu trọng điểm bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái
ở miền Trung và miền Tây.
- Thực hiện cơ chế khu vực phát triển trợ giúp các khu vực kém phát
triển, các khu vực dân tộc; xây dựng, kiện toàn chế độ sử dụng tài nguyên
có bồi thường và cơ chế bồi thường khi khai phát tài nguyên; thực hiện
quan hệ hợp tác khu vực cùng có lợi.
- Tiếp tục phát huy vai trò của các đặc khu kinh tế, khu mới Phố Đông
Thượng Hải; thúc đẩy khai phát, mở cửa khu mới Tân Hải, Thiên Tân.
Những khu vực này sẽ phát huy vai trò tích cực và lan tỏa đối với việc xây
dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa.
Những chủ trương chính sách phát triển vùng miền của thế hệ lãnh đạo thứ
tư do Hồ Cẩm Đào đứng đầu trên đây cho thấy, Đảng Cộng sản Trung

Quốc tiếp tục kiên trì lí luận phát triển của Đặng Tiểu Bình, hướng tới phát
triển nhịp nhàng, hài hòa, cùng giàu có, có sự phân công theo thế mạnh của
từng khu vực.
2.1.3. Vừa phát triển vừa chú trọng đến giải quyết vấn
đề môi trường.
Sự phát triển của Trung Quốc từ khi cải cách, mở cửa đền những
năm đầu của thế kỉ XXI đã đị theo đường vòng “hủy hoại trước, bảo vệ
sau; ô nhiễm trước, xử lí sau; tiêu hao trước, tiết kiệm sau; chặt cây trước,
trồng cây sau”, môi trường sinh thái bị hủy hoại một cách nghiêm trọng.
Trung Quốc là nước có lượng chất thải SO
2
lớn nhất trên thế giới, lượng
17
mưa axit chiếm khoảng 30 % toàn bộ diện tích lãnh thổ, lượng khí thải CO
2
đứng thứ 2 trên thế giới… Môi trường sinh thái đã trở thành vấn đề bức xúc
trong quần chúng nhân dân.
Việc điều chỉnh chiến lược phát triển bền vững giữa kinh tế và môi
trường được Đảng và Chính phủ Trung Quốc chú trọng ngay từ giữa những
năm 1990. Cho đến Hội nghị Trung ương 6 khóa XVI thì vấn đề phát triển
bền vững, trong đó có việc giải quyết vấn đề môi trường được gắn chặt với
nội dung xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa với những biện pháp sau:
- Đẩy mạnh nâng cấp kết cấu ngành nghề; nhanh chóng phát triển
ngành chế tạo tiên tiến, ngành kĩ thuật cao và mới, ngành dịch vụ; hình thành
hệ thống ngành nghề có lợi cho tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.
- Xây dựng những công trình sinh thái và quản lí môi trường lớn,
kiên trì vừa bảo vệ vừa quản lí môi trường, khống chế một cách có trọng
điểm các hoạt động khai thác nguồn tài nguyên. Ưu tiên bảo vệ thảm thực
vật từ thiên nhiên, có những chính sách thích hợp đối với các địa phương,
chú trọng khôi phục tự nhiên. Tiếp tục thực hiện các công trình quản lí sinh

