Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

TIỂU LUẬN: MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.13 KB, 79 trang )






TIỂU LUẬN:

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY












Thực tiễn của 20 năm đổi mới ở nước ta cho thấy, việc giải quyết mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ này,
chúng ta cần phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; cần
phân định rõ chức năng giữa Đảng và Nhà nước, từng bước xác định rõ nội dung,
phạm vi, mức độ quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước;
đồng thời, tiếp tục đổi mới quá trình thể chế hoá chủ trương, đường lối của Đảng
thành hoạt động của Nhà nước và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong


mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội.
Đổi mới tư duy (trước hết là tư duy kinh tế), về thực chất, là trở lại với tư duy biện
chứng để nhìn nhận sự vật đúng như nó vốn có chứ không phải như cái ta muốn có.
Đổi mới tư duy về xây dựng bộ máy nhà nước hiện nay là "một trong những vấn đề
phức tạp nhất, khó khăn nhất", nhưng lại là vấn đề "rất cơ bản, rất mấu chốt trong
toàn bộ chính trị"(1). Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trước hết phải phù hợp với những nội dung và các giá trị tư tưởng mà văn minh nhân
loại đã đạt được. Từ nhà nước pháp trị đến nhà nước pháp quyền tư sản, từ nhà nước
pháp quyền tư sản đến nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình phủ
định biện chứng, diễn ra liên tục. Nội hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền cùng
với những khái niệm tự do, dân chủ, công dân ngày càng được mở rộng, đầy đủ hơn.
Vấn đề này, trong những năm qua, ở nước ta, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu


và cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn
không ít những điểm nổi cộm, như làm thế nào để xây dựng Nhà nước xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ngày càng lớn mạnh; làm thế nào để làm trong sạch bộ máy Đảng và
Nhà nước khi tệ nạn quan liêu, tham nhũng đã trở thành quốc nạn; việc giải quyết
mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Đảng cầm quyền ở Việt
Nam cần có những nội dung gì Đây là những vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu
để làm sáng tỏ thêm. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ bàn về mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
Chúng ta đều biết, đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng đã đặt ra
chủ trương phải "cải cách lớn" bộ máy nhà nước. Nhưng, phải đến Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta mới khẳng định chủ trương "xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Nội dung
chủ yếu của nhiệm vụ này là: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản
lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng

xã hội chủ nghĩa". Đây là lần đầu tiên trong Văn kiện quan trọng của Đảng chính
thức sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền và nêu cụ thể, toàn diện những quan
điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam và nó trở
thành chủ trương có tầm chiến lược, định hướng cho toàn bộ quá trình và nội dung
đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước.
Đại hội VIII nhấn mạnh vấn đề xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh,
trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả và đã cụ thể hóa các nhiệm vụ xây dựng, kiện
toàn bộ máy nhà nước(2). Đặc biệt, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định và
nhấn mạnh thêm: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành
Hiến pháp và pháp luật"(3). Đại hội X của Đảng khẳng định: "Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa"(4).


Như vậy, có thể nói, kết quả nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Đảng ta là quá trình không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc tinh
hoa của nhân loại, không sao chép, rập khuôn, giáo điều, mà luôn sáng tạo để vận
dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam. Và, chỉ có nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng mới là công cụ có đầy
đủ hiệu lực để quản lý sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Ở đây, cần phân biệt nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Trong lịch sử nhân loại, nhà nước pháp quyền biểu hiện dưới nhiều hình thức,
nhưng khái quát lại chỉ có hai loại: nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Loại thứ nhất trải qua mấy trăm năm lịch sử. Loại thứ hai ra
đời trong thế kỷ XX và còn rất ít kinh nghiệm tổ chức xây dựng. Những nhà nước xã
hội chủ nghĩa trước đây đã ít nhiều có tính pháp quyền, song chưa phải là nhà nước

pháp quyền và trên thực tế, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
được Đảng ta đặt ra cách đây không lâu(5). Mặt khác, chúng ta tạo lập Nhà nước xã
hội chủ nghĩa không phải là "đập tan" nhà nước cũ, mà bằng cách chuyển dần từ Nhà
nước Dân chủ Nhân dân thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về bản chất,
hai nhà nước này đều là chính quyền của nhân dân, được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như vậy, Nhà nước pháp
quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở nhà nước hiện có, trên cơ sở đổi mới và
không ngừng hoàn thiện, nâng nhà nước hiện có lên một tầm cao mới, và đây là một
quá trình lâu dài. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam khác về bản chất
với nhà nước pháp quyền tư sản. Điều này được quy định một cách khách quan trên
cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội. Sự khác biệt đó biểu hiện ở
bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân của nhà nước, chúng hòa quyện vào
nhau, được quán triệt, cụ thể hóa, thể chế hóa và thực hiện trên mọi lĩnh vực, mọi tổ
chức, hoạt động của nhà nước. Và, cũng chỉ có nhà nước mang bản chất giai cấp
công nhân, hoạt động theo đường lối, quan điểm của Đảng tiên phong của giai cấp
công nhân mới đại biểu cho lợi ích chung của nhân dân lao động, của toàn dân tộc.
Vì vậy, việc tìm kiếm, xây dựng những thiết chế, cơ chế nhà nước như thế nào cho
phù hợp với đặc điểm và truyền thống dân tộc, cũng như trình độ phát triển kinh tế -


xã hội, trình độ dân trí, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân luôn có
ý nghĩa quan trọng. Ở đây, chúng ta cần chú ý giải quyết tốt các vấn đề cơ bản sau:
- Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đây không phải là vấn đề mới, nhưng lại là vấn đề có tính nguyên tắc để bảo đảm
bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước, bảo đảm sự thống nhất giữa tính giai cấp với
tính nhân dân, tính dân tộc của nhà nước. Các thuật ngữ "đảng cầm quyền", "đảng
chấp chính", đảng "nắm chính quyền" đã được dùng từ lâu ở các nước phương Tây
để chỉ rõ vai trò, vị thế và trách nhiệm của một đảng khi đã có chính quyền, phân biệt
đảng nắm chính quyền với đảng không nắm chính quyền, chưa giành được chính
quyền hoặc ở vị thế đối lập. Đảng cầm quyền có nghĩa là đảng lãnh đạo chính quyền,

làm cho mọi hoạt động của chính quyền thể hiện và thực hiện tư tưởng, đường lối
của đảng đó, phù hợp với lập trường và phục vụ cho lợi ích của giai cấp, tầng lớp mà
đảng đó đại diện(6). Trong thời đại ngày nay, không có nhà nước nào, kể cả nhà
nước tư sản, nhà nước vô sản, mà không chịu sự chi phối của một đảng chính trị nhất
định.
Ở Việt Nam hiện nay, Đảng cầm quyền tức là chính quyền thuộc về nhân dân và chịu
sự lãnh đạo của Đảng. Đây không phải đơn thuần là vấn đề học thuật, từ ngữ, mà bắt
nguồn từ những nhu cầu rất cơ bản của thực tiễn cách mạng Việt Nam và của Đảng
cầm quyền. Tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng"(7). Điều đó vừa khẳng định vai trò của
Đảng đối với chính quyền và đối với toàn xã hội, vừa có ý nghĩa là phương thức lãnh
đạo của Đảng cần phải có sự thay đổi căn bản so với thời kỳ chưa giành chính quyền.
Là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội, Đảng phải chịu trách nhiệm toàn diện và cao nhất
trước nhân dân về cả sự phát triển xã hội lẫn nâng cao đời sống của nhân dân, năng
lực và phẩm chất của bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo toàn diện, tức là lãnh đạo các
cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp). Hoạt động của Nhà nước được
thực hiện ở tất cả các cấp, Đảng không chia sẻ quyền lãnh đạo cho bất kỳ một lực
lượng chính trị nào. Mặt khác, Đảng phải bằng mọi cách phát huy cao nhất vai trò
của Nhà nước. Hai mặt đó là thống nhất, quan hệ biện chứng với nhau. Đảng chỉ có
thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của mình khi xây dựng được Nhà nước vững mạnh,
hoạt động có hiệu lực và có hiệu quả cao, tôn trọng và hết lòng phục vụ nhân dân.


