QUAN H GIA VNG QUC C CHAMPA
VI CC QUC GIA TRONG KHU VC
(T U N TH K XV)
Trng Giang
Trng i hc KHXH&NV - HQG HN
T thc tin min Trung-c bit t u thp k 90 ca th k XX,
GS Trn Quc Vng ó i n nhn nh quan trng, khng nh vai trũ
ca giao lu-giao thoa vn hoỏ, min Trung, vi nn vn hoỏ Cng th. Bt
k nn vn hoỏ no, m vn hoỏ Vit Nam-Champa min Trung cng l
nh vy-u l kt qu tỏc ng qua li (Interaction) gia nhng nhõn t
ni sinh (endogen) v nhng nhõn t ngoi sinh, v t lc cỏnh sinh t bao
gi n bõy gi vn phi l dũng t tng chớnh
1
Trong sut chiu di hn mt ngn nm hỡnh thnh phỏt trin v cú
thi im tr thnh cng quc ca ụng Nam , lch s Champa khụng
khi no phỏt trin tỏch ri vi lch s khu vc, m ngc li, lch s Champa
chia s nhiu giỏ tr c trng ca khu vc ụng Nam , cng nh chu nh
hng sõu sc ca nhng mi quan h khu vc, quc t. Champa khụng ch
tip thu nhiu giỏ tr vn hoỏ ca cỏc quc gia c i ụng Nam , m bờn
cnh ú, cũn l nhng mi quan h lõu di, khụng b t quóng v chớnh tr,
kinh t; trong ú, buụn bỏn thng mi va l mt h qu ca cỏc mi quan
h, nhng ng thi li l ng lc mnh m nht thỳc y cỏc mi quan h
ca Champa vi cỏc quc gia trong khu vc.
Champa vi mt ng b bin tri di-cng nh phn ln cỏc quc
gia ụng Nam c i, ó luụn cú mt tm nhỡn hng bin mnh m, luụn
1
Trần Quốc Vợng, Về miền Trung (Mấy nét khái quát về nhân học văn hoá), in trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa
học 5 năm nghiên cứu và đào tạo của Bộ môn Khảo cổ học (1995-2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hn.2002,
tr.27.
1
có ý thức vươn lên làm chủ, khai thác tiềm năng biển, cũng như mở rộng
quan hệ buôn bán với nước ngoài để bù lấp cho những thiếu hụt về nguồn tài
nguyên trong nước, biến những lợi thế từ bên ngoài thành động lực, hay một
bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc gia.
I. SỰ HÌNH THÀNH CỦA VƯƠNG QUỐC CHAMPA Ở MIỀN TRUNG VIỆT
Nam VÀ NHỮNG MỐI QUAN HỆ BAN ĐẦU.
Sự hình thành tộc người và không gian lãnh thổ.
Khoảng giữa thiên niên kỷ I TCN, một bộ phận của người Nam Đảo
đã thiên di đến vùng biển miền Trung Việt Nam ngày nay. Họ trở thành
người Chăm với tư cách là cư dân của vương quốc cổ Champa.
Về nguồn gốc của người Nam Đảo, học giả Soheim II cho rằng, họ -
những người Nam Đảo - xuất phát từ đảo Mindanao (Philippin) theo gió
mùa vào biển Đông (miền Trung Việt Nam) rồi mới đến miền Nam Trung
Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Một bộ phận còn lại đi về phía Nam lục địa
châu Á, tới tận bờ biển Đông Phi.
Trong khi đó, học giả Heiner Gelder và những người tiếp sau ông như
Colani (1938) hay A.Reid (1995) đã đưa ra giả thiết về quê hương ban đầu
của người Nam Đảo là ở vùng đất phía Nam Trung Quốc rồi sau đó họ mới
thiên di xuống vùng Đông Nam Á hải đảo. Trong khoảng thiên niên kỷ III
TCN, dân Nam Đảo đã tập trung xung quanh các đảo Philippin và Indonesia
ngày nay. Bắt đầu từ đó, họ thực hiện những chuyến đi ngang dọc trên biển,
in dấu Ên của mình vào lịch sử nhân loại như một tộc người giỏi đi biển và
sinh sống gắn với biển khơi.
Từ khoảng cuối thiên niên kỷ thứ II, đầu thiên niên kỷ I TCN, nhóm
Nam Đảo phía Đông (Indonesia) tung hoành trên vùng biển Thái Bình
Dương. Trong khi đó, nhóm Nam Đảo phía Tây lại thực hiện những chuyến
2
i ỏng kinh ngc. H ti vựng bin min Trung Vit Nam ngy nay, sau
ny to nờn nhúm Austronesia - Chm, cựng vi cỏc nhúm ngi Nam o
khỏc Borneo, Java, Madagascar
Nh vy, nhng thiờn niờn k u Cụng nguyờn ó hỡnh thnh mt th
gii Nam o ụng Nam v Nam . Trong th gii Nam o ấy, vựng
b bin min Trung Vit Nam ngy nay l mt khu vc quan trng. Nhng
phỏt hin v Kho c hc ó mang li nhng chng c vt cht quan trng
khng nh s cú mt ca ngi Nam o b bin Vit Nam t cui
thiờn niờn k II TCN. Trong ú, nhng t thiờn di ln nht ca h n vựng
bin ny nm trong khong thi gian t 500 nm TCN cho n u Cụng
nguyờn v tp trung rừ nht Sa Hunh (Qung Ngói). Ngi Nam o ó
cú mt trờn mt phm vi khụng gian khỏ rng, tri di t Qung Bỡnh, n
tn An Giang, Kiờn Giang, v mt b phn c dõn ny cú l cng chớnh l
mt b phn cu thnh c dõn vng quc c Phự Nam vo nhng th k
u Cụng nguyờn
2
.
