Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tiểu luận Hồ Quý Ly và cuộc cải cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.46 KB, 27 trang )

A. MỞ ĐẦU
I . LÝ do chọn đề tài:
Dân tộc Việt Nam kể từ thời kỳ Hùng Vương dựng nước cho đến bây giờ
đã trải qua nhiều thăng trầm lịch sử. Qua việc học tập, nghiên cứu đã khẳng định
được truyền thống của con người Việt Nam là : không chỉ cần cù, chịu khó, bền
bỉ, mà còn rất yêu nước, có tinh thần chống giặc ngoại xâm, dám hy sinh cả tính
mạng của mình để bảo vệ cho Tổ quốc,…
Trải qua nhiều triều đại với từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Dù đã có
nhiều biến động, nhiều thay đổi, hay đó là sự thành công hoặc thất bại, cũng có
thể là sự chuyển biến từ chế độ này sang chế độ khác nhưng dù ở triều đại nào
cũng đã có nhiều cống hiến cho lịch sử để đời sau còn lưu truyền mãi, ghi nhớ,
học tập và phát huy những điều tốt đẹp, có thể ở một nhân vật lịch sử hoặc một
vấn đề nào đó của lịch sử.
Trong lịch sử thời kì trung đại nói riêng và lịch sử của dân tộc nói chung,
chóng ta biết rằng có rất nhiều cuộc cải cách lớn của những nhân tài Việt Nam
đã dám đứng ra cầm quyền, lãnh đạo và tổ chức tiến hành. Tuỳ vào tình hình của
mỗi giai đoạn lịch sử nhưng nói chung mỗi khi đất nước có nhu cầu canh tân để
phát triển thì đồng thời xuất hiện những tư tưởng cải cách lớn. Tiêu biểu của
thời trung đại có cuộc cải cách của Khúc Hạo(907), của Hồ Quý Ly (cuối thế kỷ
XIV- đầu thế kỷ XV), của Lê Thánh Tông( cuối thế kỷ XV), của Quang Trung –
Nguyễn Huệ ( cuối thế kỷ XVIII ), cuộc cải cách hành chính của Minh
Mạng( nửa đầu thế kỷ XIX). Nh vậy, nghiên cứu về đề tài cải cách này chúng ta
sẽ hiểu biết được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về lịch sử Việt Nam thời Trung đại.
Cụ thể, vào cuối thế kỷ XIV khi Triều Trần lâm vào tình trạng khủng
hoảng, thối nát thì Hồ Quý Ly đã xuất hiện và cứu vớt tình thế đó của đất
nước.Ông đã lên ngôi vua và tiến hành cuộc cải cách toàn diện chỉ trong vòng
một thời gian ngắn(1400-1407).Tuy rằng cuộc cải cách đã thất bại nhưng khi
nghiên cứu về Triều Hồ chúng ta phần nào hiểu được nhiều hơn về tình hình xã
hội lúc bấy giờ, hiểu được thân thế của một nhân vật lịch sử tầm cỡ hiếm có
trong sử sách từ cổ chí kim, một nhân cách đặc biệt, một tài năng hơn người.Đó
chính là Hồ Quý Ly, người đã gây dựng nên nhà Hồ - một triều đại có vị trí khá


1
quan trọng trong lịch sử nước nhà. Qua đây, khẳng định đượcvai trò vị trí của
Hồ Quý Ly đối với dân tộc.
Hơn nữa, nghiên cứu về Hồ Quý Ly, triều Hồ và cuộc cải cách táo bạo
của Hồ Quý Ly đó là một đề tài thú vị đối với rất nhiều nhà sử học và những
người am hiểu, yêu thích lịch sử dân tộc.Vì vậy, khi tìm hiểu đề tài này sẽ giúp
vốn kiến thức về Hồ Quý Ly của chúng ta được hoàn chỉnh hơn, trình độ đánh
giá sẽ được nâng lên 1 tầm cao mới. Chóng ta sẽ rót ra được những bài học kinh
nghiệm mà cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã để lại, từ đó liên hệ đến tình hình
lúc bấy giờ của dân tộc. Đảng ta đã vận dụng và không ngừng đổi mới để phát
triển đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.Điều đó được khẳng định nhiều lần qua
các kì Đại hội Đảng, đặc biệt bắt đầu từ cuộc đổi mới đất nước năm 1986.
II.Tình hình nghiên cứu đề tài:
Chóng ta còng biết rằng để nghiên cứu một đề tài cần phải dành tâm huyết
về nó và phải có nhiều thời gian thì mới tìm hiểu được sâu sắc hơn, đánh giá
được đúng đắn, khách quan hơn.
Vì thế, khi nghiên cứu về Hồ Quý Ly và triều Hồ, đánh giá thế nào cho
hợp lí quả là một vấn đề phức tạp. Trước đây, những đóng góp tích cực của nhà
Hồ, đặc biệt là Hồ Quý Ly đối với tiến trình lịch sử dân tộc đã bị phủ định bởi
nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng từ năm 1960 - 1961 đến 1991-1992, tạp chí
nghiên cứu lịch sử đã mở cuộc hội thảo đánh giá lại vai trò của Hồ Quý Ly cùng
những cải cách của ông theo quan điểm sử học mới, hoàn toàn khách quan, khoa
học để trả lại cho Hồ Quý Ly vị trí xứng đáng trong lịch sử. Cũng từ đây đã có
rất nhiều nhà sử học dành nhiều thời gian, tâm sức của mình để nghiên cứu về
Hồ Quý Ly và cho ra đời các tác phẩm mang cái nhìn bao quát, sâu sắc.Tiêu
biểu là Phó Giáo Sư - Tiến sĩ sử học Nguyễn Danh Phiệt với cuốn “ Hồ Quý
Ly”. Các nhà sử học thời trung đại, cận đại, hiện đại cũng đã quan tâm nhiều
đến Hồ Quý Ly, kể cả các tác giả trong và ngoài nước. Đặc biệt khi viết về lịch
sử Việt Nam thời Trung đại, dù ở bất cứ một cuốn sách tham khảo nào chúng ta
cũng tìm thấy một mục nhỏ, một phần hoặc một khía cạnh nào đó mà các tác

giả sử học đã dồn hết tâm huyết, lòng đam mê của mình để viết về Hồ Quý Ly.
Tuy vậy, phải đến sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi(1954)
thì vấn đề Hồ Quý Ly mới được giới sử học nói chung đề cập đến một cách sâu
sắc, toàn diện. Trên các hiệu sách đã có nhiều cuốn sách được trưng bán như
sách nghiên cứu, sách chuyên khảo…Đặc biệt, đã có nhiều cuộc tranh luận về
2
Hồ Quý Ly trên tạp chí”Nghiên cứu lịch sử” (1961); chuyên san “Nghiên cứu
lịch sử số 6” (1990) về “ cải cách của Hồ Quý Ly”. Đồng thời, cũng đã có một
cuộc hội thảo khoa học về “Hồ Quý Ly và nhà Hồ” do Ban nghiên cứu và biên
soạn lịch sử Thanh Hoá kết hợp với hội khoa học lịch sử Việt Nam tiến hành.
Như vậy, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu về Hồ
Quý Ly song phần nào đã giúp cho những người yêu lịch sử dân tộc, quan tâm
đến Hồ Quý Ly dễ dàng hơn trong việc nghiên cứu, học tập và hiểu biết được
nhiều hơn. Đó là phải kể đến sự đóng góp công sức của các nhà nghiên cứu sử
học, các tạp chí, nhà xuất bản với nội dung sách tương đối toàn diện, đánh giá
khá sâu sắc.
III.Mục đích nghiên cứu đề tài
- Giúp sinh viên hiểu biết rõ hơn về tình hình đất nước cuối thời Trần, về sự
thành lập triều Hồ, đặc biệt là về thân thế của Hồ Quý Ly và cuộc cải cách của
ông (1400 - 1407).
- Qua đó để giáo dục lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, đặc biệt là phải biết
kế thừa và phát huy tinh thần truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta cho sinh viên.
- Nghiên cứu về đề tài nhằm rèn luyện cho sinh viên tính học tập độc lập,
sáng tạo, tự tìm tòi,tự nghiên cứu. Đồng thời rèn luyện tính bền bỉ, kiên trì của
sinh viên, rèn luyện kỉ năng tra cứu, phân tích và lựa chọn tài liệu.Từ đó viết
thành một bài hoàn chỉnh, có đánh giá và ý kiến của cá nhân.
IV.Phương pháp nghiên cứu đề tài:
- Phương pháp luận sử học
- Phương pháp phân tích tổng hợp, quy nạp và diễn dịch
V.Bố cục tiểu luận:

