Tải bản đầy đủ (.docx) (165 trang)

Nghiên cứu côn trùng kho thóc dự trữ đổ rời ở Miền Bắc Việt Nam và biện pháp phòng trừ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 165 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP I
o0o
DƯƠNG MINH TÚ
NGHIÊN cứu CÔN TRÙNG TRONG KHO THÓC Dự TRỮ
ĐỐ RỜI Ở MIẾN BẮC VIỆT NAM VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG
CHUYÊN NGÀNH: BỆNH CÂY VÀ BẢO VỆ THựC
VẬT MÃ số: 4.01.16
LUẬN ÁN TIẾN sĩ NÔNG NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. GS. TS. BÙI CÔNG HIỂN
2. TS. NGUYỄN THỊ KIM OANH
Hà Nội - Năm 2005
1
MỞ ĐAU
TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỂ TÀI
Như chứng ta đã biết, giảm mất mát sau thu hoạch được xem là một trong
những tiềm năng để nâng cao năng suất cây trồng. Trong thực tiễn sản xuất, để tăng
năng suất cây trồng trên đồng ruộng lên 1-2% là đặc biệt khó khăn và tốn kém; trong
khi đó, việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong công nghệ sau thu hoạch để làm giảm
mất mát từ 3-5% là hoàn toàn có thể (Vũ Quốc Trung, 1991) [35]. Theo đánh giá của
tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (FAO), tổn thất về ngũ cốc
dự trữ trên toàn thế' giới hàng năm vào khoảng 10%, có nghĩa là khoảng 13 triệu tấn
ngũ cốc đã bị mất do côn trùng và 100 triệu tấn bị mất giá trị (dẫn theo Snelson,
1987) [139].
Ở Việt Nam, theo Lê Doãn Diên (1990) [11], thiệt hại do côn trùng gây ra cho
ngũ cốc bảo quản trong kho là 10%, cho củ và quả tươi là 20%. Số liệu điều tra tại
một số huyện ngoại thành Hà Nội của Nguyễn Kim Vũ (1999) [49] cho thấy tổn thất
sau thu hoạch do côn trùng gây ra cho lứa gạo trung bình là 6,4%; mức thiệt hại cao
nhất có thể lên đến 11,8%. Mức độ thiệt hại phụ thuộc vào loại hình kho bảo quản,
chất lượng thóc bảo quản cũng như mức độ lây nhiễm côn trùng. Giảm mất mát


trong quá trình sản xuất, bảo quản và chế' biến nông sản nói chung và lứa gạo nói
riêng đang được xem là một trong những ưu tiên hàng đầu của chính sách nông
nghiệp ở nước ta hiện nay.
Nghiên cứu côn trùng trong kho thóc dự trữ đổ rời và biện pháp phòng trừ
nhằm bổ sung hoàn thiện biện pháp phòng trừ, góp phần giảm tổn thất sau thu hoạch
đối với thóc dự trữ, giảm ô nhiễm môi trường, ngăn ngừa và hạn chế' sự phát sinh,
phát triển tính kháng thuốc hoá học là yêu cầu cấp bách của công tác dự trữ lương
thực hiện nay. Với nhận thức đó, chứng tôi thực hiện đề tài ”Nghiên cứu côn trùng
trong kho thóc dự trữ đổ rời ở miền Bắc Việt Nam và biện pháp phòng trừ”.
MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CAU NGHIÊN cứu CỦA ĐỂ TÀI
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là cung cấp dẫn liệu khoa học làm cơ sở
đề xuất bổ sung hoàn thiên biên pháp phòng trừ côn trùng gây hại trong kho thóc dự
trữ đổ rời ở miền Bắc Việt Nam.
Yêu cầu của đề tài
- Xác định thành phần loài côn trùng và mức đô phổ biến trong kho thóc dự
trữ đổ rời ở miền Bắc Việt Nam.
- Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái học mọt gạo (Sitophilus oryzae), mọt
đục hạt nhỏ (Rhizopertha dominica) và biến đông mật đô quần thể của chúng trong
kho thóc dự trữ đổ rời.
- Nghiên cứu môt số biện pháp phòng trừ côn trùng gây hại trong kho thóc dự
trữ đổ rời; trong đó chú ý tới nguỡng thiệt hại, tính kháng thuốc hoá học, khả năng
bảo vệ và khích lệ bọ xít bắt mồi (Xylocoris flavipes), trên cơ sở đó đề xuất bổ sung
biện pháp phòng trừ côn trùng gây hại trong kho thóc dự trữ đổ rời ở miền Bắc Việt
Nam.
ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THựC TIÊN CỦA ĐỂ TÀI
Cung cấp môt cách đầy đủ và có hệ thống danh sách thành phần loài côn trùng
trong kho thóc dự trữ đổ rời ở miền Bắc Việt Nam.
Cung cấp, bổ sung dẫn liệu khoa học về đặc điểm sinh học, sinh thái học mọt
gạo, mọt đục hạt nhỏ và biến đông mật đô quần thể của chúng trong kho thóc dự trữ

đổ rời.
Lần đầu tiên có các dẫn liệu khoa học về đặc điểm hình thái, sinh học của bọ
xít bắt mồi (Xylocoris flavipes) ở Việt Nam.
Bổ sung dẫn liệu về thiệt hại do côn trùng gây ra đối với thóc dự trữ đổ rời và
xác định nguỡng thiệt hại đối với mọt gạo và mọt đục hạt nhỏ.
Cung cấp dẫn liệu về tính kháng thuốc Sumithion, Phosphine ở mọt gạo và mọt
đục hạt nhỏ cũng nhu hiệu quả môt số biện pháp phòng trừ côn trùng gây hại làm cơ
sở đề xuất bổ sung biện pháp phòng trừ côn trùng gây hại trong kho thóc dự trữ đổ
rời.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN cứu CỦA ĐỂ TÀI Đối tuợng nghiên
cứu
Côn trùng trong kho thóc dự trữ đổ rời.
Phạm vi nghiên cứu
Miền Bắc Việt Nam.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH Dự TRỮ LƯƠNG THựC Ở VIỆT NAM VÀ CƠ
SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỂ TÀI
Để đảm bảo chương trình an ninh lương thực quốc gia, lượng thóc và gạo dự
trữ thuộc ngành dự trữ quốc gia quản lý là rất lớn. Số liệu cụ thể về tổng lượng thóc
và gạo dự trữ quốc gia hàng năm tuy không được công bố, nhưng hoàn toàn đủ để
phục vụ yêu cầu cấp bách của quốc gia khi xảy ra thiên tai hoặc chiến tranh. Phương
thức dự trữ thóc thuộc ngành dự trữ quốc gia ở miền Bắc và miền Nam không giống
nhau. Ở miền Nam, thóc được bảo quản theo hình thức đóng bao; trong khi đó, ở
miền Bắc lại bảo quản theo phương thức đổ rời.
Hệ thống kho bảo quản thóc và gạo thuộc ngành dự trữ quốc gia khá đầy đủ và
phân bố đều tại các vùng trong cả nước, nhưng hầu hết đều là kho cũ, được xây dựng
từ những năm 70-80 của thế' kỷ trước. Do vậy, một số kho đã bị xuống cấp nghiêm
trọng và không đảm bảo chất lượng của thóc và gạo bảo quản. Tuy hầu hết cán bộ kỹ
thuật và thủ kho lương thực thuộc ngành dự trữ quốc gia đều đã được đào tạo về kỹ