thái như bảo vệ rừng tự nhiên, khôi phục thảm thực vật nguyên sinh, ngừng
việc canh tác hoàn lại rừng xanh, ngừng chăn nuôi trả lại thảo nguyên, trả
lại hồ ao, ngăn chặn sa mạc hóa, bảo vệ nguồn nước, đất …
- Tính toán tổng thể việc xây dựng môi trường giữa thành thị và
nông thôn, tăng cường quản lí môi trường ở thành phố, cải thiện môi
trường sinh hoạt và diện mạo nông thôn.
- Đẩy nhanh sáng tạo kĩ thuật trong lĩnh vực môi trường, tăng cường
xử lí các dự án gây ô nhiễm môi trường, khống chế tổng lượng chất thải
gây ô nhiễm, làm tốt và có trọng điểm công tác phòng chống ô nhiễm
nguồn nước, không khí và thổ nhưỡng.
Những biện pháp trên đây đã tăng cường bảo vệ quản lí môi trường,
thúc đẩy sự chung sống hài hòa giữa con người với tự nhiên, hướng đến sự
phát triển bền vững.
18
Như vậy, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI đã khẳng định muốn
xây dựng được xã hội hài hòa thì vẫn phải duy trì sự phát triển, xã hội hài hòa
trước hết cần phải phát triển, nhưng sự phát triển này khác trước là phải phát
triển nhịp nhàng cân đối. Trên cơ sở tiếp tục duy trì, phát triển tư duy “phát
triển là đạo lí cứng”, Trung Quốc đã điều chỉnh từ chiến lược phát triển
nghiêng lệch sang phát triển cân bằng, nhịp nhàng giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng miền, giữa phát triển kinh tế với vấn đề môi trường.
2.2. Thúc đẩy xây dựng xã hội hài hòa.
Từ khi cải cách, mở cửa đến giai đoạn gần đây, Trung Quốc đã chú
trọng đến phát triển kinh tế, coi tăng trưởng kinh tế là chỉ tiêu quan trọng
đánh giá thành tích của cán bộ. Song, chỉ tiêu GDP không thể hiện được
mức độ phát triển toàn xã hội, tăng trưởng và phát triển là hai khái niệm
khác nhau. Cho nên, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa được coi là
sự thay đổi tư duy trong phát triển, chuyển từ chủ yếu chú trọng phát triển
kinh tế sang giải quyết các vấn đề khác nảy sinh trong quá trình phát triển,
trong đó có vấn đề xã hội mà nhất là vấn đề dân sinh. Với tư duy như vậy,

ngoài những chủ trương, chính sách điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế
hài hòa, bền vững, Đảng Cộng sản Trung Quốc còn nhấn mạnh giải quyết
các vấn đề xã hội, trong đó chủ yếu là giải quyết các vấn đề dân sinh.
2.2.1. Giải quyết vấn đề việc làm, phát triển quan hệ lao
động hài hòa.
Việc làm là một trong những vấn đề dân sinh cơ bản và đồng thời
cũng là một trong những vấn đề hạt nhân phát triển kinh tế - xã hội. Đảng
Cộng sản Trung Quốc coi người dân có việc làm tương đối đầy đủ là một
trong 9 nhiệm vụ xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc
áp dụng chính sách việc làm đa dạng, giải quyết việc làm cho đa số quần
chúng nhân dân, xây dựng hệ thống chính sách liên quan đến những vấn đề
19
có quan hệ với việc làm, giải quyết mối quan hệ giữa người lao động với
người sử dụng lao động. Cụ thể như sau:
- Ra sức phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ, thành phần kinh tế phi
công hữu, ngành dịch vụ và các ngành tập trung nhiều lao động, tăng thêm
việc làm bằng nhiều cách và nhiều kênh.
- Thực hiện việc thúc đẩy các chính sách tiền tệ, thuế, tài chính, việc
làm; tích cực ủng hộ, giúp đỡ sự tự chủ sáng tạo ngành nghề, tự tạo việc làm.
- Kiện toàn chế độ bồi dưỡng kĩ năng nghề nghiệp cho tất cả những
người lao động, tăng cường bồi dưỡng sáng tạo ngành nghề và bồi dưỡng
tái tạo việc làm.
- Đi sâu cải cách chế độ việc làm, từng bước hình thành thị trường
lao động và thị trường nhân tài thống nhất thành phố và nông thôn, hoàn
thiện chính sách lưu động nhân viên, chuẩn hóa sự phát triển cơ cấu dịch
vụ việc làm.
- Tăng cường chức năng thúc đẩy việc làm của Chính phủ; làm tôt
công tác quy hoạch tổng thể tái tạo việc làm cho những người mất việc,
mất chức, những lao động mới tăng thêm; chuyển dịch việc làm cho những