Nhng ngi Nam o ni ting l nhng ngi i bin c khụi,
thiờn di nhiu v cú thúi quen sng phiờu diờu trờn bin. Tuy vy, h cng
ó tng bc hỡnh thnh thúi quen c trỳ trờn t lin. Nhng du vt c trỳ
ca ngi Nam o cũn nm di rỏc trờn b bin Vit Nam. Cỏc nh Kho
c hc ó tỡm thy trong nhiu di ch du vt ca mt nn vn hoỏ c trng,
gi chung l vn hoỏ Sa Hunh, cú niờn i ph bin vo khong 500 nm
TCN - nm trong khong thi gian v khụng gian m ngi Nam o thiờn
di n vựng bin min Trung Vit Nam. Sau vn hoỏ Sa Hunh v cng
chớnh trờn a bn ny ó xut hin nn vn hoỏ ca tc ngi Chm.
Theo ti liu Trung Hoa thỡ ngi Chm ó lp quc sm nht l vo
th k II, sau cuc khi ngha ginh quyn t ch ca Khu Liờn v lp ra
2
Lơng Ninh, Văn hoá cổ đồng bằng sông Cửu Long trong quan hệ khu vực và tộc ngời, in trong: Văn hoá
óc Eo và các văn hoá cổ, 1984. tr.247-259.
3
vương quốc Lâm Êp. Các nhà Khảo cổ học cũng nh các nhà khoa học đã bàn
nhiều về việc có hay không sự nối tiếp từ Sa Huỳnh đến Champa. Mặc dù
đây thực sự là một chủ đề cần thêm nhiều thời gian nghiên cứu cũng như
những tư liệu Khảo cổ học mới, nhưng dẫu sao những hiện vật gốm được
tìm thấy ở một số di chỉ thuộc vùng văn hoá Sa Huỳnh - Champa cũng đã hé
mở Ýt nhiều những bằng chứng cho thấy, sự tiếp nối trong đời sống dân cư
ở ven những dòng sông thuộc miền Trung Việt Nam ngày nay. Văn hoá
Chăm có sự trùng lặp về mặt không gian và nối tiếp về mặt thời gian với văn
hoá Sa Huỳnh.
Như vậy là, một vương quốc cổ của cư dân ven biển miền Trung Việt
Nam xưa đã được hình thành, có nguồn gốc từ những cư dân Nam Đảo, họ
định cư ở nơi đây, xây dựng nên vương quốc cổ Lâm Êp/Champa - và họ trở
thành tộc Chăm. Người Chăm và lịch sử tồn tại suốt 15 thế kỷ của vương
quốc Champa đã không đứng ngoài các mối quan hệ và lịch sử phát triển
chung của khu vực Đông Nam Á. Những nét gần gũi về nguồn gốc tộc
người, vị trí địa lý thuận lợi cho việc mở rộng các mối quan hệ…đã trở
thành tiền đề quan trọng để người Chăm và vương quốc Champa trong lịch
sử có thể mở rộng các mối quan hệ về mọi mặt (chính trị, kinh Từ, văn hoá,
…) với các quốc gia trong khu vực, hoà mình vào dòng chảy chung của lịch
sử khu vực.
Vùng đất Champa trong tiến trình lịch sử đã từng có lúc vươn ra đến
Đèo Ngang (Quảng Bình) và kéo dài đến Nam Bình Thuận (thậm chí xa hơn
thế nữa). Về phía Đông giáp bờ biển Đông (hay biển Nam trung Hoa), về
phía Tây, biên giới của vương quốc Champa đã từng có những thời điểm
nằm khá sâu trong vùng Đông Nam Á lục địa. Căn cứ trên bia ký phát hiện
gần đền Vat Phu, Champassak, Nam Lào, thì Champa vào thế kỷ V đã vươn
đến bờ sông Mêkông; rồi bia Kon Klor, Kon Tum, có niên đại 914 sau Công
4
nguyờn, núi v mt a phng tờn l Mahindravarman xõy dng mt c s
tụn giỏo th Mahindra Lokesvara; bia ký thỏp Yang Praong, c Lc cho
bit Jaya Simhavarman III ó xõy thỏp vo cui th k XIII - u th k
XIV Nh vy l Biờn gii phớa Tõy ca Champa ó chy qua vựng cao
nguyờn phớa Tõy di Trng SnV ri nhiu pho tng (Nandin, Siva v
cỏc thn ấn giỏo khỏc) ó c tỡm thy trong cỏc tnh Gia Lai, Kon
Tum, c Lc v Lõm ng cho phộp ta ngh rng ton b vựng ny nm
trong qu o tụn giỏo ca Champa. Khu vc min nỳi l b phn hp
thnh ca Champa, ch khụng phi l mt vựng b chinh phc v b sỏp
nhp, mt thuc a ca Champa, th hin qua cuc liờn kt u tranh rt
quyt lit ca cỏc c dõn vựng ny (ngi Churu, C Ho, Raglai, Xtiờng)
chng cỏc cuc xõm lc t bờn ngoi, nh cỏc vn bn lch s bng ting
Chm ó ghi li. Hn na, nhiu Vua Champa cng cú gc gỏc min nỳi,
nh vua Po Rome tr vỡ t 1627 n 1651 l gc Churu
Champa trong tin trỡnh lch s l mt Liờn minh cỏc tiu quc
(Confederation of local chiefdoms) hn l mt vng quc thng nht
3
.
