Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận Chế độ ruộng đất và hình thái kinh tế xã hội Việt Nam cổ trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.41 KB, 21 trang )

Mở đầu
Vấn đề ruộng đất là một nội dung rất cơ bản và xuyên
suốt trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam cả thời kỳ cổ, trung,
cận và hiện đại.Những vấn đề ruộng đất như là một cái nền
của lịch sử dân téc, là cơ sở nền tảng của hình thái kinh tế-
xã hội Việt Nam. Vấn đề nông nghiệp- nông thôn- nông dân
Việt Nam nói chung và ruộng đất Việt Nam nói riêng từ lâu
đã được đông đảo các nhà khoa học trong và ngoài nứoc
quan tâm nghiên cứu và đã đạt được nhiều thành tựu. Những
hiểu biết về vấn đề ruộng đất Việt Nam là chìa khoá để tìm
hiểu và nhìn nhận lịch sử Việt Nam. Đối với vấn đề này, có
thể tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau và dùa trên nhiều
nguồn tư liệu khác nhau: địa bạ, văn bia, gia phả, điều tra
thực địa hay tài liệu hồi cố dân téc học
Chuyên đề:"ChÕ độ ruộng đất và hình thái kinh tế xã
hội Việt Nam cổ trung đại"(thuộc chuyên ngành lịch sử Việt
Nam cổ trung) của TS.Vũ Văn Quân đã cung cấp cho chúng
tôi những hiều biết sâu sắc về vấn đề ruộng đất, đồng thời
gợi mở ra những hướng tiếp cận khác nhau về vấn đề này.
Việc phân chia ruộng đất của làng xã là một trong những
nội dung quan trọng của chế độ ruộng đất Việt Nam.
Trong phạm vi của một tiểu luận, tôi mong muốn được tìm
hiểu vấn đề trên qua tài liệu "Hương ước cổ Hà Tây"
1
I. VÀI NÉT VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT VÀ
RUỘNG ĐẤT CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM (TRONG
LỊCH SỬ CỔ TRUNG ĐẠI)
Trong cuốn:"Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
thời Lê sơ"(Nxb Văn Sử Địa, H,1959), GS. Phan Huy Lê đã
chỉ ra rằng ở Việt Nam chế độ sở hữu phong kiến về ruộng
đất trong từng thời kỳ có những đặc trưng riêng, nhưng nói


chung thì có hai hình thái chính: chế độ sở hữu của nhà
nứơc với chế độ công điền công thổ và chế độ sở hữu tư
nhân. Trong đó, chế độ sở hữu của nhà nước luôn chiếm ưu
thế. Nhà nước phong kiến mà đại diện là nhà vua với tư cách
là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất, đã chi phối đến hầu hết
các bộ phận ruộng đất khác nhau, tuy nhiên quyền chi phối
đó tuỳ thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, mà mức độ chi phối
không giống nhau.
Có thể thấy rất rõ từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XV
chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất luôn giữ địa vị thống
trị. Đây là cơ sở kinh tế chủ yếu của nhà nước, là nền tảng để
nhà nứơc ban hành hàng loạt các chính sách về ruộng đất đặc
biệt là chính sách quân điền thời Lê Thánh Tông(1460-1496)
Bước sang thế kỷ XVI, sù suy yếu của nhà nước phong kiến
trung ương, sự phát triển mạnh mẽ của chế độ sở hữu và
chiếm hữu tư nhân về ruộng đất đã làm phá sản chính sách
quân điền, cơ sở chính của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng
đất, nhưng trong những thế kỷ tiếp theo nó vẫn được duy trì
và vẫn là chỗ dùa kinh tế chủ yếu cho nhà nước trung ương.
Đến thế kỷ XIX, với bản chất của một nhà nứơc phong kiến
tập quyền cao độ, nhà Nguyễn đã ra sức khôi phục và củng
cố quyền sở hữu ruộng đất của mình
2
Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước có hai bộ phận chính là
ruộng đất do nhà nứơc trực tiếp quản lý và ruộng đất công
làng xã.
Bộ phận do nhà nứơc trực tiếp nắm giữ- ở đó nhà nước
thực sự là một chủ ruộng - bao gồm nhiều loại khác nhau:
ruộng tịch điền, ruộng sơn lăng, quốc khố, đồn điền, quan
điền quan trại Hầu hết bộ phận ruộng đất này đều được