thuật bảo quản lương thực, nhưng có rất ít cán bộ đạt trình độ đại học và sau đại học
chuyên ngành về bảo vệ thực vật hoặc bảo quản nông sản.
Ngành dự trữ quốc gia đã ban hành một số quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật về
chất lượng thóc, gạo dự trữ và phòng trừ côn trùng gây hại (Cục Dự trữ quốc gia,
2000 [8], 2001 [9], 2002 [10]) để thực hiện thống nhất trong cả nước. Nhờ đó đã
phần nào hạn chế' được thiệt hại do côn trùng và gậm nhấm gây ra đối với thóc, gạo
dự trữ trong kho.
Tuy nhiên, do khó khăn về kinh phí bảo quản và nhất là kiến thức của các thủ
kho về côn trùng gây hại trong kho, về biện pháp phòng trừ côn trùng gây hại còn
hạn chế' nên thiệt hại do côn trùng gây ra đối với thóc dự trữ vẫn còn cao. Trong
những năm gần đây, tình hình bùng phát hiên tượng kháng thuốc hoá học ở côn trùng
trong kho thóc dự trữ đã xảy ra ở một số địa phương càng làm cho việc phòng trừ
côn trùng gây hại bằng thuốc hoá học gặp nhiều khó khăn.
1.2TÌNH HÌNH NGHIÊN cứu NGOÀI Nước
1.2.1 NGHIÊN cứu THÀNH PHAN LOÀI CÔN TRÙNG TRONG KHO
HẠT NGŨ CỐC Dự TRỮ
Hầu như ở đâu có sự tồn trữ và lưu trữ, ở đó xuất hiện các loài sinh vật gây hại.
Nhiều khi chỉ cần sau vài tuần, sinh vật gây hại đã phát triển thành quần thể với số
lượng rất lớn và gây ra những "vụ cháy ngầm", tiêu huỷ một phần hoặc hoàn toàn
hàng hoá bảo quản ở trong kho (Bùi Công Hiển, 1995) [17]. Sự phá hại của côn
trùng đối với sản phẩm bảo quản thật đa dạng. Trước hết phải kể đến việc làm giảm
phẩm chất hoặc phá huỷ vật chất, làm cho vật chất dự trữ hay lưu trữ bị giảm hoặc
mất hoàn toàn giá trị sử dụng. Trong nhiều trường hợp, thiệt hại có thể là rất lớn và
thậm chí là vô giá. Ví dụ như sự mục nát của ngũ cốc dự trữ hoặc mất khả năng nẩy
mầm của hạt giống cây trồng.
Côn trùng vượt qua tất cả các loài dịch hại khác về số lượng cá thể và số lượng
loài; chúng cạnh tranh nguồn cung cấp lương thực của con người, truyền lan dịch
bệnh cho con người, cho cây trồng và gia súc. Điểm nổi bật của chúng là tính thích
nghi cao với cuộc sống trên trái đất, chúng có thể tồn tại và hoạt động trong cả điều
kiện khô hạn (Van der Laan, 1981) [145].

Cotton và Wilbur (1974) đã thống kê được số lượng loài côn trùng gây hại hạt
dự trữ trong kho trên thế' giới gồm 43 loài; trong đó có 19 loài thuộc nhóm côn trùng
gây hại chủ yếu và 24 loài thuộc nhóm côn trùng gây hại thứ yếu (dẫn theo Snelson,
1987) [139].
Các kết quả điều tra côn trùng gây hại trong kho thóc và gạo dự trữ ở Indonesia
(Hall and McFatane, 1961 [96], McFalane, 1982 [118] và Prakash, 1980 [125]) đã
xác định được 17 loài côn trùng thuộc 12 họ của 2 bộ.
Flinn and Hagstrum (1990) [91], Freeman (1980) [93] đã ghi nhận được 41
loài côn trùng trong sản phẩm lương thực dự trữ ở một số nước trên thế giới.
Reichmuth (1997) [159] đã thông báo có tới 60 loài côn trùng thuộc 21 họ của
4 bộ bắt gặp trên nông sản phẩm bảo quản ở Đức.
Nakakita et al. (1991) [121] đã xác định được 36 loài côn trùng thuộc 17 họ
của 2 bộ gây hại trong kho thóc và gạo bảo quản tại Thái Lan.
Từ những dẫn liêu trên cho thấy thành phần loài côn trùng trong kho dự trữ hạt
ngũ cốc trên thế' giới là khá phong phú và được đặc biệt quan tâm nghiên cứu.
1.2.2 NGHIÊN cúu ĐẶC ĐlỂM SINH HỌC, SINH THÁI HỌC CÔN
TRÙNG GÂY HẠI HẠT NGŨ cốc Dự TRỮ
Những nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái học côn trùng trong kho hạt
ngũ cốc dự trữ chủ yếu tập trung vào những loài thuộc nhóm gây hại sơ cấp và gây
ra thiệt hại nghiêm trọng cho lương thực dự trữ. Ví dụ, khi nghiên cứu về đặc điểm
sinh học của mọt gạo (Sitophiỉus oryzae L.), Provett (1960) cho biết, khi đẻ trứng, mọt
gạo dùng vòi khoét lỗ trên bề mặt hạt rồi đẻ trứng, sau đó tiết chất nhầy bịt miệng lỗ
để bảo vệ trứng. Trưởng thành cái của mọt gạo mỗi lần đẻ 1 quả, có khi 2-3 quả (dẫn
theo Vũ Quốc Trung, 1978) [31].
Zacher (1964) cho biết một cá thể cái của mọt gạo đẻ trung bình 380 trứng, cao
nhất là 576 trứng. Thời gian phát triển của mọt gạo chủ yếu phụ thuộc vào nhiệt độ.
Từ trứng đến trưởng thành ở 27,2°C là 25,5 ngày và ở 17°C là 92 ngày. Tuổi thọ của
mọt gạo kéo dài khoảng 8 tháng (dẫn theo Bùi Công Hiển, 1995) [17].
Kết quả nghiên cứu của Van der Laan (1981) [145] tại Bogor, Indonesia cho
biết vòng đời của mọt gạo trong khoảng 30-45 ngày. Tốc độ tăng trưởng quần thể

mọt gạo cao khi thuỷ phần của thức ăn đạt 15%. Số lượng trứng đẻ cao nhất của một
cá thể cái là 575 quả.
Cùng với mọt gạo, mọt đục hạt nhỏ (Rhizopertha dominica Fab.) cũng là loài
côn trùng thuộc nhóm gây hại sơ cấp nên được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Các kết quả nghiên cứu của Potter và Brich cho thấy mọt đục hạt nhỏ đẻ trứng
trực tiếp vào hạt và dùng chất nhầy để bảo vê trứng. Sâu non lột xác 3 lần, thời gian
phát dục của sâu non khoảng 28-71 ngày. Mọt đục hạt nhỏ phần lớn đều vũ hoá ở
trong hạt, lúc mới vũ hoá vì thân mềm nên phải đợi sau khi thân thể cứng cáp mới
dùng hàm trên cắn một lỗ chui ra ngoài (dẫn theo Vũ Quốc Trung, 1978) [31].
Zacher (1964) cho biết ở điều kiên 29°C, thời gian hoàn thành một vòng đời
của mọt đục hạt nhỏ chỉ là 4 tuần; ở 21 °C, chúng hoạt động kém hơn và hầu như
không có khả năng sinh sản (dẫn theo Bùi Công Hiển, 1995) [17].
Kết quả nghiên cứu với mọt đục hạt nhỏ của Van der Laan (1981) [145] tại
Bogor, Indonesia cho biết tổng số trứng đẻ của một cá thể cái là 600 quả và thời gian
đẻ trứng kéo dài. Vòng đời của mọt đục hạt nhỏ là 40-69 ngày. Nhiệt độ cao và thuỷ
phần hạt thấp (8% hoặc lớn hơn) là phù hợp cho sự phát triển của loài côn trùng này.
1.2.3 NGHIÊN cúu THIỆT HẠI DO CÔN TRÙNG GÂY RA Đối với HẠT
NGŨ cốc Dự TRỮ VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ CÔN TRÙNG GÂY HẠI
1.2.3.1 Thiệt hại do côn trùng gây ra đối với hạt ngũ cốc dự trữ
Các loại hạt ngũ cốc như lúa mỳ, lúa gạo, ngô, v.v chiếm một phần quan
trọng trong bữa ăn của con người. Những sản phẩm này được dự trữ ở dạng hạt khô
và là nguồn dự trữ lương thực duy nhất của con người. Tuy nhiên, hạt ngũ cốc dự trữ
thường bị các loài côn trùng gây hại cắn phá và gây ra thiệt hại lớn về trọng lượng
cũng như giảm chất lượng. Do đó, nguồn cung cấp lương thực của thế giới bị thiếu
hụt và gây ra nạn đói ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở châu Phi. Subrahmanyan (1962)
cho biết tổng lượng lương thực của thế giới đã có thể tăng lên 25-30%, nếu chúng ta
đã có thế tránh được mất mát sau thu hoạch (dẫn theo Snelson, 1987) [139].
Tổn thất sau thu hoạch đối với hạt ngũ cốc dự trữ thường ít được đánh giá một
cách đầy đủ. Số liệu tổn thất sau thu hoạch được công bố thường là số liệu tổn thất
về trọng lượng, trong khi hầu như không có số liệu thiệt hại về tổn thất chất lượng