Theo phn ụng cỏc hc gi thỡ vng quc Champa trong lch s gm nm
tiu quc hp thnh: Indrapura (t Qung Bỡnh n ốo Hi Võn),
Amaravati (Qung Nam Qung Ngói), Vijaya (Bỡnh nh Phỳ Yờn),
Kauthara (Khỏnh Ho), Panduranga (Ninh Thun Bỡnh Thun)
4
. Thnh
phn tc ngi mi tiu quc khỏc bit nhau, tuy tr ct vn l ngi
Chm. Cho nờn, tuy vn l vn hoỏ Champa, song sc thỏi mi tiu quc
cú nhng c trng riờng.
5
Gii hc gi nghiờn cu v lch s Champa cng
ó dn i n s thng nht trong quan im khi cho rng vng quc
Champa l mt liờn minh lng lo ca cỏc chớnh th cỏc c ca vựng ny, v
3
Trần Quốc Vợng, Về miền Trung (Mấy nét khái quát về nhân học văn hoá, sđd, tr.26.
4
Po Dharma 1802-1835, Le Panduranga EFEO 1987), dẫn theo: Cao Xuân Phổ, Khảo cổ học Champa một
thế kỷ và tiếp theo, in trong: Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hn.2005, tr.571.
5
Cao Xuân Phổ, Khảo cổ học Champa một thế kỷ và tiếp theo, sđd, tr. 572.
5
Vua của Champa đã từng là bất cứ người nào làm lãnh đạo một thời có
quyền lực lớn nhất (ông Vua giữa các Vua).
Khi bàn về thể chế chính trị lỏng lẻo mang tính phổ biến của các quốc
gia Đông Nam Á cổ đại – mà Champa là một trường hợp điển hình,
O.Wolters và nhiều học giả sau đó đã đưa ra khái niệm Mandala. Theo đó,
Mandala (Circles of Kings) được các nhà nghiên cứu dùng để diễn tả một hệ
thống chính trị-kinh tế được phát hiện tại hầu hết các quốc gia cổ ở Đông
Nam Á. Mandala là vương quốc bao gồm nhiều tiểu vương quốc hoặc “lãnh
chóa”. Trong mỗi tiểu quốc của Mandala có một vị tiểu vương thường được
thần linh hóa và tự xưng là lãnh đạo của các thủ lĩnh khác, mà trên lý thuyết,
đó là những thuộc hạ và chư hầu của họ. Mỗi tiểu vương trong Mandala là
người duy nhất có đặc quyền được nhận cống phẩm mang đến bởi các sứ
thần và là người có uy quyền tối cao lãnh đạo quân đội. Cũng thường xảy ra
tình trạng là một vài vị thủ lĩnh trong Mandala có quyền từ chối vai trò chư
hầu của họ và cố xây dùng cho riêng họ một hệ thống chư hầu mỗi khi họ có
cơ hội nổi dậy. Để ngăn ngừa tình trạng này, tiểu vương trong các Mandala
ứng xử với các chư hầu bằng cách không can thiệp vào nội bộ của những thủ
lĩnh địa phương để giữ một khoảng cách tương đối với thủ phủ, và tạo
những mối quan hệ hôn nhân hoặc mời họ tham gia vào ứng thí đại biểu của
Hoàng gia
6
.
Điều kiện kinh tế - xã hội của vương quốc Champa cổ đại.
Địa thế của Champa khá đặc biệt, một dải đất hẹp chạy dài giữa đại
dương và núi. Dân cư chủ yếu sống rải rác ven biển và trong nội địa thì cư
dân cư trú bên những dòng sông. Chẳng hạn nh vùng sông Thu Bồn (Quảng
Nam), là một địa điểm quần cư của nhiều thời kỳ nối tiếp nhau cho đến thế
6
O.W Wolters, History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives, Institute of Southeast Asia
Studies – Singapore, 1999, p.126-154.
6
kỷ XII, XIII với những trung tâm Trà Kiệu, Đồng Dương. Sông Trà gắn với
những di tích quần cư Chánh Lộ và thành Châu Sa; Sông Côn gắn với Trà
Bàn…
Điều đáng nói ở đây là địa hình Champa bị chia cắt bởi các đèo chạy
cắt ngang đổ từ nói ra biển tạo nên các vùng đồng bằng nhỏ và liên lạc với
nhau bằng đường bộ rất khó khăn. Người ta liên lạc chủ yếu với nhau bằng
đường biển. Nhưng điều đó không phải là điều kiện đủ để mỗi vùng tạo
thành một tiểu vương quốc tự trị. Nhiều di tích văn hoá Chăm còn lại đến
ngày nay cho thấy các vùng ở Champa tương đối độc lập về không gian
nhưng vẫn tiếp nối nhau về mặt thời gian. Xét vị trí, vai trò của các kinh đô,
ta sẽ thấy rõ hơn điều này.
