Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN CỦA THỊ TRƯỜNG PHÂN BÓN VÔ CƠ TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (570.87 KB, 67 trang )

NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ CƠ BẢN
CỦA THỊ TRƯỜNG PHÂN BÓN VÔ CƠ TRÊN
THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
LỜI NÓI ĐẦU
1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
- Nông nghiệp là một ngành sản xuất quan trọng của Việt Nam, hiện tại
nông nghiệp vẫn chiếm 70% lực lượng lao động của toàn xã hội và khoảng
27,2% GDP của cả nước. Theo nghị quyết đại hội toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng cộng sản Việt Nam, từ năm 1997 trở đi Việt Nam sẽ chuyển sang
một giai đoạn phát triển mới giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Mặc dù vậy sản xuất nông nghiệp vẫn có một vị trí hết sức quan trọng
trong nhiều năm nữa.
- Trong sản xuất nông nghiệp, có nhiều yếu tố tác động đến năng suất và
sản lượng các loài cây trồng như: đất đai, thời tiết, khí hậu, các thiết bị kỹ
thuật, giống, phân bón ...v.v. Song phân bón bao giờ cũng là yếu tố có tính
quyết định thường xuyên. Bởi vậy, ở Việt Nam phân bón được xếp vào loại
mặt hàng chiến lược hết sức quan trọng.
- Là một nước nông nghiệp, nên nhu cầu về phân bón của Việt Nam rất
lớn (bình quân mỗi năm trên 2 triệu tấn). Tuy nhiên công nghiệp phân bón
của Việt Nam đang còn quá nhỏ bé và lạc hậu, hiện tại mới sản xuất và
cung ứng được khoảng 8- 10% nhu cầu về phân ure của cả nước, số còn lại
phải dựa vào nhập khẩu từ bên ngoài.
- Nông nghiệp luôn cần phân, song do nhiều lý do khách quan và chủ
quan tác động (tài chính, tổ chức quản lý, cơ chế chính sách...) nên việc nhập
khẩu phân bón của Việt Nam vừa qua diễn ra không được thuận lợi. Điều
này đã làm cho Cung-Cầu, giá cả phân bón ở Việt Nam diễn ra không ổn
1
định: lúc sốt nóng, lúc sốt lạnh gây không ít khó khăn cho nông dân và cho
sản xuất nông nghiệp.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố cơ bản của thị trường phân bón
vô cơ như: cung, cầu, giá cả phân bón vô cơ trên thị trường và các chính sách


điều tiết của nhà nước nhằm tìm ra những giải pháp hữu hiệu. Giải quyết một
cách căn bản, ổn định vấn đề phân bón và thị trường phân bón ở Việt Nam là
một đòi hỏi cấp bách hiện nay.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
-Mục đích của đề tài là đánh giá đúng đắn thực trạng cung cầu phân bón
vô cơ trên thị trường ở Việt Nam hiện nay.
-Hệ thống hoá các công cụ điều tiết của nhà nước quản lý vĩ mô hoạt động
thương mại kinh doanh phân bón vô cơ.
-Đề xuất những giải pháp chủ yếu, trong đó quan trọng nhất là cơ chế tổ
chức và hệ thống chính sách nhằm giải quyết một cách căn bản vấn đề phân
bón và ổn định thị trường phân bón ở Việt Nam trong giai đoạn tới (2000 -
2010).
2
PHẦN 1: NHU CẦU PHÂN BÓN VÔ CỎ TRÊN THỊ TRƯỜNG
VIỆT NAM
1. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NỀN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG VÀ
NHU CẦU PHÂN BÓN VÔ CƠ.
1.1.Phát triển nông nghiệp-mục tiêu mũi nhọn của nền kinh tế Việt
nam.
Khi đánh giá về những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới
kinh tế Việt Nam, các nhà kinh tế thế giới đều thống nhất nhận định rằng:
Thành công lớn nhất là nông nghiệp. Điều đó hoàn toàn đúng, nông
nghiệp Việt Nam bắt đầu đổi mới cơ chế quản lý từ sau Nghị quyết
10(4/1988). Nếu trước đổi mới nông nghiệp Việt Nam mang nặng tính tự
túc tự cấp, làm không đủ ăn, lương thực thiếu triền miên từ năm này qua
năm khác thì từ sau đổi mới, tình hình đã khác hẳn. Nông nghiệp Việt
Nam hiện nay được xem là ngành quan trọng để phát triển kinh tế đất
nước. Vai trò của nó được thể hiện như sau:
+ Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ
vốn cho Công nghiệp hoá.

Trong nhiều năm trước đây, nông nghiệp đã tạo ra trên 40% thu nhập
quốc dân sản xuất và hiện nay ngành này đang tạo ra gần 30% GDP và
hơn 45% giá trị xuất khẩu của cả nước.
Tích luỹ từ nông nghiệp tuy không lớn về ngoại tệ, nhưng lại diễn ra
trên phạm vi rộng (trên 10 triệu hộ nông nghiệp). Tích luỹ từ ngành này
được thực hiện trực tiếp thông qua thuế nông nghiệp trước đây(nay là thuế
sử dụng đất nông nghiệp). Đối với các Tỉnh, Huyện nông nghiệp thì đây là
nguồn thu chủ yếu.
3
BIỂU 1: TỶ LỆ THUẾ NÔNG NGHIỆP TRONG TỔNG THU NGÂN
SÁCH VÀ GDP NÔNG NGHIỆP (1993-1998)
Năm Tỷ lệ thuế nông nghiệp
so với
Tổng thu ngân sách Tổng GDP nông nghiệp
1993 4,7% 1,9%
1994 6,7% 2,3%
1995 6,1% 3,6%
1996 4,2% 3,3%
1997 2,7% 2,4%
1998 2,7% 2,5%
Mức và tỷ lệ đóng góp của thuế nông nghiệp vào ngân sách nhà nước
và vào GDP tuy không lớn nhưng là nguồn thu ổn định, có ý nghĩa rất
quan trọng đến sự phát triển kinh tế địa phương trong bước đi ban đầu của
thời kỳ công nghiệp hoá.
+ Sản xuất nông nghiệp là nguồn cung cấp ngoại tệ nhờ xuất khẩu: Để
hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước thì nước ta phải tạo điều kiện
dựa vào thế mạnh của mình- đó là sự thuận lợi cho phát triển nông nghiệp
và sản xuất hàng tiêu dùng. Nhờ vậy sản phẩm nông nghiệp đóng vai trò
quan trọng trong việc xuất khẩu, tạo điều kiện cho việc mở rộng và phân
công hợp tác quốc tế. Hơn nữa, với khoa học kỹ thuật còn kém, công