Gồm ba phần lớn:Mở đầu, nội dung, kết luận.
Trong phần nội dung gồm có:
I. Nhận thức luận
II. Một vài nét về Hồ Quý Ly và triều Hồ.
III. Tình hình XHVN vào cuối thế kỉ XIV.
IV. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly.
3
V. Đánh giá về Hồ Quý Ly và nêu nguyên nhân thất bại, kết quả, bài học
kinh nghiệm của cuộc cải cách.
B. NÉI DUNG:
I.Nhận thức lí luận:
Nói đến cách mạng, cải cách, đổi mới là chúng ta nghĩ ngay đÕn sự
chuyển biến, thay đổi từ một cái cũ sang cái mới, hoặc là thay đổi hoàn toàn.
Quả vậy, xã hội loài người để từ thời kì lịch sử còn mông muội dã man,
đến thời kì lịch sử văn minh đã trải qua những bước phát triển từ tiệm tiến đến
phát triển “ nhảy vọt “. Những bước phát triển đó cụ thể mang ý nghĩa cải cách,
đổi mới, cũng có thể mang nội dung của một cuộc cách mạng.
Vậy, nguyên nhân nào đã dẫn đến điều đó? Chúng ta thử đặt giả thiết
rằng: Nếu trong một xã hội nhất định của lịch sử, tình hình về kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hoá,… đều ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện, được nâng
cao, xã hội đó không có ách áp bức, bóc lột, không có giai cấp thống trị và bị trị,
không hề có mâu thuẩn và xung đột thì liệu có xảy ra một chuyển biến nào
không, sự thay đổi nào không? Còn ngược lại, trong xã hội đã khủng hoảng trầm
trọng và sâu sắc trên tất cả các mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội thì sẽ
thế nào đây? Trong thực tiễn đã chứng minh được đây chính là nguyên nhân để
hình thành nên những nhà tư tưởng lớn, các ông đã thực hiện cuộc cách mạng,
cuộc cải cách và đổi mới tuỳ vào từng giai đoạn lịch sử và hoàn cảnh riêng biệt,
cụ thể. Mục đích của các nhà tư tưởng là nhằm cứu vãn tình thế, khôi phục lại
tình hình đất nước và phát triển sang một bước cao hơn, thay đổi hoàn toàn hoặc
một bộ phận nào đó về đời sống, văn hoá đất nước.

Nếu xảy ra những cuộc khủng hoảng sâu sắc, toàn diện thì yêu cầu phải
giải quyết bằng cách mạng, tức phải dùng đến bạo lực vũ trang và kết hợp với
đấu tranh trên mặt trận chính trị, mặt trận ngoại giao.
Còn nếu cuộc khủng hoảng bộ phận thì chỉ cần khắc phục bằng cải cách
hoặc đổi mới.
Dù ở hình thức nào, cách mạng, cải cách hay đổi mới thì đều do hành
động của quần chúng nhân dân lao động tiến hành nhằm làm thay đổi xã hội từ
thấp đến cao, từ lạc hậu đến tiến bộ…Cả ba hình thức đó có mối liên hệ biện
chứng với nhau, tuỳ vào điều kiện lịch sử thì có các cuộc cách mạng nhất định
4
phải bùng nổ nhưng cũng có những điều kiện lịch sử mà cải cách đổi mới trở
thành những hình thức để tiến hành canh tân đất nước.
Cải cách và đổi mới là những bước chuẩn bị cần thiết để dẫn đến một
cuộc cách mạng xã hội. Ví dụ cuộc cách mạng Duy tân ( Trung Quốc) vào thế kỉ
19 do khang Hữu Vi, Lê Khải Siêu… tiến hành đã dẫn đến cuộc cách mạng Tân
Hợi năm 1911( Trung Quốc ).
Cải cách, đổi mới là những bước phát triển tiếp theo để thực hiện các
thành quả của một cuộc cách mạng.Ví dụ: cuộc cải cách ruộng đất ở Việt Nam
đã góp phần làm hoàn thành nhiệm vụ dân chủ của cuộc cách mạng tháng 8 -
1945.
Tóm lại, cách mạng sẽ nổ ra khi phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời mâu
thuẫn với phương thức sản xuất mới tiến bộ đã đến độ chín muồi, khủng hoảng
xã hội đã diễn ra toàn diện trên mọi lĩnh vực yêu cầu cần phải giải quyết thì
hành động quyết tâm và triệt để của quần chúng nhân dân sẽ dẫn đến bước phát
triển nhảy vọt của xã hội. Đây được gọi là cuộc cách mạng.Thời gian ngắn hay
dài còn tuỳ thuộc vào tình hình chiến trận.Gồm có nhiều cuộc cách mạng: cách
mạng tư sản, cách mạng giải phóng đân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa…
Còn cải cách khác với cách mạng là không đòi hỏi phải tiến hành một
cách khẩn trương, toàn diện và triệt để nh cách mạng và đặc biệt là loại trừ khả
năng bạo lực vũ trang.

Cách mạng và cải cách thuộc phạm trù lịch sử vì nó diễn ra trong cùng
một không gian ( mét khu vực, một đất nước), và có mối liên kết giữa quá khứ
,hiện tại và tương lai.Đó là mốc mở đầu của lịch sử.
Đổi mới thuộc phạm trù nhận thức vì được tiến hành bằng hành động của
con người dựa trên sự kế thừa và tiÕp thu những nét tiến bộ của quá khứ để lại.
Trên thực tế cho biết, đã có nhiều cuộc cách mạng nổ ra: Bắt đầu(1566-
1609) từ cách mạng Hà Lan báo hiệu cho một thời đại mới - thời đại của cách
mạng tư sản, tiếp sau đó là cuộc cách mạng tư sản Anh (1640 -1688) ; cách
mạng tư sản Mĩ (1773 - 1783) , cách mạng tư sản Pháp (1789 -1794)…. Từ cuộc
cách mạng tháng mười Nga trở đi, trên thế giới đã có nhiều cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa….
5
Còn về cải cách: Từ thời Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh có thể cải cách
theo hướng thoả hiệp hoặc cải lương… ở Việt Nam từ năm 1986 đã diễn ra
cuộc đổi mới đất nước.
Lịch sử của những thời kì đáng ghi nhớ đó dù đã cách đây lâu lắm rồi,
những cuộc cách mạng, cải cách, đổi mới đó có thể thành công hay thất bại ,
nhưng đã để lại trong kho tàng lịch sử thế giới những ý nghĩa sâu sắc, những bài
học kinh nghiệm quý giá mà thế hệ sau cần phải khắc ghi, tiếp thu và phát huy
để xây dựng đất nước ngày càng tiến bộ , giàu mạnh,xã hội ngày càng công
bằng, dân chủ, văn minh.
II.Một vài nét về Hồ Quý Ly và Triều Hồ:
1.Hồ Quý Ly:
Căn cứ vào sử sách, bằng cách gián tiếp chóng ta biết được Hồ Quý Ly
sinh năm 1336
1
, còn năm mất không rõ.
Ông có nguồn gốc từ Chiết Giang (Trung Quốc). Vào thời Ngũ Quý ( hay
gọi là thời Ngũ Đại Thập Quốc, 907 – 960 ), tiên tổ của Hồ Quý Ly là Hồ Hưng
Dật được cử sang làm thái thú ở Diễn Châu ( Nghệ An ). Cũng từ đây, con cháu

họ Hồ làm chủ miền đất này. Đến đời thứ 12 của họ Hồ là Hồ Liêm đã di cư ra
vùng Đại Lại ( Thanh Hoá ) làm con nuôi của quan Tuyên Uý Lê Huấn nên ông
đã mang họ Lê. Vì thế sử củ còn gọi Hồ Quý Ly là Lê Quý Ly, ông là cháu 4 đời
của Hồ Liêm .
Thuở nhá, Hồ Quý Ly theo học võ nghệ với Sư Tề .Sư tề là một người họ
Nguyễn, có con trai là Nguyễn Đa Phương rất giỏi võ nghệ. Sau cả quá trình học
võ và sống cùng nhau, Hồ Quý Ly và Nguyễn Đa Phương đã kết nghĩa anh em .
Hồ Quý Ly có hai người cô đều là vợ của vua Trần Minh Tông và là mẹ
của ba vua Trần Hiến Tông, Trần Nghệ Tông và Trần Duệ Tông. Nhờ đó ông
được vua Trần Nghệ Tông rất tin yêu. Vào năm 1371, Hồ Quý Ly được vua
Trần Nghệ Tông phong tước Trung tuyên quốc thượng hầu, chức khu mật viện
đại sứ. Năm 1375, ông được Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông và vua Trần Duệ
Tông thăng chức tham mưu quân sự . Năm 1379, được Thượng Hoàng Trần
Nghệ Tông và vua Trần Phế Đế thăng chức Tiểu tư không kiêm khu mật viện
đại sứ . Năm 1380, được thăng chức Nguyên Nhung , quản việc Hải Tây Đô
thống chế. Năm 1387, ông giữ chức Đồng bình chương sự ( là thành viên cơ
1
"Toàn thư" - năm 1405: "Quý Ly thấy mình tuổi đã 70 "
Sđd - trang 212 - Tính ra 1405 - 70 + 1 = 1336.
6
quan tối cao của nhà nước ). Năm 1395, được thăng Tước Tuyên Trung vệ quốc
Đại Vương . Năm 1397, ông đã Ðp vua Trần Thuận Tông phải nhường ngôi cho
Trần Thiếu Đế lúc đó mới 3 tuổi . Năm 1399, Hồ Quý Ly cho người giết vua
Trần Thuận Tông, sau đó giết thêm 370 người mà Hồ Quý Ly cho là thuộc phe
đối nghịch với mình, bao gồm các tướng như : Trần Khát Chân ,Trần Nguyên
Hãn ,Trụ quốc Trần Nhật Đôn vv…, rồi tự xưng là Quốc tổ Chương Hoàng .
Năm 1400, ông đã truất ngôi vua Trần Thiếu Đế ( là cháu ngoại của Hồ
Quý Ly ), tự lập làm vua và đặt Quốc hiệu mới là Đại Ngu, lấy niên hiệu là
Thánh Nguyên. Từ đây nhà Hồ được thành lập .
Nh vậy, chóng ta đã biết được gốc tích, thân thế của Hồ Quý Ly, còng nh