Sinhapura là kinh đô duy nhất của Champa cho đến cuối thế kỷ VII,
đầu thế kỷ VIII. Từ giữa thế kỷ VIII đến giữa thế kỷ IX Virapura là nơi tập
trung về quyền lực chính trị và kinh tế trên toàn vương quốc. Không phải
ngẫu nhiên mà vào thế kỷ VIII, Java để chứng tỏ sức mạnh thuỷ quân của
mình đối với toàn khu vực đã liên tiếp tấn công các nước Đông Nam Á lục
địa. Hai lần đánh Champa là đánh kinh đô miền Nam Virapura và phá huỷ
Kauthara. Người Java không tấn công vào Trà Kiệu hay thánh địa Mỹ Sơn
giàu có trong khi họ đã đánh cướp đến tận vùng đồng bằng Bắc Bộ. Trường
hợp cá biệt vào nửa sau thế kỷ XII Champa mới có hai kinh đô song song
tồn tại nhưng là dưới sự tác động của những yếu tố bên ngoài.
Simhapura, Virapura rồi lại Đồng Dương, Vijaya, trong những hoàn
cảnh lịch sử khác nhau kinh đô lại dịch chuyển. Mỗi kinh đô đại diện cho
quyền lực, sự thống nhất, tập trung của vương quốc vào mỗi thời kỳ lịch sử.
Nhưng mặt khác, sự dịch chuyển kinh đô cũng có nghĩa là sự dịch chuyển
quyền lực, thay thế quyền lực giữa hai bộ phận quý tộc Bắc-Nam. Và nh thế
7
sẽ có thể giúp chứng minh xu hướng thống nhất và phân liệt luôn có mặt
trong lịch sử Champa, thể hiện cả trong các mối quan hệ với bên ngoài.
Dấu vết của những kinh thành cũ như Trà Kiệu, Đồng Dương, Chà
Bàn…đều gắn với những dòng sông và có mối liên hệ mật thiết với biển
khơi. Nhiều tháp Chăm được xây dựng gần biển, thậm chí sát biển, không
chỉ phục vụ cho nhu cầu tinh thần của nhân dân địa phương mà còn cho cả
thuyền nhân nhiều nước…
Xứ Lâm Êp xưa (Champa) nổi tiếng trong sử sách Trung Quốc là một
nơi “bốn mùa Êm áp, không có sương tuyết”, “cây cỏ mùa đông tươi tốt, bốn
mùa đều ăn rau sống” (Cựu Đường thư, q.197, 1b). Đặc biệt gỗ Trầm của
Lâm Êp được người Trung Quốc rất ưa thích và ghi chép khá tỉ mỉ: “Gỗ
Trầm, thổ dân dẫn ra để cất hằng năm, mục nát, nhưng ruột vẫn còn, bỏ vào
nước thì chìm, nên gọi là Trầm hương, thứ nữa là loại không chìm, không
nổi nên gọi là sạn hương” (Lương thư). Bên cạnh Trầm, Quế của Lâm Êp là
“thứ quế thơm, cây mọc thành rừng, khi trong khói lặng…uống quế đắc đạo”
(Thuỷ Kinh chú). Ngoài các lâm sản, Lâm Êp còn nổi danh là xứ nhiều
vàng, đến nỗi người Trung Quốc phải thốt lên: “Nước đó có núi vàng, đá
đều màu đỏ, trong đó sinh ra vàng. Vàng ban đêm bay ra giống nh đom
đóm” (Lương Thư, q.54, 2a)
Trên vùng đất Êm áp này, người Champa xưa đã biết làm nông nghiệp
trồng lúa. Sách Thuỷ kinh chú viết: “Người Tượng Lâm (tức người vùng
Lâm Êp) biết cày đến nay đã hơn 600 năm. Phép đốt rẫy để cày trồng cũng
nh người Hoa. Nơi gọi là bạch điền thì trồng lúa trắng, tháng 7 làm thì tháng
10 lúa chín; nơi gọi là xích điền thì trồng lúa đỏ, tháng 12 làm thì tháng 4 lúa
chín. Nh thế gọi là lúa chín hai mùa. Còn nh cá non nảy mầm, mùa màng
đắp đổi, lúa sớm lứa muộn, tháng nào cũng tốt. Cày bừa càng nhiều, thu lúa
thì Ýt vì lúa chín mau vậy. Gạo không ra ngoài, nước thường thiếu gạo.
8
Khụng phi ngu nhiờn m vo u th k XV, Trnh Ho ghi chộp v
Chiờm Thnh: Dõn phn ln lm ngh ỏnh cỏ, s ngi lm nụng ít; do
vy lỳa go khụng nhiu.
Ngoi nụng nghip, nh nhng s liu Trung Quc ghi chộp, ngi
Chm cũn ly vic buụn bỏn, trao i lm ngh chớnh. Tt nhiờn ngi
Chm em nhng ti nguyờn giu cú ca mỡnh nh trm hng, vngi
ly nhng vt dng m h thiu v cn. Trm hng ca Champa l loi
trm hng tt nht trong cỏc loi trm
7
. Tt nhiờn, ngoi trm hng, hng
xut i trao i ca Champa cũn cú nhiu loi lõm sn v khoỏng snVo
u th k XVII, Trng Nhip ó lit kờ ra c mt bng danh sỏch cỏc sn
phm ca Champa gm: vng, bc, thic, st, ngc bo mu,, trng thu
chõu, ho chõu, h phỏch, pha lờ, bi x, b tỏt thch, sng tờ, ng voi, mai
rựa, trm hng, n hng, x hng, long nóo, inh hngvi cỏt bi,
vi chiờu h, vi cú vn, vi bụng trng, chiu lỏ c, sỏp ong, lu hunh, g
mun, g vang, go, t yn, ht tiờu, cau, da, nhc u khu
8
ngi Chm
theo s sỏch Trung Quc bit nuụi tm dt la, bit trng ay v c bụng
dt ra mt loi vi trng, p m cỏc ti liu Trung Quc gi l cỏt bi.
