Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

tiểu luận Mối quan hệ giữa nhà nước với làng x• thời vua lê thánh tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.58 KB, 14 trang )

Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
PHẦN MỞ ĐẦU
Trải qua quá trình phát triển của chế độ phong kiến ở mỗi thời kỳ,
các triều đại đều ra sức xây dựng, củng cố, ngày càng hoàn thiện hệ thống
hành chính quốc gia để xây dựng nhà nước vững mạnh, tập trung và thống
nhất. Thực chất của việc làm này chính là việc giải quyết mối quan hệ giữa
Nhà nước với làng xã để làm sao đạt được sự tập trung quyền lực vào tay
nhà nước Trung ương, tránh tình trạng cát cứ, chia cắt đất nước, đảm bảo
sự thống nhất từ trên xuống dưới, từ Trung ương xuống địa phương.
Thực tế lịch sử đã cho chóng ta thấy: đất nước ta đã từng trải qua
những thời kỳ chia cắt, cát cứ làm suy yếu nhà nước Trung ương, ảnh
hưởng to lớn đến sự thống nhất đất nước về mọi mặt. Đó là trong hơn 10
thế kỷ Bắt thuộc cũng là hơn 10 thế kỷ bọn ngoại bang phương Bắc thực
hiện triệt để chính sách chia để trị lên đất nước ta. Và kết quả là ngày sau
thời kỳ Bắc thuộc Êy “Loạn 12 xứ quân” đã bùng lên ở nhiều nơi trong cả
nước. Tình trạng chia cắt, cát cứ đó còn tồn tại dai dẳng cho đến cuối đời
Lý (khoảng đầu thế kỷ XIII) mới tạm chấm dứt. Song hơn 3 thế kỷ sau đấy
(vào khoảng giữa thế kỷ XVI) một lần nữa đất nước ta lại lâm vào tình
trạng bị chia cắt giữa Đàng Trong và Đàng ngoài suốt gần 2 thế kỷ ròng
rã Chính vì thực tế lịch sử đó mà chúng ta dễ dàng hiểu tại sao bất kỳ
một triều đại nào, bất kỳ một ông Vua thời phong kiến nào cũng rất lo lắng
đến sự nghiệp thống nhất đất nước, mà trước hết cố gắng xây dựng hệ
thống hành chính thống nhất, phù hợp với mong muốn của mình và đấy
cũng chính là mong muốn chung của mọi người dân đất Việt. Và tất cả
những cuộc cải cách dưới các triều đại phong kiến ở nước ta đều không
nằm ngoài mục đích đó. Cuộc cải cách dưới thời Vua Lê Thành Tông ở thế
kỷ XV cũng không phải là ngoại lệ.
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
Hơn thế nữa, khi xây dựng hệ thống hành chính quốc gia, đặt trong