quá trình thăng chức tước của ông theo tiến trình của thời gian.
2.Triều Hồ (1400 - 1407):
Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử mà hiếm có ai sánh được với ông từ cổ
chí kim. Về đường danh vọng , từng bước ông tiến lên nắm giữ những chức vụ
quan trọng trên lĩnh vực chính trị và quân sự .Tuy con đường đi đó của ông được
xây đắp phần lớn bằng các thủ đoạn độc ác, tàn nhẫn, dựa vào quyền lực, đồng
thời đổi lấy cả tính mạng xương máu của bao nhiêu con người, kể cả những
người thân thích máu mủ ruột rà như đứa cháu ngoại là Trần Thiếu Đế. Sách
“Đaị Việt Sử kí toàn thư” đã viết :”Đời Trần Nghệ Tông (1370 - 1372 - ND), từ
chức Chi hậu tứ cục chánh trưởng , thăng lên Khu mật Viện đại sứ, lên Tiểu tư
không, tiến phong Đồng bình chương sự, sau liên tiếp gia phong tới Phụ chính
Thái sư nhiếp chính, Khâm Đức Hưng Liệt Đại Vương, Quốc tổ chương hoàng ,
rồi thay nhà Trần đặt quốc hiệu mới là Đại Ngu, trở lại họ Hồ chưa đầy một năm
thì truyền ngôi cho con là Hán Thương ”.
Nh vậy, triều Hồ trải qua 2 đời vua là Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương
.Vào năm 1399, sau khi được cha truyền ngôi Hồ Hán Thương đã tự xưng là
Nhiếp thái Phó .Còn Hồ Quý Ly từ năm 1401 trở thành Thái Thượng Hoàng ).
Năm 1407, nhà Minh tiến quân vào xâm lược nước ta. Đây có thể nói là một
trong những thời kì bi thương , đen tối nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam. Quân
Minh đã tìm đủ mọi cách tàn nhẫn để đàn áp và bóc lột nhân dân ta dến tận cùng
của sự tàn bạo và thậm tệ . Nhiều nhà văn , nhà sử học thời kì này đã dùng cây
bút của mình để lên án sâu sắc, vạch trần tội ác của quân xâm lược. Đồng thời,
các ông cũng đã vẽ nên một khung cảnh hiện thực đau thương của dân tộc ta, ca
ngợi tinh thần đấu tranh bất khuất của những người con đất Việt đã ngả xuống
7
để cứu dân cứu nước. Nguyễn Trãi là một tiêu biểu với tác phẩm “Bình ngô đại
cáo” bất tử. Trong đó có đoạn :
…”Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ,
Dối trời lừa người, mưu gian đủ muôn ngàn kế,

Cậy binh gây hấn, tội ác chưa ngot 20 năm”.
Cuộc kháng chiến do nhà hồ lãnh đạo đã bị thất bại , thượng hoàng Hồ
Quý Ly , vua Hồ Hán Thương và một loạt các đại thần của nhà Hồ đã bị nhà
Minh bắt về Trung Quốc làm tù binh . Đến đây, nước ta đã bị nhà Minh đô hộ
trong vòng 20 năm (1407 - 1427). Tuy nhà Hồ chỉ tồn tại được vẻn vẹn chưa đầy
7 năm (1400 - 1407) nhưng lại là triều đại có lắm chuyện đáng lưu tâm. Chóng
ta phải thấy được những thành tựu mà nhà Hồ đã đạt được qua cuộc cải cách của
Hồ Quý Ly về tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội .Qua đó để rót ra những
hậu quả , nguyên nhân thất bại và bài học kinh nghiệm quý giá .
III. Tình hình xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIV :
Xã hội Đại Việt sau một thời kỳ phát triển phồn vinh từ thế kỷ XI thì
đến nửa sau thế kỷ XIV tức cuối đời Trần đã lâm vào một cuộc khủng hoảng
khá sâu sắc, trì trệ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội .Cụ thể :
1. Sù sa đoạ của tầng líp quý tộc cầm quyền :
Tầng líp quý tộc cầm quyền , họ là những người đứng đầu của
một nước , đáng ra họ phải hoàn thành nhiệm vụ chăm lo cho đời sống nhân
dân, củng cố và xây dựng đất nước ngày càng phát triển .Vậy mà ngược lại ,
trong vương triều Trần , từ Trần Dụ Tông (1341 - 1369) trở đi ngày càng đi vào
con đường suy thoái .Vua quan đua nhau ăn chơi hưởng lạc, không còn chăm lo
đến đời sống nhân dân như trước .
Vua Trần Dụ Tông sai người “đào hồ lớn ở vườn ngự nơi hậu cung ,
trong hồ chất đá làm núi , bên bờ hồ trồng thông , trúc và nhiều thứ cây khác,
thêm vào đấy nào là cỏ lạ , hoa thơm , muông kỳ , chim quý . Bốn mặt khai
thông cho nước sông vào . Lại đào hồ khác, bắt dân chở nước mặn chứa vào hồ
để nuôi cá , các hải sản . Bắt người Hoả Châu chở cá sấu thả vào đấy .Lại làm
dãy hành lang ở Tây Điện thẳng đến cửa Hoàng Phúc … Nay xây cất, mai tu
đạo , không lúc nào ngớt việc” . Nhà vua còn “ buông tuồng vô độ , tính nghiện
8
rượu , thường sai các quan vào uống rượu cùng .Người nào uống được nhiều thì
được ban thưởng . Bùi Khoan đã dùng kế giả vờ uống hết trăm thùng rượu ,

được thưởng tước hai tư “. Còng trong ” Khâm Định Việt Sử thông giám Cương
mục “, tập 1 , trang 638 .639, Nhà xuÊt bản Giáo Dục Hà Nội ,1998 , nhận xét
của Quốc sử quán triều Nguyễn về Dụ Tông :”Nghiện rượu, mê đàn hát , xa xỉ ,
làm cung điện nguy nga , tường vách chạm trổ , lãng phí tiền của, hoang dâm
chơi bời , món gì Dụ Tông cũng mắc .Cơ nghiệp nhà Trần sao khái suy được “.
Từ thực tế trì trệ nh vậy của một ông vua cũng quá đủ để cảnh báo rằng một
triều đình thối nát sắp suy sụp .
Bọn quý téc , quan lại cũng bắt quân dân xây dựng dinh thù , chùa
chiền , hát xướng , chơi bời phóng túng . Những kẻ bất tài nhưng khéo theo
chiều gió , nịnh bợ đều được thăng quan tiến chức , làm cho kỉ cương triều chính
rối loạn .Việc Chu Văn An – quan Tư Nghiệp Quốc tử giám dâng sớ xin chém
bảy tên nịnh thần không được đã trả Ên từ quan là một bằng chứng.
Trong nội bộ tầng lớp quý tộc cầm quyền chia bè phái , mâu thuẫn ,giết hại
lẫn nhau để tranh dành địa vị , quyền lực ngày càng khốc liệt . Điển hình là vụ
một sè quý tộc đại thần nhà Trần như Thái Bảo Trần Nguyên Hàng , Thượng
tướng quân Trần Khát Chân mưu giết Hồ Quý Ly nhưng không thành công ,
cuối cùng bị Hồ Quý Ly giết chết cùng với hơn 370 quan lại quý tộc khác . Cuộc
thanh trừng lẫn nhau diễn ra “hết năm này qua năm khác”( “Cương mục” – sđd ,
tập 1, tr 705 . Cuộc thanh Trừng này diễn ra vào năm 1399 ).
Trên đây là hiện thực của cuộc ăn chơi sa đoạ, đời sống hưởng lạc,
thoái hoá của giới quý tộc cầm quyền trong vương triều Trần, từ vua cho đến
quan lại …Hậu quả đó đã đè nặng lên đầu những người dân vô tội . Vì không
cứu vãn được tình thế , kết cục cuối cùng triều Trần đã sụp đổ và nhường vị trí
đó cho một vương triều mới lên thay thế .
2. Đời sống cực khổ và phong trào khởi nghĩa của nhân dân:
Hậu quả của những cuộc ăn chơi sa đoạ, hưởng lạc, không chăm
lo đến việc phát triển đất nước của giới vua quan, quý tộc đã làm cho cuộc sống
của nhân dân trăm họ lầm than , khổ cực. Để tiến hành các cuộc “chinh phạt”
các nước Ai Lao , Champa , triều Trần đã ra sức huy động sức người , sức của
của nhân dân , buộc nông dân nghèo phải bỏ ruộng đồng . Đồng thời, từ đầu thế