Lng th chộp, Cỏt bi l tờn cõy, hoa n ging nh lụng ngng, rỳt ly si
dt thnh vi trng mut chng khỏc gỡ vi ay, cũn nhum c nm mu,
dt thnh vi hoa.
Do ỏn ng mt v trớ quan trng trờn con ng giao lu quc t
ụng-Tõy, nhng thuyn bố ngc xuụi trong h thng mu dch chõu
u phi dng chõn ni õy, nờn ngi Chm ó tng cú nhng mi liờn h
rng rói vi cỏc nc trong v ngoi khu vc. Sỏch An nam chớ lc ca Lờ
Tc biờn son vo nm 1333, phn Cỏc dõn biờn cnh phc dch cú a li
7
Momoki Shiro, Champa chỉ là một thể chế biển? (Những ghi chép về nông nghiệp và ngành nghề trong
các t liệu Trung Quốc), tc Nghiên cứu Đông Nam á, 4/1999, tr.43-48.
8
Momoki Shiro, Champa chỉ là một thể chế biển? , tài liệu đã dẫn, tr.48
9
bình về vị trí tự nhiên của Chiêm Thành (Champa): “Nước này ở ven biển,
những thuyền buôn của Trung Hoa vượt biển đi lại với các nước ngoại phiên
đều tụ ở đây, để lấy củi, nước chứa. Đấy là bến thứ nhất ở phương Nam”.
Nói một cách hình ảnh, những con thuyền đó “bám” vào bờ biển Champa,
Ýt nhất là 500km nếu tính từ mũi Varella để đi vào vịnh Xiêm hay tới eo
Malacca và ngược lại, từ eo Malacca đi vào vịnh Bắc Bộ để tới được Trung
Hoa. Tuy nhiên, điều quan trọng để vùng bờ biển Champa xưa được biết đến
như một tuyến đường giao thông và sau đó là thương mại, văn hoá không
phải chỉ do vị trí tự nhiên của nó, mà chính vì đó là vùng cư trú của một
cộng đồng dân cư có nhà nước riêng của mình, có một nền văn hoá phát
triển không thua kém bất cứ một nền văn hoá đương thời nào. Các cảng của
Champa đóng vai trò như những cảng cuối cùng trước khi những con thuyền
vượt qua vịnh Bắc Bộ vào vùng biển Nam Trung Hoa, và là nơi dừng chân
đầu tiên khi từ Trung Quốc đến Malacca, vịnh Thái Lan hay gần hơn là tới
vùng hạ lưu châu thổ sông Mê Kông mà 7 thế kỷ đầu Công nguyên còn nằm
dưới sự kiểm soát của đế chế biển Phù Nam. Hành trình của người Trung
Hoa qua vùng biển Champa quen thuộc đến nỗi được Tân Đường Thư
(quyển 222 hạ, Liệt truyện 147 hạ - Nam man) ghi chép lại như sau: “Từ
Quảng Châu đi biển về Đông Nam 200 dặm, rồi giương buồm đi về phía
Tây, chếch về phía Nam hai ngày lại đi về phía Tây Nam ba ngày thì đến núi
Chiêm Bất Lao (Cù Lao Chàm), lại đi nửa ngày đến Châu Bôn Đà Lãng
(Panduranga?)”. Có thể thấy, hầu hết các tuyến đường biển đến Trung Hoa
hay từ Trung Hoa đi qua Ên Độ đều rẽ qua các cảng biển Champa. Từ một
đầu mối giao thông quan trọng, bờ biển Champa đã sớm trở thành một đầu
mối giao thương quốc tế, nơi trao đổi sản vật và sản phẩm với những thuyền
bè qua lại.
10
Sự cho phộp ca iu kin t nhiờn v thúi quen vn hoỏ tc ngi ó
sm hỡnh thnh ngi Chm mt truyn thng ỏnh cỏ, úng thuyn i
bin dn dy kinh nghim. n cui th k IV, nhng ngi Nam o,
trong ú cú ngi Chm ó úng vai trũ nh nhng con thoi trờn vựng bin
ụng v Nam , gn bú nhng hũn o ụng Nam trong h thng thng
mi th gii. Trong nhng tuyn giao thng m ngi Nam o cú liờn
quan trc tip, thỡ Champa gi mt v trớ rt quan trng trờn tuyn ng
bin Nam Trung Hoa. Ngay t u cụng nguyờn b bin Champa ó sm l
ni thu hỳt nhng tu bố gn xa cp bn vỡ nhiu lí do khỏc nhau. H ghộ
vo ca i Chiờm, Cng Panduranga, Thi Ni (Vijaya) ly nc, thc
phm, ngh ngi hay trỏnh nhng cn bóo vi mt khỏ dy vựng
bin ny. Cng ging nh nhiu quc gia khỏc - bin l iu kin u tiờn
Champa m ra con ng giao lu vi cỏc nc trong v ngoi khu vc.
Bờn cnh ú, Champa ni ting l ni cú nhiu sn vt quý him.
Vng, cỏc loi g thm, ng voi, sng tờ luụn c nhc ti trong cỏc ngun
t liu nc ngoi. ngi ta gi Champa l x s ca trm hng, trong ú
tp trung nhiu nht vựng Kauthara. Trm hng l mt mt hng quý
dựng cng phm v trao i buụn bỏn.