nghiệp nhỏ bé, sản phẩm công nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới thì nguồn tích luỹ từ nông nghiệp có ý nghĩa to lớn. Từ
những mặt hàng xuất khẩu như gạo, cà phê, ca cao, chè... sẽ tạo nguồn
ngoại tệ cho đất nước nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho phát triển
các ngành kinh tế khác của đất nước.
+ Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn của công nghiệp và
dịch vụ vì khu vực này chiếm 80% dân số cả nước. có thể nói sức mua
của nông dân có vai trò quan trọng, đôi khi là quyết định đối với quy mô
và tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, muốn phát triển
4
kinh tế bền vững và ổn định phải dựa vào thị trường trong nước, trước hết
là nông dân. Sức mua của thị trường này hiện nay còn rất thấp cho nên
tiềm năng có thể khai thác là rất lớn. Nông dân càng giàu thì chênh lệch
giữa nông thôn và thành thị càng thấp, sức mạnh của nông dân càng cao,
tăng trương kinh tế càng lớn và ổn định. Ngược lai, thu nhập của nông dân
càng thấp, chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị càng cao thì
sức mua của nông thôn sẽ giảm, kéo theo nhiều vấn đề phức tạp như tỷ lệ
đói nghèo cao, di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ tăng, tỷ lệ thất nghiệp,
lạm phát làm chậm quá trình tăng trưởng kinh tế.
+Sản xuất nông nghiệp là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho
đời sống và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp. Cho đến nay, lương
thực thực phẩm tạo ra từ nông nghiệp vẫn là nguồn nuôi dưỡng không thể
thiếu được của xã hội loài người. Nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày
càng tăng do dân số ngày càng nhiều, cũng như qua trình công nghiệp hoá
gắn liền với sự tăng liên tục của lực lượng lao động phi nông nghiệp.
Lương thực, thực phẩm không những là yếu tố vật chất cơ bản nuôi sống
con người mà còn cung cấp các nguyên liệu cần thíêt cho Công nghiệp
chế biến. Quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến phụ
thuộc vào quy mô và tốc độ phát triển nông nghiệp. Hiện nay công nghiệp
chế biến ở ở nước ta chưa đạt đến trình độ cao. Nhiều nông sản nguyên

liệu vẫn phải xuất thô, giá trị thấp như cà phê nhân, cao su tấm, cao su
xốp, chè sơ chế, thuỷ sản đông lạnh, gỗ ván sàn.... cùng với quá trình công
nghiệp hoá, tình trạng đó sẽ được khắc phục dần bằng việc xuất khẩu các
sản phẩm tinh chế qua công nghiệp kỹ thuật cao. Khi đó vai trò của nông
nghiệp trong việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp càng tăng lên.
+Nông nghiệp còn là nguồn cung cấp nhân lực cho công nghiệp và dịch
vụ. Học thuyết về kinh tế và thực tiễn các nước đã qua công nghiệp hoá
chỉ ra rằng, quá trình phát triển kinh tế theo hướng hiện đại đều gắn kết
với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động từ nông thôn ra thành thị,
5
từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Công nghiệp hoá gắn liền với thành
thị hoá và thu hút nguồn lao động từ nông nghiệp chuyển sang các ngành
phi nông nghiệp. Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá không đòi hỏi
tăng nhanh số lượng lao động vào các hoạt động thuần tuý Công nghiệp
nhưng đòi hỏi nhiều hoạt động dịch vụ hỗ trợ như vận chuyển, bao bì,
đóng gói, phân loại sản phẩm, nhận hàng, tiếp thị, thông tin thị trường, y
tế, văn hoá, giáo dục,....khi các hoạt động này tăng lên tất yếu đòi hỏi
nguồn lao động bổ sung rất lớn từ nông nghiệp.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng nông nghiệp giữ một vị
trí cực kỳ quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Chính vì vậy, Đảng ta đã khẳng định: Phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu có vai trò quyết
định đối với việc ổn định tình hình kinh tế, xã hội, tạo cơ sở cho phát triển
công nghiệp.
1.2.Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và nhu cầu phân bón vô cơ.
Trước năm 1950, trong sản xuất nông nghiệp người nông dân Việt Nam
dường như chỉ dùng các loại phân hữu cơ (phân chuồng, phân xanh, phân
bùn, phân bắc....) để bón cho các loại cây trồng. Phân hữu cơ có những ưu
điểm là: làm cho đất tơi xốp, từng bước được cải tạo, nâng cao dần độ màu
mỡ của đất, song nhược điểm là phân huỷ lâu, cây trồng sử dụng được ít. Vì

thế năng suất cây trồng tăng chậm. Từ những năm 1960 trở lại đây, các loại
phân bón vô cơ như ure, kali, lân.... được đưa vào sử dụng ngày một tăng ở
Việt Nam. Ngày nay, để vừa cải tạo đất, vừa nâng cao năng suất cây trồng
người nông dân Việt Nam thường dùng kết hợp giữa phân hữu cơ và phân vô
cơ. Tuy nhiên phân hữu cơ chủ yếu được dùng từ miềnTrung trở ra và thường
là các hộ nông dân, ai có bao nhiêu dùng bấy nhiêu, nó không phải là hàng
hoá mua bán trên thị trường như phânvô cơ. Ở đồng bằng Sông Cửu Long do
đồng ruộng hàng năm luôn được phù xa bồi đắp nên người nông dân không
có tập quán dùng phân hưũ cơ để bón ruộng.
6
Nói tới Cung- cầu về phân vô cơ là nói tới nhu cầu của người dân về loại
phân này và khả năng cung ứng của các loại doanh nghiệp (thuộc mọi thành
phần kinh tế ) cho họ. Tuy nhiên phân bón là một mặt hàng khá đặc biệt về
cầu và cung. Mặt hàng này ở Việt Nam có những nét đặc trưng riêng hơi khác
so với thị trường phân bón bình thường ở các nước có nền kinh tế phát triển
hoàn hảo.
Thứ nhất, nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời. Nó mang
tính kế thừa sâu sắc về các kỹ thuật gieo trồng từ đời nọ sang đời kia qua hàng
nghìn năm với tính bảo thủ cao và khó thay đổi.
Thứ hai, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lực
lượng lao động nhất là ở những nước nông nghiệp như nước ta, những giá trị
sản xuất nông nghiệp lại thấp hơn. Tuy nhiên, xu hướng biến đổi tỷ trọng
nông nghiệp giảm dần về mặt số lao động và giá trị sản lượng. Theo quy luật
tiêu thụ sản phẩm, sản phẩm nông nghiệp là sản phẩm thiết yếu, con người chỉ
có thể tiêu dùng ở một mức độ nhất định mà không thể tăng mức tiêu dùng
lên cao mãi được. Ngày nay, năng suất lao động ngày càng tăng, nên lao động
cần cho sản xuất giảm. Như các ngành khác, nông nghiệp sẽ dần dần được cơ
giới hoá sử dụng nhiều máy móc và chỉ cần ít người làm.
Thứ ba, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan như
đất đai, thời tiết, nguồn nước....Trong đó đất đai giữ vai trò quyết định, đây là