lao động dư thừa ở nông thôn; tăng cường sự chỉ đạo và dịch vụ việc làm
cho quân nhân xuất ngũ và sinh viên thất nghiệp.
- Mở rộng phạm vi trợ giúp cho các chính sách tái tạo việc làm; ra
sức giúp đỡ các gia đình không có việc làm và những người khó xin việc
tìm được việc làm.
- Hoàn thiện cơ chế phối hợp nhịp nhàng các mối quan hệ lao động;
thi hành toàn diện chế độ hợp đồng lao động và chế độ hiệp thương tập thể;
bảo đảm chắc chắn cho vay đủ ngạch tiền lương đúng lúc.
- Nghiêm chỉnh chấp hành tiêu chuẩn lao động quốc gia; tăng cường
bảo hộ lao động; kiện toàn thể chế giám sát bảo hiểm lao động và cơ chế
trọng tài giải quyết tranh chấp lao động; duy trì quyền lợi hợp pháp của
20
người lao động nhất là của người nông dân vào thành phố làm thuê (Trung
Quốc gọi họ là nông dân công).
Có thể nói, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thực hiện những chính
sách việc làm tích cực để giải quyết vấn đề việc làm cho các tầng lớp nhân
dân Trung Quốc, xây dựng đồng bộ những chính sách liên quan đến việc
làm và xử lí mối quan hệ giữa người lao động và chủ lao động. Điều đó cho
thấy, Trung Quốc coi mở rộng việc làm là mục tiêu quan trọng của phát
triển kinh tế - xã hội và điều chỉnh kết cấu kinh tế, thực hiện sự hỗ trợ lẫn
nhau giữa phát triển kinh tế và mở rộng việc làm.
2.2.2. Thúc đẩy sự nghiệp giáo dục công bằng.
Nhìn vào thực tế tổng thể hệ thống giáo dục hiện nay ở Trung Quốc
chúng ta thấy rằng, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng giáo dục không
công bằng là sự sắp xếp các nguồn lực không hợp lí giữa thành thị với nông
thôn, giữa các vùng miền. Ví như, kinh phí công bình quân dành cho một
học sinh Tiểu học ở thành phố gấp 3 – 4 lần kinh phí công dành cho một
học sinh Tiểu học ở nông thôn, 80 % diện tích lớp học Trung học, Tiểu học
nguy hiểm tập trung tại nông thôn; kinh phí công bình quân dành cho một
học sinh Trung học ở khu vực miền Đông gấp 2,5 lần so với khu vực miền

Tây. Xuất phát từ thực tế đó, trong đường lối xây dựng xã hội hài hòa,
Đảng Cộng sản Trung Quốc rất chú trọng đến kiên trì ưu tiên phát triển
giáo dục, thúc đẩy sự phát triển công bằng trong giáo dục, tức là nghiêng
lệch về các khu vực lạc hậu, tầng lớp dân cư nghèo. Đồng thời, Đảng Cộng
sản Trung Quốc nhất quán nhận định rằng: Giáo dục là cơ sở phát triển của
đất nước, giáo dục công bằng là cơ sở quan trọng của công bằng xã hội.
Với nhận thức chung như vậy, Trung Quốc đã thực hiện những chủ trương,
chính sách như sau:
- Quán triệt toàn diện phương châm giáo dục của Đảng, ra sức thực
hiện chiến lược “khoa giáo hưng quốc” và “cường quốc nhân tài”; thực
21
hiện toàn diện giáo dục tố chất; đi sâu cải cách giáo dục, nâng cao chất
lượng giáo dục; xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại và hệ thống
giáo dục suốt đời, bảo đảm cho tất cả nhân dân đều có cơ hội được hưởng
sự giáo dục tốt đẹp.
- Kiên trì ưu tiên các nguồn vốn giáo dục công cộng cho khu vực
nông thôn, khu vực miền Tây, miền Trung, khu vực đói nghèo, khu vực
biên cương và khu vực dân tộc; từng bước rút ngắn khoảng cách phát triển
của giáo dục giữa các vùng miền và giữa thành phố với nông thôn; thúc đẩy
sự phát triển nhịp nhàng, cân đối của nền giáo dục công cộng.
- Bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh phí giáo dục mang tính tài chính
cao hơn rõ ràng so với tốc độ tăng trưởng thu nhập mang tính tài chính
thông thường, từng bước làm cho kinh phí giáo dục mang tính tài chính
chiếm tỉ lệ 4 % trong tổng GDP.
- Phổ cập và củng cố giáo dục nghĩa vụ 9 năm; thực thi cơ chế bảo
đảm kinh phí giáo dục nghĩa vụ nông thôn; miễn học phí giáo dục nghĩa vụ
ở nông thôn và từng bước thực hiện miễn giảm học phí giáo dục ở thành
thị; thực hiện toàn diện chính sách cung cấp miễn phí sách giáo khoa, giáo
trình và hỗ trợ sinh hoạt phí kí túc xá đối với những học sinh có hoàn cảnh
kinh tế gia đình khó khăn; bảo đảm con cái của những người nông dân