Nh nghiờn cu Sakurai Yumio cho rng Champa l mt trong nhng
th ch cú khuynh hng buụn bỏn nh, hng nn kinh t ra bờn ngoi, mt
c im ca nhng quc gia ụng Nam cú lónh th hp, dõn c ít, giu
lõm sn nhng khụng cú nn nụng nghip phỏt trin
9
. V nu theo quan
im ny thỡ Champa ch l mt th ch bin?. K.Hall thỡ cho rng h
thng chớnh tr, kinh t Champa ging cỏc quc gia sụng nc Malay hn
l nhng quc gia lỏng ging lm nụng nghip trng lỳa nc lc a v
phớa Tõy v phớa Bc ca nú, v K.Hall cũng cho rng: kinh t Champa
9
Dẫn theo: Momoki Shiro, Champa chỉ là một thể chế biển , tài liệu đã dẫn, tr.43-48.
11
ch yu l da trờn hot ng cp ot bng ng bin
10
. Nhng hc gi
Momoki Shiro ó khụng ng ý kin vi K.Hall, khi ụng cho rng:
chỳng ta khụng th coi Champa l vng quc cp bin nh Srivijaya.
Champa cng khụng cú mt nn kinh t hon ton da vo cp búc nh Sulu
trong nhng th k XVIII-XIX, mc dự ó cú khụng ít tự nhõn v nụ l
c mua v Champa
11
.
Nhiu nh nghiờn cu c in ó núi n s tn ti v phỏt trin ca
kinh t nụng nghip Champa. Da trờn ngun t liu trong th tch c
Trung Hoa, v sn phm nụng nghip ca Champa, G.Maspero cho rng:
Cú ít ng bng, t trng trt thỡ him, ít lỳa nhng nhiu rau u,
trng nhiu cõy n qutrng dõu nuụi tm v trng bụng. n mựa
bụng n, bụng trng nh lụng ngng. Ngi ta ly bụng ra ri kộo si dt
vi thụ, nhum i dt thnh vi ng sc v vi lm m. Trong nhng
sn phm k trờn thỡ vi bụng ó t c trỡnh phỏt trin cao, mt th
hng quý dựng cng phm v trao i.
Ch nhõn vn hoỏ Champa ó bit khai thỏc v tn dng mi th
mnh ca cỏc h sinh thỏi. Theo cỏc ngun th tch Hoa-Tõy, Champa ó
tranh th xut khu mi th, t nc ló cỏc ging Chm ven bin n
Trm hng, mó nóo nỳi rng, duy ch cú mt mún hng cm xut khu,
vỡ thiu, ú l lỳa go
12
. vựng ven biển, cú c mt h thng ging Chm
cung cp nc ngt cho tu thuyn quc t ven bin. Ngi Chm v vn
hoỏ Champa trong khong 15-16 th k tn ti ó thớch nghi v ng bin ti
tỡnh vi mi h sinh thỏi t nỳi rng ti bin khi.
C dõn Champa l nhng thng nhõn gii. Da theo nhng dũng
sụng ln min Trung Vit Nam, h bit thit lp mt h thng trao i
10
K.R.Hall, Maritime trade and State Development, sđd, tr.169-193.
11
Momoki Shiro, Champa chỉ là một thể chế biển , tài liệu đã dẫn, tr.43-48.
12
Trần Quốc Vợng, Miền Trung Việt Nam và văn hoá Champa (một cái nhìn địa - văn hoá), tc Nghiên cứu
Đông Nam á, 4.1995, tr.18.
12
hng hoỏ t min xuụi lờn min ngc, mt mụ hỡnh kinh t rt phự hp vi
a lý ca vựng t ny, gia c dõn min bin v min nỳi; chng hn, cú
th h ó hỡnh thnh mt h thng ni thng trao i cỏc loi mui,
mm, tụm, cỏc khụ, ng mớa, vi si, gm, mó nóo, thu tinh, ng
thaut min xuụi i ly nhng loi lõm sn quý nh: Trm hng,
qu, mt ong, h tiờu, cỏc loi gia v, ng voi, sng tờ giỏc, thỳ l, chim quý,
cỏc loi cõy g quýca cỏc c dõn min ngc; ngun hng quý him ny
c tp trung ti cỏc cng th, ni cú h thng ngoi thng trao i
buụn bỏn vi cỏc thng nhõn ấn , Arp, Trung Hoa, Nht Bn
Cú nhiu cng-th ln c thit lp ti cỏc ca bin trng yu nh
ca Nht L (Qung Bỡnh), ca Vit (Qung Tr), ca T Hin (Tha Thiờn
Hu), ca i Chiờm (Hi An, Qung Nam), ca Thi Ni (Quy Nhn), ca
Nha Trang (Khỏnh Ho), ca Phan Rang (Ninh Thun), ca Phan Rớ, ca
Phan Thit (Bỡnh Thun)
13
. Mt h thng thng cng c ó c thit lp
dc theo b bin Champa. S tn ti ca h thng cỏc thng cng nm ven
cỏc ca sụng ny, cú ý ngha quan trng i vi vn giao lu, trao i
hng hoỏ ca c dõn cỏc vựng min hay trong ni b ca vng quc
Champa. Cỏc thng cng ny, khụng ch l nhng trung tõm buụn bỏn, tp
kt hng hoỏ, m cũn thc s l nhng trung tõm giao lu vn hoỏ gia cỏc
vựng min ca c dõn c Champa. Hng hoỏ t min nỳi c thuyờn ch
v õy qua h thng cỏc dũng sụng chy t vựng nỳi rng phớa Tõy v phớa
ca bin; v chc hn l cng ó phi cú mt dũng chy ngc li, mang
hng hoỏ t cỏc cng bin, ngc cỏc dũng sụng a n vi cỏc c dõn
min nỳi. Vi mt ý ngha rng ln hn, h thng cỏc thng cng c cũn l
ca ngừ, l cu ni gia vng quc Champa vi th gii bờn ngoi. Trong
13
Trần Kỳ Phơng, Bớc đầu tìm hiểu về địa-lịch sử của vơng quốc Chiêm Thành (Champa) ở miền Trung
Việt Nam: Với sự tham chiếu đặc biệt vào hệ thống trao đổi ven sông của l u vực sông Thu Bồn ở Quảng
Nam. In trrong: Thông tin Khoa học, tháng 03-2004, Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại thành
phố Huế, tr.41-61
13
đó không chỉ là những thương cảng ven sông, mà người Chăm xưa với cái
nhìn về biển đúng đắn, cũng đã xây dựng cả những thương cảng trên những
hòn đảo có vị trí quan trọng-mà Cù Lao Chàm là một ví dụ điển hình nhất.