bối cảnh nước ta là một nước nông nghiệp, mang tính tự túc tự cấp thì điều
tất yếu bất cứ một triều đại nào cũng phải đứng trước vấn đề: Làm sao để
một mặt bảo đảm quyền lực thống trị của dòng họ cầm quyền, một mặt
những chủ trương chính sách của nhà nước Trung ương được nhân chấp
nhận mà thực hiện đồng đều ở tất cả các địa phương để từ đó tạo được sự
thống nhất hoạt động của chính quyền nhà nước các cấp từ Trung ương
xuống địa phương cũng chính là đảm bảo sự thống nhất đất nước.
Rõ ràng việc giải quyết mối quan hệ giữa Trung ương với làng xã đã
trở thành mối quan tâm hàng đầu của mỗi triều đại, là vấn đề quan trọng
quyết định đến sự tập trung, thống nhất của đất nước. Lê Thánh Tông ngay
khi lên ngôi đã nhận thức được tầm quan trọng Êy và công cuộc cải cách
hành chính của ông cũng chính là nhằm hướng tới mục đích: xây dựng một
hệ thống chính quyền phong kiến tập trung cao độ với quyền chuyên chế
tuyệt đối của nhà Vua.
Đặt trong bối cảnh lịch sử hiện nay khi toàn Đảng, toàn dân ta đang
trong thời kỳ tiến hành công cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà nước, xây
dựng hệ thống nhà nước vững mạnh, trong đó hệ thống chính quyền cơ sở
có vị trí đặc biệt, thì yêu cầu tìm hiểu để kế thừa, phát huy những kinh
nghiệm của quá khứ phục vụ cho công cuộc cải cách hành chính hiện tại
đặt ra ngày càng bức thiết. Và việc tìm hiểu một điển hình trong việc giải
quyết thành công mối quan hệ giữa nhà nước với làng xã dưới thời vua Lê
Thánh Tông sẽ giúp chúng ta rót ra được những bài học quý giá đối với
công cuộc cải cách hành chính hiện nay ở nước ta.
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VỚI LÀNG XÃ THỜI VUA LÊ
THÁNH TÔNG
Mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương ở bất cứ thời kỳ nào
cũng được biểu hiện rõ nét nhất trong mối quan hệ giữa nhà nước với chính
làng xã - đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà nước Êy. Và thực chất cuộc

đấu tranh cho tính thống nhất của dân téc một mặt đấu tranh chống mưu đồ
cát cứ, phân tán của các thế lực thổ hào, quý téc phong kiến, và mặt khác
chính là đấu tranh khắc phục từng bước tính khép kín, biệt lập (hay chính
là tính tự trị) của các làng xã, tiến tới quản lý chặt chẽ, gắn bó làng xã vào
hệ thống hành chính quốc gia.
Nh chóng ta biết, làng xã vốn trước đây là công xã nông thôn mà
chuyển thành một đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà nước nên tất nhiên
tự bản thân nó đã mang hai đặc tính là tính tự trị và tính phụ thuộc nhà
nước. Vấn đề cốt lõi ở đây la giải quyết nh thế nào mối quan hệ giữa quyền
quản lý của nhà nước và tính tự trị vốn có của xóm làng. Điều này sẽ có ý
nghĩa quyết định đến việc có đảm bảo thực sự tính thống nhất từ Trung
ương xuống các địa phương cơ sở hay không?
Trước đó, dưới thời kỳ Hùng Vương, làng xã (công xã nông thôn)
tuy đã có sự quản lý ở một mức độ nhất định của nhà nước, nhưng về cơ
bản làng xã thời kỳ này vẫn là những đơn vị tự trị, tự quản, mối quan hệ
giữa nhà nước Trung ương với các làng xã còn chưa chặt chẽ.
Trong suốt hơn một nghìn năm Bắc thuộc, xã hội Việt Nam cho đến
thế kỷ X vẫn là một xã hội dùa trên nền tảng công xã nông thôn và đương
nhiên rằng làng xã nước ta thời bấy giê vẫn là những “pháo đài xanh tự
chủ”, chủ yếu là các làng tự trị. Từ thế kỷ X trở đi, cùng với quá trình
phong kiến hoá càng ngày càng sâu sắc, các triều Đinh, Lý, Trần, Lê ra
sức nắm lấy và sử dụng làng xã như một công cụ quản lý của mình, song
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
thực chất cho đến đầu thời Lê sơ, nhà nước Trung ương vẫn chưa hoàn
toàn chi phối đến các làng xã. Cho đến thời vua Lê Thánh Tông mới đạt
được những thành công đáng kể trong việc đảm bảo mối liên hệ khá chặt
chẽ giữa nhà nước Trung ương với các làng xã. Mối quan hệ này được biểu
hiện trên 3 phương diện: kinh tế, chính trị và văn hoá.
1.1. Mối quan hệ giữa nhà nước và làng xã ở khía cạnh kinh tế