duy trì dưới hình thức sở hữu nhỏ và ngày càng có xu hướng
thu hẹp lại, nhưng không mất đi.
Ruộng đất công làng xã là một bộ phận quan trọng của
ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước. Bé phận ruộng đất công
này có một lịch sử lâu dài, hình thành sớm và kéo dài cho
đến cuộc cải cách ruộng đất mới bị triệt bỏ hoàn toàn. Trong
suốt hơn nghìn năm Bắc thuộc, ruộng đất công làng xã trở
thành yếu tố kinh tế cố kết cộng đồng làng xã thành những "
pháo đài xanh" chống lại chính sách thống trị đồng hoá của
phong kiến phương Bắc, và cho đến buổi đầu độc lập, ruộng
đất này vẫn là bộ phận bao trùm trong chế độ sở hữu ruộng
đất nói chung.
Chế độ phong kiến Việt Nam trải qua một quá trình phát
triển lâu dài, trong đó ruộng đát tư hữu ngày càng phát triển
và ruộng đất công ngày càng suy nhựơc. Song song với quá
trình đó là quá trình can thiệp ngày càng sâu của nhà nước
vào ruộng đất công làng xã, hay nói cách khác ruộng đất
công làng xã bị phong kiến hoá ngày càng mạnh mẽ, tuy
rằng ở mỗi thời kỳ bộ phận này có một cách gọi khác nhau.
Theo GS. Trương Hữu Quýnh ở thời Lý - Trần" ruộng đất
công làng xã tuy thuộc sở hữu nhà nước nhưng vẫn do làng
xã quản lý. Đó là lý do khiến nó mang tên"quan điền", "quan
điền bản xã" Cách gọi quan điền đã thể hiện quyền sở hữu
3
của nhà nước đối với bộ phận ruộng đất công làng xã"[1].
Song từ thời nhà Lê nó còn mang tên là"xã dân công điền".
Bộ phận ruộng đất này ngoài tính chất thuộc quyền sở hữu
nhà nứơc nó còn là ruộng đất của "từng xã thôn, chia cho
dân trong xã cày cấy, nép tô và chính vì vậy mà nó còn có
tên gọi như trên"[2]. So với thời kỳ trước đó, đến thời Lê, bộ

phận ruộng đất này đã giảm sút nhiều, nhưng nó vẫn chiềm
ưu thế, với phạm vi khá rộng so với ruộng đất tư. Có thế đây
là một trong những lý do để nhà Lê chỉ đánh thuế vào ruộng
đất tư.
Đến cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, sự phát triển mạnh
mẽ của chế độ sở hữu và chiếm hữu tư nhân về ruộng đất đã
tác động mạnh mẽ vào các hình thức sở hữu công hữu
đương thời mà trước hết là ruộng đất công làng xã, thu hẹp
thêm một buớc bộ phận ruộng đất này. Sang thế kỷ XVIII ( ở
Đàng Ngoài) và đến thế kỷ XIX, nhìn chung tỷ lệ ruộng đất
công bị thu hẹp đến mức "loại hình sở hữu này không còn
đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế đất nước
nữa".
Như vậy, trong suốt quá trình lịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam, xu hướng chung đối với ruộng đất công làng xã là
ngày càng thu hẹp để nhường chỗ cho chế độ ruộng đất tư
hữu ngày càng phát triển. Nhưng không vì thế mà vai trò lịch
sử của nó mất đi. Bộ phận ruộng đất công làng xã không chỉ
là một trong những nguồn thu nhập chính, là cơ sở kinh tế
chính của nhà nước mà xét về chế độ sở hữu thì bộ phận
ruộng đất này thể hiện rất rõ vai trò của nhà nứơc trung
ương cũng như của làng xã địa phương.
Về nguyên tắc bộ phận này thuộc quyền sở hữu tối cao
của nhà nứơc. Chính sách nhất quán của hầu hết các triều đại
4
là duy trì, bảo vệ và mở rộng ruộng đất công làng xã. Đến
thế kỷ XIX, chính sách này không những vẫn còn tồn tại mà
còn có phần tăng lên.Ngay sau khi thiết lập vương triều được
một năm, năm 1803 nhà Nguyễn đã khẳng định rằng: "Theo
lệ cũ thì công điền công thổ quân cấp cho dân đem bán là

có tội"[4]. Sự kiện này không chỉ cho ta biết trước triều
Nguyễn lệ cấm bán ruộng đất công làng xã đã có, mà nó còn
chứng tỏ rằng nhà nước đã tuyên bố quyề sở hữu của mình
đổi với ruộng đất công Ê. Sau này ruộng nhà Nguyễn ban
hành chính sách quân điền( năm 1804 dưới thời Gia Long và
năm 1839 dưới thời Minh Mệnh) cũng chính là một biện
pháp nhằm duy trì và bảo vệ ruộng đất công làng xã.
Tuy là của nhà nước, nhưng trong thực tế lịch sử xét trên
nhiều phương diện khía cạnh khác nhau thì làng xã mới thực
sự là người chiếm hữu đồng thời là người sở hữu loại ruộng
đất công này. Cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
trong các khoán ước, hương ước của từng làng xã, ta thường
xuyên bắt gặp những quy định về việc phân chia công điền
công thổ. Trong khoán ước được lập ngày 18 tháng 10 năm
Chính Hoà 12(1691) [5] và vẫn được duy trì bổ sung cho đến
đầu thế kỷ XX của xã Dương Liễu, huyện Đan Phượng,phủ
Quốc Oai- Hà Tây, ta thấy những quy định rất rõ về việc
phân chia này cũng như việc xử phạt rất nghiêm đối với
những trường hợp đem bán ruộng đất công làng xã.
Như vậy, về nguyên tắc cũng như trong thực tế cả nhà
nứơc và làng xã đều cố gắng duy trì, bảo vệ ruộng đất công
làng xã, cố gắng thể hiện vai trò của mình ở đó.Dù nhà nước
nắm quyền chi phối, nhưng trong thực tế quyền sử dụng thực
sự bộ phận ruộng đất này lại thuộc về làng xã. Đây là một
biểu hiện của " phép vua thua lệ làng". Nhưng mặt khác,
5
quyền lực của làng xã thể hiện ở bộ phận ruộng đất này dù
có những lúc vượt trội lên thì xét trong toàn bộ quá trình lịch
sử về căn bản, làng xã vẫn chịu áp lực chi phối luật pháp
của nhà nứơc trung ương. Vì vậy, dù "phép vua có thua lệ