Để hoàn thành nhiệm vụ này, Đảng phải tự đổi mới, phải xây dựng Đảng thật sự
trong sạch, vững mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, ngang tầm với nhiệm vụ
cách mạng đòi hỏi.
Thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống: "Nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức
chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức
tạp nảy sinh"(8). Không hiếm cán bộ suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức vẫn

được "tín nhiệm", được tham gia các cơ quan lãnh đạo, quyền lực. Phần lớn những
vụ việc tiêu cực nghiêm trọng không do tự các tổ chức Đảng phát hiện, phanh phui,
mà do công luận và cơ quan bảo vệ pháp luật phanh phui.
Đó là một nguy cơ lớn Bài học của những cuộc khủng hoảng ở các nước Đông Âu,
sự tan rã của Đảng và Nhà nước Liên Xô vừa qua cho thấy, các thế lực thù địch trong
và ngoài nước đã lợi dụng sự tha hoá của cán bộ đảng viên, sự quan liêu của bộ máy
nhà nước để tách dân với Đảng. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu, trực
tiếp dẫn đến đổ vỡ chủ nghĩa xã hội. Phải chăng, trong bối cảnh quốc tế hiện nay,
mất nước do kẻ thù xâm lược nhiều khi khó hơn là tự ta để mất chế độ chỉ vì mất
lòng dân. Do vậy, cần phải đánh giá sâu sắc hơn nữa sức chiến đấu của toàn Đảng
chứ không chỉ của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Cần nghiêm túc xem xét lại cơ chế
đánh giá, đề bạt cán bộ hiện nay, bởi ở đây vẫn còn có kẽ hở tạo ra tình trạng chạy chức,
chạy quyền. Phải chăng, tình trạng phổ biến giảm sút sức chiến đấu do phát triển chủ
nghĩa cá nhân, do nhận thức chính trị không được nâng cao trong Đảng(9).
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không chỉ vì một bộ phận
cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, mà còn do nhiệm vụ của cách mạng, của sự
nghiệp đổi mới mà trong những năm tới ngày càng khó khăn, phức tạp. Ở đây, cần
tập trung vào các khía cạnh: trí tuệ, cương lĩnh, đường lối, đạo đức, tính tổ chức, kỷ
luật, bản lĩnh chính trị, khả năng tập hợp quần chúng. Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm với yêu
cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và
nhân dân ta, là thước đo hiệu quả lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở sức mạnh, vai
trò của Nhà nước. Sẽ không có Đảng mạnh mẽ, chắc chắn nếu nhà nước yếu kém,
hình thức, quan liêu, tham nhũng, luật pháp không nghiêm.


Hai là, cần phân định rõ chức năng giữa Đảng và Nhà nước, từng bước xác định rõ nội
dung, phạm vi, mức độ quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Lãnh đạo, quản lý là quá trình chủ thể tác động vào khách thể, nhận thức khách thể.
Xét về bản chất, lãnh đạo và quản lý đều là quá trình điều khiển. Tuy nhiên, lãnh đạo

là quá trình định hướng cho mọi khách thể, còn quản lý là quá trình tổ chức, sắp xếp,
bố trí để thực hiện sự định hướng. Quản lý là sự tiếp tục của lãnh đạo ở vòng khâu
mang tính chất cụ thể hóa và hiện thực hóa sự lãnh đạo. Nói Đảng lãnh đạo không có
nghĩa là Đảng không có chức năng quản lý, Nhà nước quản lý không có nghĩa là Nhà
nước không có lãnh đạo. Chức năng quản lý của Đảng thể hiện trong việc quản lý
trực tiếp đảng viên (nhất là đảng viên trong bộ máy nhà nước và quản lý xã hội, quản
lý đất nước), nhưng ở đây là sự quản lý gián tiếp thông qua Nhà nước và các tổ chức
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Nói Đảng không làm thay chức năng của
Nhà nước là đúng, nhưng nói Đảng không can dự vào công việc quản lý nhà nước thì
sẽ là sự mơ hồ về chính trị. Và, trong sự lãnh đạo của Đảng có nội dung quản lý,
thông qua quản lý để lãnh đạo. Mặt khác, Nhà nước lãnh đạo xã hội thông qua việc
hoạch định kế hoạch, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội; song có thể nói, đây
là sự lãnh đạo "cấp hai" chứ không phải ở cấp cao nhất. Đó là tiếp tục sự lãnh đạo
của Đảng dưới hình thức nhà nước. Cho nên, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước vừa thống nhất, vừa khác biệt; tách Đảng khỏi Nhà nước, Đảng làm thay
Nhà nước đều là sai lầm cực đoan như nhau.
Điều cần chú ý là, khác với hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa, trong hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa, Đảng cầm quyền và Nhà nước đều là người đại biểu trung thành
cho lợi ích của nhân dân. Vì lẽ đó mà trong một thời gian dài, các nước xã hội chủ
nghĩa, trong đó có nước ta, ít quan tâm nghiên cứu giải quyết mối quan hệ giữa Đảng
với Nhà nước, ít chú ý phân biệt giữa Đảng và Nhà nước. Từ đó, trong thực tiễn
thường xảy ra tình trạng lẫn lộn, nhập cục Đảng với Nhà nước. Hiện tượng "Đảng
trị", Đảng "ôm quyền", lấn át chính quyền nhà nước xảy ra khá phổ biến ở các nước
xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ là lực lượng lãnh đạo, Đảng có xu hướng bị "nhà nước hóa"
thành cơ quan quyền lực, trực tiếp làm chức năng của Nhà nước. Sự lẫn lộn nhập cục
một cách chủ quan giữa chức năng của Đảng và chức năng của Nhà nước đã làm cho
Đảng yếu, Nhà nước non kém, Đảng không phát huy được chức năng vốn có của


mình, còn Nhà nước rơi vào tình trạng thụ động, quan liêu, xa rời thực tế, quyền lợi

của nhân dân trở thành hình thức. Vì thế, trong quá trình đổi mới, để Nhà nước thực
sự là quyền lực của dân, Đảng phải lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức dân chủ.
Đảng cần hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, tức là vừa phải trọng
dân, vừa phải trọng pháp. Bởi vì, phương thức dân chủ là giải pháp tốt nhất để quyền
lực của nhân dân, của giai cấp không bị biến thành quyền lực riêng của một người,
một nhóm người có đặc quyền, đặc lợi. Yêu cầu Đảng vừa bảo đảm tăng cường sự
lãnh đạo của mình với Nhà nước, vừa phải lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức dân
chủ - đó là bài toán đã và đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay. Chính vì thế, tại Đại hội VII, Đảng ta đã chỉ rõ: để đổi mới và kiện
toàn hệ thống chính trị, xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, vấn đề mấu
chốt là phân định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân. Tại Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định "tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước"(10). Và, mới đây, tại Đại hội X,
một lần nữa, Đảng ta nhấn mạnh: "Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, trong đó
tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước… Đảng lãnh đạo
nhưng không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động
sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội"(11).
Như vậy, ở đây, cần chú ý làm rõ sự khác biệt giữa quyền lực chính trị của Đảng, sự
lãnh đạo của Đảng với quyền lực, quyền uy pháp luật của Nhà nước, sự quản lý của
Nhà nước. Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng phải khác với hệ thống tổ chức bộ
máy của Nhà nước; sự đào tạo, huấn luyện cán bộ Đảng khác với sự đào tạo, huấn
luyện cán bộ nhà nước(12). Đương nhiên, sự phân biệt thực thể này với thực thể khác
không có nghĩa là tách rời, biệt lập, cũng không phải là đối lập với nhau. Đây là sự
khác biệt trong thống nhất, có cùng chiều hướng chung với một hệ mục tiêu, hệ giá
trị đã được xác định. Nhận thức đúng sự khác biệt trên là cơ sở để thực hiện những
đổi mới, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, để nhân dân
làm chủ.
Ba là, tiếp tục đổi mới quá trình thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành
hoạt động của Nhà nước. Yêu cầu của việc tổ chức bộ máy nhà nước sao cho Nhà
nước thực sự là cơ quan quyền lực thể hiện ý chí của Đảng cầm quyền và cũng là ý