1.1.1. Nhà nước cho lập sổ điền – tăng cường quản lý ruộng đất
làng xã
Có nắm được ruộng đất mới thực hiện được quyền sở hữu tối cao về
ruộng đất của nhà Vua. Nhận thức rất rõ về điều này, Lê Thánh Tông ngay
khi lên ngôi đã coi trọng trước hết việc lập sổ ruộng đất. Cụ thể:
Nhà nước đã ra quyết định: Cứ 4 năm làm sổ ruộng đất một lần nhằm
để kịp thời theo dõi những thay đổi về ruộng đất. Nhà nước còn cắt cử các
thuộc lại về các làng xã để phối hợp với các Xã trưởng sở tại cùng khám
đạc ruộng đất, lập sổ ruộng, ghi rõ từng loại ruộng đất (loại 1: nhất đẳng;
loại 2: nhị đẳng; loại 3: tam đẳng). Đồng thời để khắc phục tệ “lậu điền”
(tức là che dấu, Èn lậu ruộng đất), Lê Thánh Tông đã ban hành hàng loạt
điều luật trong “Quốc triều hình luật” quy định rõ:
“Những người thuộc lại đi đo ruộng công hay ruộng tư, tự tiện thêm
bớt (thì phải tội đồ làm khao đinh)”
“Nếu những ruộng đất không vào sổ công, dân chiếm đã lâu, mà
khai giai là của riêng mình hay là đem những văn khế và dấu vết đã lâu
đời ra mà cố tranh, thì phải biếm 2 tư. Đem ruộng đất của người khác mà
khai vào sổ là của mình thì phải biếm 3 tư và trả tiền đất cho chủ cũ”.
Còng theo quy định lúc bấy giê, sở ruộng sau khi đã làm xong thì
nép lên cho 2 ty: Thừa ty và Hiến ty sở tại. Khi 2 ty này xem xét xong rồi
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
sẽ chuyển tiếp lên sảnh viện và Hộ bộ để xem xét một lần nữa trước khi
đưa ra sử dụng.
Rõ ràng, thông qua việc lập hồ sơ ruộng đất làng xã, nhà nước Trung
ương sẽ nắm được diện tích ruộng đất trong cả nước tính bằng đơn vị
thống nhất: mẫu, sào, thước, tấc và cũng hiểu rõ được tình hình chiếm hữu
và sử dụng các loại ruộng công hay tư, của làng xã hay các điều chủ trong
nông thôn làng xã Và một khi nhà nước Trung ương nắm được ruộng đất
làng xã thì đồng nghĩa với việc thu hẹp quyền tự trị làng xã về ruộng đất,

kinh tế và việc lập sở ruộng đất này đây cũng chính là cơ sở để nhà nước
thực hiện chính sách quân điền.
1.1.2. Nhà nước tấn công mạnh chế độ sở hữu ruộng đất làng xã
thông qua chính sách quân điền.
Dưới thời Vua Lê Thánh Tông quyền sở hữu ruộng đất của làng xã
đã bị tước đoạt về cơ bản. Từ đây các làng xã không còn được xét theo “lệ
làng” để phân chia ruộng đất mà việc phân chia ruộng đất được thực hiện
thống nhất trong cả nước theo lệ “quân điền”.
Theo đó mọi người dân trong làng xã kể cả cô nhi quả phụ cũng
được phân chia khẩu phần đất. Ruộng công ở xã nào thì dân xã Êy được
hưởng. Đối với những xã có Ýt ruộng công, chỉ những ai không có hoặc có
Ýt ruộng mới được phân chia
Có thể nói rằng đất công của làng xa cùng với kết cấu công xã nông
thôn tồn tại dai dẳng từ bấy lâu ở Việt Nam, nay đã được “quân chủ hoá
sâu sắc” [10;tr36]. Kết quả trực tiếp là đã làm cho các thành viên trong
làng xã đều có một nguồn sinh sống thường trực là ruộng đất của Vua ban.
Từ đó tạo cơ sở xã thôn, bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước
phong kiến, buộc chặt người nông dân vào ruộng đất để bóc lột tô thuế,
binh dịch và lao dịch.
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
Mối quan hệ giữa Vua – thần dân trong các làng xã Êy chính là hình
ảnh thu nhỏ của mối quan hệ giữa Vua – thần dân trong quốc gia quân chủ
Đại Việt đương thời, là biểu tượng cho mối quan hệ giữa nhà nước Trung
ương với chính quyền địa phương cơ sở.
1.2. Mối quan hệ giữa nhà nước và làng xã biểu hiện ở thiết chế
chính trị của các làng xã
Nếu như trước đây xã còn mang màu sắc công xã nông thôn với
truyền thống tự quản thì đến Lê Thánh Tông xét về phương diện chính trị,
nhà nước cũng đã nắm chặt làng xã, biến làng xã thành đơn vị cấp cơ sở