làng" nhưng "lệ làng" cũng không phá vỡ "phép vua".
II.VỀ VIỆC PHÂN CHIA RUỘNG ĐẤT CỦA LÀNG XÃ
QUA TÀI LIỆU "HƯƠNG ƯỚC CỔ HÀ TÂY".
1. Về tài liệu Hương ước và" Hương ước cổ Hà
Tây".
Trong nghiên cứu ruộng đất làng xã Việt Nam, tài
liệu hương ước có ý nghĩa quan trọng. Hương ước ghi chép
thành văn các tục lệ trong làng xã, những ước định của làng
xã về mọi vấn đề trong cuộc sống được quy định rất tỷ mỉ:
từ việc canh phòng làng xóm,lệ lạt cưới hái, tang ma
Trong đó vấn đề ruộng đất là quan trọng vừa rất phức tạp
được xử lý hết sức chặt chẽ. Các hương ước với những quy
định trên là của riêng từng làng xã, chỉ có phạm vi thực hiện
trong làng xã. Hương ước còn có thề được gọi bằng nhiều
tên khác nhau như: Hương lệ, Khoán lệ, Quy ước, Lệ
tục Bằng vào các thư tịch cổ, các nhà nghiên cứu đã cho
thấy rằng đến đời Lê Thánh Tông(1460-1496) triều đình đã
ra sắc lệnh thể chế hoá hương ước, tức là " thành văn
hoá"các lệ làng trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước.
Các hương ước được lập ra và được bổ sung qua nhiều thời
kỳ. Những hương ước sớm nhất là hương ước Quỳnh Đôi
( Nghệ An) khoảng năm 1638-1645, hương ước Mộ Trạch
( Hải Dương) năm 1665
Về khái niệm Hương ước,năm 1958 PGS. Bùi Xuân Đính
cho rằng: lệ làng với tính cách là hương ước " ra đời cùng
6
với sự hình thành và phát triển của các làng xã cũng như
quá trình can thiệp vào làng xã của nhà nứơc phong kiến
trung ương, lệ làng có một nội dung rất phong phú( đề cập
đến mọi mặt của từng đơn vị tụ cư ở cấp thấp nhất, nhưng

chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất của người nông dân) tồn tại
song song với luật pháp của nhà nứơc phong kiến trung
ương và được thừa nhận mặc nhiên như văn bản pháp
lý"[6].
Nguyễn Tá Nhí và Đặng Tu trong lời giới thiệu cho tập "
Hương ước cổ Hà Tây"( 1993) cho rằng:" Hương ước là
những quy ước điều lệ của một cộng đồng người chung
sống trong cùng một khu vực, để điều hoà quan hệ giữa cá
nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể hoặc giữa tập
thể này với tập thể khác. Do đó cần phải xây dựng các quy
ước chung."[7]
Theo PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc:" Hương ước ra đời
vừa đáp ứng nhu cầu tự trị, tự quản của làng xã, vừa khẳng
định quyền quản lý làng xã của bản thân nhà nứoc thống trị.
Một hương ước chính thức thành văn luôn luôn đảm bảo
cả hai yếu tố luật làng và lệ nứơc, trong đó lệ làng dù khai
thác đến mức tối đa, dù được trình bày hết sức cụ thể chi tiết
vẫn phải phục tùng luật nứơc. Luật nước là chuẩn mực, là
nguyên tắc cơ bản chuẩn định lệ làng[8].
Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, cho đến trước cách
mạng Tháng Tám- các hương ứơc được lập ra có thể phân
biệt thành hai loại chủ yếu: các hương ước ra đời trước" cải
lương hương chính" và những " hương ước cải lương" ra đời
trong và sau cuộc " cải lương hương chính" do thực dân
Pháp thực hiện những năm 1921, 1927, 1941. Có thể thấy
7
các hương ước cải lương sẽ mang nhiều tính chế ước của nhà
nứơc bảo hộ hơn.
Năm 1993, nhà nghiên cứu Nguyễn Tá Nhí ở Viện nghiên
cứu Hán Nôm đã dịch và công bố tập " Hương ước cổ Hà