kỷ XIV, do mất mùa đói kém, nông dân đã phải bán vợ đợ con, bán mình làm nô
tỳ cho các quý tộc, địa chủ giàu có. Lợi dụng tình trạng khốn cùng đó của nông
9
dân, bọn chúng đã xâm chiếm hoặc mua rẻ ruộng đất, mở rộng điền trang, tăng
thêm số người làm. Nhiều nhà chùa cũng trở thành chủ đất lớn với rất nhiều điền
nô.
Đời sống của nhân dân càng trở nên đói kém không chỉ vì bị bóc
lột, bị chiến tranh mà còn phải hứng chịu những trận thiên tai hoành hành. Do
nhà nước không còn sức quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, sửa đắp và bảo vệ
các công trình thuỷ lợi, đê điều. Cho nên , trong nửa sau thế kỷ XIV đã có 9 lần
đê vỡ, lụt lớn, 11 lần hạn hán. Cụ thể, có những năm vừa lũ lụt vừa hạn hán
như : 1348, 1355, 1393, vv….Hậu quả của tình trạng này, chỉ tính từ đầu thế kỷ
XIV cho đến năm 1379 đã có hơn 10 nạn đói lớn, ngân quỹ trống rỗng, nhà
nước nhiều lần cho nhà giàu nộp tiền, thóc để nhận quan tước nhưng không giải
quyết nổi nạn đói và thiếu thốn. Đời sống điêu đứng của người dân được phản
ánh rất rõ qua mấy câu thơ của tướng quốc triều Trần Trần Nguyên Đán:
Dịch nghĩa: “Năm nay hè hạn, thu nước to,
Mạ thối lúa khô hại biết bao
Đọc sách triệu trang mà bất lực
Bạc đầu xin phụ nổi thương dân .”
Còn trong bức thư của Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh gửi cha,viết:
”Ruộng lúa ngàn dặm đỏ nh cháy
Đồng quê than vãn trông vào đâu
…Lưới chài quan lại còn vơ vét
Máu thịt nhân dân cạn nửa rồi.”
Có “áp bức thì có đấu tranh”, “tức nước thì vỡ bờ”, khi cụôc sống của
người dân đã đến mức bần cùng, không còn con đường nào khác là họ phải vùng
dậy đấu tranh. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn xã hội sâu sắc
và phong trào khởi nghĩa nông dân cuối thế kỷ XIV. Năm 1343, do đại hạn, mất
mùa, dân nghèo đã nổi dậy khắp nơi. Năm 1344, khởi nghĩa của Ngô Bệ nổ ra ở

Yên Phụ ( Hải Dương ) đánh phá nhà của bọn địa chủ, quan lại. Cuộc khởi nghĩa
đã bị đàn áp nhưng 14 năm sau, năm 1357 – 1358 nghĩa quân của Ngô Bệ lại
bùng lên ở Yên Phụ, YÕt Bảng với khẩu hiệu “chấn cưú dân nghèo”, chống lại
quân triều đình. Nghĩa quân làm chủ cả một vùng rông lớn thuộc huyện Chí
Linh ( Hải Dương ), chiến đấu cho đến năm 1360 mới bị dập tắt. Năm 1354,
10
khởi nghĩa của một người tên Tề tự xưng là cháu ngoại của Trần Hưng Đạo
đánh vào vùng Lạng Giang ( Bắc Giang ). Năm 1379, cuộc khởi nghĩa của
Nguyễn Thanh ở Thanh Hoá. Đầu năm 1390, nhà sư Phạm Sư Ôn phất cờ khởi
nghĩa ở Quốc Oai ( Hà Tây) . Năm 1399, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhữ Cái
nổ ra ở vùng Sơn Tây, Vĩnh Phúc…Qua tất cả các cuộc khởi nghĩa này, chúng ta
thấy lực lượng tham gia đấu tranh rất đông đảo, chủ yếu là nông dân nghèo,
nông nô, nô tỳ trong các điền trang của vương hầu, quý tộc Trần. Các cuộc khởi
nghĩa mặc dù bị đàn áp đẫm máu nhưng phần nào nói lên được tinh thần chiến
đấu, sức kháng cự của nhân dân là rất mãnh liệt. Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc chứng tỏ từ cuối thế kỷ XIV, xã hội Việt Nam đã bước vào cuộc khủng
hoảng, suy thoái của vương triều thống trị, những mâu thuẫn sâu sắc trong chế
đọ ruộng đất và nông nghiệp đương thời.
3.Sự bất lực của triều Trần trước các cuộc xâm lược,yêu sách của nước
ngoài:
Từ đầu những năm 60 của thế kỷ XIV, nước Champa hùng mạnh thường
xuyên đem quân lên đánh phá các vùng biên giới phía Nam Đại Việt và cũng đã
có vài ba lần tiến quân đánh phá kinh thành Thăng Long , vua Trần phải đi lánh
nạn . Quân Champa đã cuớp phá nhà cửa , kho tàng , đốt cung điện rôì rút về .
Cũng đã có nhiều lần nhà Trần đem quân chống lại quân Champa nhưng không
Ýt lần bị thất bại. Cụ thể: vào năm 1376, nhân dân Champa đánh ra Hoá Châu,
Trần Nghệ Tông cùng con là Trần Thuận Tông kéo đại quân đánh vào Champa.
Quân dân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Châu, Hoá Châu được lệnh chuyên chở
lương thực đi theo. Vua Chế Bồng Nga của Champa đã trá hàng và dô cho quân
Trần vào đến kinh đô thành Trà Bàn rồi phục kích tiêu diệt nhanh chóng. Kết

cục vua Trần Duệ Tông tử trận, Ngự câu Vương Húc đầu hàng. Năm 1378, quân
của Hồ Quý Ly đã đánh bại quân Champa khi chúng đánh ra Nghệ An . Năm
1383, trong quá trình chiến đấu đã bị thua trận, tướng Lê Mật Ôn bị chết, vua
Trần Nghệ Tông phải rời kinh thành lên Đông Ngàn (Bắc Ninh), chỉ còn tướng
Nguyễn Đa Phương ở lại trấn giữ. Riêng trận đánh tháng 10/1389 do Hồ Quý
Ly chỉ huy khi quân Champa đánh ra Thanh Hoá đã bị thua , hơn 70 tướng bị
chết. Nh vậy, cuộc chiến tranh với Champa vừa nói lên sự suy yếu của nhà Trần
vừa gây thêm nhiều khó khăn cho triều đình và nhân dân đương thời. Cuộc
khủng hoảng xã hội càng thêm trầm trọng.
Lợi dông sự suy yếu của nhà Trần, vào năm 1384, quân Minh đã kéo quân
vào đánh Vân Nam, bắt nhà Trần phải cung cấp lương thực cho chóng. Vua
11
Trần buộc phải cho người vận chuyển 5000 thạch lương lên nộp. Năm 1388, nhà
Minh sai sứ sang đòi ta nộp các thứ quả ngon vật lạ và mượn đường đi đánh
Champa bằng cách bắt nhà Trần nộp 50 thít voi. Năm 1395, nhà Minh bắt ta nép
50 con voi, 50 vạn hộc lương . Tất cả những đòi hỏi nhằm thực hiện âm mưu
xâm lược của nhà Minh diễn ra liên tục cho đến đầu thế kỷ XV.Trước tình hình
như vậy, triều Trần đành bất lực, không còn đủ khả năng để tổ chức, lãnh đạo
nhân dân kháng chiến chống lại giặc ngoại xâm. Vì thế, nước ta đã rơi vào tay
nhà Minh, chịu sự đàn áp dã man của bọn cướp nước.
Tóm lại, xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XIV đang lâm vào một cuộc khủng
hoảng sâu sắc, chính quyền thì suy yếu, bọn nịnh thần chuyên quyền, dòng họ
thống trị phân tán, sa đoạ, kinh tế nhà nước sa sút nghiêm trọng .Tất cả những
điều đó đã dẫn đến lục đục trong nội bộ như chia thành phe phái, còn nông dân
thì nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi. Trong lúc đó lại bị sự chống phá của Champa
và âm mưu xâm lược của giặc ngoại xâm nhà Minh (Trung Quốc). Hậu quả là
đời sống của nhân dân ngày càng khổ cực, còn triêù chính thì rối ren, tài chinh
kiệt quệ. Đây chính là những tiền đề dẫn đến cuộc cải cách cuả Hồ Quý Ly
nhằm cứu vớt tình hình đang bị khủng hoảng.
4.Thiết chế chính trị thời Trần :

Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam cổ, trung đại thì
chế độ phong kiến Việt Nam bước vào quá trình phong kiến hoá từ thế kỷ X.
Quá trình đó đã diễn ra liên tục từ thế kỷ X, được đẩy mạnh từ thế kỷ XI – XIV
dưới thời Lý – Trần và được xác lập vào nửa cuối thế kỷ XV, sau cải cách của
Lê Thánh Tông .
Đặc điểm của chế độ quân chủ thời Lý – Trần là chế độ quân chủ qúy tộc
và đưa đến sự phát triển mạnh mẽ quan hệ bóc lột nông nô, nô tỳ trong xã hội.
Vào nửa cuối thế kỷ XIV, sau một thời gian phát huy được mặt tích cực đối với
sự phát triển kinh tế, ổn định xã hội thì vào cuối thời Trần, quan hệ bóc lột đó đă
béc lộ mặt tiêu cực, làm cho đời sống của nhân dân hết sức khổ cực, từ đó dẫn
đến mâu thuẩn xã hội sâu sắc và nổ ra phong trào nông dân khởi nghĩa rầm rộ
khắp đất nước. Điều đó chứng tỏ thiết chế chính trị quân chủ quý tộc và và
quan hệ bóc lột nông nô, nô tỳ vào cuối thế kỷ XIV đã lâm vào tình trạng khủng
hoảng, kìm hãm sự tiến hoá của xã hội Đại Việt, làm cho quá trình phong kiến
hoá trong xã hội tiến tới xác lập một thể chế quân chủ quan liêu chuyên chế, một
12
nhà nước phong kiến trung ương tập quyền thống nhất và mạnh, một quan hệ
sản xuất địa chủ, nông dân lệ thuộc thống trị trong nền kinh tế bị cản trở.
Vì vậy, đất nước muốn vượt qua cuộc khủng hoảng cuối thế kỷ XIV, đòi
hỏi phải cải cách. Muốn vậy phải có một nhà nước trung ương tập quyền vững
mạnh, có đủ khả năng thực hiện cuộc cải cách, lãnh đạo dân tộc đánh thắng giặc
ngoại xâm.Yêu cầu trước tiên là phải gạt bỏ những quý tộc thời Trần bảo thủ ra
khỏi bộ máy điều hành đất nước, xoá bỏ kinh tế điền trang, giải phóng sức lao
động của nông nô, nô tỳ. Một bộ phận trong quan hệ sản xuất phong kiến lúc
bấy giờ đã trở nên lạc hậu, xoá bỏ nền quân chủ quý tộc không còn phù hợp với
xu thế phát triển của đất nước, xây dựng một nhà nước quân chủ quan liêu với
quan hệ sản xuất địa chủ tá điền chiếm địa vị và ưu thế trong xã hội.
Từ giữa thế kỷ XIV đã xuất hiện tư tưởng cải cách trong một số quan liêu
– nho sĩ mà đại diện là Lê Quát, Phạm Sư Mạnh đòi hỏi thay đổi thiết chế chính
trị theo mô hình chế độ quân chủ quan liêu của Nho giáo nhưng đã bị các vua