của hạt ngũ cốc dự trữ.
Bakal (1963) đánh giá sự mất mát lương thực hàng năm do chuột, côn trùng và
nấm mốc gây ra là 33 triệu tấn, lượng lương thực này đủ để nuôi sống người dân
nước Mỹ trong 1 năm (dẫn theo Snelson, 1987) [139].
Năm 1973, tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (FAO) đã
thông báo rằng không lâu nữa, nguồn cung cấp lương thực của thế giới sẽ không đủ
để chống lại thiệt hại mùa màng và nạn đói. ít nhất có 10% lương thực sau thu hoạch
bị mất mát do dịch hại trong kho, và thiệt hại tới 30% là phổ biến ở nhiều khu vực
trên thế' giới (dẫn theo Snelson, 1987) [139].
Báo cáo của Pawgley (1963) cho thấy tổn thất hạt bảo quản hàng năm được
công bố ở Mỹ là khoảng 15-23 triệu tấn (trong đó, khoảng 7 triệu tấn do chuột, 8-16
triệu tấn do côn trùng). Ở châu Mỹ - La tinh, người ta đánh giá rằng ngũ cốc và đậu
đỗ sau thu hoạch bị tổn thất khoảng 25-50%. Ở một số nước châu Phi, khoảng 30%
tổng sản lượng nông nghiệp bị mất đi hàng năm (dẫn theo Vũ Quốc Trung, 1991)
[35].
Tổn thất sau thu hoạch đối với thóc và gạo tại một số nước châu Á như
Malaysia là 17%, Nhật Bản là 5% và Ấn Độ là 11 triệu tấn/năm (dẫn theo Vũ Quốc
Trung, 1991) [35].
1.2.3.2 Biện pháp phòng trừ côn trùng gây hại trong kho hạt ngũ cốc dự
trữ
Nghiên cứu các biện pháp bảo quản nông sản cất trữ và phòng trừ côn trùng
gây hại có lẽ đã được bắt đầu từ khi con người tiến hành cất trữ lương thực và thực
phẩm. Vì vậy, cho đến nay đã có nhiều biện pháp phòng trừ côn trùng gây hại được
áp dụng và đạt được những kết quả nhất định. Các biện pháp phòng trừ côn trùng
gây hại được nghiên cứu và báo cáo nhiều nhất là phòng trừ hoá học, phòng trừ sinh
học và phòng trừ tổng hợp.
Theo định nghĩa của Tổ chức đấu tranh sinh học quốc tế' - IOBC (1971): "Biện
pháp sinh học là việc sử dụng những sinh vật sống hay các sản phẩm hoạt đông sống
của chúng nhằm ngăn ngừa hoặc làm giảm bớt tác hại do các sinh vật hại gây ra"
(dẫn theo Phạm Văn Lầm, 1995) [24].

Nếu hiểu theo nghĩa rông thì phòng trừ sinh học bao gồm các khía cạnh sinh
học khác nhau của hê thống sống ảnh hưởng tới quá trình sinh sản, tập tính và chất
lượng thức ăn của côn trùng gây hại.
Trong phạm vi rông hơn, phòng trừ sinh học cũng bao gồm việc sử dụng các
chất đôc có nguồn gốc tự nhiên, các chất xua đuổi hoặc dẫn dụ, những chất có thể
được sử dụng trong phòng trừ tổng hợp côn trùng gây hại trong kho, thậm chí những
kỹ thuật này còn được gọi với tên riêng là kỹ thuật công nghệ sinh học (Reichmuth,
2000) [132], David Hagstrum and Bhadriraju Subramanyam (2000) [85].
Phòng trừ sinh học tạo ra cơ hôi để đấu tranh có hiệu quả chống lại môt loài
dịch hại riêng biệt mà không gây ra ảnh hưởng đến các loài dịch hại khác hoặc các
loài côn trùng có ích (Reichmuth, 2000) [132].
Nói đến phòng trừ sinh học không thể không nói đến cân bằng tự nhiên. Theo
nhận xét của Linnaeus (1760) "côn trùng ăn thực vật luôn luôn liên quan tới những
loài khác mà những loài đó sẽ tiêu diệt chúng nếu chúng trở nên có mật đô quá
nhiều" và "bằng cách đó xảy ra cuôc chiến tranh của tất cả các loài sinh vật chống lại
nhau" (dẫn theo Phạm Văn lầm, 1995) [24].
Cân bằng tự nhiên có hai loại: Cân bằng trong sinh quần và cân bằng loài. Cân
bằng trong sinh quần rất phức tạp, đặc biệt là trong những sinh quần dị nguyên.
Nhưng chính trong sinh quần phức tạp lại có tính ổn định cao nhất (Phạm văn Lầm,
1995) [24].
Do hệ sinh thái kho bảo quản hạt ngũ cốc là hệ sinh thái kín, nhân tạo nên hầu
như rất ít chịu tác đông trực tiếp của điều kiện ngoại cảnh; vì vậy, có thể khai thác
môt số tiềm năng của phòng trừ sinh học để sử dụng môt cách khoa học và hợp lý.
Các loài côn trùng ký sinh (của côn trùng gây hại) trong kho như ong ký sinh thường
giết chết vật chủ, ví dụ ong ký sinh (Trichogramma spp.) ký sinh trứng ngài gạo
(Corcyra cephalonica) (Bùi Công Hiển, 1995) [17].
Kết quả nghiên cứu của Nakakita et al. (1991) [121] tại Thái Lan cho biết đã
ghi nhận đuợc ba loài ong ký sinh côn trùng gây hại trong các kho luơng thực là
Chaetospila elegans, Proconus sp. và Bracon hebetor .
Thử nghiêm về hiệu quả phòng trừ sinh học của Matthias Scholler (2000)

[116], Matthias Scholler, S. Prozell et al. (1997) [117] tại Đức cho biết trong điều
kiện thí nghiệm trong phòng và trong kho có quy mô nhỏ đã kết luận rằng việc thả
ong ký sinh Trichogramma evanescens đã làm giảm quần thể của Ephestia elutella tới
31,4% so với đối chứng.
Kết quả nghiên cứu khả năng tìm vật chủ là mọt thóc (Sitophilus granarius L.)
của ong ký sinh Lariophagus distinguendus Forster trong kho silô và kho thuơng phẩm
bảo quản yến mạch có quy mô 20 tấn và 3000 tấn tại Đức cho thấy loài ong ký sinh
này có thể tồn tại và ký sinh vật chủ trong phạm vi 4 mét theo phuơng thẳng đứng và
nằm ngang tính từ điểm thả ong ký sinh (Steidle Johanes and Scholler Matthias,
2000) [140].
Báo cáo của Reichmuth (2000) [132] cho biết ong Trichogramma evanescens
Wetw. ký sinh trứng của nhiều loài côn trùng gây hại trong kho nhu Plodia interpunctella,
Ephestia kuehniella, Corcyra cephalonica, Ephestia cautella, Acanthoscelides
obtectus và Dermestes maculatus.
Bên cạnh đó, hiện tuợng côn trùng bị các sinh vật khác bắt mồi ăn thịt là rất
phổ biến trong tự nhiên và đã tồn tại từ khi có những đại diện đầu tiên của chúng
trên trái đất. Khi những loài côn trùng nhỏ bé xuất hiện thì cũng đồng thời xuất hiện
những loài côn trùng và đông vật ăn thịt khác và thế là các loài côn trùng này có thể
trở thành thức ăn cho môt số loài côn trùng khác (Phạm Văn Lầm, 1995) [24].
Hoạt đông bắt mồi ở các loài côn trùng và đông vật khác có thể xảy ra ở pha
truởng thành hoặc pha sâu non hoặc đồng thời xảy ra ở cả hai pha phát dục là truởng
thành và sâu non (Abdel Rahman et al. (1981) [52], Arbogast, 1979 [57], [58],
Arbogast and Throne, 1997 [60], Arbogast, LeCato et al. (1977) [61], Baker and
Thorn, 1995 [63], Tawfik et al. (1987) [142]).
Kết quả nghiên cứu của Nakakita et al. (1991) [121] tại Thái Lan đã ghi nhận
được một số loài bắt mồi trong kho lương thực bảo quản gồm kiến (khoảng 4-5 loài),
bọ xít (Xylocoris flavipes Reuter), Scenopinus fenestralis và bò cạp giả (Chelifer sp.)
Nghiên cứu về khả năng tiêu diệt vật mồi của bọ xít (Xylocoris flavipes Reuter);
LeCato (1976) [110], LeCato and Arbogast (1979) [111], Reichmuth (2000) [132] đã cho
biết loài bọ xít này sử dụng vật mồi là trứng, sâu non và nhộng của nhiều loài côn trùng