chí của nhân dân, mọi hoạt động của chính quyền thể hiện và thực hiện đường lối của
Đảng, cụ thể là:
- Nhà nước dựa vào chủ trương, đường lối của Đảng mà xây dựng thành chính sách,
pháp lệnh để thực thi có hiệu quả chủ trương, đường lối đó.
- Nhà nước phải tuyên truyền, động viên, tổ chức mọi tầng lớp nhân dân thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng.
- Nhà nước phải tổng kết thực tiễn quá trình triển khai thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng.
Để nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, cần chú ý giải quyết các mặt sau:
Thứ nhất, cần đề cao và thực hiện nhất quán các chuẩn mực dân chủ và pháp quyền
trong Đảng, trong Nhà nước và xã hội. Hạn chế lớn nhất, từ trước đến nay, là hệ
thống tổ chức, thể chế và cơ chế quyền lực, những quy định về các biện pháp và các
điều kiện, các chế tài để kiểm tra, giám sát quyền lực không rõ ràng; đặc biệt là chế
độ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân bị xem nhẹ và suy yếu nghiêm trọng, thậm chí
thiếu vắng. Một bộ trưởng bị kỷ luật thì trách nhiệm của Chính phủ ở đâu, một vụ
trưởng tham nhũng dưới quyền bị kỷ luật thì bộ trưởng trách nhiệm đến đâu, vì sao
có những vụ tham nhũng lớn, làm thất thoát hàng ngàn tỷ đồng mà lại kéo dài nhiều
năm không được phát hiện từ chính các tổ chức Đảng, mà phải nhờ công luận và các
cơ quan thi hành pháp luật?
Để khắc phục từng bước những hạn chế trên cần phải "hoàn thiện hệ thống pháp luật,
tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn
thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và
quyết định của các cơ quan công quyền"(13). Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời Đảng hoạt động và thực hiện sự
lãnh đạo phù hợp với tinh thần pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật, không đứng
trên Nhà nước, xã hội công dân và luật pháp.
Thứ hai, nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhà nước vô sản là
nhà nước kiểu mới, "nửa nhà nước", do đó trong quá trình thực hiện, cần phân biệt rõ

đâu là nhà nước với tư cách một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng, đâu là hoạt
động quản lý sản xuất, kinh doanh của nhà nước, là “phần nửa” không thuộc nhà
nước. Trong hoạt động của nhà nước vẫn còn có hiện tượng lẫn lộn nhà nước với tư


cách bộ máy cai trị thuộc kiến trúc thượng tầng với quản lý sản xuất, kinh doanh của
các cơ sở kinh tế của nhà nước.
Tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi còi" đã gây ra sự hỗn loạn, giả tạo trong sản xuất,
kinh doanh và cũng là khe hở cho tệ quan liêu, tham nhũng gia tăng. Để thực hiện có
hiệu quả công cuộc đổi mới hiện nay, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý
toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, việc đổi mới quản lý của Nhà
nước đối với kinh tế, nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước đang
được đặt ra như vấn đề cấp bách nhất trong tổng thể đổi mới hoạt động của Nhà
nước. Để bộ máy nhà nước với tư cách một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng hoạt
động có hiệu quả thì xã hội phải có ngân sách để nuôi bộ phận này, để nó hoàn thành
tốt chức năng quản lý kinh tế - xã hội, hoàn thành tốt việc cai trị xã hội, bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân lao động. Còn hoạt động của các tổ chức
kinh doanh của Nhà nước phải hạch toán kinh tế. Đây là bộ phận vượt ra ngoài phạm
trù kiến trúc thượng tầng và khi đi vào hoạt động kinh tế, nó phải tuân theo quy luật
kinh tế. Bộ máy nhà nước ta hiện nay còn cồng kềnh, kém hiệu quả, hoạt động chồng
chéo và do vậy, cần tinh giản biên chế là đúng; còn trong sản xuất, kinh doanh của
các cơ sở kinh tế của Nhà nước giảm hay không là do nhu cầu khách quan của sản
xuất quyết định.
Ba là, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước. Đảng lãnh
đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát, kể cả kiểm tra, giám sát cơ quan nhà nước ở
cấp vĩ mô, và vấn đề này phải được luật pháp hóa. Thông qua hoạt động kiểm tra,
giám sát, Đảng phát hiện những thiếu sót, lệch lạc trong hoạt động của Nhà nước để
kịp uốn nắn, đồng thời phát hiện những nhân tố mới, những vấn đề mới nảy sinh để
bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chính sách cho phù hợp với sự phát triển của thực
tiễn. Đảng phải tăng cường giám sát, quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà

nước trên tinh thần kỷ luật và đạo đức cộng sản. Chỉ có như vậy thì các nhân viên
trong bộ máy Đảng và Nhà nước mới "tự giác" đặt mọi hoạt động của mình trong tổ
chức. Tổ chức và đạo đức, tất yếu và tự do gắn chặt với nhau. Và, chỉ có tổ chức mới
có năng lực buộc người ta tự điều chỉnh trong lĩnh vực đạo đức.
Trong chủ nghĩa xã hội, người lao động hoạt động không phải chỉ với tư cách người
công dân, mà còn với tư cách người chủ tư liệu sản xuất của xã hội. Do đó, đặc điểm


dân chủ xã hội chủ nghĩa là có sự thống nhất giữa quyền công dân và quyền làm chủ
xã hội của người chủ tư liệu sản xuất. "Dân là gốc", tất cả là do dân, vì dân, quyền
lực của dân là tối cao. Hoạt động của Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo là theo xu
hướng tất yếu đó. Chính đây là điểm xuất phát cơ bản để chúng ta từng bước xây
dựng hệ thống chính trị với phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra",
để Nhà nước ta thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, để khi con người được đặt
trong cơ chế đó thì quyền tự do dân chủ của họ được thực hiện trong thực tế. Và, chính
cơ chế đó sẽ thu hút quần chúng tham gia quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm kê,
kiểm soát số lượng lao động, sản xuất và phân phối sản phẩm.
Cùng với những vấn đề trên, cần chú ý tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ
vững kỷ luật, kỷ cương, từng bước hoàn thiện và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước
Thực tiễn cách mạng nước ta chứng tỏ rằng, sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước phụ
thuộc vào việc Nhà nước thực hiện dân chủ đến mức nào; các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước có đại diện cho lợi ích của đa số quần chúng nhân dân không;
các đại biểu trong cơ quan nhà nước có xứng đáng là "công bộc có trách nhiệm" của
dân không. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng chính là tạo ra sức mạnh tất yếu đó để Nhà nước vươn lên một tầm cao mới,
đáp ứng yêu cầu cách mạng hiện nay.r



(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh.
(1) Xem: V.I.Lênin. Toàn tập, t.39. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.179.
(2) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.129.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131-132.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.45.


(5) Xem: GS.TS. Trần Hữu Tiến. Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Trong sách:Những vấn đề lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại
hội IX của Đảng (GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PGS.TS. Đặng Hữu Toàn (Đồng
chủ biên)). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.382.
(6) Xem: Nguyễn Phú Trọng. Xây dựng Đảng cầm quyền: một số kinh nghiệm. Tài
liệu phục vụ Hội nghị cán bộ triển khai nhiệm vụ năm học 2004 - 2005, t.1, Hà Nội,
2004, tr.269.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Sđd.,
tr.131.