công được hưởng giáo dục nghĩa vụ.
- Đẩy nhanh mạng lưới phát triển đào tạo, giáo dục nghề nghiệp ở
thành phố và nông thôn, nỗ lực làm cho mọi người lao động đều có tri thức,
đều có kĩ năng.
- Duy trì sự tăng trưởng hợp lí mức chỉ tiêu tuyển sinh vào các
trường Đại học, Cao đẳng; chú trọng tăng cường năng lực thực tiễn, năng
lực sáng tạo, năng lực tìm việc làm và năng lực lập nghiệp của học sinh,
sinh viên.
22
- Hoàn thiện chế độ trợ cấp tiền học và học bổng Nhà nước đối với
giáo dục Cao đẳng và giáo dục Phổ thông, thực hiện chính sách cho vay
khuyến học quốc gia, khuyến khích xã hội quyên góp tiền để khuyến học.
- Thiết thực giảm nhẹ gánh nặng học tập của các học sinh Tiểu học
và Trung học.
- Nâng cao tư chất nhà giáo, đặc biệt là trình độ tư chất nhà giáo ở
nông thôn.
- Cải tiến công tác quản lí và công tác chính trị tư tưởng trường học,
nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng của thầy và trò.
- Dẫn dắt giáo dục dân lập phát triển lành mạnh.
- Tiếp tục tích cực phát triển giáo dục, cố gắng xây dựng mô hình xã
hội hóa giáo dục.
Sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XVI và Đại hội XVII
Đảng Cộng sản Trung Quốc, công tác giáo dục hàng năm của Chính phủ
Trung Quốc đều nhất quán thực hiện đường lối chính sách xây dựng xã hội
hài hòa xã hội chủ nghĩa, trong đó giáo dục được coi là một trong những
vấn đề được đặt lên hàng đầu trong việc cải thiện dân sinh ở Trung Quốc.
Trung Quốc đã thực hiện những chủ trương, chính sách chung của Đảng
Cộng sản để phát triển giáo dục công bằng với những biện pháp cụ thể.
2.2.3. Tăng cường xây dựng hệ thống y tế công; giải
quyết vấn đề khám bệnh đắt, khám bệnh khó.