Thông qua hệ thống cảng ven sông/ven biển của mình, vương quốc Champa
tiếp nhận những đoàn tàu buôn từ phương Bắc, phương Nam hay thế giới hải
đảo đến giao lưu buôn bán và cả giao lưu văn hoá nữa. Trong nhiều thời
điểm, nhiều thương cảng của vương quốc Champa đã trở thành một bộ phận
của Con đường tơ lụa trên biển nối thông đường hàng hải giữa Trung Hoa
với thế giới Đông Nam Á, Ên Độ, và xa hơn về phía Tây. Người Chăm trong
lịch sử đã nắm bắt được những cơ hội và đã từng dự nhập mạnh mẽ vào
dòng chảy chung của lịch sử khu vực.
Trong buổi đầu lịch sử của mình, vương quốc Champa đã thường xuyên
có những cuộc viễn chinh hướng về phía Bắc nhằm tiến chiếm vùng đất
thuộc lãnh thổ phía Nam của An Nam-lúc này vẫn còn dưới ách thống trị
của các triều đại Trung Hoa. Có thể đưa ra nhiều giả thiết về quá trình bành
trướng về phía Bắc của các triều đại Champa vào buổi đầu lịch sử của họ.
Champa nh các nguồn sử liệu và được phần đông các sử gia chấp nhận là đã
được thành lập vào năm 192 tại địa điểm mà ngày nay có lẽ là vùng đất
Thừa Thiên Huế, với tên gọi Lâm Êp. Thời điểm vương quốc Champa thành
lập và bắt đầu quá trình lịch sử của mình, quốc gia Phù Nam đã được thành
lập với Trung tâm của nó ở vào hạ lưu vùng đồng bằng sông Mekong, nhưng
lãnh thổ của nó vào thời kì cao nhất gồm cả Miền Nam Việt Nam và một
phần lớn thung lũng sông Mê Nam và bán đảo Malay. Trong một số thời kì,
thủ đô của nó là Viadapura “Thành phố của những người săn bắn”. Vương
quốc Phù Nam được coi là một trong những quốc gia Ên Độ hoá đầu tiên ở
Đông Nam Á. Với vị trí quan trọng của mình, vương quốc Phù Nam đã
14
nhanh chóng vươn lên chiếm lĩnh vai trò trung tâm của khu vực, là một đế
chế biển và là “trung tâm liên thế giới đầu tiên của khu vực Đông Nam Á”
14
.
Trong khoảng thời gian từ đầu Công nguyên đến khoảng thế kỷ VII, vương
quốc Phù Nam với sức mạnh trội vượt nhờ vào sự phát triển thương mại của
mình đã thường xuyên mở các cuộc viễn chinh, bành trướng lãnh thổ sang
phía Tây và phía Đông. Nhờ vậy, lãnh thổ của vương quốc Phù Nam trong
một vài thời điểm lịch sử đã vươn đến tận giáp biên giới Ên Độ ngày nay.
Trong nền cảnh lịch sử Êy, vương quốc Champa mới thành lập ở phía Bắc
của Phù Nam – chắc chắn còn mang nhiều dấu Ên của một thời kỳ xã hội
tiền Nhà nước, đã không đủ tiềm lực vật chất để bành trướng lãnh thổ và
vươn xa về phía Nam. Nhưng với tham vọng của một quốc gia mới thành
lập, cũng nh nhu cầu tìm kiếm những vùng lãnh thổ mới để mở mang dân cư
và vùng sản xuất, các vương triều Champa buộc phải tìm kiếm một hướng
bành trướng mới. Trong điều kiện Êy, vùng lãnh thổ phía Bắc của vương
quốc Champa, cũng là vùng đất Nhật Nam của người Việt – lúc này còn
đang nằm dưới sự cai trị của các triều đại phong kiến Trung Hoa đã trở
thành mục tiêu rõ ràng và có tiềm năng nhất của vương quốc Champa.
II. QUAN HỆ GIỮA VƯƠNG QUỐC CỔ CHAMPA VỚI CÁC QUỐC GIA
TRONG KHU VỰC THẾ KỶ VII-X.