Trần Dụ Tông (1341 – 1369) và Trần Nghệ Tông (1370 – 1372) bác bá.
Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng tư tưởng và giữa hai thế lực đã
diễn ra lúc âm thầm, lúc quyết liệt liên tục suốt 30 năm (1371 – 1400). Đó là
khuynh hướng bảo thủ quân chủ quý tộc của tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần
và khuynh hướng dân chủ tập trung quan liêu nho sĩ mà đại diện là Hồ Quý
Ly.Cuối cùng, khuynh hướng dân chủ tập trung quan liêu của lực lượng quan
liêu nho sĩ do Hồ Quý Ly tiến hành đã thực hiện một cuộc cải cách trên tất cả
các mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Mặc dù cuộc cải cách đã thành công một
cách hạn chế song nó đã góp phần vào việc giải quyết tình trạng đất nước cuối
triều Trần, thấy được vai trò của Hồ Quý Ly và rót ra nhiều bài học kinh nghiệm
sâu sắc cho những cuộc cải cách sau này.
IV.Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly:
Sau khi lên làm vua, Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách đất nước
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
1.Cải cách về chính trị, quân sự, và luật pháp:
a) Về chính trị:
Từ năm 1375, Hồ Quý Ly đã đề nghị xoá bỏ chế độ lấy người tôn thất làm
các chức chỉ huy quân sự cao cấp, định lại số quân, đưa lực lượng trẻ vào:”chọn
các quan viên, người nào có tài năng, luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược thì
13
không cứ là tôn thất, đều cho làm tướng coi quân”.Năm 1378, trong sè 16 chỉ
huy các đạo quân ở trung ương, thì 12 người không phải là tôn thất nhà Trần. Hồ
Quý Ly đã loại bỏ dần tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần khỏi bộ máy chính
quyền trung ương, thay thế dần bằng tầng lớp nho sĩ trí thức có tư tưởng cải
cách. Đưa Nguyễn Đa Phương làm tướng quân, Phạm Cự Luận làm Đô sự rồi
thăng đến chức Thiêm Thư Khu mật viện sứ, tâu với Thượng Hoàng Nghệ Tông
giết Trần Phế Đế (1388), giết Trang Định vương Ngạc giữ chức Thái uý (1391)
và lần lượt, chỉ trừ các quan lại, tướng lĩnh cao cấp khác là quý tộc tôn thất nhà
Trần: Trần Ngọc Cơ, Trần Ngọc Kiểm, Thượng tướng Trần Khát Chân ….
Năm 1397, Hồ Quý Ly cho đổi trấn Thanh Hoá làm trấn Thanh Đô, trấn

Quốc Oai làm trấn Quảng Oai, trấn Đà Giang làm trấn Thiên Hưng….Và quy
định cơ chế làm việc :”lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Phàm những
việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng đều làm gộp một sổ của hộ, đến cuối năm báo
lên sảnh để làm bằng mà kiểm xét”.Khu vực quanh kinh thành Thăng Long
được đổi gọi là Đông Đô lộ do phủ cai quản.Sau đó Hồ Quý Ly dời đô vào An
Tôn ( Tây Đô ). Chế độ Thái Thượng hoàng tạm bãi bỏ nhưng đến khi nhà Hồ
thành lập, năm 1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương và tự
xưng la Thái Thượng Hoàng.
Nh vậy, từ tháng 02/1400 nhà Trần hoàn toàn bị sụp đổ, chính quyền
chuyển sang tay họ Hồ . Hồ Quý Ly đã đặt lệ cử quan ở Tam Quán và Nội nhân
đi vê các lộ thăm hỏi cuộc sống của nhân dân và tình hình quan lại để thăng,
giáng. Năm 1402, nhà Hồ xuất quân đánh Champa, vua Champa sợ hãi dâng nộp
hai vùng đất Chiêm Động và Cổ Luỹ. Năm 1404, một lần nữa nhà Hồ đánh vào
Champa nhưng không có hiệu quả gi, đành phải rút quân về.
b) Về quân sự :
Hồ Quý Ly định lại bình chế, chỉnh đốn quân đội, tổ chức lại Quân Túc
vệ, đặt thêm các hiệu quân, tăng cường kỉ luật quân đội, thải các tướng sĩ bất tài,
yếu sức thay vào những tướng sĩ có sức khoẻ và am tường võ nghệ. Quân đội
được biên chế thành các quân, đô, vệ đứng đầu có các Đại tướng, Đô tướng và
phó Đô tướng quân. Các đơn vị đặt các chức Đại đội trưởng, Đại đội phó, Đô
đốc, Đô thống, Tồng quản, Thái thú. Cấm quân có 20 vệ. Quân thường trực biên
chế thành nhiều quân, mỗi quân thành nhiều vệ, mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18
người. Hồ Quý Ly tiến hành làm sổ hộ tịch để kiểm kê dân số toàn quốc, ghi tên
14
tất cả những người con trai từ 2 tuổi trở lên, cấm Èn lậu nhân binh nhằm tăng
cường quân số với ý đồ xây dựng đạo quân một triệu người.
Hồ Quý Ly chủ trương cải tiến vũ khí và trang bị, thực hiện nhiều biện
pháp nh mở xưởng rèn đúc vũ khí, tuyển lựa các thợ giỏi vào các quân xưởng.
Nhờ vậy dưới thời Hồ Quý Ly đã chế tạo ra được những vũ khí lợi hại nh súng
thần cơ là một loại đại bác đầu tiên ở nước ta. Đạn đúc bằng gang, bằng đồng

hoặc bằng đá, có sức xuyên phá và khả năng công phá lớn, có hiệu quả sát
thương cao. Ngoài ra còn có các loại pháo nhỏ, súng bắn bằng đạn ghém hoặc
đạn lửa.
Trong quân đội có các đội cung tên, giáo mác, máy bắn đá, một bộ phận
là pháo binh. Quân đội chia làm 12 vệ, mỗi vệ 18 đội mỗi đội 18 người do Đại
tướng quân thống lĩnh. So với các triều đại trước, trang bị của quân đội nhà Hồ
có một bước phát triển. Nhà Hồ còn mở xưởng đóng thuyền đinh sắt để chuẩn bị
đối phó với nhà Minh đang lăm le xâm lược nước ta. Có hai thuyền chiến lớn
gồm hai tầng mang tên hiệu là “ Lâu Thuyền Cổ Tải Lương” và “ Trung Tàu
Tải Lương”. Tầng trên của thuyền có sàn cho quân đội cơ động chiến đấu, tầng
dưới có một hệ thống mái chèo. Súng thần cơ và cổ lâu thuyền là những vũ khí
và chiến thuyền mới, lợi hại của nhà Hồ. Cả nước có 4 kho quân khí.
Hồ Quý Ly chủ trương xây dựng một hệ thống cứ điểm phòng thủ để
chống xâm lược. Những nơi xung yếu tại các cửa biển và các sông đều có đóng
cọc gỗ. Hệ thống phòng thủ kéo dài từ núi Tản Viên men theo sông Đà, sông
Hồng, sông Luộc đến cửa sông Thái Bình dài gần 400km. Nhiều đồn quân chốt
giữ các nơi xung yếu.
c) Về luật pháp :
Chỉ trong vòng bảy năm (1400 – 1407), nhà Hồ đã ban hành nhiều luật lệ
và thực thi nó làm công cụ tích cực cho việc thực hiện cải cách trên tất cả các
kĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá. Nhà Hồ đã có tới 30 lần ban hành
các luật lệ được ghi trong thư tịch cổ. Hoạt động lập pháp được chú ý tăng
cường. Nhà Hồ chủ trương tăng cường pháp trị nhằm khôi phục lại kỉ cương xã
hội bị rối loạn vào cuối thời nhà Trần. Các luật lệ của nhà Hồ còn tập trung vào
mục đích xây dựng và củng cố chế độ quân chủ quan liêu chuyên chế vừa mới
được thiết lập còn thiếu cơ sở kinh tế – xã hội vững chắc, trấn áp tầng lớp quý
tộc tôn thất nhà Trần chống đối, chống lại các cuộc khởi nghĩa của nhân dân.
Luật lệ của nhà nước Hồ vừa có sự kế thừa các quy định pháp luật thời Lý –
15
Trần, vừa có sự phát triển cao hơn về trình độ kĩ thuật, pháp lí thể hiện ở tính cụ