Cùng với giải quyết các vấn đề việc làm và giáo dục nêu trên, vấn đề
y tế cũng được Đảng Cộng sản và Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng.
Trong những năm gần đây, vấn đề y tế ở Trung Quốc đã trở thành vấn đề
bức xức trong xã hội:
- Nguồn lực y tế bình quân đầu người thấp, xếp hàng thứ 100 trên thế
giới, phân bố không đồng đều, 80 % nguồn lực y tế tập trung ở thành phố.
23
- Chế độ bảo hiểm y tế chưa kiện toàn, đa số người dân khám, chữa
bệnh bằng phương thức tự trả phí.
- Cơ chế vận hành cơ cấu y tế công lập không hợp lí, tính chất công
ích không cao. Nhiều cơ sở y tế hướng tới thị trường hóa, kê đơn thuốc vô
tổ chức, bán thuốc đắt, … tăng gánh nặng y tế cho người dân, ảnh hưởng
đến hình ảnh ngành y và người thầy thuốc.
Để làm dịu vấn đề này, trong nội dung đường lối, chủ trương xây
dựng xã hội hài hòa, với tư duy “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, Nghị
quyết Trung ương 6 khóa XVI đã đề ra hàng loạt các biện pháp nhằm tăng
cường dịch vụ y tế, nâng cao trình độ sức khỏe của nhân dân, như :
- Kiên trì tính chất công ích của hệ thống y tế công cộng, đi sâu cải
cách thể chế y tế khám chữa bệnh, tăng cường trách nhiệm của chính
quyền, giám sát kiểm tra và quản lí nghiêm ngặt, xây dựng chế độ bảo đảm
sức khỏe cơ bản bao phủ lên cư dân thành phố và nông thôn, đưa đến cho
quần chúng nhân dân dịch vụ y tế cơ bản và y tế công cộng an toàn, hiệu
quả, thuận tiện và giá rẻ.
- Tăng cường xây dựng hệ thống y tế công cộng, triển khai phong
trào y tế yêu nước, phát triển sự nghiệp y tế cho phụ nữ và trẻ em, tăng
cường nghiên cứu y học, nâng cao năng lực phòng chống dịch bệnh và
năng lực khám chữa bệnh.
- Kiện toàn hệ thống dịch vụ y tế, tăng cường xây dựng có trọng
điểm mạng lưới dịch vụ y tế nông thôn 3 cấp và hệ thống dịch vụ y tế thành
phố kiểu mới lấy dịch vụ y tế cộng đồng làm cơ sở, thực thi các biện pháp

bảo đảm kinh phí.
- Thực hiện quy hoạch phát triển y tế khu vực, điều chỉnh hợp nhất
nguồn tài nguyên y tế thành phố và nông thôn, xây dựng chế độ hợp tác chi
viện giữa các bệnh viện ở thành phố và nông thôn, đưa các nhân viên y tế
24
có tay nghề kĩ thuật cao về cơ sở phục vụ theo định kì, tăng cường giáo dục
bồi dường nhân viên vệ sinh y tế ở nông thôn.
- Tăng chức năng dịch vụ công cộng của bệnh viện công, tăng cương
xây dựng tác phong y đức ngành y, chuẩn hóa quản lí thu chi, sửa đối
khuynh hướng thu tiền phiến diện.
- Thành lập chế độ dược phẩm cơ bản quốc gia, chỉnh đốn trật tự lưu
thông và sản xuất dược phẩm, bảo đảm về cơ bản quần chúng nhân dân đều
có thể được dùng dược phẩm.
- Tăng cường giám sát quản lí chất lượng vệ sinh của lương thực
thực phẩm, dược phẩm và đồ uống, bảo đảm an toàn, sức khỏe cho quần
chúng nhân dân.
- Xét duyệt nghiêm ngặt cơ cấu y tế, tư cách nghề nghiệp của nhân
viên, ủng hộ và giúp đỡ nhân viên y tế có tư cách nghề nghiệp hành nghề
theo pháp luật, giúp cho quần chúng nhân dân được sử dụng dịch vụ y tế
một cách thuận tiện.
- Ra sức nâng đỡ sự phát triển của y dược dân tộc và đông y dược.
Với tư duy và những chính sách, biện pháp cải cách thể chế y tế trên
đây, hệ thống bảo hiểm y tế của Trung Quốc bắt đầu hình thành một cục
diện mới với 3 trụ cột bảo hiểm y tế công lập chủ yếu là : bảo hiểm y tế cơ
bản của cư dân thành phố, bảo hiểm y tế cơ bản của công nhân viên chức
thành phố và y tế hợp tác nông thôn kiểu mới. Từ góc độ chế độ mà nói, 3
trụ cột bảo hiểm y tế công lập này có thể phủ lên toàn bộ người dân Trung
Quốc, ngoài ra còn có hệ thống cứu trợ y tế và bảo hiểm y tế thương
nghiệp, người dân Trung Quốc có hy vọng sẽ có được bảo hiểm y tế một
cách thích hợp.

25

×