tư liệu sản xuất cơ bản của sản xuất nông nghiệp. Gắn liền vơí vai trò chủ đạo
của đất đai là ảnh hưởng của thời tiết- yếu tố quan trọng quyết định sản lượng
của nông nghiệp cao hay thấp. Trong nông nghiệp sự khác nhau về chất lượng
đất trồng, khí hậu và nguồn nước sẵn dẫn đến việc sản xuất lương thực khác
nhau và các biện pháp để nâng cao năng suất của mùa vụ cũng khác nhau.
Tuy khối lượng chất dinh dưỡng trong đất rất lớn nhưng trên thực tế cây trồng
không thể huy động hết được. Mặt khác, tỷ lệ chất dinh dưỡng trong đất
không giống nhau. Có loại đất chứa nhiều đạm nhưng ít lân, Ka li và ngược
lại. Ngoài ra, chất dinh dưỡng còn bị các loại cây trên mặt đất sử dụng hoặc
7
đất bị rửa trôi. Do đó mà việc sử dụng phân bón cho đất, cho cây là rất cần
thiết.
1.3.Phân bón vô cơ và nhu cầu phân bón vô cơ trong nông nghiệp
Phân bón đã từng là một trong những nhân tố quan trọng (cùng với giống
và thuỷ lợi) của cách mạng xanh, giúp cho nhiều nước đông dân tự túc được
lương thực thoát khỏi đói nghèo.
Trước đây sản lượng ngũ cốc chủ yếu đưa vào 2 yếu tố: Diện tích và năng
suất. Trong thời gian gần đây khi diện tích đất canh tác ngày càng tới gần giới
hạn tối đa thì vai trò năng suất ngày càng quan trọng.Theo tính toán của
IFPRI năm 1996, hiện nay tăng năng suất đóng góp trên 80% tăng sản lượng
ngũ cốc và trong tương lai, việc tăng sản lượng sẽ cũng dựa vào tăng năng
suất. Để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, thâm canh gần như là giải
pháp duy nhất đối với Việt Nam. Mà trong thâm canh, vai trò của phân bón
lại càng quan trọng, phân bón có thể góp phần tăng năng suất cây trồng qua
nhiều cơ chế tác động khác nhau. Song quan trọng hơn cả là phân bón cung
cấp cho cây trồng những dinh dưỡng cần thiết mà đất không đủ khả năng
cung cấp, góp phần duy trì độ phì nhiêu của đất trong canh tác. Thêm nữa,
cùng với năng suất kinh tế, phân bón góp phần tăng lượng sinh khối và nhờ
đó tăng hữu cơ trở lại cho đất- yếu tố cực kỳ quan trọng với đất nhiệt đới.
Cùng với gieo cấy các giống mới, việc nâng cao hệ số sử dụng đất thông

qua tăng vụ cũng là nguyên nhân làm cho nhu cầu dinh dưỡng phải bổ sung
tăng lên. Như vậy, ngoài những nguyên nhân gây thoái hoá đất như sói mòn,
rửa trôi.... thì việc không đảm bảo cân bằng giữa lượng dinh dưỡng được bón
vào đất cũng là một yếu tố làm đất thoái hoá (dạng thoái hoá này có xu hướng
tăng lên).
Ở những vùng đồi núi nơi mà nông dân có tập quán du canh thì trước đây
thông thường chu kỳ bỏ hoá là 10- 15 năm. Hiện nay do áp lực về dân số nên
chu kỳ bỏ hoá chỉ còn 5 năm, thậm chí 3 năm. Như vậy về mặt thời gian
không đủ cho đất phục hồi phì nhiêu một cách tự nhiên. Việc xoá bỏ du canh,
8
thiết lập một nền tảng thâm canh, trong đó cân bằng dinh dưỡng thông qua
phân bón giữ một vị trí quyết định.
Ngoài ra, việc bón phân không những chỉ là cung cấp dinh dưỡng mà còn
có ý nghĩa cải tạo đất, hoặc loại trừ các yếu tố hạn chế năng suất trong đất.
Trong một số trường hợp, phân bón (nhất là Lân, Kali và một vài nguyên tố vi
lượng khác) còn thúc đẩy quá trình cố định đạm của cây Bộ đậu, và tăng
cường dinh dưỡng cho đất. Đồng thời việc kết hợp hài hoà các nguồn dinh
dưỡng như hữu cơ, phân khoáng, phân sinh học... sẽ đảm bảo cho một nền
thâm canh ổn định.
KHUYẾN NÔNG PHÂN BÓN.
(CHƯƠNG TRÌNH THỰC HIỆN Ở 15 TỈNH VỚI 3726 HA )
Phương pháp bón Quy mô Số HTX Số hộ Sản lượng
tham gia tăng(Tấn)
-Bón phân cân đối cho
lúa vàng thâm canh 1.000 29 10610 800
-Bón phân cân đối cho
vùng nghèo dinh dưỡng 448 22 4.272 535
-Bón phân cân đối cho
vùng trũng 300 16 3.185 150
-Bón phân cân đối cho