phụ thuộc chặt chẽ vào triều đình Trung ương. Cụ thể:
1.2.1. Nhà nước định ra tiêu chuẩn thống nhất trong việc tuyển
chọn người đứng đầu làng xã.
Năm 1466 trong khi cải tổ hệ thống hành chính địa phương trong cả
nước, Lê Thánh Tông đã đổi chức xã quan trước đây thành Xã trưởng và
quy định số Xã trưởng cho từng loại xã. Cụ thể vào năm 1483, Lê Thánh
Tông đã ban sắc chỉ các xã từ 500 hộ trở lên thì cử 5 Xã trưởng, 300 hộ trở
lên thì được cử 4 Xã trưởng, 100 hộ trở lên thì được cử 2 Xã trưởng, không
đầy 60 hộ được cử 1 Xã trưởng. Như vậy, theo Lê Thánh Tông, người
đứng đầu cấp cơ sở sẽ được tuyển chọn từ trong dân. Song điều này không
đồng nghĩa với việc nhà nước buông lỏng các làng xã mà ngược lại, chỉ khi
nhà nước đã nắm vững vàng thì lúc này nhà nước mới có thể “yên tâm” để
trao cho dân quyền quản lý làng xã như vậy. Một mặt Lê Thánh Tông trao
quyền quản lý làng cho dân, không lấy hệ thống quan chức của triều đình,
mặt khác nhà Vua quy định rõ tiêu chuẩn để tuyển chọn Xã trưởng, đảm
bảo xây dựng một đội ngò Xã trưởng ở các làng xã phải là những người
thừa hành đắc lực mọi chủ trương, chính sách của nhà nước. Đây là cơ sở
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
quan trọng cho việc đảm bảo tính tập trung, thống nhất của bộ máy nhà
nước từ Trung ương xuống các địa phương. Cụ thể:
Năm 1463, Lê Thánh Tông ra quy định: tuyển chọn những người làm
Xã trưởng thì lấy hạng Giám sinh, Sinh đồ tuổi cao nhưng học nghiệp
không tiến bộ. Hoặc lùa chọn từ con em nhà hiền lành, tuổi từ 30 trở lên,
không vướng việc quân, có đạo đức. Đặc biệt là vào năm 1488, nhà Vua
quy định trong cùng một xã và trong cùng một nhiệm kỳ, các Xã trưởng
không được có quan hệ thân thích, gần gũi là anh em ruột, ánh em chú bác
và bác cháu, cậu cháu với nhau. Điều này nhằm tránh tệ kết bè phái gây
chia rẽ, phá vỡ tính đoàn kết, thống nhất.
Số Xã trưởng do dân làng bầu ra theo tiêu chuẩn đó sẽ tiếp tục được