XUẤT PHÁT ĐIỂM NGHIÊN CỨU CỦA C.MÁC VÀ PH.
ĂNGGHEN TRONG
“HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC”





LƯƠNG MỸ VÂN (*)
Xuất phát điểm nghiên cứu là một trong những vấn đề mà C.Mác và Ph.Ăngghen đặc
biệt chú trọng khi xây dựng học thuyết của mình. Trong “Hệ tư tưởng Đức”, khi đề
xuất quan niệm duy vật về lịch sử, các ông đã xuất phát từ con người “cá nhân hiện
thực” với tất cả những mối quan hệ, liên hệ phong phú và phức tạp của họ trong đời
sống xã hội, với hoạt động lao động sản xuất của họ và coi đó là xuất phát điểm
nghiên cứu. Với xuất phát điểm đúng đắn này, các ông không chỉ luận giải những
luận điểm khoa học về đời sống xã hội của con người, về lịch sử nhân loại và xây
dựng nên quan niệm duy vật về lịch sử, mà còn phê phán và chỉ ra những hạn chế
duy tâm, tư biện trong quan niệm của các nhà “triết học Đức hiện đại” (L.Phoiơbắc,
B.Bauơ. M.Stiếcnơ,…).

Trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành một học thuyết khoa học, vấn đề xuất
phát điểm nghiên cứu luôn là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Với bất cứ
học thuyết khoa học nào, trong giai đoạn đầu, xuất phát điểm nghiên cứu có thể kể


tới xuất phát điểm về đối tượng, về lập trường nghiên cứu (khi học thuyết khoa học
chưa được hình thành một cách đầy đủ, thì hệ thống phương pháp của học thuyết ấy
cũng chưa thể hình thành một cách hoàn chỉnh và người ta chỉ có thể nói tới lập
trường tư tưởng của nhà khoa học lúc đó mà thôi) và về mục đích nghiên cứu (cái
đích khái quát nhất mà nhà nghiên cứu hướng tới khi bước đầu tiếp cận đối tượng
nghiên cứu). Ở đây, chúng tôi không có ý định hướng sự quan tâm của mình vào việc
tìm hiểu cái gì quy định xuất phát điểm nghiên cứu này, bởi nó liên quan mật thiết
với những vấn đề thuộc phạm vi khác, như hoàn cảnh lịch sử, bối cảnh phát triển của
tư tưởng và văn hóa mà các nhà nghiên cứu sống và trưởng thành trong đó, những
thiên hướng tự nhiên của họ, v.v Chúng tôi chỉ đề cập tới một khía cạnh khác – đó
là, để có thể diễn đạt một cách trực tiếp, rành mạch về xuất phát điểm nghiên cứu,
đặc biệt là xuất phát điểm về đối tượng, thì nhà nghiên cứu phải trải qua giai đoạn
xây dựng học thuyết và ít nhất cũng đã có được một sự hình dung tương đối rõ ràng

về hệ thống những quan điểm, lý luận của mình.
Đối với triết học Mác - Lênin, chúng ta có thể nhận thấy điều này một cách dễ dàng.
Rõ ràng là, trong thời kỳ đầu hoạt động của C.Mác và Ph.Ăngghen, khi viết những
tác phẩm đầu tay, như Lời nói đầu Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Bản
thảo kinh tế – triết học năm 1844, Tình cảnh giai cấp công nhân Anh, Gia đình thần
thánh và ngay cả trong Luận cương về Phoiơbắc, các ông chưa thể có được cách
diễn đạt trực tiếp về xuất phát điểm nghiên cứu của mình, dẫu lập trường nghiên cứu
của các ông đã dần được hình thành. Có thể nói, phải đến Hệ tư tưởng Đức – tác
phẩm được coi là quan trọng nhất trong thời kỳ đầu hình thành triết học Mác – “xác
lập hệ thống lý luận quan điểm duy vật lịch sử”(1), thì C.Mác và Ph.Ăngghen mới có
thể tuyên bố: “Những tiền đề của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện,
không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua
trong trí tưởng tượng thôi”(2). Bởi lẽ, khi viết tác phẩm này, theo Ph.Ăngghen, bản
thân các ông đã tự “làm sáng tỏ mọi vấn đề”(3) cho mình rồi.
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt sự quan tâm của mình vào
xuất phát điểm nghiên cứu. Điều này cũng có nguyên nhân lịch sử của nó. Hệ tư
tưởng Đức có phụ đề là Phê phán triết học Đức hiện đại qua các đại biểu của nó là
Phoiơbắc, B.Bauơ và Stiếcnơ và phê phán chủ nghĩa xã hội Đức qua các nhà tiên tri


khác nhau của nó. Khi “phê phán triết học Đức hiện đại”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đặc biệt chú ý tới xuất phát điểm nghiên cứu của mỗi đại biểu trên. Các ông không
chỉ vạch rõ tính chất duy tâm trong xuất phát điểm của họ, mà còn chỉ rõ từ xuất phát
điểm ấy, họ đã phạm những sai lầm như thế nào khi xây dựng quan điểm lịch sử. Để
đối lập với những quan điểm ấy, các ông đã nêu lên xuất phát điểm cho triết học của
mình và với xuất phát điểm này, quan niệm của các ông về lịch sử đã có những khác
biệt, có sự phát triển về cơ bản. Vì nguyên nhân đó mà các tác giả của Lịch sử chủ
nghĩa Mác đã nhận xét: “Sự bàn bạc và phân tích lý luận quan điểm duy vật lịch sử
trong Hệ tư tưởng Đức, chủ yếu phân làm ba bộ phận: điểm xuất phát, quan điểm cơ
bản và kết luận rút ra từ đó”(4). Theo đó, điểm xuất phát mà các ông đã đưa ra

được đánh giá là một trong ba thành phần làm nên “quan điểm duy vật về lịch sử”,
tức là làm nên giá trị to lớn nhất của tác phẩm này. Và, xuất phát điểm nghiên cứu
của C.Mác và Ph.Ăngghen trong Hệ tư tưởng Đức cũng là đối tượng của bài viết
này.
1. “Những cá nhân hiện thực” – xuất phát điểm nghiên cứu của C.Mác và
Ph.Ăngghen
Hệ tư tưởng Đức, xét theo tên gọi thuần túy, là một tác phẩm bút chiến, có mục đích
là phê phán các trào lưu tư tưởng đang có những tác hại đối với phong trào hiện thực
của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, để đánh đổ lý luận của các nhà tư tưởng ấy bằng
lý luận, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, cần phải phát biểu trực tiếp những quan điểm
của riêng mình và tiến hành phê phán một cách thật sự cách mạng đối với lý luận của
các nhà tư tưởng ấy, chứ không thể chỉ nói một cách đơn giản rằng “quan điểm của
các ông Phoiơbắc, B.Bauơ và Stiếcnơ là sai lầm”.
Nhìn lại lịch sử triết học, có thể thấy, ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, “con người” đã là
chủ đề được đặc biệt quan tâm. Cùng với luận điểm của Xôcrát – “con người hãy
nhận thức chính mình”, triết học đã thật sự thừa nhận “con người” là đối tượng của
sự nghiên cứu. Từ đó về sau, mọi nền triết học, mọi nhà triết học, dù đặt mối quan
tâm của mình vào bất cứ đối tượng nào, cuối cùng cũng phải kết thúc lập luận của
mình ở những nghiên cứu về con người. Nhưng, nếu chỉ nói về “con người” thì chưa
đủ. Vấn đề là con người như thế nào, con người được quan niệm như thế nào ở mỗi
trường phái, mỗi nhà triết học – khi đó, quan niệm về “con người” đã đứng trên một