vùng mặn 350 10 2.281 277
-Sử dụng các chế
phẩm vi sinh 538 27 5.686 215
-Bón phân phun lá 490 23 5.200 190
-Bón phân cân đối cho Ngô 300 17 3.110 -
-Bón phân cân đối cho
đậu tương 250 26 3.036 -
-Bón phân cân đối cho lạc 50 2 698 58
Cộng 3.726 172 38.120 2.225
9
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong sử dụng phân bón vô cơ, song hệ số sử
dụng phân đạm ở Việt Nam cũng chỉ mới đạt 30-40%, phân lân và kali
khoảng 50-60%. Một lượng lớn phân vô cơ bị mất đi do rửa trôi, xói mòn, bay
hơi, cố định chặt.... Chỉ tính riêng với phân đạm, hàng năm chúng ta mất đi
xấp xỉ 1-1,2 triệu tấn (quy ure) với giá trị hàng triệu USD/ năm, còn chưa kể
đến những tác động môi trường do sự mất mát này đem lại. Bón phân cân đối
hiện nay được coi là giải pháp quan trọng nhất để năng cao hiệu lực phân bón.
Theo tổng kết của FAO, bón phân không cân đối có thể giảm hiệu lực phân
bón từ 20-50%. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam hiên nay, việc sử
dụng không cân đối dinh dưỡng với liều lượng phân đạm tương đối cao đã
làm giảm hiệu lực phân bón (khái niệm cân đối bao gồm: cân đối về nhu cầu
và lượng hút của cây trồng, cân đối giữa các chất dinh dưỡng tại các thơì kỳ
sinh trưởng khác nhau, cân đối với các điều kiện tự nhiên liên quan đến hiệu
lực phân bón, cũng như cân đối với từng loại cây trồng trong một hệ thống
luân canh). Tóm lại, phân bón nói chung và phân bón vô cơ nói riêng rất cần
cho cây trồng. Song để sử dụng mang lại kết quả như mong muốn thì phải
quan tâm và nghiên cứu đến tính chất, tác dụng từng loại phân cũng như đặc
điểm đất đai, sử dụng hợp lý và đúng thời vụ.
2. CÁC NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN CẦU PHÂN BÓN VÔ
CƠ Ở VIỆT NAM.

Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoàn hảo, có nền nông
nghiệp phát triển cao, cơ cấu các loại cây trồng tương đối ổn định thì nhu cầu
phân vô cơ của người nông dân chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập của người
nông dân, song ở Việt Nam nhu cầu phân vô cơ hiện tại còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố đó là:
2.1. Phụ thuộc vào sự phát triển của diện tích gieo trồng.
Việt Nam chỉ có khoảng 7 triệu ha đất nông nghiệp, song do Việt Nam
nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, mưa nhiều, nắng cũng nhiều, thời tiết nóng
10
ẩm quanh năm. Các loại cây ngắn ngày, nếu giải quyết vấn đề tưới tiêu nước,
vấn đề phòng trừ sâu bệnh .... thì có thể làm cho diện tích gieo trồng của đất
nước tăng lên qua từng năm. Việt Nam còn 3 triệu ha đất có khả năng nông
nghiệp có thể khai hoang để chuyển thành đất nông nghiệp, song thực ra diện
tích đất khai hoang chỉ đủ cho diện tích đất nông nghiệp bị mất đi hàng năm
do chuyển sang đất xây dựng cơ bản, vì thế diện tích gieo trồng tăng chủ yếu
là do tăng vụ mà có.
Theo con số thống kê thì năm 1996 so với năm 1989 diện tích gieo trồng
của Việt Nam đã tăng lên 1.932.800ha, bình quân mỗi năm tăng lên khoảng
276.114ha. Trong đó cây hàng năm tăng 1.415.000 ha. Bình quân mỗi năm
tăng 201.142ha, diện tích tăng này chủ yếu là do tăng vụ mà có, cây lâu năm
tăng 518.200ha. Trong số này cây công nghiệp lâu năm tăng 402.900ha (chủ
yếu là do khai hoang trồng mới) và cây ăn quả tăng 63.000 ha (chủ yếu là do
cải tạo các vườn tạp mà có).
Giả thiết rằng, các điều kiện khác không có gì thay đổi thì chính việc tăng
diện tích gieo trồng đã làm cho nhu cầu phân vô cơ tăng lên, 1ha một năm cần
khoảng 200kg các loại phân vô cơ, thì riêng việc tăng diện tích mỗi năm cũng
làm cho nhu cầu phân bón tăng thêm 55.228 tấn.
2.2. Phụ thuộc vào loại cây trồng.
Tập đoàn cây trồng của Việt Nam hết sức phong phú đa dạng: có cây
lương thực, cây công nghiệp, cây rau đậu, cây ăn quả, cây dược liệu, cây thức

ăn cho gia súc. Song trong từng loại cây có hàng chục, hàng trăm loại cây cụ
thể. Ví dụ, riêng cây lương thực ở Việt Nam đã có các loại: lúa , ngô, khoai,
sắn, đỗ ..(trừ đỗ tương), đồng thời cũng có thể tính cả cây khoai tây nữa.
Trong tập đoàn cây trồng đó, không phải cây nào người nông dân Việt
Nam cũng dùng phân bón vô cơ để bón trong quá trình sản xuất. Thực tiễn sự
phát triển của nền nông nghiệp Việt Nam mấy chục năm vừa qua đã cho thấy,
phân bón vô cơ hầu như 80% là dùng bón cho cây lúa, các loại cây trồng
khác, chỉ bón có 20% mà thôi (các cây này chủ yếu là caphê, chè, mía, rau,
11
hoa). Các loại cây còn lại người ta thường dùng phân xanh, phân chuồng,
phân rác.Tất nhiên, như thế không có nghĩa là các loại cây trồng khác không
cần dùng phân vô cơ, rất cần song vì khả năng có hạn, nên trước hết người ta
phải ưu tiên cho các loại cây trồng giữ vai trò chủ yếu (bảo đảm an ninh
lương thực Quốc gia, tạo ra hàng hoá lớn phục vụ cho xuất khẩu ...).
Bởi vậy, khi khả năng đầu tư của người nông dân ngày một tăng thì các
loại cấy trồng được bón phân vô cơ cũng sẽ được mở rộng thêm và như vậy
nhu cầu phân vô cơ sẽ tăng.
2.3. Phụ thuộc vào thu nhập của người nông dân
Về mặt lý thuyết thì dường như người nông dân nào của Việt Nam cũng
hiểu được rằng, muốn nâng cao năng suất cây trồng phải có sự đầu tư thoả
đáng, đặc biệt là đầu tư phân bón. Song với một đất nước 80% dân số sống ở
nông thôn, trên 70% lực lượng lao động của toàn xã hội làm việc trong nông
nghiệp nhưng đất nông nghiệp lại quá ít (tính bình quân đầu người vào loại ít
nhất thế giới). Đã thế lại chịu sự tàn phá nặng nề của 2 cuộc chiến tranh trong
suốt 30 năm, do đó người dân, nhất là nông dân nghèo cho đến nay GDP bình
quân ở nông thôn mới đạt khoảng 200 USD/năm /người, thì nông dân khó có
thể đem nhiều tiền để mua phân bón, bởi lẽ họ còn nhiều nhu cầu khác cần
thiết hơn. Theo đánh giá của một số chuyên gia, người dân nước ta chưa đủ
khả năng để dùng phân bón vừa đủ. So với định mức của Hội phân bón Quốc
tế(IFA), mức phân bón cho cây lúa, cam, chè ở Việt nam chỉ đạt 50%, cho