gây hại trong kho như Plodia interpunctella, Corcyra cephalonica, Ephestia cautella,
Acanthoscelides obtectus, Dermestes maculatus, Sitophilus zeamais, Cryptolestes
ferrugineus, Sitophilus granarius, Tribolium confusum, Tribolium castaneum,
Lasioderma serricorne và Sitotroga cerealella.
Cũng giống như các loài sinh vật khác, hầu hết côn trùng gây hại trong kho nói
chung và trong kho hạt ngũ cốc dự trữ nói riêng cũng thường bị các loài sinh vật như
nấm, tuyến trùng, vi khuẩn, virus, Ricketssia hoặc các loài động vật nguyên sinh
(Protozoa) gây bệnh. Những sinh vật này được gọi là sinh vật gây bệnh cho côn
trùng (Arbogast, 1984 [59], Wen Brian et al. (1994) [149]).
Berlinder (1911) đã phân lập được vi khuẩn Bacillus thuringiensis (BT) từ sâu
non Ephestia kuehniella Zeller tại Thuringia. Hiện nay, người ta đã phát hiện được
525 loài thuộc 13 bộ côn trùng bị nhiễm vi khuẩn Bacillus thuringiensis, trong đó
nhiều nhất là bộ cánh vảy (318 loài), sau đó là bộ hai cánh (59 loài), bộ cánh cứng
(34 loài) và còn lại là các bộ khác (khoảng 1 - 12 loài) (dẫn theo Phạm Văn Lầm,
1995) [24].
Kết quả thử nghiệm của McGaughey (1980) cho biết khi xử lý lớp bề mặt của
khối hạt (khoảng 10 cm) bằng một lượng nhỏ chế phẩm Bacillus
thuringiensis đã hạn chế khoảng 81% quần thể ngài Ân Độ (Plodia interpunctella) và
ngài Bột điểm (Ephestia cautella) và hơn 92% sự ăn hại của hai loài côn trùng này
(dẫn theo Bùi Công Hiển, 1995) [17].
Báo cáo kết quả nghiên cứu về vai trò của Bacillus thuringiensis trong phòng trừ
các loài ngài thuộc bộ cánh vảy (Lepidoptera) gây hại trong kho của
Subramanyan và Cutkomp (1985) ở Mỹ đối với Plodia interpunctella, Ephestia
cautella, E. kuehniella và Sitotroga cerealella cho thấy chỉ cần sử dụng chế phẩm này
với liều lượng dưới 10 mg/kg đã hạn chế được sự gây hại của chúng trong kho ngũ
cốc (dẫn theo Bùi Công Hiển, 1995) [17].
Sukprakarn (1990) thông báo kết quả thử nghiêm phòng trừ ngài gạo (Corcyra
cephalonica) trong các kho bảo quản gạo bằng chế phẩm Bacillus thuringiensis ở Thái
Lan đạt kết quả rất khả quan (dẫn theo Bùi Công Hiển, 1995) [17].
Do đặc trưng riêng của môi trường kho và hàng hoá bảo quản nên việc ứng

dụng phòng trừ sinh học nhìn chung còn rất hạn chế. Ví dụ, việc sử dụng các chế
phẩm vi sinh vật cần phải có môi trường ẩm để chúng phát triển và gây bệnh cho côn
trùng; nhưng môi trường ẩm là điều cấm kỵ ở trong các kho bảo quản hàng hoá khô
như hạt ngũ cốc. Theo nhận định của Hardin (1991) [97] hàng hoá bảo quản trong
kho nói chung và hạt ngũ cốc dự trữ nói riêng thường bị nhiều loài côn trùng gây hại
và đa số thuộc bô cánh cứng (Coleoptera) nên hiệu quả sử dụng sinh vật gây bệnh để
trừ côn trùng trong kho hạt ngũ cốc dự trữ thường không cao.
Thuốc thảo mộc được chiết xuất, chế tạo từ những loài thực vật có sẵn trong tự
nhiên để diệt trừ sâu hại mang lại hiệu quả kinh tế cao, ít gây ô nhiễm môi trường đã
được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Golob và Webley
(1980) đã tổng kết các kết quả nghiên cứu thử nghiệm và áp dụng thuốc thảo mộc ở
nhiều nơi trên thế giới với các loài thực vật khác nhau, trong đó đáng kể nhất là việc
sản xuất ra các chế phẩm thuốc thảo mộc từ cây Neem (Azadirachta indica), cỏ mạt
(Acorus calamus), cây thuốc cá hay còn được gọi là cây ruốc cá (Derris eliptica), cây
thuốc lá (Nicotiana tabacum), cây thuốc lào (Nicotiana rustica), v.v. Các tác giả đã nêu
lên những sản phẩm cụ thể được dùng để phòng ngừa côn trùng gây hại từ 47 loài
thực vật khác nhau, trong đó có 40 loài đã được sử dụng dưới dạng các chiết xuất
(dẫn theo Bùi Công Hiển, 1995) [17].
Báo cáo của Adler Cornel (2001) [54], Irfan Tunc and Erler (2002) [104] và
Sabah Forestry Department in Thailand (2001) [134] cho biết thực vật làm thay đổi
tập tính của côn trùng thông qua việc tạo ra mùi vị hấp dẫn hoặc xua đuổi. Phòng trừ
tổng hợp côn trùng gây hại trong kho có thể sử dụng các chiết xuất của thực vật và
các hợp chất đã làm sạch hoặc tổng hợp theo 3 cách sau:
- Sử dụng mùi vị xua đuổi để ngăn côn trùng ở khu vực xung quanh của hàng
hoá đóng gói hoặc xung quanh cửa kho chống xâm nhiễm vào trong kho.
- Sử dụng mùi vị hấp dẫn để phát hiện sớm côn trùng gây hại, giám sát kỹ
thuật phòng trừ hoặc bẫy bả.
- Sử dụng các hợp chất độc đối với côn trùng.
Các tác giả đã kết luận rằng những hợp chất độc cũng có hiệu quả như các tác
nhân phòng trừ và một số hợp chất có thể được sử dụng như thuốc xông hơi. Hiệu

quả của các chất chiết xuất từ thực vật đối với côn trùng kho là rất tổng hợp. Các loài
dịch hại khác nhau và các pha phát dục khác nhau của cùng một loài dịch hại có
phản ứng không giống nhau đối với một chất chiết xuất nhất định. Lượng hợp chất
tinh khiết trong một chất chiết xuất từ thực vật có thể khác nhau phụ thuộc vào điều
kiện khí hậu, địa lý và giống cây (Sadik Tuzun, 2002 [135], Sabah Forestry
Department in Thailand, 2001) [134].
Tại Trung Quốc, thuốc thảo mộc Gu Chung Jinh (GCJ) đã được sản xuất và
đưa vào sử dụng rộng rãi trong các kho bảo quản lương thực dự trữ tại tỉnh Quảng
Tây, Quảng Đông và nhiều tỉnh khác đạt hiệu quả cao (Lin Fenggang et al. (2003)
[ 114]; Zhanggui Qin, Deng Gang et al. (2003) [155]). Cùng với thuốc thảo mộc,
hiệu quả của các chất diệt côn trùng khác như bột trơ hoặc đất có silic, nước ozone
và bẫy bả cũng đã được quan tâm nghiên cứu (Conceicão Carlos et al. (2002) [79],
Hodges et al. (1985) [102], Leesch Jame et al. (2002) [112]).
Đầu thế kỷ XX, thuốc hoá học với ưu điểm nổi bật như tác động diệt côn trùng
nhanh, phổ tác động của thuốc rộng, dễ sử dụng và giá thành rẻ đã giúp cho phòng
trừ hoá học được xem như vũ khí rất lợi hại của con người trong cuộc chiến chống
lại các loài côn trùng gây hại nói riêng và sinh vật gây hại nói chung. Tuy nhiên,
trước những hậu quả bất lợi của việc sử dụng thuốc hoá học, con người đã phải
hướng tới những nghiên cứu mới nhằm khắc phục những nhược điểm của phòng trừ
hoá học. Mặc dầu vậy, do những hạn chế của phòng trừ sinh học, nên trong thực tế'
phòng trừ hoá học vẫn còn được sử dụng thường xuyên và khá phổ biến để phòng
trừ côn trùng gây hại trong kho. Tuy nhiên, do việc sử dụng thường xuyên và liên tục
một vài loại thuốc hoá học nên nhiều loài côn trùng gây hại trong kho đã xuất hiện
tính kháng thuốc hoá học.
Ngay từ cách đây gần 30 năm, Champ and Dyte (1976) [72] đã có thông báo
rất đáng quan tâm về tính kháng thuốc Malathion và Lindan ở các loài côn trùng gây
hại trong kho. Cụ thể, các tác giả đã nêu kết quả điều tra tại nhiều nước trên thế' giới
do nhóm chuyên gia của FAO tiến hành. Họ đã phát hiện được 33 mẫu mọt gạo (ở 10
nước) kháng với Malathion trong số' 257 mẫu thu từ 59 nước đưa vào thử nghiệm.
Tương tự như vậy, họ đã phát hiện 176 mẫu mọt gạo (ở 53 nước) kháng với Lindan