lập trường thế giới quan nhất định và vì thế, qua những nghiên cứu về “con người”
của các nhà triết học, người ta có thể nhận ra lập trường tư tưởng, quan niệm về thế
giới của họ và nhận ra cuộc đấu tranh giữa những tư tưởng ấy trong suốt chiều dài
lịch sử triết học.
Khi xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử – quan niệm lấy lịch sử con người làm
đối tượng, trong Hệ tư tưởng Đức, lần đầu tiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày
một cách trực tiếp về xuất phát điểm, về đối tượng nghiên cứu của mình: con người

cá nhân, cụ thể hơn, “những cá nhân hiện thực”. Các ông viết: “Những tiền đề xuất
phát của chúng tôi không phải là những tiền đề trừu tượng, không phải là giáo điều;
đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng
thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh
hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện
do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm
được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy”(5).
“Những cá nhân hiện thực” này được C.Mác và Ph.Ăngghen đặt trên nền tảng duy
vật triệt để (xuất phát điểm về lập trường thế giới quan): “hoàn toàn không giống với
triết học Đức là thứ triết học đi từ trên trời xuống đất, ở đây chúng ta từ dưới đất đi
lên trời”(6). “Từ dưới đất”, tức là “chúng ta xuất phát từ những con người đang hành
động, hiện thực”(7), đúng như những con người đang hoạt động ngoài cuộc sống
(ngoài so với tư tưởng đang vận động trong đầu các nhà triết học), với hoạt động sản
xuất và những quan hệ của họ với nhau, con người “kinh nghiệm”, hoàn toàn có thể
tìm hiểu bằng kinh nghiệm.
Ở đây, chúng ta cần dừng lại để bàn thêm về một khía cạnh nhỏ nhưng tinh tế của
vấn đề. Đó là: trong Hệ tư tưởng Đức, đặc biệt là ở chương 1, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã xây dựng quan điểm về lịch sử loài người – quan điểm về lịch sử được bắt đầu từ
đâu? Cái gì quy định sự phân kỳ và phát triển của lịch sử? Lịch sử sẽ đi đến đâu?
Không chủ đích đi tìm “bản chất con người” hay xem xét “con người” ở những khía
cạnh phong phú của nó, các ông đã xem xét “con người” với tư cách “tiền đề đầu tiên
của lịch sử”. Con người “cá nhân hiện thực” ở đây được bàn đến như là xuất phát
điểm cho lịch sử cũng như cho việc nghiên cứu về lịch sử, chứ không phải chỉ là đối
tượng của sự nghiên cứu lý luận. Và, bởi “con người cá nhân” được xem xét như là


xuất phát điểm, nên các ông chỉ hướng sự quan tâm của mình vào một phương diện
của vấn đề con người – hoạt động của con người, cái làm nên lịch sử loài người.
Quan tâm đến hoạt động của con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói về mối quan
hệ cá nhân – xã hội. Đó không phải là mối quan hệ giữa cá nhân kiệt xuất với quần

chúng nhân dân, mà là giữa những cá nhân bình thường, hoạt động của họ và những
điều kiện sinh hoạt của họ, với xã hội, với loài của mình. Trước Hệ tư tưởng Đức,
trong Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác đã đưa ra một kết luận quan trọng về vấn đề
này: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội”. Đến Hệ tư tưởng Đức, con người hiện thực, “cá nhân hiện thực” và mối
quan hệ của nó với xã hội đã được C.Mác và Ph.Ăngghen làm rõ khi khẳng định
rằng, chỉ có trong mối quan hệ với xã hội, cá nhân mới hình thành được bản chất
người; rằng, không thể có cá nhân riêng lẻ, tách biệt khỏi xã hội, bởi một khi bị tách
khỏi xã hội, nó không bao giờ trở thành cá nhân được. Nói về mối quan hệ giữa con
người “cá nhân hiện thực” với xã hội của họ, với lịch sử hiện thực mà trong đó họ
đang tồn tại, các ông cho rằng, “ngay từ đầu, đã có mối liên hệ vật chất giữa người
với người, mối liên hệ này bị quy định bởi những nhu cầu và phương thức sản xuất
và cũng lâu đời như bản thân loài người, - một mối liên hệ không ngừng mang hình
thức mới, và do đó, là “lịch sử””(8). Như vậy, theo các ông, bản thân lịch sử chính là
mối quan hệ ấy, là mối quan hệ mang tính vật chất ấy giữa những con người “cá
nhân hiện thực” và giữa họ với xã hội của họ.
Khi nói “tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân con người sống”(9), C.Mác và Ph.Ăngghen đã gián tiếp khẳng định
con người “cá nhân hiện thực” là chủ thể sáng tạo lịch sử – “cá nhân hiện thực” với
hành động hiện thực của họ tạo nên lịch sử và quyết định sự phát triển của lịch sử ấy.
Mặt khác, do coi “lịch sử” mới thật sự là đối tượng cần được xem xét, nên vấn đề
lịch sử quyết định sự hình thành và phát triển của “cá nhân hiện thực” đã được các
ông phát biểu một cách trực tiếp hơn: “Những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ
thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ”; “những cá nhân nhất
định, hoạt động sản xuất theo một phương thức nhất định, đều nằm trong những quan
hệ xã hội và chính trị nhất định”(10). Rằng, “những điều kiện vật chất của sự sản
xuất” là cái mà những cá nhân thừa hưởng từ trước, “có sẵn” đối với họ, là cái mà họ


được tiếp nhận từ xã hội và lịch sử để từ nền tảng đó, họ tiến hành sản xuất, tham gia

những quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội khác. Những cá nhân như vậy luôn chịu sự
quy định của xã hội và của lịch sử loài của mình. Với quan niệm này, các ông đã đi
đến kết luận: “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra
con người đến mức ấy”(11).
Với xuất phát điểm nghiên cứu là con người “cá nhân hiện thực” với tư cách tiền đề
đầu tiên của mọi lịch sử, tồn tại trong mối quan hệ với lịch sử, với xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đi đến những quan điểm duy vật về lịch sử.
2. Từ “cá nhân hiện thực” đến những quan điểm duy vật về lịch sử
Xuất phát từ “tiền đề đầu tiên của lịch sử” – con người “cá nhân hiện thực” đến việc
phân tích mối quan hệ giữa con người và xã hội, mà khía cạnh quan trọng nhất của
nó là khía cạnh vật chất, rồi từ đó, trình bày những quan điểm duy vật về lịch sử với
tư cách một hệ thống cùng những khái niệm đặc thù của nó, có thể nói, là một nội
dung cốt lõi của Hệ tư tưởng Đức.
Đương nhiên, Hệ tư tưởng Đức chỉ là tác phẩm ở thời kỳ đầu hình thành quan điểm
duy vật về lịch sử, dẫu đây là tác phẩm quan trọng nhất của thời kỳ này. Trong tác
phẩm này, cái mà chúng ta gọi là hệ thống quan điểm duy vật về lịch sử chưa được
C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày một cách rành mạch như trong các tác phẩm ở giai
đoạn sau (ví dụ, Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, Chống Đuyrinh,
v.v.). Hệ thống ấy có thể rút lại trong hai nguyên lý quan trọng nhất, hai nguyên lý
cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử: nguyên lý về sự phát triển biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa xã
hội công dân và kiến trúc thượng tầng. Khi trình bày những nguyên lý này, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã sử dụng những thuật ngữ cơ bản nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử:
phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất (“hình thức giao tiếp”), cơ sở hạ tầng, kiến
trúc thượng tầng, ý thức xã hội,… Những thuật ngữ này không được các ông định
nghĩa một cách trực tiếp (theo lối A là B), nhưng thông qua quan hệ giữa chúng với
nhau để tạo nên nội dung của những nguyên lý phản ánh lịch sử hiện thực, các ông
đã cho chúng ta thấy nội hàm của chúng.
Hai nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử được C.Mác và Ph.Ăngghen
trình bày trong Hệ tư tưởng Đức có quan hệ như thế nào với xuất phát điểm nghiên