cây cà phê chỉ đạt 70%, khoai sắn chỉ đạt 6-7%. Mấy năm gần đây, nhờ thu
nhập của người nông dân có tăng lên, do đó việc đầu tư mua phân bón có khá
hơn.
2.4. phụ thuộc vào tập quán sản xuất và trình độ thâm canh của từng
vùng trong nước.
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên- kinh tế -xã hội cụ thể, lãnh thổ Việt Nam
được chia thành, vùng kinh tế và sinh thái khác nhau.
-Vùng trung du và miền núi bắc bộ
12
-Vùng đồng bằng sông hồng
-Vùng khu 4 cũ
-Vùng Duyên Hải nam trung bộ
-Vùng tây Nguyên
-Vùng đông nam bộ và
-Vùng đồng bằng Sông cửu Long
Dưới đây là diện tích cây trồng mỗi vùng .
BIỂU SỐ 2: DIỆN TÍCH CÂY TRỒNG PHÂN THEO VÙNG
Ở VIỆT NAM
Đơn vị tính: 1000ha
Vùng 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Cả nước 8978,2 9040 9409,7 9752 9979,7 10172,4 10496
Miền núi-trung du bắc bộ 1348,2 1314,2 1377,2 1492,1 1521,6 1512,8 1528
Đồng bằng sông Hồng 1475,1 1436 1441,4 1397,3 1412,3 1401,4 1400
Khu 4 cũ 1091,6 1076,6 1078,8 1133 1117,5 1134,3 1141
Duyên hải miền trung 801,7 802 835,8 849,6 867,1 862,8 875
Tây nguyên 457,6 464,7 473,6 500,1 524 533,8 631
Đông nam bộ 838,3 850,9 881,8 935,7 1.000,2 1096,8 1133
ĐB Sông Cửu Long 2963 3097,1 3321,2 3444,2 3535,9 3819,9 3781
Nguồn: Tổng cục thống kê
Biểu trên cho ta thấy, trừ đồng bằng Sông Cửu Long có diện tích trên 4

triệu ha, lớn nhất cả nước. Còn các vùng khác có diện tích gần bằng nhau.
(riêng Tây Nguyên là ít nhất song vùng này cũng có khả năng mở rộng ra
trong tương lai). Tuy nhiên, không phải nông dân ở 7 vùng đều có nhu cầu sử
dụng phân bón vô cơ như nhau. Đồng bào thuộc các dân tộc ít người ở miền
núi phía bắc, khu 4 cũ, Duyên hải miền trung và ở Tây Nguyên với phương
thức canh tác rất lạc hậu , đốt nương làm rẫy (chọc lỗ, gieo hạt, sau đó là trăm
sự nhờ trời ) nên ít sử dụng phân bón. Một bộ phận đồng bào các dân tộc sống
định canh ở các cánh đồng lúa nước ven các thung lũng, hoặc những vùng cây
nguyên liệu tập trung như Chè, Cà phê, Cao su.v.v... đã biết sử dụng phân vô
cơ, nhưng do thu nhập của họ còn quá thấp nên số lượng sử dụng cũng không
nhiều.
13
Nông dân các vùng đồng bằng đều có sử dụng phân vô cơ vào sản xuất
nông nghiệp. Tuy nhiên mức độ cũng có khác nhau, ở đồng bằng Sông Cửu
Long do sản xuất lúa gạo hàng hoá là chính và người dân ở đây cũng quen với
việc dùng phân vô cơ hơn nên số lượng họ dùng để bón cho 1 ha cây trồng
thường cao hơn ở đồng bằng Sông Hồng, Đồng bằng khu 4 cũ và đồng bằng
Duyên hải miền trung. Chẳng hạn, tổng số phân bón NPK bón cho 1ha lúa ở
đồng bằng sông Hồng những năm qua bình quân từ 150-200 kg/vụ, thì ở đồng
bằng Sông Cửu Long con số đó là 200-250kg. Thêm vào đó là việc không
hiểu biết của người nông dân, nhiều khi do một ý thích nẩy sinh không có cơ
sở khoa học có thể thích loại phân này hơn loại khác. Có thời kỳ nông dân
thích sử dụng loại phân đạm hạt nhỏ làm cho loại hạt to bị ứ đọng, mặc dù nó
có tác dụng đến cây trồng là như nhau.
Như vậy, để nâng cao hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh
phân bón vô cơ thì phải nắm bắt đựơc các tính chất này, để từ đó đảm bảo
được cân bằng cung cầu trên thị trường. Có như vậy mới bảo đảm được chi
phí lưu kho, tăng được vòng quay vốn, nâng cao được kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
3. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH NHU CẦU PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở

VIỆT NAM
3.1. Căn cứ vào mức tiêu hao phân bón cho một đơn vị sản phẩm cây
trồng.
Cách tính này dựa trên quyết định số 18-UB/ĐM của Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước ngày 14/2/1987 về việc ban hành định mức kinh tế kỹ thuật. Trong
đó có các quy định về mức phân bón cho 1 đơn vị sản phẩm để làm căn cứ
cho việc tính nhu cầu phân bón.
+Cơ sở phương pháp
Dựa trên 2 yếu tố:
14
*Sản lượng cây trồng dự kiến trong một thời kỳ nhất định
*Mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị sản phẩm của cây trồng cần xác
định.
Để xác định nhu cầu một loại vật tư cho một cây trồng trong một thời kỳ
kế hoạch, ta lấy sản lượng dự kiến của cây trồng đó nhân với mức tiêu hao vật
tư của loại cây đó .
Công thức : Q = S.M
Q: Nhu cầu một loại vật tư cần xác định cho một loại cây trồng nào đó .
S: Sản lượng cây trồng đó
M: Mức tiêu hao vật tư cho 1 đơn vị sản phẩm của cây trồng đó
VD: Sản lượng Ngô năm 1991là 672 ngàn tấn
-Mức tiêu hao phâm đạm theo định mức là 100 kg đạm tiêu chuẩn/ tấn
ngô.
Nhu cầu phâm đạm cho cây Ngô năm 1991 là:
672 tấn x 100 = 67.200 tấn (đạm tiêu chuẩn)
Tổng nhu cầu của một loại vật tư nào đó cho một thời kỳ được xác định
theo công thức sau: Q = S.M
Q: là tổng nhu cầu của một loại vật tư .
Si: sản lượng của các loại cây trồng từ 1 đến n.
Mi: là mức tiêu hao vật tư cho các cây trồng từ năm 1-n