trong số 235 mẫu thu từ 58 nước đưa vào thử nghiệm. Đối với mọt bột đỏ (Tribolium
castaneum) đã phát hiện 49 mẫu (ở 75 nước) kháng với Malathion trong số 505 mẫu
thu từ 78 nước đưa vào thử nghiệm và phát hiện 463 mẫu (ở 75 nước) kháng với
Lindan trong số 497 mẫu (ở 76 nước) đưa vào thử nghiệm. Đối với mọt đục hạt nhỏ,
đã phát hiện 50 mẫu (ở 23 nước) kháng với Malathion và 91 mẫu (ở 41 nước) kháng
với Lindan.
Theo Zettler Larry (1993) [154], kết quả thống kê trên thế' giới cho thấy có
9,7% số mẫu địa phương thử nghiệm đã thể hiện tính kháng với Phosphine trong khi
đó chỉ có 4,7% số mẫu địa phương thử nghiệm kháng với Methyl bromide.
Đối với nhóm thuốc xông hơi, các nhà khoa học đã ghi nhận được hiện tượng
kháng thuốc Methyl bromide ở 23 nước và kháng thuốc Phosphine ở 36 nước trên
thế' giới (Champ and Dyte, 1976 [72], Taylor, 1989 [143], Taylor and Halliday, 1986
[144]).
Kết quả nghiên cứu của Lindgren và Vincent (1966) cho thấy mức độ kháng
Phosphine ở các pha phát triển của Sitophilus oryzae và S. granarius giảm dần từ
nhông, trứng, sâu non và thấp nhất là ở trưởng thành (dẫn theo Collins, Lambkin,
Haddrell, et al. (1997) [76]).
Kết quả nghiên cứu tại Ôxtrâylia cho thấy việc sử dụng thuốc Phosphine với
liều lượng không đủ để tiêu diệt tất cả các pha phát dục của côn trùng kháng thuốc
(dưới mức liều cần thiết) là tác nhân chọn lọc đối với tính kháng (Collins, Lambkin,
Haddrell et al. (1997) [76]).
Bên cạnh đó, Friendship, Halliday and Harris (1986) [94] cho biết có hai yếu
tố làm phát sinh tính kháng thuốc Phosphine ở côn trùng kho là thời gian xông hơi
ngắn và làm kín kho không tốt, dẫn đến nồng đô Phosphine trong kho không đạt tới
giá trị cần thiết để tiêu diệt côn trùng.
So sánh với danh mục thuốc hoá học trừ côn trùng trên đồng ruộng thì số
chủng loại thuốc hoá học sử dụng trong bảo quản hạt ngũ cốc (có tác động tiếp xúc,
vị độc hoặc thấm sâu) trừ côn trùng gây hại ít hơn rất nhiều. Nguyên nhân là do
thuốc trừ côn trùng trong kho vừa phải đảm bảo có tác động diệt côn trùng nhanh,
vừa phải ít độc cho người sử dụng và hàng hoá, ít để lại dư lượng trên hàng hoá sau

khi xử lý và thời gian cách ly ngắn (Bond, 1984) [64].
Các chất bảo quản hạt ngũ cốc dự trữ đã và đang được sử dụng trên thế giới
gồm Bioresmethrin (5-benzyl-3-furfurylmethyl (+)-transchrysanthemate);
Bromophos; Carbaryl; Chlorpyrifos-methyl; Deltamethrin; Diazinon; Dichlorvos;
Etrimfos; Fenitrothion; Fenvalerate; Iodofenphos; Lindane; Malathion; Methacrifos;
Methoprene; Permethrin; d-Phenothrin; Phoxim và Phoxim-Methyl; Piperonyl
Butoxide; Pirimiphos-Methyl; Pyrethrum; Tetrachlorvinphos (Snelson, 1987) [139].
Những loại thuốc xông hơi đã và đang được sử dụng ở trên thế giới để phòng
trừ côn trùng gây hại trong kho như Methyl bromide (CH3Br), Phosphine (PH3),
Chloropicrin (CCL3NO2), Dichlorvos - DDVP (loại có hàm lượng hoạt chất 98%),
Ethylene dibromide (CH2Br.CH2Br), Hydrogen cyanide (HCN), Ethylene oxide
(CH2)2O, Ethylene dichloride (CH2CLCH2Ơ), Carbon disulphide (CS2), Carbon
tetrachloride (CCl4), Sulphuryl fluoride (SO2F2), Acrylonitrile (CH2:CH.CN), v.v.
(Bond, 1984 [64], Takushi Obata, 1998
Hiên có hai loại thuốc xông hơi đang được sử dụng phổ biến là Methyl
bromide và Phosphine, nhưng Methyl bromide bị kiểm soát nhập khẩu và sử dụng
(Nghị định thư Montrean) do có tiềm năng phá huỷ tầng ôzôn của khí quyển (hê số
0,6), còn Phosphine được xác định là có nhiều loài côn trùng gây hại trong kho thể
hiên tính kháng thuốc cao, đặc biêt là mọt đục hạt nhỏ (Collins et al. (2000) [75],
2002 [78], Lambkin, 2001 [108], Reed Carl et al. (1989) [130], Taylor, 1989 [143]).
Với mục đích giảm lượng sử dụng và tăng hiêu quả của thuốc hoá học, giảm
chi phí phòng trừ, các nhà khoa học đã nghiên cứu sử dụng hỗn hợp thuốc xông hơi
Phosphine với khí carbon di oxide (Aliniazee Tasken, 1971 [55], Ana Paula Ramos
de Almeida-e-Silva et al. (2002) [56]).
Để nâng cao hiêu quả của các biên pháp phòng trừ côn trùng gây hại nhằm bảo
quản hàng hoá dự trữ tốt hơn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, trong những năm 50
của thế” kỷ XX, xu hướng phòng trừ tổng hợp đã được xác lập và phát triển. Theo
định nghĩa của nhóm chuyên gia của FAO, phòng trừ tổng hợp (Integrated Pest
Management - IPM) là "Một hê thống quản lý dịch hại trong bối cảnh của quần thể
và môi trường liên quan đến dịch hại, sử dụng tất cả những phương pháp và kỹ thuật

thích hợp nhất để duy trì quần thể dịch hại ở dưới ngưỡng gây hại kinh tế” (Marcos
Kogan, 1998) [115].
Cũng có thể hiểu IPM là một hê thống điều khiển dịch hại bằng cách sử dụng
tất cả những kỹ thuật (biên pháp) thích hợp trên cơ sở sinh thái hợp lý, để giữ cho
quần thể dịch hại phát triển dưới ngưỡng gây hại kinh tế (Hà Quang Hùng, 1998)
[22].
Hoặc IPM là viêc sử dụng những nguyên tắc sinh thái hợp lý (mối quan hê
giữa các sinh vật trong hê sinh thái, cân bằng sinh học trong tự nhiên, quy luật tự
điều chỉnh, quy luật hình tháp số lượng) để duy trì quần thể dịch hại luôn tăng
trưởng dưới ngưỡng gây hại kinh tế” (Bùi Công Hiển và Trần Huy Thọ, 2003) [19].
David Hagstrum and Bhadriraju Subramanyam (2000) [85], David
[141]
1
Hagstrum and Paul Flinn (1998) [87], Hodges et al. (1996) [101], John Vandermeer
et al. (1986) [105] và Platt et al. (1998) [124] cho rằng giám sát biến đông số lượng
côn trùng là một phần quan trọng của quản lý dịch hại. Thiệt hại về kinh tế' do côn
trùng gây ra và những chi phí quản lý dịch hại không cần thiết có thể tránh được
bằng cách sử dụng công cụ giám sát mật độ côn trùng, ra quyết định, các mô hình dự
báo và hệ thống tư vấn xác định chính xác thời điểm cần tác động để mật độ côn
trùng không vượt quá ngưỡng kinh tế.
Xác định ngưỡng kinh tế' và ngưỡng gây hại kinh tế' đối với dịch hại là một
trong những nội dung quan trọng nhất của phòng trừ tổng hợp (Onstad, 1987 [122],
David Hagstrum and Paul Flin, 1990 [86]).
Matthias Scholler, Prozell, Reichmuth et al. (1997) [117] đã khẳng định biện
pháp sử dụng ong ký sinh và bọ xít bắt mồi là một hợp phần quan trọng trong phòng
trừ tổng hợp côn trùng gây hại trong kho. Prashantha Rohitha (2002) [126] lại nêu ý
kiến nhấn mạnh đến việc bảo quản thóc trên cơ sở sử dụng hiệu quả việc xông khói
từ việc đốt tàn dư một số loài thực vật.
1.3TÌNH HÌNH NGHIÊN cứu TRONG Nước
1.3.1______________NGHIÊN cứu THÀNH PHAN LOÀI CÔN