cứu của các ông – con người “cá nhân hiện thực”? Hay nói cách khác, từ xuất phát
điểm đó, các ông đã đi đến hai nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử như
thế nào?
Có thể nói, trong tất cả những yếu tố của lịch sử hiện thực, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
tìm ra yếu tố đóng vai trò xuất phát, yếu tố mà có nó mới có những yếu tố còn lại:
“Những cá nhân hiện thực, hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất
của họ”. Những cá nhân hiện thực này thực hiện “hành vi lịch sử đầu tiên” của họ là
sản xuất, cái mà “ngay lập tức” phân biệt con người với toàn bộ giới tự nhiên còn lại.
Hành vi này được tiến hành trong mối quan hệ giữa người và người. Từ xuất phát
điểm này, các ông đã đi đến quan niệm về lực lượng sản xuất với tư cách kết quả
hoạt động sản xuất của con người ở mỗi thời điểm lịch sử nhất định và đến quan
niệm về quan hệ sản xuất (“hình thức giao tiếp”) với tư cách những mối quan hệ
trong quá trình sản xuất của những con người “cá nhân hiện thực”. Mặc dù chưa đưa
ra định nghĩa chính xác về các khái niệm này, nhưng mỗi khi đề cập đến lực lượng
sản xuất hay “hình thức giao tiếp”, các ông đều nhất quán khẳng định lực lượng sản
xuất là cái quyết định: “Tổng thể những lực lượng sản xuất mà con người đã đạt
được, quyết định trạng thái xã hội”(12); “hình thức giao tiếp – cái mà trong tất cả các
giai đoạn lịch sử từ trước tới nay đều được quyết định bởi lực lượng sản xuất và đến
lượt nó lại quyết định lực lượng sản xuất”(13). Ngay trong tác phẩm này, các ông
cũng đã đưa ra một phác thảo rõ nét về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất: “Trong quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất có một giai đoạn mà trong đó xuất hiện những lực lượng sản xuất và những
phương tiện giao tiếp chỉ có thể gây tác hại trong khuôn khổ những quan hệ hiện có,
và đã không còn là những lực lượng sản xuất nữa mà lại là những lực lượng phá
hoại”(14).
Coi “hình thức giao tiếp” là quan hệ sản xuất giữa những con người “cá nhân hiện
thực”, là yếu tố cốt lõi tạo nên xã hội công dân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một
định nghĩa về xã hội công dân: “Xã hội công dân bao trùm toàn bộ sự giao tiếp vật

chất của các cá nhân trong một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản
xuất”(15). Định nghĩa xã hội công dân như vậy, có thể nói, gần với nội hàm của khái
niệm “cơ sở hạ tầng” mà sau này, trong Lời tựa Góp phần phê phán khoa kinh tế


chính trị (1859), C.Mác đã đưa ra: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình,
con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ –
tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển
nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng
lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”(16). Xã hội công dân với tư cách nền
tảng của kiến trúc thượng tầng (những quan hệ khác ngoài quan hệ sản xuất – quan
hệ chính trị, pháp lý…) đã được C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích kỹ khi nói đến ý
thức thống trị trong đời sống xã hội – ý thức của giai cấp thống trị về vật chất. Ở đây,
cái quyết định cuối cùng vẫn là vật chất và trong đời sống xã hội, đó là hoạt động sản
xuất ra của cải vật chất của những con người “cá nhân hiện thực”.
Như vậy, có thể nói, trong mọi vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử được đưa ra
trong Hệ tư tưởng Đức, chúng ta luôn tìm thấy dấu ấn của xuất phát điểm nghiên cứu
của C.Mác và Ph.Ăngghen – con người “cá nhân hiện thực”. Kết luận sau đây của
chính các ông đã cho thấy rõ điều đó:
“Quan niệm đó (quan niệm duy vật biện chứng – L.M.V) về lịch sử là: phải xuất phát
từ chính ngay sự sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện
thực của sản xuất và hiểu hình thức giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy và
do phương thức sản xuất ấy sinh ra – tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác
nhau của nó – là cơ sở của toàn bộ lịch sử; rồi sau đó phải miêu tả hoạt động của xã
hội công dân trong lĩnh vực sinh hoạt nhà nước, cũng như xuất phát từ xã hội công
dân mà giải thích toàn bộ những sản phẩm lý luận khác nhau và mọi hình thái ý thức,
triết học, đạo đức, v.v., và theo dõi quá trình phát sinh của chúng trên cơ sở đó; nhờ
vậy mà tất nhiên là có thể miêu tả được toàn bộ quá trình”(17).

3. Sự phê phán của C.Mác và Ph.Ăngghen đối với các nhà “triết học Đức hiện
đại” về xuất phát điểm nghiên cứu
Hệ tư tưởng Đức có nội dung chính, hoặc ít ra thì cũng là nội dung chiếm phần lớn
số lượng trang viết – phê phán “triết học Đức hiện đại” qua các đại biểu của nó là
Phoiơbắc, B.Bauơ và Stiếcnơ. Các nhà “tư tưởng Đức hiện đại” bị quy định bởi lịch
sử hiện thực và lịch sử phát triển tư tưởng lúc đó, nên đã đặt trọng tâm vào việc phê


phán tôn giáo, lấy phê phán tôn giáo làm tiền đề cho những nghiên cứu triết học của
mình. Điều này có thể thấy rõ nhất ở Phoiơbắc với tác phẩm đầu tay bàn về “cái chết
và sự bất tử” (1830). Tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp của ông – Bản chất
đạo Cơ đốc (1841) cũng đã đặt tôn giáo trước con mắt phê phán nghiêm khắc.
Nhưng, các nhà triết học thuộc “hệ tư tưởng Đức” đều bắt đầu từ triết học của
Hêghen; nói cách khác, đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hêghen, dù họ luôn tìm cách
phê phán và cho rằng mình đã vượt bỏ được ông thầy tư tưởng của mình. Họ phê
phán Hêghen nhưng đều hoặc là gạt bỏ hạt nhân biện chứng của triết học Hêghen
(như Phoiơbắc), hoặc chỉ diễn đạt bằng cách khác, rối rắm hơn, tầm thướng hơn
chính những tư tưởng của Hêghen. Tự cho mình là những nhà phê phán, cái họ phê
phán đầu tiên là triết học Hêghen, sau đó là tôn giáo để rồi xây dựng hệ thống của
mình. Tất cả họ đều bắt đầu hệ thống của mình bằng “con người”. Nhưng, đó là
những “con người” như thế nào và có gì khác biệt so với quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen?
C.Mác và Ph.Ăngghen đặt sự phân tích triết học Phoiơbắc lên vị trí đầu tiên trong tác
phẩm bởi, Phoiơbắc là người đối lập mạnh mẽ nhất và có hiệu quả nhất đối với triết
học Hêghen (trong số các nhà “triết học Đức hiện đại”) và do đó, có phần gần với
quan điểm của các ông hơn cả. Đồng thời, qua việc phê phán Phoiơbắc, các ông cũng
dễ dàng đưa ra tư tưởng của mình hơn. Khi xây dựng hệ thống triết học nhân bản của
mình, Phoiơbắc cũng bắt đầu từ con người, song, con người trong tư tưởng của ông
khác hẳn con người với tư cách xuất phát điểm trong quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen. Con người của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi lịch sử, đứng bên