Tây"(Bảo tàng tổng hợp sở VHTTTT Hà Tây, 1993) Đây là
một tuyển tập gồm bản dịch ( đối với văn bản chữ Hán) , bản
phiên âm và chú thích (đối với bản chữ Nôm) của 9/389 tài
liệu hương ước hiện đã thu thập đựợc trên địa bàn tỉnh Hà
Tây.Trong 9 bản tài liệu trên có một bản Khoán ước xã
Duyên Trường huyện Thanh Trì được viết bằng chữ Nôm
vào khoảng những năm đầu thế kỷ XX, còn lại là các văn
bản hương ước viết bằng chữ Hán, trong đó có những bản
được bổ sung nhiều lần trong các năm khoảng từ năm
1666(Cảnh Trị 4) đến năm 1910( Duy Tân 10) mà sớm nhất
là Khoán ước thôn Dương Liễu, xã Dương Liễu, huyện Hoài
Đức lập ngày 10/7/1666 và muộn nhất là các hương ứơc lập
vào năm 1910. Như vậy, tất cả các hương ứơc, khoán ước
đều ra đời trước khi thực dân Pháp tiến hành cải lương
hương chính đã làm đảo lộn đáng kể cuộc sống xã thôn. Cho
nên các hương ước này có thể coi là phản ánh tục lệ của làng
xã Việt Nam còn mang nhiều tính chất cổ truyền . Chính vì
vậy, mà tìm hiểu việc phân chia ruộng đất của làng xã qua
các tài liệu hương ước này trở nên rất có ý nghĩa.
2. Về việc phân chia ruộng đất của làng xã.
Cho đến nay nghiên cứu về vấn đề ruộng đất đã đạt được
nhiều thành tựu. Dùa trên những nguồn tài liệu khác nhau
mà nhiều vấn đề được khai mở, phác hoạ tương đối cơ bản
về chế độ ruộng đất ( tất nhiên những nghiên cứu cụ thể và
đầy đủ hơn thì luôn luôn được đặt ra). Các nghiên cứu đã
8
cho phép chóng ta hiều biết về những hình thái khác nhau
cũng như sự vận động của các hình thái đó trong chế độ
ruộng đất ở mỗi thời kỳ lịch sử. Chế độ tư hữu về ruộng đất
ngày càng chiếm ưu thế là xu hướng vận động của lịch sử,

song không vì thế mà sở hữu công về ruộng đất nhất là
ruộng đất công làng xã lại mất đi, nó suy giảm dần nhưng
vẫn tồn tại dai dẳng và ảnh hưởng lớn tới đời sống làng xã
Việt Nam. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều chú ý đến
vai trò, tác động, sự biến đổi cũng như cách quản lý của bộ
phận ruộng đất công làng xã. Tuy nhiên, việc phân chia bộ
phận ruộng đất này như thế nào(ơ đây nói đến việc phân chia
từng làng, từng xã cụ thể- Các công trình đã nghiên cứu đến
vấn đề này nhưng nhìn chung chỉ tập chung vào việc phân
tích các quy định , các chính sách của nhà nứơc về việc
phân chia ruộng đất của làng xã nói chung, chứ chưa đi vào
việc phân chia ở từng làng cụ thể) lại chưa được quan tâm
nghiên cứu thích đáng, mặc dù tài liệu hương ước cho biết
khá rõ ràng. Vì thế trong khuôn khổ của tiểu luận này, chúng
tôi cố gắng tìm hiểu việc phân chia ruộng đất của làng xã
qua một số hương ứơc cụ thể được lập trong thế kỷ XI X và
ngay đầu thế kỷ XX tại Hà Tây.
Trong 9 hương ước đựơc tuyển chọn trong"Hương ước cổ
Hà Tây" chỉ có 5 hương ước đề cập đến việc phân chia ruộng
đất của làng xã là: Khoán ước xã Duyên Trường, huyện
Thanh Trì (Thường Tín) ( đầu thế kỷ XX); Hương ước thôn
Dương LiÔu, xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức; Tục lệ làng
La Khê; Phong tục các xã Mộ Lao, Vạn Phóc trong tổng Đại
Mỗ(1910) và Phong tục làng Yên Lé (1910). Các tài liệu này
đã ghi chép cụ thể việc phân chia ruộng đất của làng xã. Xin
xem bảng thống kê sau:
9
Bảng1: thống kê việc phân chia ruộng đất của một số làng xã HàTây (Nguồn:"Hương
ước cổ Hà Tây"


Đối tượng
Đơn vị
cấp
Lý dịch/kỳdịch
Binh
lính

Dân
đinh
Thành phần
Khac

Trưởng
Phó

Hương
Trưởng
Khán
thủ
Xã Duyên Trường 20 10 5
2,5
miếng
(HĐ)
Người cày
ruộng tế:
230(CĐ,
HĐ)
-Hội lão:
3(TĐ)
Xã Tây Mỗ

6(CĐ) 10(CĐ) Không
Xã Đại Mỗ
18(CĐ) Không
Các giáp
trưởng:
200 ruộng tế
Thôn Dương Liễu

(Đất
bồi
bãi)
Đất ở ngoài
bãi biếu:
-Quan tại
triều: 4
-Quan viên
khaovọng
2kỳ: 2
-Quan viên
khao vọng1
kỳ: 1
-Tuần
phiên: 1
Xã Phú Thứ
5(CĐ) 10(CĐ)
10
Xã Phú Đô
5(CC) 5(CC) 4(CC) 4(CC) 20(CĐ) Không
Xã Ngọc Trục
30(QĐ) 20(QĐ) 12(CĐ)

