Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Luật Chống Bán Phá Giá Và Giải Pháp Cho Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Cá tra, cá BaSa Của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.41 KB, 21 trang )

Nhóm 01 - QT3
Phần một : Dẫn nhập
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế nền kinh tế, hội nhập và tham gia các tổ chức
kinh tế quốc tế là xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển
kinh tế của mình. Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
nam đã và đang tham gia sâu và rộng vào các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN,
APEC và WTO. Việt Nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hoá, dịch vụ. Những bên cạnh đó cũng đối mặt với những khó khăn trong đẩy
mạnh xuất khẩu do các nước nhập khẩu đã tận dụng những quy định mở để tạo ra những rào
cản mới như chống bán phá giá, chống trợ cấp...để bảo hộ nền sản xuất trong nước của mình.
Áp lực từ các vụ kiện bán phá giá sẽ ngày càng tăng, sẽ ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế nói
chung và thị trường xuất khẩu của Việt Nam nói riêng.
Ngành sản xuất và chế biến thủy sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng của đất
nước. Trong vài năm gần đây, cá basa và cá tra Việt Nam được nhập khẩu vào thị trường Mỹ
dưới dạng philê đông lạnh đã góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cá của người dân Mỹ đồng
thời thúc đẩy được nghề nuôi loại cá này ở Việt Nam, Phát triển buôn bán cá basa, cá tra
giữa Việt Nam và Mỹ là nhằm mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia. Nhưng thật đáng tiếc,
Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ đã sớm lo lắng cho sự xâm nhập của cá basa và cá tra
vào thị trường của họ đến mức đâm đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá các
sản phẩm này vào thị trường Mỹ. Như chúng ta đã biết, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế
thế giới đang dần xoá bỏ những rào cản thuế quan giữa các thị trường nhưng lại tạo điều
1
Nhóm 01 - QT3
kiện thuận lợi cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch phát triển đặc biệt là ở các nước giầu mạnh.
Thương trường Mỹ mở ra những cơ hội đầy triển vọng nhưng nó lại được điều chỉnh bằng
một hệ thống luật pháp và các rào cản thương mại cực kỳ chặt chẽ. Luật thuế Chống bán phá
giá hiện nay đang là một công cụ hữu hiệu được sử dụng phổ biến trên thị trường này nhằm
bảo hộ nền công nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam. Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa Việt Nam vào thị trường Mỹ
đã cho thấy những rào cản đầu tiên mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải khi tiếp cận


thị trường Mỹ. Nhưng không vì thế mà các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra bi quan và e ngại.
Chúng ta đã tích cực hầu kiện và đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu.
Chính vì tầm quan trọng và tính thời sự của vấn đề, nhóm em mạnh dạn chọn đề tài “Luật
Chống Bán Phá Giá Và Giải Pháp Cho Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Cá tra, cá BaSa Của
Việt Nam” nhằm mục đích tìm ra một số giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá Basa
của Việt Nam.
II. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mang lại nhiều lợi
ích và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở một nền thương mại và
đầu tư công bằng. Nhưng trong khi các quốc gia thành viên WTO đang phải dỡ bỏ các rào
cản thuế quan và thuế hoá các rào cản phi thuế quan thì các biện pháp tự vệ, thuế chống phá
giá và thuế đối kháng vẫn ngày càng được nhiều quốc gia phát triển áp dụng một cách triệt
để, nhất là, nhiều nước đang phát triển và kém phát triển phải đối mặt với tình trạng hàng
hoá nhập khẩu bán phá giá tại thị trường của mình, và gánh chịu những thiệt hại cho sản xuất
trong nước. Việc tìm các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng - biện pháp chống bán
2
Nhóm 01 - QT3
phá giá, đang được rất nhiều nước quan tâm, kể cả các nước phát triển và đang phát triển.
Qua bài này chúng tôi muốn tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về các quy định, luật bán phá giá
của tổ chức WTO, ở thị trường Mỹ cũng như đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hạn
chế ảnh hưởng của các vụ kiện bán phá giá của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu cá BaSa của
Việt Nam vào thị trường này trong thời gian tới.
III. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ( 5 Áp lực cạnh tranh của Porter)
Phần hai: Đề tài:
3
Nhóm 01 - QT3
LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP
XUẤT KHẨU CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM
I. SƠ LƯỢC VỀ NUÔI TRỒNG CÁ TRA, CÁ BASA VIỆT NAM
1.1. Vị thế, khả năng cạnh tranh