thể, tính chặt chẽ trong các quy định các điều luật.
2.Cải cách về kinh tế – tài chính :
Năm 1396, Hồ Quý Ly ban hành chính sách phát hành tiền giấy gọi là tiền
“Thông bảo hội sao”. Tiền giấy có các loại 10 đồng, 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 5
tiền, 1 quan. Loại 10 đồng có hình vẽ rau rong, loại 30 đồng vẽ thuỷ ba, loại 1
tiền vẽ đám mây, loại 2 tiền vẽ con rùa, loại 3 tiền vẽ con lân, loại 5 tiền vẽ con
phượng, loại 1 quan vẽ con rồng.
Tất cả mọi người đều phải đem tiền đồng để đổi lấy tiền giấy. Cứ mỗi
quan tiền đồng đổi đựoc 1 quan 2 tiền giấy. Cấm nhân dân không được tiêu tiền
đồng. Nếu tàng trữ, tiêu dùng tiền đồng và làm giả tiền giấy thì bị tội tử hình, tài
sản thành công quỹ nhà nước.
Năm 1397, ban hành chính sách hạn điền. Nội dung cụ thể của chính sách
này như sau : các đại vương và trưởng công chúa thì ruộng đất không bị hạn chế
vÒ số lượng, còn thứ dân không dược có quá 10 mẫu ruộng.Người nào có nhiều
ruộng đất nếu có tội được phép lấy ruộng để chuộc tội, còn thừa thì phải đem
nộp cho nhà nước.
Năm 1401, ban hành chính sách hạn nô chiếu theo phẩm tước, cấp bậc mà
được sử dụng một số lượng gia nô theo quy định của nhà nước.Số gia nô quá
quy định phải đem nép cho nhà nước. Mỗi gia nô thừa ra được nhà nước trả cho
5 quan tiền.Người nào sử dụng gia nô phải xuất trình chức thứ ba đời. Gia nô
ngoại quốc thì không có hạn lệ.Các gia nô phải thích vào trán để đánh dấu.Gia
nô của Nhà nước thì thích theo kiểu hoả châu(ngọc sáng có tia sáng toả ra như
tia lửa) hoặc sáng vào quan Điện tiền,gia nô của công chúa thì thích kiểu dương
đường ,của đại vương thích vòng đỏ,của quan nhất, nhị phẩm thích vòng đen,của
quan phẩm trở xuống thích hai khuyên đen.
Năm 1402, ban hành chính sách thuế mới, định lại biểu thuế đinh và
ruộng đất.Về thuế ruộng thời Trần, mỗi mẫu ruộng tư thu ba thăng thóc, nay thu
năm thăng. Bãi dâu thời Trần thu từ bảy đến chín quan tiền nay thu hạng nhất
mỗi mẫu năm quan tiền giấy, hạng nhì thu bèn quan, hạng ba thu ba quan. Thuế
nhà Trần mỗi năm mỗi đinh đóng ba quan tiền nhất loạt thì nay chiếu theo số

ruộng. Người nào ruộng chỉ có năm sào thì phải đóng năm tiền giấy, từ sáu sào
đến một mẫu thì nộp một quan, từ một mẫu một sào đến một mẫu năm sào thì
nộp một quan năm tiền, từ một mãu sáu sào đến hai mẫu thì nộp hai quan tiền ,
16
từ hai mẫu một sào đến hai mẫu năm sào thì nộp hai quan sáu tiền, từ hai mẫu
sáu trở lên thì thu ba quan tiền giấy.Đinh nam không có ruộng, trẻ con mồ côi,
đàn bà hoá chồng dù có ruộng đều không phải đóng.
3.Cải cách về văn hoá - giáo dục:
Nhà Hồ đã tiến hành sửa đổi nội dung, cách thức trong các kì thi. Năm
1396, xuống chiếu định cách thức thi cử nhân (thi hương ở các lộ ). Bãi bỏ phép
thi viết ám tả cổ văn, dùng thể văn bốn kì. Kì thứ nhất thi một bài kinh nghĩa từ
500 chữ trở lên, có các phần phá đề, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng,
kết luận.Kì thứ hai thi một bài thơ Đường luật, một bài phú cổ thể hoặc thể ly
tao, thể văn tuyển từ 500 chữ trở lên. Kỳ ba thì một bài chiếu dùng thể Hán, một
bài chế, một bài biểu dùng thể tử lục đời Đường.Kỳ thứ tư thi một bài văn sách
lấy kinh sử hay thời vụ ra đề từ 1000 chữ trở lên. Cứ năm trước thi Hương thì
năm sau thi Hội (thi Tiến sĩ ), ai đỗ Tiến sĩ thì được vào dự kỳ thi Đình, làm một
bài văn sách để định cao thấp.
Năm 1397, Hồ Quý Ly chủ trương mở trường học ở các châu, phủ và cử
các quan Giáo thụ trông coi, đôn dốc việc học tập. Nhà nước quy định số lượng
ruộng đất cấp để sử dụng việc học ở các địa phương, gọi là học điền.Tuỳ theo
quy mô từng địa phương mà số ruộng được cấp từ 12 đến 15 mẫu. Năm 1404,
trong các kỳ thi hương có thêm kỳ thi môn toán nên gồm tổng số là 5 kỳ thi.
Nhà nước giao trách nhiệm cho các quan, các lộ, phủ, châu phải tuyển chọn
người giỏi đưa vào triều sát hạch để bổ sung.
Hồ Quý Ly rất đề cao chữ Nôm. Năm 1395, Hồ Quý Ly đã dịch thiên võ
dật ra chữ Nôm để dạy nhà vua. Năm 1396, dịch kinh thi để dạy cho các cung
phi và cung nhân, làm sách thi nghĩa bằng chữ Nôm để dạy cho các hậu phi,
cung nhân. Hồ Quý Ly đã làm sách “Minh đạo”( con đường sáng) để bày tỏ
quan điểm của ông về Nho giáo, hạ thấp vai trò của Khổng tử, phê phán Nho gia

là những người “ học rộng nhưng tài kém, không quan thiết đến sự tình (tức
phục vụ thực tiễn cuộc sống), chỉ chuyên việc lấy cắp văn chương của người
xưa”.
Qua những cải cách của Hồ Quý Ly về giáo dục, thi cử , nhà sử học Phan
Huy Chú ở thế kỷ XIX có nhận xét :” Phép khoa cử đời Trần đến đây mới đủ
văn tự bốn trường, đến nay còn theo không thay đổi được. Chọn nhân tài bằng
văn học không gì hơn phép Êy “
2
.
2
Trích từ "Lịch triều hiến chương loại chí" khoa mục chí, tập 2. NXB KH & XH, trang 154.
17
Đối với Phật giáo, năm 1396 , Hồ Quý Ly bắt tất cả các nhà sư chưa đến
50 tuổi phải hoàn tục để lao động . Còn lại phải sát hạch, ai thông hiểu đạo phật
mới được làm sư.
Như vậy, bằng tài năng của mình, ngay từ khi lên ngôi, để cứu vãn tình
hình đất nước cuối đời Trần, Hồ Quý Ly đã mạnh dạn tiến hành cải cách đất
nước một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội .
V.Đánh giá về Hồ Quý Ly và cuộc cải cách:
1.Đánh giá về Hồ Quý Ly:
Dõi theo tiến trình lịch sử chúng ta đã phần nào biết được cuộc đời, thân
thế và các hoạt động của Hồ Quý Ly kể từ khi còn là một chức quan nhỏ đến lúc
ông lên làm vua, thành lập nên nhà Hồ. Hoạt động đáng quan tâm nhất của Hồ
Quý Ly đó là ông đã thực hiện một cuộc cải cách táo bạo.
Nghiên cứu về Hồ Quý Ly cò8ng đã có rất nhiều nhà sử học đánh giá về
ông với nhiều quan điểm, khía cạnh khác nhau. Nhưng tất cả đều phải công nhận
rằng Hồ Quý Ly là một con người hiếm thấy trong lịch sử .
Tham khảo cuốn sách viết về Hồ Quý Ly của Phó giáo sư - Tiến sĩ sử học
Nguyễn Danh Phiệt đã viết rằng Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử tầm cỡ, một
nhân cách đặc biệt, một nhà cải cách lớn, tuy ông còn phạm một số sai lầm,