Thôn Trung Văn
12(CĐ)
Xã Vạn Phóc
10(CĐ) Không
Xã Mé Lao
5(CC) 2,4(CC) 40(CC) Không
X.Phùng Khoang
15(CC) Không
Làng Yên Lé 30
Có(đất
bãi)
Làng La Khê

Thôn DươngTây

Thôn Tây

Thôn Bắc
6 6 Không
5
Không
20 Không
5 Khôn
g
Ghi chó
CĐ: Công điền
CC: Của công
QĐ: Quan điền
HĐ: Hậu điền
TĐ: Tư điền

Bảng 2:Sè làng xã phân chia ruộng đất cho từng đối tượng
đối tượng
Sè làng xã
Lý dịch
(kỳ dịch)
Binh lính Dân đinh Thành
phần khác
11
16 7 12 3 3
MỘT VÀI NHẬN XÉT:
1.Quản lý và sử dụng, phân chia ruộng đất là một trong
những sinh hoạt thường xuyên và quan trọng của làng xã.
Qua bảng thống kê trên, ta thấy điểm nổi bật lên là sự khác
nhau giữa các làng xã trong việc phân chia ruộng đất cả về
đối tượng phân chia, mức độ phân chia và nguồn gốc của
ruộng được phân chia. Điều này phản ánh khá rõ sự khác
nhau về phong tục trong mỗi làng xã.
2. Không có sự thống nhất với nhau về đối tượng được
phân chia ruộng đất.
Trong tổng số 16 đơn vị( xã, làng, thôn) thì có đến 12 nơi
có quy định phân chia ruộng đất cho bộ phận binh lính, có 7
nơi phân cấp ruộng đất cho bộ phận lý dịch/ kỳ dịch; trong
đó có duy nhất xã Phó Đô là cấp ruộng đất cho cả hai bộ
phận này.Bộ phận lý dịch/ kỳ dịch trong làng xã bao gồm: lý
trưởng, phó lý, hương trưởng, khán thủ thì không phải ai
cũng được phân chia ruộng đất. Có làng chỉ cấp ruộng đất
cho lý trưởng, có làng cấp ruộng đất cho lý trưởng và phó lý,
hay có làng lại cấp ruộng đất cho cả hai bộ phậ lý dịch.
Đối với dân đinh thì chỉ 3 làng xã có quy định về việc
chia ruộng đất . Trong 13 làng xã và thôn còn lại thì có đến

10 đơn vị ghi cụ thể" dân xã từ xưa đến nay không có lệ
phân chia công điền, công thổ cho dân đinh"và 3 làng xã
không thấy ghi vấn đề này trong hương ước.
12
Ơ mét số làng xã(cụ thể là xã Duyên Trường, xã Tây Mỗ,
thôn Dương Liễu) ruộng đất còn được phân chia cho một số
thành phần khác như người tế lễ, các giáp trưởng, hội lão;
ruộng đất còn được giành để biếu quan tại triều, quan viên
khao vọng, tuần phiên
Hầu hết các làng xã đều có quy định mưc phân chia cụ
thể cho từng đối tượng.
3. Mức phân chia giữa các làng xã, thậm chí giữa các
thôn trong một làng cũng có sự khác nhau rất rõ.
Có làng xã cấp ruộng đất lấy đơn vị là mẫu, có làng lấy là
sào và cũng có làng lấy đơn vị phân chia là thước hay
miếng(?).
Điều đáng chú ý là thành phần được chia cấp nhiều nhất
là người cày ruộng tiết lễ 230 sào ở xã Duyên Trường và cac
giáp trưởng ở xã Đại Mỗ cũng nhận tới 200 sào ruộng tế.
Đây là số ruộng đất được giành cho công việc tế lễ chung
của làng xã vì thế so với các ruộng đất khác có số lượng
nhiều hơn hẳn. Điều này phần nào phản ánh tầm quan trọng
của việc tế tù trong làng xã mà những tiết lễ cụ thể vốn đã
đựoc quy định rất tỉ mỉ trong các hương ước.
Bộ phận lý dịch và binh lính là hai bộ phận được hầu hết
các làng xã cấp ruộng đất cho, thì mức độ phân chia cũng rất
khác nhau.Nhìn chung, binh lính có mức phân chia ruộng
đất nhiều hơn so với bộ phận lý dịch. Số ruộng đất nhiều
nhất cấp cho binh lính là 40 sào trong khi cấp cho lý trưởng
là 30sào. Binh lính có số ruộng đất được chia Ýt nhất là 5