TRÙNG TRONG KHO
_______________HẠT NGŨ CỐC Dự TRỬ
_______________
Các kết quả điều tra về thành phần loài côn trùng gây hại trong kho hạt
ngũ cốc dự trữ nói chung và kho thóc dự trữ nói riêng ở Việt Nam không nhiều và ít
được điều tra cập nhật. Những công bố' đầu tiên có thể kể đến như kết quả điều tra
côn trùng hại kho ở miền Bắc Việt Nam của Đinh Ngọc Ngoạn (1964) [26], kết quả
điều tra côn trùng là đối tượng kiểm dịch thực vật của Dương Quang Diệu và
Nguyễn Thị Giáng Vân (1976) [12], thành phần côn trùng gây hại trong kho lương
thực của Vũ Quốc Trung (1978) [32], kết quả điều tra côn trùng trong kho lương
thực ở các tỉnh miền Bắc và miền Nam sau giải phóng 1975 của Bùi Công Hiển và
cộng sự (1980) [18], thành phần côn trùng kho ở Việt Nam của Nguyễn Thị Giáng
Vân và cộng sự (1996) [46] hoặc thành phần côn trùng hại kho ở Việt Nam năm
1996-2000 do Phòng
Kiểm dịch thực vật, Cục Bảo vê thực vật tổng hợp (2003) [28].
Kết quả điòu tra thành phần côn trùng trong kho ở Viêt Nam công bố năm
1996 của Nguyễn Thị Giáng Vân và công sự (1996) [46] đã ghi nhận được 110 loài
côn trùng. Chỉ tính riêng trong kho thóc dự trữ, các tác giả đã phát hiên được 23 loài
côn trùng gây hại trong kho thóc dự trữ đổ rời thuôc 14 họ của 3 bô, trong đó có 4
loài thuôc nhóm gây hại sơ cấp và 19 loài thuôc nhóm gây hại thứ cấp.
Môt số loài côn trùng kho không có ở Viêt Nam nhưng chứng thường lây
nhiễm và theo hàng hoá nhập khẩu vào nước ta, trong đó có môt số loài rất nguy
hiểm như mọt cứng đốt (Trogoderma granarium) (Nguyễn Thị Giáng Vân, 1991) [45].
Kết quả điÒu tra thành phần loài côn trùng gây hại thóc dự trữ ở quy mô hô
nông dân vùng Hà Nôi cho thấy chỉ có khoảng 5-7 loài côn trùng gây hại, số lượng
loài côn trùng ít hơn rất nhiòu so với trong kho thóc dự trữ đổ rời (Nguyễn Minh
Màu, 1998) [25].
Báo cáo vÒ thành phần loài côn trùng hại thóc dự trữ tại Hà Nôi của Nguyễn
Thị Bích Yên (1998) [51] đã liêt kê được 9 loài côn trùng gây hại thuôc 8 họ của 3
bô, trong đó có 3 loài thuôc nhóm gây hại sơ cấp và 6 loài thuôc nhóm gây hại thứ

cấp.
Thành phần loài côn trùng gây hại trong các kho thóc dự trữ đóng bao ở đồng
bằng sông Cửu Long có số lượng ít hơn rất nhiòu so với trong các kho thóc dự trữ đổ
rời và mới chỉ ghi nhận được 7 loài côn trùng là mọt gạo, mọt đục hạt nhỏ, mọt bôt
đỏ, mọt thóc Thái Lan, mọt râu dài, mọt răng cưa và mọt gạo dẹt (Vũ Quốc Trung,
Bùi Minh Hồng và công sự (1999) [34]).
Thành phần loài côn trùng gây hại trong các kho thóc dự trữ đổ rời được ghi
nhận, công bố bởi các tác giả ở từng thời điểm khác nhau là không giống nhau; tuy
nhiên, mọt gạo và mọt đục hạt nhỏ được xác định là hai loài gây hại chính trong kho
thóc dự trữ đổ rời và chứng phân bố chủ yếu ở lớp thóc bò mặt (Lương Thị Hải,
1999) [16].
Số liêu công bố gần đây nhất vÒ thành phần loài côn trùng trong kho thóc dự
trữ đổ rời ở vùng Hà Nôi và phụ cận của Bùi Minh Hồng và Hà Quang Hùng (2004)
[21] cho thấy đã ghi nhận được 15 loài côn trùng thuộc 11 họ của 3 bộ.
Từ những số liêu trên, chúng tôi thấy rằng số lượng loài côn trùng trong kho
hạt ngũ cốc dự trữ đã ghi nhận được ở nước ta ít hơn nhiều so với số lượng loài côn
trùng trên ruộng lúa. Kết quả điều tra cơ bản côn trùng trên ruộng lúa của Viên Bảo
vê thực vật ở miền Bắc (1967-1968) [47] đã ghi nhận được tới 88 loài, ở các tỉnh
miền Nam (1977-1978) [48] là 86 loài.
1.3.2 NGHIÊN cúu ĐẶC ĐlỂM SINH HỌC, SINH THÁI HỌC CÔN
TRÙNG GÂY HẠI TRONG KHO HẠT NGŨ cốc Dự TRỮ
Kết quả nghiên cứu về đặc điểm sinh học, sinh thái học côn trùng gây hại trong
kho không nhiều, chỉ có một số công trình đã công bố như nghiên cứu một số đặc
điểm sinh học và biên pháp phòng trừ côn trùng lạ (Tenebrio molitor L.) của Dương
Minh Tú (1997) [39], đặc điểm sinh học của mọt đục hạt nhỏ (Rhizopertha dominica
Fab.), mọt bột đỏ (Tribolium castaneum Herbst.) của Nguyễn Thị Bích Yên (1998)
[51].
Theo tài liêu của Vũ Quốc Trung (1978) [31], thuỷ phần gạo thích hợp nhất
cho sự phát sinh và gây hại của mọt gạo và mọt bột đỏ là 15-20%.
Vòng đời của mọt bột vàng (Tenebrio molitor) nuôi trên bột mỳ ở 24,6°C và độ

ẩm tương đối của không khí 78% là 336 ngày; ở 25,8°C và độ ẩm tương đối của
không khí 75% là 257 ngày (Dương Minh Tú, 1997) [39].
Theo Nguyễn Thị Bích Yên (1998) [51], vòng đời trung bình của mọt đục hạt
nhỏ (Rhizopertha dominica) khi nuôi trên gạo giã nhỏ có thuỷ phần là 10,3% ở 25°C là
96,61 ngày và ở 30°C là 67,20 ngày.
1.3.3 NGHIÊN cúu THIỆT HẠI DO CÔN TRÙNG GÂY RA ĐốI VỚI HẠT
NGŨ cốc Dự TRỮ VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ CÔN TRÙNG GÂY HẠI
1.3.3.1 Thiệt hại do côn trùng gây ra đối với hạt ngũ cốc dự trữ
Những công trình nghiên cứu về thiệt hại do côn trùng gây ra cho hạt ngũ cốc
dự trữ nói chung và thóc dự trữ nói riêng ở nước ta còn rất hạn chế. Những kết quả
thu được mới chỉ phản ánh thiệt hại về mặt trọng lượng mà hầu như chưa phản ánh
được thiệt hại về mặt giảm giá trị chất lượng của sản phẩm dự trữ.
Thí nghiệm về khả năng gây hại của mọt gạo trên hỗn hợp thức ăn là thóc, gạo,
ngô, lúa mỳ, đậu xanh và đậu đen cho thấy ở công thức thả 10 cặp mọt gạo đã có tới
32,6% số hạt thóc và 40% số hạt gạo bị hại tại thời điểm sau thí nghiệm 60 ngày (Vũ
Quốc Trung, 1978) [31].
Tổn thất do côn trùng gây ra đối với ngũ cốc dự trữ trong kho ở nước ta là 10%
(Lê Doãn Diên, 1990) [11]. Số liệu điều tra về tổn thất trung bình do côn trùng gây
ra đối với thóc dự trữ trong 6 tháng ở hô nông dân ngoại thành Hà Nôi là 2,8% và
giá bán bị giảm 20% (Nguyễn Kim Vũ và công sự, 2003) [50].
Nghiên cứu về tổn thất ngô sau thu hoạch của Trần Văn Chương, Nguyễn Kim
Thuý và công sự (2003) [73] cho biết ở quy mô hô nông dân, ngô dự trữ bị tổn thất
trung bình là 15%, cá biệt có nơi đến 20%.
Kết quả điều tra tại tỉnh Hà Giang cho thấy nếu không áp dụng các biện pháp
phòng trừ côn trùng gây hại, tỷ lệ hạt ngô bị côn trùng gây hại cao nhất có thể đạt tới
98% (Nguyễn Thị Oanh và công sự, 2003) [27].
1.3.3.2 Biện pháp phòng trừ côn trùng gây hại trong kho hạt ngũ cốc dự
trữ
Phòng trừ côn trùng gây hại trong kho thóc dự trữ đổ rời nói riêng và côn trùng
gây hại trong kho nói chung không thể chỉ quan tâm đến phòng trừ hoá học, mà còn