*Phân đạm tiêu chuẩn: là loại phân có chứa lượng đạm (N) là 20-21%
Tính trung bình 20,5%
*Phân lân quy Suppe phốt phát Lâm Thao: chứa lượng lân P
2
O
5
-Lân
chuẩn 10% P
2
O
5
+Mức độ chính xác của phương pháp.
-Lượng vật tư thực tế sử dụng: là số vật tư đã tiêu hao trong quá trình sản
xuất. Trong phạm vi cả nước việc thống kê số liệu này là rất khó, vì vậy có
thể lấy số lượng vật tư đã được nhập khẩu và số vật tư đã được bán ra của các
cơ sở sản xuất trong nước là số vật tư thực tế sử dụng.
15
-Lượng vật tư tính theo lý thuyết: Sử dụng công thức trên.
+Ưu điểm của phương pháp:
-Trên cùng một đơn vị diện tích nhưng năng suất càng cao, yêu cầu phân
bón càng lớn.
3.2. Phương pháp dự tính nhu cầu phân bón căn cứ vào tiêu hao cho
một đơn vị diện tích gieo trồng.
+ Cơ sở phương pháp, dựa vào:
-Diện tích gieo trồng .
-Tiêu hao vật tư cho 1ha gieo trồng .
Định mức này do viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp thuộc Bộ nông
nghiệp- CNTP ban hành năm 1990 với mục đích làm căn cứ cho việc tính
toán các qui hoạch, kế hoạch về vật tư nông nghiệp.
Theo phương pháp này, muốn dự tính nhu cầu của một loại phân bón vô

cơ nào cho một cây trồng trong một thời kỳ kế hoạch ta lấy diện tích gieo
trồng dự kiến của cây trồng đó nhân với mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị
diện tích gieo trồng của loại cây đó, theo công thức:
Q= D.M
Q: Nhu cầu dự tính cho một loại cây trồng.
D: Diện tích gieo trồng của cây đó .
M: Mức tiêu hao vật tư cho một đơn vị diện tích của cây trồng đó.
VD:- Diện tích đay bẹ năm 1995 là 7.000ha.
-Tiêu hao phâm đạm cho 1ha đay bẹ là 750kg phân đạm tiêu chuẩn.
-Nhu cầu phân đạm cho sản phẩm đay bẹ là 5250tấn .
Tổng nhu cầu một loại vật tư cho các loại cây trồng trong một thời kỳ nào
đó được xác định theo công thức sau: Q= D.M
Q: Tổng nhu cầu của các loại vật tư cần tính.
D: là diện tích các loại cây trồng từ 1-n.
M: là mức tiêu hao vật tư trên một đơn vị diện tích cây trồng từ 1-n.
Trong định mức này lưu ý:
16
Cùng 1 ha gieo trồng nhưng mức bón phân là khác nhau phụ thuộc vào
năng xuất cây trồng
VD: 1ha gieo trồng lúa đông xuân nếu:
Năng suất từ 30-40tạ/ha, mức bón từ 60-80N
Năng suất từ 50-60tạ/ha -100-120N/ha
+Ưu điểm phương pháp:
-Căn cứ vào diện tích gieo trồng là diện tích thực sự cần phân bón
-Trong định mức có tính đến năng suất cây trồng khác nhau mức tiêu hao
vật tư khác nhau
*Một số ảnh hưởng khi áp dụng cách tính nhu cầu phân bón (nhờ việc
nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón)
+Sử dụng công thức QUEFTS hay máy đo diệp lục tố đã giảm bón lượng
đạm từ 15-20% mà năng suất lúa không đổi.

+Nâng cao hàm lượng chất dinh dưỡng trong phân bằng cách loại bỏ các
tạp chất hay những yếu tố không cần thiết cho cây trồng, như sản xuất ure
(40%N) thay dần cho Bicacbonatamon hay sunphatAmôn, Clorua amôn, sản
xuất DAP, TSP có hàm lượng lân cao (46% P
2
O
5
) thay dần cho supephôtphát
đơn hay Tecmophotphat. Thông qua sản xuất phân hoá hợp, phana trộn chứa
từ 2-3, nguyên tố trở lên như MAP, DAP, Phân NPK các loại.
+Sản xuất phân bón chuyên cây.
17
PHẦN 2. CUNG PHÂN BÓN CÔ CƠ TRÊN THỊ TRƯỜNG
VIỆT NAM.
Có 2 nguồn cung câp phân bón vô cơ cho sản xuất nông nghiệp trên thị
trường Việt nam đó là: Nguồn nhập khẩu và nguồn sản xuất phân bón trong
nước.
1. NGUỒN SẢN XUẤTPHÂN BÓN VÔ CƠ TRONG NƯỚC.
1.1. Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước:
Hiện tại nền công nghiệp hoá chất, nhất là công nghiệp sản xuất phân bón
vô cơ của chúng ta chưa có khả năng sản xuất và cung ứng đủ lượng phân bón
vô cơ các loại cần thiết cho nông dân theo yêu cầu. Theo các phương pháp
tính toán, thu thập được cho thấy, nhu cầu về phân bón ure của toàn quốc là
khoảng 1,4 triệu tấn /năm đến 1,5 triệu tấn/năm; nhu cầu về phân DAP là từ
khoảng 450.000 tấn/năm đến 500.000tấn/năm; nhu cầu phân NPK là từ
khoảng 500.000- 600.000tấn/năm; nhu cầu về phân Kali (K) khoảng
300.000tấn/năm. Trong khi nhu cầu về phân bón vô cơ lớn như vậy nhưng
tình hình sản xuất trong nước hết sức hạn chế, nhà máy sản xuất phân ure Hà
Bắc sản xuất được 100.000 tấn/năm, hai nhà máy phân lân Long Thành-
TPHCM và nhà máy phân bón Lâm Thao cũng chỉ sản xuất được khoảng từ