sào, còn phó lý là 2,4 sào. Bé phận lý dịch và binh lính là
hai thành phần quan trọng trong làng xã vì thế họ được ưu
đãi hơn hẳn so với dân đinh. Tuy nhiên cũng không thể căn
cứ vào con số trên mà cho rằng binh lính được ưu đãi hơn so
13
với bộ phận lý dịch, bởi vì bộ phận lý dịch bên cạnh việc
được cấp đựoc ruộng đất còn được nhận lương bổng hàng
tháng bằng tiền( đây là một hình thức trả lương của làng xã
mà trong tiểu luận này chưa có điều kiện xét đến).
Trong từng bé phận thì việc phân chia ruộng đất cũng có
mức chênh lệch đáng kể. Có một số làng xã cấp ruộng đất
cho lý trưởng và phó lý bằng nhau, nhưng phổ biến là cấp
ruộng đất cho lý trưởng nhiều hơn phó lý, phó lý nhiều hơn
hương trưởng và khán thủ. Trong bộ phận binh lính, người
được cấp nhiều nhất là 40sào ở xã Mộ Lao, người được cấp
Ýt nhất là 5 sào ở thôn Dương Tây thôn Bắc thuộc làng La
Khê. Trong khi đó, ở thôn Tây cũng thuộc làng La Khê thì
binh lính lại được cấp đến 20 sào ruộng.Như vậy, ngay trong
cùng một làng việc phân chia ruộng đất cho cùng một đối
tượng cũng không có sự thống nhất.
Các thành phần khác được cấp/biếu ruộng thì tuỳ thuộc
vào vai trò, địa vị mà làng quy định cụ thể.
Riêng bộ phận dân đinh, chỉ duy nhất xã Duyên Trường là
quy định chia cho 2,5 miếng ruộng hậu điền.
Như vậy, tuỳ thuộc vào tục lệ cũng như quỹ ruộng đất của
từng thôn, từng làng xã mà mức độ phân chia ruộng đất cho
các đối tượng rất khác nhau.
4. Ruộng đất của làng xã có nhiều nguồn khác nhau. Đa
số ruộng lấy từ công điền, quan điền cũng có khi lấy từ" của
công"(có lẽ đây là một cách gọi khác của công điền).Bộ

phận ruộng đất này chủ yếu để phân cấp cho bộ phận lý dịch
và binh lính.
Bên cạnh đó còn có bộ phận ruộng đất hậu điền, tự điền
để phân cấp cho những người đảm đương việc tiết lễ của
14
làng xã. Bộ phận ruộng đất này chỉ có được đề cập đến ở 2
xã, xã Duyên Trường và xã Đại Mỗ.
Ruộng đất để phân cÊp cho dân đinh, cũng như ruộng đất
để biếu lại là ruộng đất ngoài bãi của làng xã mà nó còn
được gọi là ruộng đất " công châu thổ". Theo các nhà nghiên
cứu thì dưới triều Nguyễn "bộ phận ruộng đất này ở Hà
Đông chiếm tỷ lệ đến 7,53% tổng diện tích đất ruộng các
loại"[9]. Đến đầu thế kỷ XX có lẽ bộ phận ruộng đất này vẫn
đóng vai trò quan trọng. Các hương ước đa phần đều ghi rõ
nguồn gốc của từng loại đất phân chia cho từng đối tượng,
nhưng cũng có khi chỉ ghi mức cấp chung mà không ghi loại
ruộng cụ thể. Dù ruộng đất lấy từ nhiều nguồn khác nhau để
phân cấp nhưng ruộng đất đó đều thuộc về quyền sử dụng
trong phạm vi từng xã, chỉ có người trong xã mới có thể
được chia, quan hay lính được chia ruộng công của xã thì
trước hết phải là người của xã đó. Song ở đây cũng có
trường hợp đặc biệt là ruộng đất của làng xã này lại lấy ở
làng xã khác là xã Ngọc Trục lấy 3 mẫu ở điạ phận xã Vạn
Phóc và 2 mẫu ở địa phận xã Đại Mỗ để cấp cho lý trưởng
và hương trưởng
5.Như vậy, qua sự khác nhau giữa các làng xã, ta thấy
việc phân chia ruộng đất trong làng xã hoàn toàn tuỳ thuộc
vào tục lệ của mỗi làng, mỗi xã. Tuy nhiên tục lệ này cũng
phải phù hợp với các chế định pháp luật của nhà nước. Điều
này cho thấy khá rõ tinh thần "nước có chính lệnh, dân có tư

ước" nhưng mặt khác chÝnh lệnh của nước chính là chuẩn
mực cho tư ước của làng. Lệ phân chia ruộng đất trên phải
chăng chính là một biểu hiện cho sức mạnh truyền thống của
làng xã, đã luôn cố gắng duy trì ruộng đất công của mình-
làm cho làng xã hầu như trở thành" người sở hữu thực tế" bộ
15
phận ruộng đất này đã tồn tại trong suốt quá trình phát triển
của lịch sử. Việc phân chia ruộng đất của một số làng xã ở
Hà Tây đã phần nào phản ánh được những nét chung nhất về
chế độ sở hữu ruộng đất của làng xã Việt Nam xưa.
Kết luận
Chế độ ruộng đất Việt Nam là một nội dung khoa học lớn,
đòi hỏi sự nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau. Tìm hiểu
việc phân chia ruộng đất trong làng xã là một vấn đề rất nhỏ
nhưng cũng rất quan trọng đặc biệt là tình hình tài liệu hiện
nay hoàn toàn cho phép thực hiện đựoc( nhất là dùa trên
hương ước và địa bạ). Vấn đề này không chỉ cho ta một cái
nhìn cụ thể về ruộng đất làng xã nói riêng và ruộng đất Việt
Nam nói chung mà còn có thể gợi mở ra nhiều vấn đề về
làng xã.
CHÚ THÍCH
[1].Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ
thế kỷ XI-XVIII, Nxb KHXH, H, 1982, Tập 1, Tr 88
[2]. Phan Huy Lê, Chế độ ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp thời Lê sơ, Nxb VSĐ, H, 1959, Tr29
[3].Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang, Vò Minh Giang, Vũ
Văn Quân, Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông
dân dưới triều Nguyễn, Nxb TH, Huế, 1997, Tr 34
[4].Vò Huy Phóc, Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XI X,Nxb KHXH, H,1979,Tr 146 sđ d.