phải quan tâm đến nhiều biện pháp khác trong đó có phòng trừ sinh học.
Sử dụng các chế phẩm sinh học như virus đa diện ký sinh nhân tế bào (nuclear
polyhydrosis virus -NPV) và BT để trừ các loài sâu hại cây trồng trên đồng ruông là
khá phổ biến và là môt phần quan trọng của biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp
(Phạm Văn Lầm, 1995) [24].
Nghiên cứu sản xuất và thử nghiêm các chế phẩm sinh học trừ côn trùng gây
hại trong kho ở nước ta đã được các nhà khoa học thuộc Viên Công nghê sau thu
hoạch thực hiên từ năm 1998. Kết quả thử nghiêm hai loại chế” phẩm BT (chế”
phẩm trừ côn trùng cánh cứng và chế” phẩm hỗn hợp) với mọt ngô (Sitophilus
zeamais) khá cao nhưng lại không có hiệu quả đối với mọt bột đỏ (Tribolium
castaneum) (Hoàng Hồ và cộng sự, 1999) [20].
Viêc sử dụng thuốc thảo mộc để diêt trừ các loài côn trùng gây hại ở ngoài
đồng cũng như trong kho tàng đã được con người biết đến và áp dụng từ rất lâu đời.
Từ xa xưa, ông cha ta đã biết sử dụng lá và quả xoan, sản phẩm còn lại của cây
thuốc lá, thuốc lào ở dạng khô để bảo quản đậu, đỗ, ngô và thóc giống trong các
chum, vại nhằm hạn chế” sự gây hại của côn trùng kho. Tất cả những hình thức này
chủ yếu là sử dụng các loài cây cỏ ở dạng thô sơ. Hiên nay, thuốc thảo mộc được
nhìn nhận và tiếp cận với phương thức hiên đại, đó là xác định, chiết xuất và giữ ổn
định được các hoạt chất có khả năng tiêu diêt, gây ngán, dẫn dụ hoặc xua đuổi các
loài côn trùng gây hại (Dương Minh Tứ, 1985) [36].
Sử dụng thuốc thảo mộc trừ côn trùng gây hại nói chung và côn trùng gây hại
trong kho ngũ cốc dự trữ nói riêng là một trong những hướng được ưu tiên nghiên
cứu trong công tác bảo vê thực vật hiên nay nhằm hướng tới một nên nông nghiêp
sạch và bền vững. Thuốc thảo mộc BQ-01 do Trung tâm Công nghê hoá học, Viên
Hoá, Viên Khoa học tự nhiên và Công nghê quốc gia sản xuất với nguyên liêu chính
là bột cao lanh, bột hạt xoan ta. Chế” phẩm BQ-01 đã đưa vào thử nghiêm trong các
kho thóc dự trữ tại tỉnh Hà Tây và Hoà Bình (1991-1992). Kết quả thử nghiêm cho
thấy thuốc không có hiêu lực diêt trừ nhưng có hiêu quả xua đuổi đối với côn trùng
trong kho thóc dự trữ. Nhược điểm của thuốc BQ-01 là để lại lượng tạp chất quá cao
trong kho thóc dự trữ, thuốc có mùi khó chịu và gây bụi, ảnh hưởng không tốt đến

sức khoẻ của thủ kho trong quá trình cào đảo thóc (Dương Minh Tứ và Đinh Ngọc
Ngoạn, 1993) [40].
Thuốc Rotex 1,8% WP được sản xuất với hoạt chất Rotenon chiết xuất từ cây
thuốc cá (Derris eUiptica). Kết quả thử nghiêm ở liều luợng 0,2; 0,4 và 1 gam với sâu
non và truởng thành mọt bột vàng (Tenebrio molitor) cho thấy hiệu quả của thuốc đạt
100% với pha trưởng thành ở thời điểm 7 ngày sau xử lý thuốc (Duơng Minh Tú,
1997) [39].
Thuốc thảo mộc Gu Chung Jinh 25 DP do Trung Quốc sản xuất là loại thuốc
tổng hợp của nhiều loại tinh dầu thực vật, chất mang và được bổ sung thêm thuốc
hoá học Deltamethrin với hàm lượng 2,5 mg/kg. Thuốc GCJ đã được bổ sung vào
danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng ở Việt Nam năm 1998 [3]. Sử
dụng thuốc GCJ ở liều lượng 0,04% để bảo quản hạt ngũ cốc như thóc và ngô rất có
hiệu quả và đặc biệt thích hợp với quy mô bảo quản ngô hạt ở hộ gia đình nông dân
tại tỉnh Hà Giang (Nguyễn Thị Oanh và cộng sự, 2003) [27].
Nghiên cứu về tính kháng thuốc hoá học ở một số loài côn trùng gây hại trong
kho được tiến hành chậm hơn rất nhiều so với nghiên cứu về tính kháng thuốc hoá
học đối với côn trùng gây hại cây trồng trên đồng ruộng. Ở nước ta, nghiên cứu về
tính kháng thuốc Dichlorvos (DDVP) ở một số loài côn trùng kho chỉ mới được thực
hiện từ năm 1996. Kết quả bước đầu cho thấy, đã xác định được hiện tượng kháng
thuốc DDVP ở hai loài côn trùng kho nhưng mức kháng không cao (Chi cục Kiểm
dịch thực vật vùng II, 1996) [4].
Tính kháng thuốc xông hơi Phosphine ở một số loài côn trùng gây hại chủ yếu
trong kho ngũ cốc dự trữ ở nước ta được triển khai nghiên cứu từ năm 1990 và sớm
hơn so với thuốc DDVP 6 năm. Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy đã xác định
được một số mẫu địa phương của mọt đục hạt nhỏ (Rhizopertha dominica) và mọt bột
đỏ (Tribolium castaneum) thể hiện tính kháng với Phosphine; trong đó đáng chú ý
nhất là tính kháng Phosphine ở mọt đục hạt nhỏ (Dương Minh Tú, 1990 [37], 1991
[38]; Dương Minh Tú, Bùi Công Hiển và cộng sự, 1993 [42]; Chi cục Kiểm dịch
thực vật vùng II, 1997 [5]).
Một số loại thuốc hoá học đã và đang được sử dụng để bảo quản hạt ngũ cốc ở