600.000- 700.000tấn/ năm. Nhà máy sản xuất phân lân nung chảy Văn Điển
và Ninh Bình sản xuất được khoảng từ 100.000- 200.000 tấn/ năm . Đối với
phân NPK, năm 1999 mới có nhà máy liên doanh với Nhật để sản xuất, còn
trước đây ta phải nhập phân bón vô cơ hoàn toàn từ các nước khác. Tổng kết
lại, so với nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, phân đạm mới đảm bảo khoảng
7% nhu cầu trong tổng nhu cầu phân bón hoá học cả nước, phân lân khoảng
18
40-50%. Như vậy hơn 90% phân đạm, khoảng 50% phân Lân, 100% Kali và
các loại phân bón vô cơ khác cần phải nhập khẩu.
Có thể ví dụ về sản lượng năm 1998 của một số công ty sản xuất phân bón vô
cơ lớn như sau:
BIỂU SỐ 3 : TÌNH HÌNH SẢN LƯỢNG PHÂN BÓN VÔ CƠ Ở MỘT SỐ
DOANH NGHIỆP NĂM 1998
ĐVT:( tấn)
Công ty phân đạm và hoá chất Hà Bắc NPK 4.775
urê 120.000
Nhà máy hoá chất phân bón Hải Hưng NPK 613
Lân Ninh Bình Lân nung chảy 42.054
Lân Văn Điển Lân 116.000
Công ty Hoá chất Vinh NPK 6.380
Công ty Hoá chất Quảng Ngãi Lân 4.610
Phân bón Miền Nam NPK 5.014
Các loại khác 379.925
Phân bón Cần thơ NPK 18.785
Supe Lâm Thao Su pe phối phát 565.000
NPK 55.158
Biểu số 4: tổng kết -Sản lượng sản xuất phân bón
vô cơ từ năm 1990- 1998
Đơn vị: 1000tấn
Năm Sản lượng phân

vô cơ các loại
1990 354
19
1991 450
1992 530
1993 714
1994 841
1995 937
1996 965
1997 982
1998 974
Nguồn: Tính từ số liệu TCTK
BIỂU SỐ 5 : SẢN LƯỢNG SẢN XUẤT P HÂN VÔ CƠ TỪ N ĂM 1990 -
1998
ĐVT: (1000 tấn)
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Phân hoá học
các loại
354 450 530 714 841 937 965 982 974
Doanh nghiệp
Nhà nước
354 450 530 714 841 937 965 982 974
Doanh nghiệp
khác
- - - - - - 3 2.4 1.5
DN Nhà nước
TW
354 450 530 714 841 937 962 980,6 972,5
NGUỒN TÍNH TỪ SỐ LIỆU CỦA TỔNG CỤC THÔNG KÊ
Nguồn tính từ số liệu của tổng cục thông kê Trước tình hình nhu cầu

phân hoá học ngày một tăng các đơn vị sản xuất phân hoá học ở Việt Nam
cũng đã tìm cách khôi phục và mở rộng các hoạt động sản xuất của mình.
Có thể nhận định tình hình sản xuất phân bón qua những DN chủ yếu
sau:
1.1.1. Nhà máy phân đạm Hà Bắc:
20
Từ sản lượng 45.000 tấn urê năm 1992, do việc đầu tư chiều sâu khôi
phục và cải tạo và đổi mới thiết bị đã mang lại hiệu quả rõ rệt, đến năm 1995
đã được nâng lên 110.000 tấn và vượt công suất thiết kế (Công suất tối đa
120.000 tấn/năm dây chuyền công nghệ của Trung Quốc). Đồng thời do nông
nghiệp càng phát triển thì việc gia tăng sản lượng phân đạm cung cấp cho sản
xuất nông nghiệp là tất yếu. Gần đây sản lượng lương thực của đất nước ngày
càng gia tăng (Từ 21 triệu tấn năm 1991 lên 29 triệu tấn năm 1998). Bên cạnh
đó là mối lo vì tốc độ nhập khẩu phân urê ngày càng gia tăng (từ 781 ngàn tấn
năm 1991 lên đến 1,9 triệu tấn năm 1998).
Nếu khả năng 1998 chúng ta xuất khẩu được 3 triệu tấn gạo với tổng
doanh thu trên 800 triệu USD thì năm 1998, ta lại phải bỏ ra trên 300 triệu
USD để nhập khẩu phân urê.
BIỂU SỐ 6 : BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ SẢN XUẤT CỦA CÔNG TY
PHÂN ĐẠM VÀ HOÁ CHẤT HÀ BẮC.
Đơn vị tính 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998
Sản phẩm chính:
- Urê Tấn 44.891 82.633 100.003 103.223 110.972 120.471 130.000
- NH
3
đóng bình Tấn 822 1.078 1.228 961 1.151 1.188 1.188
- Điện sản xuất Mw/h 52.250 64.000 81.974 81.974 95.617 106.548 106.548
Tổng doanh thu tỷ đồng 94,6 158,3 155 233 303 2.585 2.585
Nộp ngân sách tỷ đồng 5,1 15,5 4,4 15 11,6 8 8
Lãi phát sinh tỷ đồng 5,7 4,7 - 5,2 21 28,7 0,7 0,7

Thu nhập bình
quân
(ngày/tháng)
1000đ 236 372 393 465 655 732 732
Nguồn Tổng cục thống kê
Như vậy với mức sản lượng ngày một tăng theo công suất thiết kế
thì nhà máy đã có thể đáp ứng tốt từ 5-8% nhu cầu về phân urê cho cả
21
nước. Tuy nhiên tình hình thực tế cho việc sản xuất phân bón ở đây tồn
tại mấy vấn đề lớn:
- Do dây chuyền công nghệ sản xuất lạc hậu nên chất lượng của sản
phẩm do nhà máy sản xuất ra chưa thuyết phục được người tiêu dùng.
- Chi phí cho các nguồn nguyên, nhiên liệu đầu vào sản xuất lớn đồng
thời hiệu suất của dây chuyền công nghệ thấp dẫn đến chi phí sản xuất lớn
(giá điện tăng) do đó tất yếu giá xuất bán sản phẩm phân đạm urê của nhà
máy khó có khả năng cạnh tranh với phân urê nhập khẩu.
Về lâu dài, nước ta còn ưu tiên phát triển công nghiệp sản xuất phân
bón, tăng tỷ trọng phân bón nội địa trong tổng nguồn cung ứng cho sản xuất
nông nghiệp. Một trong những khó khăn không nhỏ là vốn đầu tư để sản xuất
phân đạm rất lớn nhưng lợi nhuận lại không cao. Do đó không hấp dẫn các
nhà đầu tư, cho nên khả năng huy động vốn trong và ngoài nước để liên
doanh là một trở ngại lớn (một nhà máy phân đạm với công suất 550.000 tấn
urê/năm cần số vốn đầu tư là 500 triệu USD). Vì vậy, Nhà nước cần ưu tiên
tập trung vốn để đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng sản lượng, hoặc đầu tư
thông qua liên doanh, triển khai dự án phân bón trọng điểm. Theo dự đoán
của Bộ nông nghiệp và PTNT, nhu cầu phân urê từ nay đến năm 2000 sẽ tăng
khoảng 10% năm. Năm 2000 sẽ là 2,5 triệu tấn và năm 2005 sẽ là 3 triệu tấn.
Do đó kế hoạch phát triển sản xuất phân urê những năm sắp tới là từng bước
triển khai dây chuyền công nghệ 140.000 tấn đạm ở nhà máy phân đạm Hà
Bắc, như vậy sản lượng hàng năm sẽ tăng 20 - 30 ngàn tấn/năm so với năm