[5].Nguyễn Tá Nhí, Hương ước cổ Hà Tây, Bảo tàng tổng
hợp VHTTTT Hà Tây, 1993, Tr 43.
16
[6].Bùi Xuân Đính, Lệ làng phép nước,Nxb PL, H, 1985,
Tr 3-4
[7].Nguyễn Tá Nhí, sđd, Tr 3
[8]. Nguyễn Quang Ngọc, Mấy nét về quá trình ra đời
và nguyên tắc xây dựng hương ước ở khu vực Đông Bắc A
và Việt Nam, in trong Đông A, Đông Nam A những vấn đề
lịch sử và hiện đại, Nxb TG, H, 2004, Tr 70
[9].Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang, Vò Minh Giang, Vũ
Văn Quân, sđ d, Tr
Tài liệu tham khảo
1.Nguyễn Tá Nhí, Hương ước cổ Hà Tây, Bảo tàng tổng
hợp sở văn hoá thông tin thể thao Hà Tây, 1993.
2.Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ
thế kỷ XI- XVIII, Tập I, II, Nxb KHXH, H,1982,1983
3.Phan Huy Lê, Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp
thời Lê sơ, Nxb VSĐ, H, 1959.
4. Vò Huy Phóc, Tìm hiều chế độ ruộng đất Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XI X,Nxb KHXH, H, 1979.
5. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang,Vũ Minh Giang, Vũ Văn
Quân, Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông
dân dưới triều Nguyễn, Nxb TH, Huế, 1997.
6.Bùi Xuân Đính, Lệ làng phép nước, Nxb Pháp lý,
H,1985.
7. Nguyễn Quang Ngọc, Mấy nét về quá trình ra đời và
xây dựng hương ước ở khu vực Đông Bắc A và Việt Nam
17
(Đông A, Đông Nam A những vấn đề lịch sử và hiện

tại,Nxb TG, H, 2004)
Phụ lục
1.Khoán ước xã Duyên Trường, huyện Thanh Trì ( Thường Tín)
-Điều 3: Việc chi lương hàng năm cho lý dịch là 2 mẫu ruộng, phó lý 1
mẫu, hương trưởng 5 sào [16]
- Điều4: Việc quân cấp công điền, tự điền:
Làng có ngoài 60 mẫu ruộng hậu chùa thông đạt chi cho các tế lễ, còn đâu
quân cấp cho dân đinh, mỗi người hai miếng rưỡi, để hàng năm đỡ sưu
dịch. Lại có ngoài 23 mẫu công điền, hậu điền cho người cày ruộng các tiết
lễ, lại có 6 sào tư điền ở làng Phóc Am, chia về hai hội lão để xuân tế nhị
lễ. Các ruộng xứ trên thì đã có sổ riêng của làng[16]
2.Hương ước thôn Dương Liễu, xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức:
- Điều12:Trong bản xã người nào đến 17 tuổi thì đựơc chia ruộng ở các xứ
sở, đến năm 18tuổi thì phải gánh chịu thuế khoá sưu dịch, y như các hạng
đinh tráng. Nếu như người nào đó chưa đựơc chia ruộng, thì đến năm 19
tuổi mới phải gánh chịu sưu thuế[47]
- Điều 13: Sổ ruộng đất công đất bãi của bản xã, cứ hạn 6 năm làm một kỳ
không được dây dưa[47]
18
-Điều 15: Số ruộng đất ở bãi ngoài của bản xã đem biếu quan tại triều 4
sào, còn từ hàng quan viên trở xuống, ai khao vọng 2 kỳ thì biếu 2 sào,
khao vọng 1 kỳ thì biếu 1 sào. Tuần phiên chức dịch cũng biếu mỗi người
một sào. Còn xã trưởng thì chỉ biếu mỗi người một sào bằng tiền. Không
được biếu đất để phù hợp với lệ cò[47]
3.Lệ làng La Khê:
- Điều 4: cấp ruông cho binh lính
Dân xã nào sung vào quân ngò nếu ở thôn Dương Tây thì cấp ruộng cho
mỗi người 5 sào lại cấp thêm 72 quan tiền. Thôn Tây thì cấp cho mỗi
người 2 mẫu ruộng lại cấp thêm 7 đồng bạc.
Thôn Bắc thì cấp cho mỗi người 5 sào ruộng lại cấp cho thêm 50 quan