ngoài lịch sử hiện thực của chính nó: “Phoiơbắc… không bao giờ đi tới được những
con người hành động đang tồn tại thực sự, mà ông vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu
tượng: “Con người” và chỉ đóng khung ở chỗ thừa nhận con người “hiện thực, cá thể,
bằng xương, bằng thịt” trong tình cảm thôi, nghĩa là ông không biết đến những “quan
hệ con người”, “giữa người với người” nào khác ngoài tình yêu và tình bạn, hơn nữa
lại là tình yêu và tình bạn được lý tưởng hóa. Ông không phê phán những điều kiện
sinh hoạt hiện tại”(18). Từ con người trừu tượng như vậy, không có gì khó hiểu khi
Phoiơbắc sa vào quan điểm duy tâm trong quan niệm về xã hội và lịch sử.
Đối với Phoiơbắc – nhà duy vật duy nhất trong số những đại diện của “triết học Đức


hiện đại”, xuất phát điểm nghiên cứu đã có những hạn chế như vậy, thì đối với những
nhà triết học còn lại – những người duy tâm chủ nghĩa theo Hêghen trong thực chất
và phê phán Hêghen trên danh nghĩa, xuất phát điểm nghiên cứu của họ còn có
những hạn chế lớn hơn và làm cho quan điểm của họ về lịch sử trở nên sai lạc.
Xuất phát điểm nghiên cứu của B.Bauơ không phải là con người, mà chỉ là một phần,
một yếu tố của con người – tự ý thức. Phê phán xuất phát điểm nghiên cứu này của
B.Bauơ, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Đáng lẽ là những con người hiện thực và ý
thức hiện thực của họ về những quan hệ xã hội của họ, những quan hệ đối lập với họ
như một cái gì đó có vẻ độc lập, thì ở ông ta chỉ còn lại công thức trừu tượng trần trụi
là: tự ý thức”(19). “Tự ý thức” mang tính “trừu tượng trần trụi” chỉ là một hình thức
khác của “tinh thần tuyệt đối” ở Hêghen, tức là duy tâm và tư biện hoàn toàn.
M.Stiếcnơ cũng là một nhà triết học thuộc phái Hêghen trẻ giống như B.Bauơ, nhưng
không nhấn mạnh vào “sự phê phán có tính chất phê phán” hay hoàn toàn trừu tượng
hóa “con người” thành “tự ý thức”. M.Stiếcnơ bắt đầu bằng “con người duy nhất”, cá
nhân vị kỷ, “cái Tôi duy nhất” và lấy đó làm xuất phát điểm. “Cái Tôi duy nhất” của
M.Stiếcnơ, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, là “cái, hoàn toàn cũng như Trời, là cái
Không của tất cả cái khác, cái Tôi là tất cả của Tôi, cái Tôi là Kẻ duy nhất… Tôi là
cái Không, theo nghĩa là sự trống rỗng, nhưng tôi là cái Không có tính sáng tạo, là
cái Không mà từ đó bản thân cái Tôi, với tính cách là kẻ sáng tạo, sáng tạo ra tất

cả”(20). Rằng, “cái Tôi duy nhất” được M.Stiếcnơ định nghĩa như một “thực thể”,
tức là hoàn toàn tư biện, nối tiếp truyền thống tư biện của triết học Tây Âu, kể từ
Đêcáctơ cho đến Hêghen. Ở đó, như C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định, mang rõ nét
ảnh hưởng của Hêghen: “Kẻ duy nhất, xét theo quan điểm thực thể, đó là bước đầu
của lôgíc “duy nhất” và với danh nghĩa như vậy, đó là sự đồng nhất chân chính giữa
“tồn tại” và cái “không” kiểu Hêghen”(21).
Như vậy, có thể nói, “Kẻ duy nhất” với tư cách xuất phát điểm nghiên cứu của
M.Stiếcnơ không chỉ có những điểm khác biệt với “con người trừu tượng” của
Phoiơbắc, mà còn đối lập với con người “cá nhân hiện thực” của C.Mác và
Ph.Ăngghen. Từ “Kẻ duy nhất”, M.Stiếcnơ đã xây dựng hệ thống quan điểm tư biện
về xã hội, về loài người mà theo đó, con người trong tiến trình phát triển lịch sử của
nó chỉ như là sự tự phát hiện ra mình (trải qua ba giai đoạn “tự phát hiện”: trẻ con,


thanh niên và người lớn), tự mình tồn tại và phát triển mà không cần đến yếu tố bên
ngoài nào. Do đồng nhất “con người” với “Kẻ duy nhất”, M.Stiếcnơ còn phân tích
những vấn đề khác, như sở hữu, kinh tế, giai cấp và chủ nghĩa cộng sản, trong đó
“Kẻ duy nhất” không phải cái gì khác mà chính là “kẻ sở hữu”, còn đấu tranh giai
cấp cùng với chủ nghĩa cộng sản thì được quan niệm một cách tư biện và ấu trĩ, gây
hại cho phong trào hiện thực của giai cấp vô sản. Điều này giải thích vì sao C.Mác và
Ph.Ăngghen đã dành một dung lượng lớn để phân tích và phê phán quan điểm của
M.Stiếcnơ.
Từ đó, chúng ta thấy, sự khác biệt lớn nhất trong xuất phát điểm nghiên cứu của
C.Mác và Ph.Ăngghen và các nhà “triết học Đức hiện đại” là ở sự khác biệt trong
quan niệm về con người. Con người mà C.Mác và Ph.Ăngghen quan niệm là con
người “cá nhân hiện thực”, với những quy định của lịch sử và đến lượt nó, con người
lại quy định sự phát triển của lịch sử. Còn con người ở các nhà “tư tưởng Đức hiện
đại” là con người trừu tượng, phi lịch sử, hay cá nhân vị kỷ – “Kẻ duy nhất”, “cái Tôi
duy nhất” được trừu tượng hóa thành “tự ý thức” và hơn nữa, còn được xem xét từ
lập trường duy tâm, tư biện và trừu tượng, hoàn toàn xa rời hiện thực. Từ xuất phát

điểm này, họ tất phải đi đến những quan điểm duy tâm và trừu tượng về lịch sử và xã
hội.
Như vậy, có thể nói, trong Hệ tư tưởng Đức, con người được C.Mác và Ph.Ăngghen
lấy làm xuất phát điểm cho những nghiên cứu lịch sử là con người “hiện thực”,
“những cá nhân hiện thực” với tất cả các mối quan hệ, liên hệ phong phú và phức tạp
của họ trong xã hội và lịch sử. Không dừng lại ở đó, các ông còn phân tích và tìm ra
hoạt động quan trọng nhất của “những cá nhân hiện thực” là hoạt động sản xuất ra
đời sống vật chất và mối quan hệ quan trọng nhất giữa “những cá nhân hiện thực” đó
là quan hệ sản xuất (quan hệ vật chất). Từ đó, quan niệm của các ông về lịch sử và sự
phát triển của lịch sử đã trở thành quan niệm duy vật về lịch sử, phản ánh đúng đắn
lịch sử hiện thực.r

(*) Nghiên cứu viên, Phòng Triết học phương Tây, Viện Triết học, Viện Khoa học xã
hội Việt Nam.