1995.
1.1.2. Nhà máy supe phốt phát Lâm Thao, nhà máy phân Lân Văn
Điển:
Đã đầu tư vốn cho việc đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, mở
rộng thêm năng lực sản xuất của mình, nhờ đó số lượng cũng như chất lượng
22
của phân lân do các nhà máy sản xuất ra đã được nâng lên hết sức nhanh
chóng. Đặc biệt trong những năm gần đây, khi các tỉnh phía nam sử dụng
phân lân cho lúa, cho cà phê, cao su, thấy có hiệu quả tốt, thì nhu cầu phân lân
(kể cả phân lân nung chảy) đã tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên do nguồn nguyên
liệu nên đại bộ phận các nhà máy sản xuất phân lân tập trung ở Miền Bắc Việt
Nam và sản xuất ra khoảng 90% lượng lân của cả nước. Ở phía Nam chỉ có
một nhà máy sản xuất được khoảng 10% lượng lân. Sản xuất phân lân trong
nước năm 1996 so với 1989 đã tăng gần 3 lần, lượng phân làm ra đã đáp ứng
được khoảng 50-65% nhu cầu của nền nông nghiệp. Trong cơ cấu phân lân,
thì supe lân chiếm khoảng 70%, loại phân này được sử dụng rộng rãi trên
nhiều loại đất và nhiều cây trồng, lân nung chảy chiếm khoảng 30% - loại
phân này chủ yếu dùng cho cây lúa và cây công nghiệp trên đất phèn.
BIỂU SỐ 7 : SẢN LƯỢNG PHÂN PHÂN LÂN Ở TRONG NƯỚC
TỪ (1989 - 1999)
Đơn vị tính: Tấn
Năm Lân Phân trong
Super lân
1989 329.190 298.390
1990 325.456 280.000
1991 391.125 315.000
1992 418.200 303.000
1993 595.799 420.000
1994 713.370 530.000
1995 799.176 570.000

1996 825.688 567.000
1997 987.412 565.000
1998 1.087.564 576.000
23
1999 980.000 650.300
Năm 1989 khi chuyển sang cơ chế thị trường, phân lân tiêu thụ có khó
khăn hơn, vì dân quen dùng giá thấp do Nhà nước bù lỗ ở thời kỳ kế hoạch
hoá tập trung bao cấp.
Trước tình hình đó, các DN đã tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới kỹ
thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới mẫu mã bao bì, đóng gói - Phân lân từ
chỗ bán phân rời đã chuyển sang đóng bao bì như phân đạm. Chất lượng phân
cũng được nâng cao, công tác tuyên truyền khuyến mại cũng được thực hiện
tốt hơn. Do vậy từ năm 1995 đến nay, số lượng phân lân sản xuất cũng như
tiêu thụ đã tăng lên khá nhanh, giá bán tương đối ổn định, sản xuất phân lân
đã từ hoà vốn tới có lãi và lãi năm sau cao hơn năm trước. Ta có thể thấy điều
này qua số liệu so sánh giá bán và chi phí sản xuất phân lân một số năm:
Năm Giá vốn Giá bán tại DN sản xuất
1989 109.100 đ/tấn 110.000 đ/tấn
1990 126.300 130.000
1991 424.300 430.000
1992 539.600 540.000
1995 737.700 770.000
1996 838.400 840.000
1997 895.200 900.000
1998 895.300 901.000
1999 923.000 940.000
Riêng phân lân, mục tiêu 5-10 năm tới, nước ta hoàn toàn đáp ứng đủ
nhu cầu phân lân trong cả nước với bước đi sau:
24
- Sử dụng hợp lý, có hiệu quả công suất các cơ sở sản xuất Supe phốt

phát đơn hiện có, trên cơ sở đầu tư chiều sâu cải tiến thiết bị áp dụng kỹ
thuật, công nghệ mới để hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Phân lân nung chảy là loại phân bón có công nghệ đơn giản, nguyên
liệu hoàn toàn trong nước, thiết bị hoàn toàn tự thiết kế chế tạo được, vốn đầu
tư ít, sản lượng tăng nhanh, sản phẩm thích hợp với nhiều loại đất, nhất là đối
với đất chua phèn và loại cây công nghiệp. Đây là loại sản phẩm cần ưu tiên
đầu tư phát triển. Trong giai đoạn tới một mặt tiếp tục tuyên truyền hướng dẫn
sử dụng, mở rộng thị trường, một mặt tập trung nâng cao hàm lượng dinh
dưỡng, đạt trên 18% P
2
O
5
- nghiên cứu đổi mới công nghệ thiết bị để có thể
tăng nhanh công suất lên 35 - 40 vạn tấn năm vào năm 2005.
Nghiên cứu khả năng nâng công suất phân lân nung chảy Văn Điển
180.000tấn/năm và Lâm Thao supe phốt phát từ 30.000 tấn/năm lên 50.000
tấn/năm phát huy thế mạnh nguồn nguyên liệu từ cây lúa, cây công nghiệp,
đặc biệt là đất chua.
Nhà máy supe Long Thành dự kiến mở rộng gấp đôi công suất lên
200.000 tấn năm, đồng thời đầu tư một nhà máy sản xuất DAP công suất
330.000tấn/năm (bước đầu nhập Amoniac) dự án đang được trình Chính phủ
xin đưa vào kế hoạch, tìm nguồn đầu tư, địa điểm tại khu vực Quảng Ninh.
Phân lân nung chảy Ninh Bình từ 100.000 tấn/năm sẽ nâng công suất
lên đến 200.000tấn/năm.
Với kế hoạch trên tổng lượng phân lân năm 2000 đạt khoảng 1,7 triệu
tấn và sẽ đưa lên 2 triệu tấn vào những năm sau đó.
1.1.3.Tình hình sản xuất phân NPK.
Hiện nay, nước ta có kế hoạch sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu trong
nước hàng năm ước tính khoảng 800 - 950 ngàn tấn. Hiện nay Vinachen đã
sản xuất với sản lượng khoảng 350.000tấn/năm. Các DN nhỏ khác có khả

25

×