tiền.
[63]
4. Phong tục các xã Mé Lao, Vạn Phóc trong tổng Đại Mỗ.
- Phân chia công điền, công thổ: Dân xã Đại Mỗ trong tổng từ trước đến
nay không có lệ phân chia công điền công thổ. Còn như các xã Tây Mỗ,
Phó Đô, Vạn Phóc, Mộ Lao , Phùng Khoang còng không có việc này.
Riêng xã Ngọc Trục thì công điền 3 mẫu ở địa phận xã Vạn Phóc, từ trước
đến nay cấp cho lý trưởng, còn công điền 2 mẫu ở địa phận xã Đại Mỗ từ
trước đến nay cấp cho hương trưởng để chi phí vào việc công hàng năm,
khỏi phải bổ cho dân đinh[88]
- Cấp phát tiền ruộng cho binh lính[98-99]
+ Xã Đại Mỗ trong tổng từ trước đến nay chỉ cấp ruộng cho binh lính gồm
1mẫu 8 sào, không thu bổ gì, trích lấy ruộng công đem chia
+Xã Tây Mỗ từ trước đến nay có người nào sung vào quân ngò thì mỗi
người được cấp một phần ruộng khoảng 1mẫu không có thu bổ gì khác
trích lấy ruộng công của dân đem chia.
+Xã Phú Thứ từ trước đến nay có người nào sung vào quân ngò thì cấp cho
mỗi người một mẫu ruộng công không có thu bổ gì khác.
19
+ Xã Ngọc Trục từ trước đến nay có người nào sung vào quân ngũ thì cẫp
ch 1 mẫu 2 sào ruộng , lấy ruộng công đem cấp không có thu bổ gì
+Xã Phú Đô từ trước đến nay có người nào sung vào quân ngò thì cấp cho
mỗi người 2 mẫu ruộng lấy ruộng công của dân cấp cho.
+ Thôn Trung Văn từ trước đến nay cấp ruộng cho lính mỗi người một
mẫu hai sào lấy ruộng công của dân cấp cho. Lại cấp cho mỗi người lính
mỗi tháng 8 quan tiền đều bổ cho dân đinh tráng góp.
+ Xã Vạn Phóc từ trước đến nay cấp ruộng cho binh lính mỗi người một
mẫu, lại cấp thêm cho mỗi người lính mỗi tháng 7 quan tiền. Số ruộng lấy
ruộng công của dân để cấp
+ Xã Mộ Lao từ trước đến nay cấp ruộng cho binh lính mỗi người 4 mẫu

không có thu bổ gì thêm, ruộng lấy của công cấp cho
+ Xã Phùng Khoang từ trước đến nay cấp ruộng cho lính mỗi người 1 mẫu
5sào, ruộng lấy của công cấp cho.
- Các vị kỳ lý tại chức [100,101]
+Xã Tây Mỗ từ trước đến nay cấp cho lý trưởng 6 sào ruộng lấy ở ruộng
công cấp cho
+ Xã Phú Thứ từ trước đến nay cấp cho lý trưởng 5 sào ruộng, lấy ruộng
của công cấp cho
+ Xã Phú Đô từ trước đến nay cấp cho lý trưởng 5 sào ruộng, phó lý 5 sào
ruộng, hương trưởng, khán thủ mỗi người 4 sào , cả năm không có thu bổ
gì nữa. Số ruộng lấy của công cấp cho.
+ Xã Ngọc Trục từ trước đến nay cấp cho lý trưởng ruộng quan điền 3 mẫu
ở địa phận xã Vạn Phóc, lại cÊp cho hương trưởng ruộng quan điền 2 mẫu
ở địa phận xã Đại Mỗ. Cả năm không có thu bổ gi khác
+ Thôn Trung Văn từ trước đến nay cấp cho phó lý mỗi người 50 quan tiền
+ Xã Phùng Khoang từ trước đến nay cấp cho lý trưởng mỗi năm 120 quan
tiền, cấp cho phó lý mỗi năm 60 quan tiền.
+Xã Mé Lao từ trước đến nay cẫp cho lý trưởng 5 sào ruộng, phó lý 2 sào 7
thước. Số ruộng lấy của công cấp
20
+ Xã Vạn Phóc từ trước đến nay người nào làm lý trưởng, phó ly đủ 4 năm
theo lệ được làm viên mục, không cấp ruộng tiền
5.Phong tục làng Yên Lé
- Điều 6:Phân chia công điền công thổ: Dân xã chỉ có ruộng đất ngoài bãi,
cứ hạn 6 năm một lần giáp trưởng các giáp hội họp ở bàn định, căn cứ vào
số đinh từ 18 đến 50 tuổi, đem chia đều cho [131]
- Điều6: Cấp ruộng cho binh lính
Dân xã có người nào xung lính thì đồng dân cẫp cho mỗi người 3 mẫu
đất[133]
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
I.VÀI NÉT VỀ CHẾ ĐỘ SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT VÀ RUỘNG
ĐẤT CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM (TRONG LỊCH SỬ CỔ
TRUNG ĐẠI)
II.VỀ VIỆC PHÂN CHIA RUỘNG ĐẤT CỦA LÀNG XÃ
QUA TÀI LIỆU "HƯƠNG ƯỚC CỔ HÀ TÂY"
1.Về tài liệu Hương ước và "Hương ước cổ Hà Tây"
2.Về việc phân chia ruộng đất của làng xã
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
21
22

×