thiếu sót.
Hồ Quý Ly bước vào vương triêù Trần bắt đầu từ chức Võ quan nhá, ra
khỏi vương triêù Trần với cương vị Hoàng đế và tiếp đến là Thượng Hoàng của
vương triều Hồ. Thế nhưng cái tầm cỡ của ông không phải ở chức tước phẩm
hàm, ở ngôi cao tuyệt đỉnh trong bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập
quyền cuối Trần và Hồ mà cái tầm cỡ đó được phản ánh sâu sắc qua các tác
động của ông đến thời thế lúc bấy giờ. Sau khi Trần Nghệ Tông qua đời mình
ông chinh chiến trên chính trường của một thời đầy sóng gió. Nhưng nhờ tài
năng của cá nhân ở vốn tri thức vô tận mà ông đã hoà nhập được vào thế giới
quan lại nơi cung đình đầy rẫy những vương hầu quyền uy. Vua Trẩn Nghệ
Tông đã ban cho ông lá cờ đề bốn chữ “ Văn võ toàn tài” cũng thể hiện rằng Hồ
Quý Ly có năng lực vựơt trội so với người đương thời. Thành công của Hồ Quý
Ly trong quá trình hoạt động là đã thắng quý tộc Trần, đẩy lùi quân Chiêm và
chỉ chịu thất bại trước quân xâm lược nhà Minh. Qua đó, chúng ta có thể khẳng
định rằng Hồ Quý Ly là nhân vật lịch sử tầm cỡ.
18
Trong tình thế nước nhà lâm vào khủng hoảng loạn lạc, bế tắc như vậy.
Hồ Quý Ly đã không lùi bước mà ngược lại ông giám nhìn thẳng vào sự thật,
dấn thân vào can thiệp và quyết tâm cải cách tình trạng hiện tại. Điều này thể
hiện ông vốn có một hoài bão lớn, chí khí hơn người, ông không phải là loại
người chỉ nghĩ đến vinh hoa phó quý, bổng lộc, tiền tài danh vọng. Mà những
việc làm của ông đều xuất phát từ mục tiêu cứu nước. Ông đă dũng cảm đương
đầu với bao khó khăn, trở ngại và bao mạo hiÓm. Để thực hiện các chủ trương,
chính sách đã đặt ra, Hồ Quý Ly đã áp dụng những biện pháp cứng rắn, cương
quyết đến tàn bạo. Qua việc ra tay đối với những ông vua hèn yếu cuối triều
Trần mở đường cho lịch sử tiến lên, chúng ta thấy được chữ “ Trung “ của đạo
Nho mà ông là đệ tử trung thành. Trong cuộc chống giặc ngoại xâm, Hồ Quý Ly
đă thể hiện là một người có lòng trung với nước hết mình. Ông tiêu diệt bất cứ ai
chống lại hoặc mưu toan chống lại mình. Ông không chịu đầu hàng, Hồ Quý Ly
là một người kiên định, nhất quán trong tư duy và hành động, sử dụng những

biện pháp kiên quyết có lúc đến tàn bạo vì hoài bão cứu nước. Ông xứng đáng là
một nhân vật lịch sử tầm cỡ, một nhân cách đặc biệt.
Tuy nhiên, chính ông đă tụ nhận :” Kim âu kiến khuyết” có nghĩa là chiếc
âu vàng bị sứt mẻ. Tức bên cạnh những điểm tích cực thì ông vẫn còn những
điểm hạn chế. Mặc dù ông là một nhà quân sự nhưng không có tài quân sự, kết
cục cuối cùng đă để nước ta rơi vào ách đô hộ của nhà Minh. Hồ Quý Ly đã phải
ân hận suốt đời và chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc.
2. Nguyên nhân thất bại, kết quả và bài học kinh nghiệm của cuộc cải
cách:
a.Nguyên nhân thất bại:
Chóng ta phải khẳng định Hồ Quý Ly là một nhà cải cách táo bạo và
cương quyết. Ông đã ban hành nhiều chính sách và biện pháp cải cách trên nhiều
phương diện. Cuộc cải cách đã thành công trong hạn chế, tuy được thực hiện
một cách toàn diện, sâu sắc song do nhiều hoàn cảnh nên cuộc cải cách đã bị
thất bại.
Cac Mac đã viết:” Con người làm ra lịch sử của chính mình nhưng không
phải làm theo ý muốn tuỳ tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn
lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá
khứ đÓ lại”. Liên hệ đến Hồ Quý Ly, dù ông đã tiến hành cải cách tiến bộ đến
đâu cũng không thể vượt ra khỏi khuôn khổ của thời đại và phải chịu sự chi phối
19
của di sản do quá khứ để lại. Đó lá do một xã hội không ổn định, do những mâu
thuẫn phát sinh từ quá trình vận động phát triển của cơ sở kinh tế, chủ yếu là các
loại hình sở hữu ruộng đất gây nên, do bộ máy nhà nước quân chủ quý tộc già
cỗi, tha hoá , bất lực trong điều chỉnh, quản lí, xây dựng đất nước và tổ chức
chiến đấu giữ nước. Do hiểm hoạ ngoại xâm đã hiện ra trước mắt đang ngày một
đến gần. Chính vì những lÝ do đó mà đã gây cản trở cho nuộc cải cách của Hồ
Quý Ly.
b.Kết quả:
Cải cách của Hồ Quý Ly xét về nội dung nhằm thực hiện hai mục tiêu là

củng cố và tăng cường chế độ quân chủ tập quyền, giải quyết các mâu thuẫn
kinh tế - xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu lịch sử do cuộc khủng hoảng đặt ra.
Qua cuộc cải cách chứng tỏ Hồ Quý Ly đã nhận thức được những nguyên
nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng cuối Trần và mạnh dạn tiến hành các chính
sách và biện pháp cải cách. Ông đã đảm nhận vai trò người khởi xướng, tổ chức
và lãnh đạo công cuộc cải cách để thực hiện mục tiêu, định hướng đã đề ra. Có
thể khẳng định Hồ Quý Ly đã đóng vai trò là người mở đầu một thời điểm cải
cách quan trọng trong lịch sử Trung đại Việt Nam.
Cuộc cải cách đã loại bỏ được tầng lớp quý tộc Trần ra khỏi bộ máy nhà
nước, ngày càng bổ sung được một đội ngũ quan liêu - nho sĩ mới vào chính
quyền, bộ máy hành chính và quan lại từ trung ương đến dịa phương được chấn
chỉnh lại làm cho chế độ cai trị mang tính pháp trị cao hơn. Do đó đã có tác
dụng làm chuyển dần thiết chế chính trị từ chế độ quân chủ quý téc sang chế độ
quân chủ quan liêu. Tuy chưa xây dựng được một thiết chế quân chủ quan liêu
hoàn chỉnh dưới Triều Hồ, do hoàn cảnh khách quan cuộc xâm lược của nhà
Minh (cuối 1406 - đầu 1407) đã làm cho công cuộc cải cách bị bỏ dở, song nó sẽ
dược hoàn chỉnh dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 -1497). Như vậy, trong
điều kiện lịch sử Việt Nam bấy giờ, mục tiêu, định hướng và kÕt quả của công
cuộc cải cách là đúng đắn nhằm đáp ứng những yêu cầu khách quan trong xu
hướng phát triển nội tại của nước ta đang trên bước đường đi đến xác lập chế độ
phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế. Đây cũng là xu thế chung của thời
đại.
Những cải cách của Hồ Quý Ly không chỉ nhằm làm thay đổi thiết chế
chính trị quân chủ quý tộc đã lâm vào con đường khủng hoảng, đã tạo được sự
chuyển mình đó bước sang thiết chế quân chủ quan liêu, phong kiến tập quyền
20
mà còn xoá bỏ loại hình kiến trúc điền trang đã trở nên lạc hậu, cản trở sự phát
triển sức sản suất và yêu cầu củng cố quốc gia thống nhất.
Xét về mặt cụ thể: chính sách hạn điền đã ngăn chặn khuynh hướng phát
triển của hình thức sở hữu phong kiến lớn, xác lập và khẳng định trên thực tế

quyền sở hữu tối cao của Nhà nước về ruộng đất, cơ sở kinh tế - xã hội mới
vững chắc hơn Thuế đinh của Hồ Quý Ly công bằng hơn thời Trần, thể hiện tư
tưởng khoan dung của nhà nước đối với dân nghèo: “ Đó là chính sách khoan
hồng với dân “ nhà sử học Ngô Thời Sĩ đã nhận xét. Thuế ruộng bãi dâu cũng
giảm từ 50 - 60% so với thời Trần, tạo điều kiện cho thủ công nghiệp dân gian
phát triển. Chính sách hạn nô cùng với chính sách hạn điền không những đánh
mạnh vào cơ cấu kinh tế của quý téc, cơ cấu kinh tế xã hội của nhà nước quân
chủ quý tộc Trần đã khủng hoảng nghiêm trọng, mà còn là biện pháp tích cực
ngăn chặn quá trình nông nô hoá đang ngày càng gia tăng trong xã hội, bảo đảm
quyền kiÓm soát dân đinh của vương triều mới, củng cố quyền lực của Nhà Hồ.
Nhà nước cải cách trên lĩnh vực văn hoá - giáo dục của Hồ Quý Ly và
Nhà Hồ đã thể hiện tư tưởng tiến bộ trong việc xây dựng một nền văn hoá- giáo
dục mang bản sắc dân tộc Việt Nam, gắn liền với nhu cầu thực tiễn của xã hội
lúc bấy giờ .
Qua những cải cách của Hồ Quý Ly về nhiều mặt cho thấy ông là một nhà
cải cách lớn, có lòng yêu nước, ý thức tự cường, tinh thần dân tộc sâu sắc, kiên
quyết chống giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc .
Tuy nhiên, cuộc cải cách của Hồ Quý Ly còn bộc lộ một số hạn chế quan
trọng, nhất là trong quá trình thực hiện thiếu triệt để ở một sè chính sách như :
hạn điền trang, trong mối quan hệ giữa hạn nô với giải phóng sản xuất, trong
chính sách phát hành tiền giấy Ýt có hiệu quả, trong chủ trương chấp nhận
nhưng có hạn chế số lượng ruộng đất (không quá 10 mẫu) của “ thứ dân” và
quan lại ( trừ Đại vương, trưởng công chúa). Vì thế đã hạn chế sự phát triển của
chế độ tư hữu ruộng đất là chưa phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử đương
thời. Mặc dù do những hạn chế của điều kiện và hoàn cảnh khi xây dựng một
Nhà nước, mét chế độ trung ương tập quyền mà chưa tạo nên được một cơ sở
kinh tế - xã hội mới.
Công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly được thể hiện trong hoàn cảnh lịch sử
đầy khó khăn, phức tạp, vừa phải giải quyết cuộc khủng hoảng của xã hội trên
21