nước ta gồm có Actellic, DDVP 50%, Sumithion, Deltamethrin và
Permethrin. Tuy nhiên, hiên chỉ có thuốc Sumithion được sử dụng rộng rãi để phòng
trừ côn trùng gây hại trong kho nói chung và kho thóc dự trữ đổ rời nói riêng do hiêu
lực của thuốc với côn trùng cao, giá thành phù hợp (Vũ Quốc Trung và cộng sự,
1976 [33]; Cục Trồng trọt và Bảo vê thực vật, 1991) [6]).
Thuốc Sumithion (công thức hoá học: C6H12NO5PS, phân tử lượng: 277,2)
còn có các tên gọi khác như Fenitrothion, Folithion, Fentron. Thuốc Sumithion được
gia công thành chế phẩm dạng sữa 50%, bột thấm nước 40%; thuốc bột 2%; 3%; 5%
và ULV 1,25kg/lít. Sumithion là thuốc trừ sâu thuộc nhóm lân hữu cơ, có phổ tác
động rộng và ít độc với động vật máu nóng hơn nhiều loại thuốc tương tự (thuộc
nhóm độc III). Thuốc Sumithion cũng được sử dụng để trừ muỗi và bảo quản hạt.
Sumithion có tác dụng với hầu hết các loài côn trùng gây hại hạt ngũ cốc bảo quản,
nhưng có hiêu quả thấp với mọt đục hạt nhỏ (Cục Trồng trọt và Bảo vê thực vật,
1991) [6].
Thuốc Sumithion 50 EC được sử dụng để sát trùng kho sau khi đã hoàn thành
viêc kê lót nền kho và xung quanh kho. Sau khi phun thuốc sát trùng kho, đóng cửa
kho trong 3 ngày. Thuốc Sumithion 50 EC còn được sử dụng để phun lên bề mặt
khối thóc và tường xung quanh kho trừ côn trùng gây hại khi mật độ quần thể của 4
loài côn trùng gây hại chủ yếu trong kho thóc dự trữ (gồm mọt gạo, mọt đục hạt nhỏ,
mọt bột đỏ và mọt thóc Thái Lan) đạt 20 con/kg (Cục Dự trữ quốc gia, 2001) [9].
Kết quả thử nghiêm hiêu lực của các loại thuốc hoá học như Malathion,
Sumithion, Actellic và Cypermethrine với mọt đục hạt nhỏ (Rhizopertha dominica),
mọt gạo (Sitophilus oryzae) và mọt bột đỏ (Tribolium castaneum) cho thấy đây là những
loại thuốc có hiêu quả cao với côn trùng gây hại trong kho và cho phép chứng ta lựa
chọn sử dụng chứng một cách hợp lý trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau. Phun
trực tiếp thuốc Cypermethrine (Cymbush) lên bề mặt bao bì, trong không gian và
xung quanh khối thóc bảo quản đóng bao tại tỉnh Vĩnh Long với liều lượng 0,1 gam
a/m
2
có khả năng duy trì mật độ quần thể côn trùng gây hại ở mức an toàn trong thời

gian 2-3 tháng (Vũ Quốc Trung, Bùi Minh Hồng và cộng sự, 1999) [34].
Trong nhóm thuốc xông hơi, hiên chỉ còn hai loại thuốc được sử dụng rộng rãi
là Methyl bromide và Phosphine. Những loại thuốc xông hơi khác như Chloropicrin
(CCL3NO2) và Hydrogen cyanide (HCN) đã bị cấm sử dụng do tính độc của thuốc
quá cao, gây nguy hiểm cho người sử dụng, hàng hoá và môi trường hoặc gây ảnh
hưởng xấu đến hàng hoá bảo quản sau xông hơi (Cục Trồng trọt và bảo vê thực vật,
1991) [6].
Thuốc xông hơi Phosphine với nhiều tên thương phẩm khác nhau như
Bêkaphốt, Gastoxin, Phostoxin, Fumitoxin, Quickphos đã được đưa vào sử dụng ở
nước ta từ những năm 1970 với dạng thuốc thương phẩm là Bêkaphốt. Thuốc
Bêkaphốt do Việt Nam sản xuất ở dạng bột màu xám trắng, chứa trong túi nylon với
trọng lượng 200 gam/túi và đóng trong hộp sắt tây với trọng lượng 1kg/hộp (gồm 5
túi nhỏ trong một túi lớn). Thuốc Bêkaphốt được sử dụng để phòng trừ côn trùng gây
hại trên nông sản phẩm bảo quản và xuất, nhập khẩu. Đặc điểm của thuốc Bêkaphốt
là giá thành rẻ, hiệu quả trừ côn trùng cao, thời gian bảo quản thuốc ngắn và dễ gây
ra cháy nổ (Nguyễn Mậu Tài, 1972) [29].
Khí Phosphine được tạo ra từ các phản ứng hoá học của nhôm phốtphua hoặc
magiê phốtphua với hơi nước trong không khí theo phản ứng sau:
AlP + 3 H
2
0 ^Al(0H)
3
+ PH
3
!
Mg
3
P2 + 6 H
2
0 ^ 3 Mg(0H)

2
+ 2 PH
3
!
(Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, 1991) [6]
Kết quả thử nghiệm xông hơi bằng Bêkaphốt trừ mọt gạo (Sitophiỉus oryzae) và
mọt đục hạt nhỏ (Rhizopertha dominica) với liều lượng là 12; 15 và 20 gam/m
3
/3 ngày
(tương đương với 4; 5 và 6,7 gam PH
3
/m
3
/3 ngày) đều đạt hiệu quả 100% (Nguyễn
Mậu Tài, 1972) [29].
Thuốc Phosphine hiện được xác định là loại thuốc chủ lực để phòng trừ côn
trùng gây hại trong kho thóc dự trữ nói riêng và trong kho nông sản cất trữ nói
chung. Thuốc xông hơi Phosphine có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc phối hợp với khí
cácbônic (CO
2
) để xông hơi kho tàng. Sử dụng hỗn hợp thuốc Phosphine với khí
cácbônic ở liều lượng 2 gam PH
3
+ 50 gam CO
2
/m
3
/3 ngày để xông hơi trừ côn
trùng trên hàng hoá bảo quản và xuất, nhập khẩu đã giảm được một nửa chi phí tiền
thuốc và giảm ô nhiễm môi trường (Cục Trồng trọt và Bảo vê thực vật, 1991 [6];

Dương Minh Tứ và Đinh Ngọc Ngoạn, 1991 [41]; Nguyễn Đức Toàn và cộng sự,
2000 [30]).
Với các cây trồng trên đồng ruộng như lứa, rau, chè, bông và cây ăn quả; kết
quả nghiên cứu ứng dụng phòng trừ tổng hợp (IPM) thu được rất khả quan và có ý
nghĩa. Trái lại, những nghiên cứu về phòng trừ tổng hợp đối với nông sản dự trữ
trong kho nói chung và thóc, gạo dự trữ nói riêng còn rất hạn chế” hoặc chưa nghiên
cứu.
Hiên nay, câu lạc bộ IPM hoặc IPM cộng đồng là những hình thức sinh hoạt rất
phổ biến của nông dân ở các tỉnh, thành phố ở nước ta hiên nay để trao đổi và
chuyển giao kiến thức về phòng trừ sâu bênh cũng như kỹ thuật thâm canh cây trồng.
Chỉ tính riêng chương trình IPM trên lứa của hợp phần bảo vê thực vật thuộc dự án
Phục hồi nông nghiệp giai đoạn 1994-1998, đã tổ chức được 2.284 lớp huấn luyên
nông dân về IPM trên lứa với 68.520 nông dân tham gia, tổng kinh phí chi cho hoạt
động IPM xấp xỉ 1,3 triêu đô la Mỹ (Cục Bảo vê thực vật, 1998) [7]. Biên pháp sử
dụng bẫy pheremon giới tính đối với bọ hà khoai lang ở dạng viên nhộng cao su trên
đồng ruộng kết hợp với biên pháp canh tác đã mang lại hiêu quả cao trong phòng trừ
bọ hà (Fliert Elske vande và cộng sự, 1999) [15].
Đối với côn trùng gây hại trong kho, công trình nghiên cứu đầu tiên đã được
công bố là Quy trình phòng trừ tổng hợp sâu mọt hại dược liêu bảo quản tại thành
phố Hồ Chí Minh của Nguyễn Hữu Đạt (1991) [13]. Quy trình gồm 7 bước trong đó
nhấn mạnh yếu tố khống chế” thuỷ phần dược liêu bảo quản và xông hơi Phosphine
toàn kho khi mối cân bằng giữa loài côn trùng bắt mồi Thaneroclerus buqueti với mọt
thuốc lá (Lasioderma serricorne) hoặc mọt đục hạt nhỏ (Rhizopertha dominica) bị phá
vỡ.
Hoàn thiên và ứng dụng công nghê phòng trừ tổng hợp sinh vật hại đối với một
số nông sản sau thu hoạch quy mô hộ gia đình là công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học thuộc Viên Công nghê sau thu hoạch. Quy trình gồm 9 công đoạn, khép kín
từ khâu thu hoạch đến tiêu thụ. Công đoạn quan trọng nhất của quy trình này là sử
dụng máy sấy cỡ nhỏ để làm khô nông sản đạt đến giá trị thuỷ phần 13% và bảo
quản nông sản trong các kho silô cải tiến cỡ nhỏ CCT- 02 (Nguyễn Kim Vũ và công

sự, 2003) [50].

×