TRIẾT HỌC, ĐẠO Đ
ỨC VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
TOÀN CẦU HÓA


VŨ KHIÊU (*)

Triết học Việt Nam tồn tại và phát triển trên cơ sở vừa khẳng định bản sắc dân tộc
của mình, vừa tiếp thu mọi giá trị tích cực của các dân tộc khác. Theo tác giả, ở Việt
Nam, yêu thương không những là một tình cảm tự nhiên, mà còn là một điều kiện để
tồn tại, là lẽ sống bền vững và là hạnh phúc lớn nhất của con người. Chủ nghĩa yêu
nước là biểu hiện rõ rệt nhất của tính cộng đồng Việt Nam; đồng thời, là cốt lõi của

mọi tư duy triết học, là tiêu chuẩn cao nhất trong đạo đức, là điều thiêng liêng nhất
trong mọi tôn giáo ở Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hoá cũng như sự mở rộng
quan hệ giao lưu, đối thoại giữa các nền văn minh và trào lưu triết học trên toàn thế
giới, việc phấn đấu cho thế giới được sống trong hoà bình, hữu nghị, cho các dân tộc
được phồn vinh và hạnh phúc là mục tiêu cao nhất, có ý nghĩa sâu sắc của triết học.
Thế giới ngày càng khẳng định tính đa dạng của mỗi nền văn minh gắn liền với nhu
cầu đối thoại trên phạm vi toàn thế giới và triết học có vai trò cốt lõi trong mỗi nền
văn minh. Thật là đặc biệt vui mừng khi vấn đề này lại được đề cập và trao đổi trên
mảnh đất Việt Nam, nơi đã từng tiếp xúc với nhiều nền văn minh và trào lưu triết học
trên thế giới.
Nói tới vai trò chung của triết học không có nghĩa là phủ nhận sự khác nhau giữa các
nền triết học. Triết học Việt Nam tồn tại và phát triển trên cơ sở vừa khẳng định bản
sắc dân tộc của mình, vừa mở rộng giao lưu để tiếp thu mọi giá trị tích cực của các
dân tộc khác. Có thừa nhận sự phong phú và tôn trọng những đặc điểm riêng của mọi
nền triết học mới có thể đi tới một sự thống nhất về vai trò của triết học như một sự
đóng góp chung vào cuộc sống của nhân loại ngày nay.
Triết học không phải là một món quà đặc biệt mà Thượng đế đã ban riêng cho một số
nước, cho một số vùng lãnh thổ để trở thành những nền văn minh khác nhau của
nhân loại.
Mọi nền triết học đều ra đời trong mối tương tác giữa hoàn cảnh và con người với
những nét đặc thù của thiên nhiên, kinh tế, xã hội.


Chúng tôi cho rằng, sự tiếp biến văn hóa (acculturation) là một điều tất yếu đối với
sự phát triển của mọi nền văn minh. Nhưng sự tiếp biến đó chỉ thành công khi dân
tộc thâu nhận những giá trị của những nền văn minh khác mà vẫn giữ vững bản lĩnh
dân tộc của mình và củng cố thêm bản lĩnh đó.
Từ xa xưa, hoàn cảnh sinh hoạt của con người Việt Nam luôn bị đe dọa bởi những tai
họa của thiên nhiên và sự xâm lược của nước ngoài. Điều kiện để tồn tại và phát triển
là phải phát huy được những nhân tố tinh thần cao nhất do thực tế đòi hỏi. Trước hết

là phải tăng cường sự cố kết của cả cộng đồng để cùng suy nghĩ và hành động.
Thiên tai và địch họa từ xa xưa là sự thử thách quá lớn đối với một quốc gia quá nhỏ
như Việt Nam. Thường xuyên sống trước nguy cơ bị tiêu diệt, dân tộc Việt Nam sớm
nhận ra sức mạnh duy nhất có thể cứu mình là tính cộng đồng, là dựa vào nhau cùng
sản xuất và chiến đấu, là chia sẻ với nhau mọi nỗi vui mừng và đau khổ. Đói rét
thìnhường cơm sẻ áo. Trong hoạn nạn thì chị ngã em nâng. Cá nhân tách khỏi cộng
đồng thì vô cùng yếu ớt, còn cộng đồng gắn kết được mọi thành viên thì tạo nên một
sức mạnh vô địch.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây hợp lại nên hòn núi cao.
Yêu thương là một tình cảm tự nhiên của con người, là một điều răn dạy của mọi đạo
đức và tôn giáo. Nhưng ở Việt Nam, yêu thương lại là một điều kiện để tồn tại, là vũ
khí để chiến đấu, là lẽ sống bền vững, là hạnh phúc lớn nhất của con người.
Thương người như thể thương thân, câu nói hàng ngày này của mọi người Việt Nam
đã từ lâu được coi như một đạo lý trong quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, cộng
đồng với cá nhân. Tình yêu thương ấy được xây dựng và củng cố trong cộng đồng
gia đình, tất yếu mở rộng thành tình yêu thương trong cộng đồng Tổ quốc rồi
đến cộng đồng nhân loại. Bởi sự tồn tại của gia đình trước hết phụ thuộc vào sự tồn
tại của cả nước và hòa bình, hạnh phúc của mỗi quốc gia gắn liền với hòa bình, hạnh
phúc của cả nhân loại.
Nếu như ở Việt Nam, tính cộng đồng là biểu hiện mãnh liệt nhất trong tình cảm giữa
cá nhân với Tổ quốc thì tình cảm này không tách khỏi tình cảm gia đình, mà ngược
lại, nó được nảy sinh và rèn đúc từ trong gia đình. Mặt khác, tình cảm yêu nước của
Việt Nam không bao giờ trở thành chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và đối lập với tình cảm


quốc tế. Khi có nước ngoài đến xâm lược thì mọi gia đình đều cho con em lên đường
cứu nước nhưng trong chiến đấu, mọi người đều phân biệt rõ ràng giữa bọn thống trị
và nhân dân của nước ấy.
Chúng tôi cho rằng, các dân tộc trên thế giới đã hiểu rõ tình cảm này của Việt Nam

đối với cộng đồng nhân loại. Hồ Chí Minh đã suốt đời giương cao ngọn cờ chiến đấu
và lãnh đạo nhân dân Việt Narn đi tới thắng lợi cuối cùng lại được thế giới tôn vinh
là con người của hòa bình. Mảnh đất thủ đô Hà Nội đã từ bao đời thấm máu của bao
nhiêu thế hệ thanh niên trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc lại được thế giới phong tặng
danh hiệu thủ đô của hòa bình. Trong kháng chiến chống quân đội Pháp, Hồ Chí
Minh đã từng nói rằng: Máu của người Pháp cũng là máu của con người. Chiến
tranh chỉ là bất đắc dĩ. Đối xử nhân đạo với tù binh, tha chết và tiễn đưa hàng chục
vạn quân xâm lược bại trận về nước, nhanh chóng lập lại tình hữu nghị sau mỗi trận
chiến tranh. Đó là đạo lý của con người Việt Nam trước cộng đồng nhân loại. Đạo lý
này quán triệt cả trong triết học, tôn giáo và đạo đức.
Nếu chủ nghĩa yêu nước là biểu hiện rõ rệt nhất của tính cộng đồng Việt Nam thì nó
cũng là cốt lõi của mọi tư duytriết học, là tiêu chuẩn cao nhất trong đạo đức, là điều
thiêng liêng nhất trong mọi tôn giáo ở Việt Nam.
Về mặt đạo đức, vinh dự cao nhất thuộc về những người có công với Tổ quốc và
đáng khinh bỉ nhất là những kẻ phản bội lại cộng đồng. Lương tâm cắn rứt chúng và
dư luận xã hội lên án chúng.
Về mặt tôn giáo, ý thức này còn sâu sắc hơn, mãnh liệt hơn và bền vững hơn nữa.
Ở Việt Nam từ xa xưa, không có tôn giáo nào thờ trời mà chỉ có ở khắp nơi những
ngôi đền thờ những người anh hùng trong chiến đấu và sản xuất, thờ những người có
công với Tổ quốc và nhân dân:
Toàn quốc thờ vua Hùng, vị tổ đầu tiên của cả dân tộc.
Mỗi làng thờ những người có đóng góp lớn đối với quê hương.
Mỗi nhà thờ tổ tiên của mình.
Việc thờ cúng nói trên không chỉ là một tiêu chuẩn đạo đứcmà thực sự là tôn
giáo của Việt Nam. Tôn giáo này là một bộ phận bền vững trong truyền thống văn
hóa của dân tộc, nền văn hóa thống nhất cả triết học, đạo đức và tôn giáotrên cùng
một cơ sở. Đó là phương châm của dân tộc trong việc gìn giữ và phát huy bản sắc

×