Năm 2008, sản phẩm cá tra - basa của Việt Nam được đánh giá là nhóm sản phẩm thuỷ
sản có tốc độ tăng nhanh nhất thế giới, xuất khẩu đến 127 quốc gia và vũng lãnh thổ với tổng
sản lượng trên 640.000 tấn sản phẩm, đạt giá trị hơn 1.4 tỷ USD tăng khoảng 45% so với
năm 2007, góp phần đưa toàn bộ ngành lần đầu tiên vượt qua ngưỡng 4 tỷ USD. Thống kê
của Hiệp hội Xuất nhập khẩu Thủy sản Việt Nam cho thấy riêng quý I/2009, xuất khẩu cá tra
và ba sa sang Mỹ đạt hơn 22 triệu USD, tăng 93,4% so với cùng kỳ năm 2008.
Đa số cá tra, cá basa được nuôi trong ao, đăng quầng, bãi bồi và lồng bè; cá basa chủ yếu
được nuôi trong các lồng bè ở các con sông lớn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, v.v.
Mùa sinh sản của cá Basa (từ tháng 1 – 7), cá Tra (từ tháng 2 – 10) và có thể thu hoạch
quanh năm. Đến nay cá tra và cá basa đã được nuôi ở hầu hết các tỉnh, thành trong khu vực,
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa và cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, thúc đẩy
sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến cá tra và cá basa. Đặc biệt, từ khi Việt Nam mở
rộng xuất khẩu và sản phẩm từ cá tra, cá ba sa tìm được thị trường thì ngành chế biến cá tra
và ba sa như bước sang một trang mới.
Những năm gần đây ngành công nghiệp chế biến cá tra, basa phát triển mạnh với tốc độ
tăng trưởng nhanh và đang có tiềm năng lớn. Hầu hết các nhà máy chế biến cá tra, basa trong
vùng đều được quan tâm đầu tư và nâng cấp với công nghệ, thiết bị khá hiện đại, tạo ra các
sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế (như ISO, HACCP, code EU, Halal,…). Cả nước hiện
4
Nhóm 01 - QT3
có 168 DN chế biến, xuất khẩu cá tra, ca basa, trong đó 15 DN lớn chiếm đến 70% lượng
xuất khẩu (Navico, Hùng Vương, Vĩnh Hoàn, Agifish, Bianfish…).
Mặc dù có lợi thế về điều kiện tự nhiên về phát triển công nghiệp chế biến cá tra, cá basa,
tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực thấp; lao động quản lý chưa được đào tạo chính quy,
lao động trực tiếp kỹ năng lao động cũng như kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp còn
kém; Việc quy hoạch nuôi trồng và chế biến cá tra, basa chưa mang tính vĩ mô; các tỉnh
trong vùng đều quy hoạch một cách tự phát cho địa phương mình, thiếu tính liên kết và tầm
nhìn chiến lược cho toàn vùng...
Khó khăn đặc biệt mà ngành chế biến cá tra và cá ba sa đang gặp phải là Bộ Nông nghiệp
Mỹ đã soạn thảo lần cuối các quy định mới theo đó các tra và ba sa của Việt Nam sẽ có thể

được góp chung vào danh mục cá da trơn, Quy định này sẽ làm cho cá tra và cá ba sa của
chúng ta nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ phải chịu những kiểm tra đặc biệt, gây khó khăn cho các
nhà xuất khẩu trong nước.
1.2. Lợi thế, tiềm nằng của cá basa Việt Nam
Các loại cá của Việt Nam có chất lượng cao, thơm ngon, cơ thịt mềm mại. Loài cá này có
ưu điểm thịt trắng, vị ngọt, giàu Omega 3 và DHA. Được xuất khẩu sang nhiều thị trường
trên thế giới và được người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng. Đồng thời chất lượng sản phẩm
và chất lượng nước để nuôi cá hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu về an toàn vệ sinh và sức khỏe
của người tiêu dùng.
5
Nhóm 01 - QT3
Lợi thế cạnh tranh lớn nhất là về giá cả. Cá Việt Nam rẻ vì chi phí sản xuất thấp. Con
giống thì đã cho đẻ nhân tạo nên rất rẻ, cá nuôi ở bè trên sông có dòng chảy liên tục nên
chính môi trường tốt khiến cá lớn nhanh, ít nhiễm bệnh.
Sông Tiền và sông Hậu là hai con sông có lưu lượng nước khá lớn (nhất là mùa lũ) nên
cũng có khả năng tự điều chỉnh nhằm cân bằng hệ sinh thái. Điều này giúp nông dân có thể
nuôi được cá với mật độ dày, cho năng suất cao, trên 1m3 nước có thể đạt năng suất 150-170
kg cá basa hoặc cá tra thương phẩm. Đồng thời, do nước chảy xiết nên có đủ lượng ôxy cho
cá, không cần phải chi phí thêm hoặc chỉ phải chi phí ít cho công nghệ quậy nước để tạo
thành dòng chảy trong bè, giảm được chi phí đầu vào.
1.3. Thị trường xuất khẩu cá basa của Việt Nam
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cá tra, basa vẫn đang là mặt hàng chiếm
tỷ trọng giá trị xuất khẩu cao nhất trong nhóm thủy sản, nửa đầu năm 2009 đạt khối lượng
xuất khẩu 206.000 tấn, kim ngạch 473,9 triệu USD.
Riêng thị trường Mỹ, bất chấp khó khăn do khủng hoảng kinh tế, xuất khẩu sang nước
này đã có sự tăng trưởng vượt bậc, đạt 45,97 triệu USD, tăng 59,98 % so với cùng kỳ năm
2008.
Hiện tại, EU vẫn là khối thị trường lớn nhất nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam, với
26/27 quốc gia đã nhập khẩu cá của Việt Nam. Trong đó, 3 nước đứng đầu là Tây Ban Nha,
Đức và Hà Lan, có khối lượng nhập khẩu chiếm 60% tổng lượng nhập khẩu cá tra, basa của