gửi lên cấp châu, huyện, phủ để xét chọn công bằng. Các quan châu, huyện
nếu xét chọn không công bằng mà tham của đút lót, trục lợi thì sẽ bị xử
phạt theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Nhà nước quy định chức năng của chính quyền làng xã,
thông qua vai trò của các Xã trưởng
Để cho những chủ trương, chính sách của nhà nước được quán triệt
thống nhất từ Trung ương xuống địa phương thì đương nhiên những người
đứng đầu làng xã phải nghiêm chỉnh thực thi những chính sách do nhà
nước dội xuống.
Cụ thể: Xã trưởng sẽ là người đại diện cho nhà nước ở các làng xã
trong việc quản lý cư dân, ruộng đất để thu tô thuế, tuyển chọn binh lính
vào quân đội, phu phen tạp dịch. Đồng thời có trách nhiệm giữ gìn an ninh
trật tự và chăm lo những lợi Ých công cộng nh đê điều, cầu cống
Nh vậy, Xã trưởng là người đứng đầu bộ máy hành chính làng xã -
đơn vị cơ sở của hệ thống chính quyền thời bấy giê. “Xã trưởng vừa là đại
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
diện cho quyền và nghĩa vụ của dân làng trước nhà nước, vừa lại là cầu nối
giữa làng xã và nhà nước” [9;tr154].
Song điều đáng lưu ý là các Xã trưởng không có quyền tư pháp mà
quyền hạn chỉ bó hẹp trong việc đôn đốc, nhắc nhở, dàn xếp chịu trách
nhiệm trước pháp luật nhà nước nh những công dân làng xã.
Tất cả những điều này nhằm loại trừ khả năng chính quyền cấp cơ sở
(làng xã) trở thành một “tiểu triều đình” mặc sức lộng hành với thần dân
của nhà Vua trong các các làng xã, chính là để đảm bảo mối quan hệ thống
nhất từ Trung ương xuống địa phương.
1.2.3. Mối quan hệ nhà nước – làng xã thể hiện trong việc lập
Hương ước riêng của các làng xã
Để đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của nhà nước xuống tận các làng xã
nông thôn thì không có nghĩa nhà nước phong kiến chỉ quan tâm đến

quyền thống trị của riêng mình mà không chấp nhận quyền tự trị của làng
xã. Bởi làm như vậy vô hình dung đã đẩy làng xã về phía đối lập với nhà
nước phong kiến và trong thực tế không nắm được quyền quản lý làng xã
đó. Hay nói như tác giả Bùi Xuân Đính trong “Lệ làng, phép nước” là sẽ
sản sinh ra “lực ly tâm” nhằm thoát khỏi sức hót của nhà nước để tồn tại
với cá tính rõ nét của mình. Vì thế Lê Thánh Tông đã thành công trong
việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và làng xã là bởi vì chính ông
đã giải quyết được một cách hài hoà mối quan hệ giữa quyền quản lý nhà
nước và truyền thống tự trị của làng xóm. Và việc để cho các làng xã lúc
bấy giê được lập Hương ước riêng chính là “hiện thân của sù dung hoà
quyền lợi giữa nhà nước và làng xã”, mét thứ “tự trị” tương đối nhờ thái
độ “phó mặc” tương đối của nhà nước phong kiến” [2;tr111] đương thời.
Tuỳ theo cách ghi chép của mỗi làng mà Hương ước có những tên
gọi khác nhau như Khoán ước, Hương biên, Hương khoán, Khoán lệ, Tục
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
lệ, Cựu khoán Trước hết phải khẳng định: “Hương ước là văn bản pháp
lý của mỗi làng, trong đó có các điều ước về dân sự, hình sự, các điều ước
giữ gìn đạo lý, phong tục tập quán có liên quan đến tổ chức xã hội cũng
như đời sống xã hội trong làng. Hương ước là tấm gương phản chiếu bộ
mặt xã hội cũng như đời sống văn hoá của mỗi làng”. Nh vậy, trước hết sự
ra đời của Hương ước thể hiện tinh thần tự trị của làng xã. Ngay phần mở
đầu của nước, làng có hương ước riêng” hay “Nhà nước có pháp luật quy
định, còn dân có những điều ước riêng”. Quả thật để hạn chế sự chống đối
lúc công khai, lúc ngấm nhầm của các làng xã nh các thời kỳ trước, Lê
Thánh Tông một mặt đã phải có những “nhân nhượng” nhất định đối với
làng xã. Song sự nhân nhượng đó phải luôn trên nguyên tắc đảm bảo quyền
quản lý của mình. Vì vậy, thời bấy giê Lê Thánh Tông một mặt khẳng định
quyền tự trị, tự quản của làng xã thông qua việc lập Hương ước riêng,
nhưng mặt khác lại biến Hương ước thành một vũ khí quản lý nông thôn