nhiều mặt, vừa phải đối phó với nạn ngoại xâm đang đến gần và sự chống đối
quyết liệt của quý tộc, tôn thất nhà Trần, kể cả hành động tiêu diệt Hồ Quý Ly.
Nhà nước hạn chế trong công cuộc cải cách đã tác động xấu đến khả năng
thu phục nhân tâm và đoàn kết toàn dân để chống giặc ngoại xâm của nhà Hồ,
cùng với những sai lầm trong tổ chức và chỉ đạo chiến tranh, trong cả chiến lược
và chiến thuật, không tổ chức và thực hiện được một cuộc chiến tranh nhân dân.
Bởi vậy, chỉ sau hơn nửa năm ( cuối 1406 - đầu 1407) quân Minh đã tiến hành
xâm lược, cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo đã thất bại thảm hại , kéo theo
sự sụp đổ của vương triều Hồ và kết thúc cuộc cải cách dang dở của Hồ Quý
Ly. Chính vì cuộc xâm lược của nhà Minh là một nhân tố bên ngoài góp phần
làm cho công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly nhanh chóng bị thất bại.
c.Bài học kinh nghiệm:
Sự thất bại trong cuộc cải cách của Hồ Quý Ly cũng là một bài học lớn, quý
giá mà các nhà cải cách sau này cần phải thấm nhuần và rút kinh nghiệm. Tuy
rằng các cuộc cải cách đựơc thực hiện đều xuất phát từ những mục tiêu có lợi
cho dân tộc, nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng bế tắc lúc bấy giờ. Thế
nhưng cũng phải có các chính sách, biện pháp cho phù hợp với hoàn cảnh tiêng
của từng thời kì lịch sử. Để thực hiện được điều đó thì đòi hỏi người đứng ra
lãnh đạo cũng phải là một người xuất chúng, có tài năng, ý chí và đặc biệt là có
tinh thần dân tộc, tự chủ, tự cường. Đồng thời, cũng cần tận dụng được tinh thần
ủng hộ của nhân dân để đoàn kết tạo nên sức mạnh cả về tinh thần cũng như vật
lực phục vụ cho cuộc cải cách được thành công. Có lẽ, lấy lòng dân là bài học
kinh nghiệm sâu sắc nhất rót ra từ cuộc cải cách của Hồ Quý Ly. Vì Hồ Quý Ly
đã không làm được điều đó nên phần nào đã dẫn đến thất bại. Đặc biệt là khi
giặc ngoại xâm đến trong tình cảnh cuộc cải cách còn dang dở nên không tập
hợp được lực lượng, thu phục được lòng dân, tinh thần cách mạng dũng cảm của
dân. Đây cũng là một bài học chính. Hơn nữa, trong quá trình cải cách, phát
triển đất nước, phải kết hợp chặt chẽ giữa các lĩnh vực với nhau như kinh tế với
chính trị, đặc biệt là với an ninh quốc phòng, về mẵt chuẩn bị lực lượng, vũ khí
trong quân đội để sẵn sàng chống giặc ngoại xâm và các thế lực thù địch khi cần

thiết. Có nh thế thì công tác tổ chức và chỉ đạo chiến lựơc chiến tranh mới có kết
quả tốt đẹp.
Tuy cải cách của Hồ Quý Ly đã thất bại nhưng chúng ta phải khẳng định
lại rằng Hồ Quý Ly là một nhà cải cách lớn, ông đã đóng góp không Ýt công sức
22
cho sự nghiệp xây dựng đất nước vào thời kì lịch sử quan trọng đó. Điều này đã
được nhiều nhà sử học ghi nhận và các thế hệ sau biết đến, khâm phục và cảm
kích.
23
C. KẾT LUẬN
Cải cách - đó là một biện pháp cần thiết và đáp ứng được tình thế lịch sử
nhất mỗi khi đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, duy tân của thời đại.
Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly là một điển hình trong số những cuộc cải cách
khác trong lịch sử Trung đại Việt Nam. Cuộc cải cách đó tuy thất bại nhưng nó
đã dành được nhiều thành tựu đáng kể và để lại nhiều bài học kinh nghiệm sâu
sắc. Qua đây, chúng ta cũng khẳng định được Hồ Quý Ly quả là một nhân vật
lịch sử tầm cỡ hiếm thấy trong sử sách, một nhà cải cách lớn. Ông đã tiến hành
nhiều biện pháp để cải cách về chính trị, quân sự, luật pháp, kinh tế, về tài chính
và văn hoá - giáo dục, thi cử. Tuy vậy, cuộc cải cách đã dở dang do nhiều lÝ do
về khách quan và chủ quan vào cuối thời Trần, khi quân Minh tiến vào xâm lược
nước ta.
Trong lịch sử Trung đại Việt Nam đã có rất nhiều cuộc cải cách lớn được
tiến hành. Nhiều cuộc cải cách đã thành công và có tác dụng tích cực đến sự
phát triển của đất nước, sự chuyển mình của dân tộc, nổi bật là cuộc cải cách của
Khúc Hạo, của Lê Thánh Tông và Quang Trung. Còn riêng cuộc cải cách của
Hồ Quý Ly thì bị thất bại, mặc dù có mục tiêu, định hướng đúng đắn nhưng lại
do có nhiều hạn chế trong nội dung, biện pháp thực hiện và khó khăn khách
quan. Cũng có cuộc cải cách không có tác dụng với tiến trình đi lên của đất
nước, dân tộc. Ngược lại còn làm cho tình hình trở nên xấu đi, trì trệ, lạc hậu
thêm như cuộc cải cách của Minh Mạng do mục tiêu, định hướng cải cách không

xuất phát từ việc đáp ứng yêu cầu của lịch sử mà vì mục tiêu bảo vệ, cũng cố
chế độ quân chủ - chuyên chế đã lỗi thời…
Qua tất cả các cuộc cải cách đó dù thành công hay thất bại cũng đã để lại
nhiều bài học kinh nghiệm quý giá. Đó là để tiến hành cải cách đạt kết quả thành
công thì phải có mục tiêu, định hướng đúng, nội dung của cuộc cải cách phải
toàn diện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, phải phù hợp với xu thế thời
đại, yêu cầu của đất nước, nguyện vọng của nhân dân; phải xuất phát và phù hợp
với điều kiện thực tiễn, biết kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc,đặc
điểm của đất nước, và lấy kinh nghiệm của quá khứ để tránh khỏi sai lầm, thiếu
sót. Từ đó phải có bước đi, hình thức và phương thức thực hiện đúng, thích hợp.
Sau cả một quá trình chống giặc ngoại xâm triền miên, liên tục thì trên đất
nước Việt Nam đã đến lúc không còn tiếng súng của chiến tranh. Dân tộc ta bắt
tay vào công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước. Đặc biệt, từ 1986 Đảng và
24
Nhà nước ta đề ra công cuộc đổi mới đất nước. Cho đến nay, chóng ta đã và
đang gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng, đưa dân tộc thoát khỏi tình trạng
khủng hoảng, trì trệ, bước vào thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước,
từng bước làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
Để đạt được kết quả đó là nhờ Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời cũng
đã thể hiện sứ mệnh lịch sử to lớn của mình, khẳng định vị trí của mình là đội
ngũ tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng đã biết kế thừa và vận
dụng những bài học kinh nghiệm của các cuộc cải cách trong lịch sử. Đảng đã
kiên định chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ
nam cho hoạt động .Đảng đã kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Đảng đã vạch ra các chủ trương, đường lối phù hợp với quy luật, với
thực tế Việt Nam; phát huy sức mạnh của toàn dân, mở rộng mối quan hệ quốc
tế để không ngừng học hỏi, trao đổi với các nước bạn về mọi lĩnh vực, đặc biệt
là các thành tựu của khoa học công nghệ… Đồng thời chúng ta còng tham gia
vào nhiều tổ chức mang tính chất đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển, giữ
vững hoà bình thế giới như tổ chức khu vực ASEAN, tổ chức thương mại Thế

giới WTO … để từ đó tăng cường phát triển kinh tế đất nước và giải quyết các
vấn đề khác một cách đúng đắn, bằng con đuờng hoà bình, hữu nghị.
Giờ đây Việt Nam đã trở thành một nước độc lập hoàn toàn, có quyền tự
quyết mọi việc của dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. Việt Nam là một nước Xã Hội
Chủ Nghĩa kiên định con đường Chủ Nghĩa Xã Hội, xây dựng một nền kinh tế
hỗn hợp nhiều thành phần, một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, hoà nhập
mà không hoà tan, kết hợp với việc xây dựng an ninh - quốc phòng, y tế, giáo
dục … thường xuyên đổi mới, và coi đó là những quốc sách hàng đầu để phát
triển đất nước. Đây cũng chính là nội dung quan trọng mà trong đại hội X vừa
qua đã khẳng định.
Lời dạy của Bác Hồ còn mãi hôm nay và cho cả mai sau.”Các vua hùng
đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đó là một lời
khích lệ có gia trị vĩnh cữu để các thế hệ nối tiếp nhau luôn phấn đấu học tập,
rèn luyện xây dựng và đổi mới sao cho đất nước ngày càng giàu mạnh, cùng
sánh vai với các cường quốc năm châu ./.
25

×