toàn EU. Tây Ban Nha và Đức đồng thời là hai nhà nhập khẩu cá tra, basa lớn nhất của Việt
Nam trong số 110 quốc gia nhập khẩu hai mặt hàng này.
6
Nhóm 01 - QT3
Nga là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 4 của Việt Nam, riêng đối với mặt hàng cá
tra thì Nga lại càng là thị trường đầy tiềm năng, vì có nhu cầu cao đối với mặt hàng này. Hơn
nữa, nếu so với các thị trường Nhật, Mỹ, EU thì thị trường Nga dễ tính hơn. Theo báo cáo
của Thương vụ Việt Nam tại Nga, năm 2008, tỷ trọng cá tra của Việt Nam xuất khẩu sang
Nga chiếm 94,4% về khối lượng và 86,5% về giá trị trong tổng khối lượng và giá trị xuất
khẩu thuỷ sản của Việt Nam đến thị trường này, đạt 118.155 tấn, trị giá 188,45 triệu USD.
I. LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO VÀ MỸ
2.1. Hiệp định về chống bán phá giá của WTO
Hiệp định về Chống bán Phá giá là một trong những hiệp định của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) được ký kết tại Vòng đàm phán Uruguay. Tên đầy đủ của Hiệp định là Hiệp
định về việc Thực thi Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994
(GATT 1994). Điều VI của GATT 1994 cho phép các thành viên có biện pháp chống lại
hành vi bán phá giá. Hiệp định về Chống bán Phá giá quy định chi tiết các điều kiện để các
thành viên WTO có thể thực hiện các biện pháp như vậy. Cả Hiệp định và Điều VI được sử
dụng cùng nhau để điều chỉnh các biện pháp chống bán phá giá.
Định nghĩa đầy đủ của hành vi bán phá giá được quy định trong Hiệp định “ Bán phá
giá là hành vi của một công ty bán một mặt hàng xuất khẩu thấp hơn giá thông thường
mà họ bán mặt hàng đó tại thị trường trong nước”. Để áp dụng biện pháp chống bán phá
giá, nước nhập khẩu là thành viên WTO phải chứng minh được ba điều kiện sau:
 Có hành động bán phá giá: được tính bằng độ chênh lệch giữa giá của mặt hàng
nhập khẩu với giá của mặt hàng tương tự bán tại thị trường của nước xuất khẩu (gọi là biên
độ phá giá).
7
Nhóm 01 - QT3
 Có thiệt hại vật chất: đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu đang cạnh tranh
trực tiếp với hàng nhập khẩu.

 Hành động bán phá giá: là nguyên nhân gây ra thiệt hại vật chất, hoặc đe dọa gây ra
thiệt hại vật chất nêu trên.
 Biện pháp áp dụng
Khi thỏa mãn được ba điều kiện trên, Hiệp định cho phép thành viên WTO được phép áp
dụng biện pháp chống bán phá giá với mặt hàng nhập khẩu bị điều tra. Các biện pháp này
thường là áp thêm một khoản thuế nhập khẩu đối với sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm
đưa mức giá của sản phẩm đó xấp xỉ với "giá trị thông thường" của nó hoặc để khắc phục
thiệt hại đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu. Các biện pháp này nếu trong điều kiện
bình thường là những hành vi vi phạm các nguyên tắc của WTO về ràng buộc thuế suất nhập
khẩu và không phân biệt đối xử hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, biện pháp chống bán phá giá chỉ
mang tính tạm thời nhằm loại trừ ảnh hưởng tiêu cực của hàng hoá nhập khẩu phá giá trên
thị trường quốc gia nhập khẩu vì vậy các quốc gia chỉ được phép áp dụng thuế chống bán
phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu thời hạn nhất định - tối đa là 5 năm.
 Miễn trừ
Điều tra chống bán phá giá sẽ kết thúc ngay lập tức mà không đưa ra biện pháp chống
bán phá giá nào nếu cơ quan chức năng xác định rằng biên độ phá giá không đáng kể (nhỏ
hơn 2% giá xuất khẩu). Điều tra cũng chấm dứt nếu khối lượng hàng bán phá giá là không
đáng kể (khối lượng hàng phá giá từ một nước bị điều tra nhỏ hơn 3% tổng nhập khẩu, đồng
thời tổng khối lượng hàng phá giá từ tất cả các nước bị điều tra nhỏ hơn 7% tổng nhập
khẩu).
8

×