làng xã của bản thân chính quyền phong kiến. Điều này được thể hiện cụ
thể nh sau:
Thứ nhất, nhà nước đã đưa tinh thần Nho giáo vào trong các điều
luật của Hương ước nhằm phổ biến lễ giáo phong kiến đến tận các làng xã.
Đó là những quy định về đạo Vua tôi, cha con, chồng vợ, quy định về quan
hệ anh em với làng xóm, đối với đạo thầy học
Thứ hai, những người soạn thảo nội dung Hương ước phải là những
người có trình độ Nho học, thấm nhuần tư tưởng Nho giáo. Đặc biệt ở
những làng khoa bảng thì điều này càng được thể hiện rõ nét.
Thứ ba, các Hương ước đều phải được chính quyền phong kiến cấp
trên phê duyệt. Đối với những Hương ước có nội dung đi ngược lại với
pháp luật của nhà nước hay những tư tưởng Nho giáo thì sẽ bị loại bỏ.
Điều 264 của “Hồng Đức thiện chính thư” đã ghi rõ:
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
“”Nhà nước đã có điều luật, dân nên theo đó mà thi hành để dân an,
nước thịnh. Dân các làng xã không nên lập khoán ước riêng, để bò tà theo
chính. Trường hợp nếu xã nào có những tập tục khác lạ, lập ra Khoán ước
và cấm lệ riêng cần nhờ bậc Nho giả đứng tuổi, đức hạnh ngay thẳng giúp
đỡ soạn thảo. Sau khi khoán lệ lập xong phải trình lên nha môn phê duyệt.
Nếu thấy khoán ước có điều thiên tư, gian tà thì loại bỏ, để tránh mưu
gian. Các điều khoản lệ không được phép thi hành thì tuân theo mà thi
hành, không được làm trái”.
Thứ tư, sau khi đã được kiểm duyệt xong, Hương ước phải có chữ ký
của tiên thứ chỉ, lý phó đương chức và dấu triện gỗ của xã - biểu hiện cho
sự hiện diện, sự nắm quyền của nhà nước phong kiến ở làng.
Như vậy, Hương ước (hay “lệ làng”, “khoán ước” ) không phải
hoàn toàn mang tính tự trị, của riêng mỗi làng xã, cũng không phải là hình
ảnh thu nhỏ của “phép nước” mà Hương ước chính là sự thực thi phép
nước trong những hoàn cảnh cô thể ở mỗi làng xã.

Rõ ràng sự ra đời của Hương ước thời Lê Thánh Tông không chỉ đáp
ứng nhu cầu tự trị của làng xã mà còn biến thành một vũ khí lợi hại để
quản lý nông thôn của chính quyền nhà nước Trung ương.
Xét trên tất cả các phương tiện kinh tế, chính trị, văn hoá, chúng ta
có thể khẳng định rằng, Lê Thánh Tông đã thành công trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa quyền quản lý của nhà nước với quyền tự quản của
làng xã - đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà nước phong kiến đương thời.
Từ trên đỉnh cao của nhà nước quân chủ, Lê Thánh Tông đã với tay xuống
tận các làng xã và quy các làng xã trên khắp mọi miền đất nước về chung
một mối, dưới sự thống trị tuyệt đối của một hoàng đế tối cao với quyền
lực tập trung. Và sự thống nhất từ trên xuống dưới, từ Trung ương xuống
các địa phương thời kỳ này nh mét kết quả tất yếu của những thành công
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
trong chính sách quản lý đất nước của một nhà Vua anh minh nh Lê Thánh
Tông.
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
KẾT LUẬN
Lê Thánh Tông lên ngôi trong hoàn cảnh khi triều Lê mới dùng
nghiệp. Sau chiến thắng vẻ vang chống ngoại xâm, chưa được bao lâu thì
lại vấp phải hàng loạt những khó khăn do nạn bè phái, chia rẽ trong nội bộ
cung đình, làm suy yếu nhà nước Trung ương. Nhận thấy rõ yêu cầu của
hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giê, bằng tài năng và tâm huyết của mình, Lê
Thánh Tông đã dốc sức tiến hành công cuộc cải cách hành chính nhằm
mục đích tập trung quyền hành vào tay Vua, nâng cao hơn nữa mức độ
chuyên chế, đảm bảo thống nhất của bộ máy nhà nước từ Trung ương
xuống các địa phương bởi như chính Lê Thánh Tông đã nói: “Đồ bản đất
đai ngày nay so với trước đã khác xa nhau. Ta cần phải tự mình giữ quyền
chế tác, hết đạo biến thông ” (Hiệu định quan chế). Và thực tế cho thấy,

Lê Thánh Tông đã thực sự thành công trong việc giải quyết mối quan hệ
giữa Nhà nước và làng xã – một vấn đề cốt lõi nhất bảo đảm tính tập trung,
thống nhất vững mạnh của bất cứ một nhà nước nào.
Trong quá trình đổi mới của đất nước ta hiện nay, chóng ta đã đạt
được thành công trên nhiều lĩnh vực. Việc quản lý nhà nước theo cơ chế
nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo quả thật đã thu được
những thành quả bước đầu, song việc giải quyết mối quan hệ giữa Trung
ương với chính quyền cấp cơ sở đang còn nhiều vấn đề bất cập do cơ chế
quản lý chưa thật chặt chẽ, còn lỏng lẻo, đội ngò cán bộ các cấp chưa đủ
năng lực và tinh thần trách nhiệm Vì vậy những chủ trương, chính sách
mà nhà nước đề ra chưa được thực hiện đồng bộ, thống nhất từ trên xuống.
Do vậy việc học tập, phát huy những kinh nghiệm thành công trong quá
khứ để phục vụ cho công cuộc cải cách hiện tại đã và đang đặt ra ngày
càng bức thiết. Và thành công trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
nước với làng xã thời Vua Lê Thánh Tông chính là bài học quý giá để
chúng ta hôm nay phải suy ngẫm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Xuân Đính, Lệ Làng, phép nước, NXB Pháp lý 1985
2. Cao Văn Liên, Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước, NXB
Thanh niên, 2004.
3. Học viện CTQG Hồ Chí Minh, phân viện Hà Nội – Khoa lịch sử, Một
số chuyên đề về lịch sử Việt Nam, NXB CTQG, 2000
4. Nguyễn Cảnh Minh, Giáo trình một số vấn đề làng xã trong lịch sử Việt
Nam đại cương, Đại học Huế, Trung tâm đào tạo từ xa, Huế, 1996.
5. Nguyễn Phan Quang, Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884.
6. Phan Thị Doãn, Làng Việt Nam – một số vấn đề kinh tế – xã hội,
NXB Khoa học xã hội, NXB Mòi Cà Mau, 1992
7. Trần Bá Đệ (chủ biên), Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam, NXB Đại

học Quốc gia Hà Nội, 2002.
8. Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I,
NXB Giáo dục, 1997.
9. Việt Nam học, Kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội 15 – 17 –
1998, tập 3, NXB Thế giới, 2001.
10. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3/1999
Bài tiểu luận Nguyễn Thị Kim Dung - K55B -
Lịch sử
MỤC LỤC
Trang

×