Những nhân tố mới trong lịch sử phát triển khu vực
Từ thế kỷ V vùng bờ biển phía nam Sumatra mang một tầm quan
trọng mới, do sự dịch chuyển của tuyến đường buôn bán đông tây từ vùng
thượng bán đảo Mã Lai xuống eo Malacca. Eo Malacca trở thành tiêu điểm
cho nền thương mại của Mã Lai ở đông Borneo, Java và những đảo phía
đông cũng nh vùng thượng bán đảo Mã Lai. Sù thay đổi tuyến đường đi
14
Sakurai Yumio, Thö ph¸c dùng cÊu tróc lÞch sö cña khu vùc §«ng Nam ¸ (th«ng qua mèi quan hÖ gi÷a
biÓn vµ lôc ®Þa), tc ghiªn cøu §«ng Nam ¸, sè 4-1996, tr.43.
15
xung eo bin Malacca gúp phn a n s suy tn ca Phự Nam, ng
thi to iu kin cho quc gia bin Srivijaya ni lờn nh một trung tõm thay
th.
Vic chuyn v trớ trung tõm t Phự Nam n vựng Eo Melaka ó bin
vựng t ny t mt trung tõm buụn bỏn sm ut xung mt trung tõm liờn
vựng gia thung lũng Mekong vi cao nguyờn Korat
15
. Lõm ấp cng hỡnh
thnh mt trung tõm thu gom lõm sn
16
. Cựng vi vic m rng mng li
ven bin ti cỏc vựng cao nguyờn, cỏc trung tõm vựng v a phng ó hỡnh
thnh nh nc di tờn gi Pura m ta thng gp trong cỏc bi ký tin
Khmer (Pre-Khmer). Ni tp kt trung gian ca mng li Phự Nam
Champasak l im ni ca mt s mng li nh vựng sụng Mun, sụng
Mekong vi cao nguyờn Boloven, ó phỏt trin thnh mt trung tõm liờn
vựng vo cui th k VI v chi phi ton b mng li ni a cho n u
th k VII.
Trong bi cnh ú, Champa ó ni lờn thnh mt vng quc bin,
thay th mt phn vai trũ ca Phự Nam trc ú. Quan h buụn bỏn gia
mt s quc gia thuc vựng bin Indo nh Koying, Cantoli hay Srivijaya sau
ny vi Trung Quc li sụi ng hn, xỏc lp mt nn thng mi hng hi
t Trung Quc xung vựng bin ụng Nam i qua cỏc hi cng ca
Champa dc b bin ụng. S kin ny tỏc ng to ln n nn hi thng
ca vng quc Champa.
T th k VIII tr v sau, con ng t la trờn t lin ngy cng b
suy thoỏi bi s cp búc, tn sỏt ca ngi t Quyt. Ngi Bat-ch lc
trong vic vn chuyn t la Trung Quc sang chõu u b suy yu v b
ngi Arp chinh phc vo th k VII. Con ng t la trờn b c thay
th bng con ng bin i qua bin ụng, n ấn , Ba T, Arp . Tuyn
15
Sakurai Yumio, Thử phác dựng cấu trúc lịch sử , tài liệu đã dẫn, tr.44.
16
Sakurai Yumio, Thử phác dựng cấu trúc lịch sử , tài liệu đã dẫn, tr.44.
16
ng bin ny c tha nhn l an ton v hiu qu hn. Trong bi cnh
ú, Champa ó tớch cc tham d vo lung buụn bỏn sụi ng ny.
T th k VII, cỏc thng nhõn ấn mt dn vai trũ chi phi trong
buụn bỏn gia ấn vi ụng Nam . Cỏc thuyn buụn ca ngi Arp
trn sang phớa ụng, vt qua ấn v t th k VII, nhng thuyn buụn
ny tin lờn buụn bỏn vựng bin Champa v Trung Quc, em theo nhiu
mt hng ang cú sc hp dn mnh th trng phng ụng v ụng Nam
17
.
Bi cnh lch s khu vc t sau s bin dit ca ch bin Phự Nam
ó cú nhiu iu kin thun li cho s phỏt trin v mi mt ca vng quc
c Champa. Trong bi cnh ấy, vng quc Champa ó tn dng c hi
d nhp mnh m vo lch s khu vc, mt mt m rng v tng cng hn
na cỏc mi quan h vi cỏc quc gia trong khu vc khng nh v th
ca vng quc mỡnh, mt mt ó ch ng d nhp mnh m vo nn hi
thng khu vc phỏt huy nhng th mnh vn cú ca mỡnh, cng nh
bự lp nhng thiu ht ca nn kinh t.
Quan h ca vng quc c Champa vi cỏc quc gia lỏng ging.
Mi quan h gia Champa vi Phự Nam bin mt cựng vi s dit
vong ca vng quc c Phự Nam. Trong vũng na u th k VII, ngi
Khmer ó tin chim v hon thnh vic chinh phc Phự Nam. Nhng
dng nh khụng thớch hp vi my vi i sng sụng nc v trờn bin ca
ngi Phự Nam nờn h ri b cng bin v vựng bin, qun c ch yu
vựng tõy bc h Tonlesap. Mt th k sau ú, Champa hu nh chuyn mi
quan tõm sang vựng t bờn kia biờn gii Tõy Nam ca mỡnh: Vng quc
Chõn Lp. Champa vn gi mi quan h thng xuyờn vi ấn v mt
vn hoỏ nhng gn nh khụng cú quan h no ỏng k vi vựng lónh th
17
Shigeru Ikuta, Vai trò của các cảng thị ở vùng ven biển Đông Nam á từ đầu thế kỷ II TCN đến thế kỷ XIX.
In trong: Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học Xã hội, Hn.1991, tr.247-260.
17
trên biên giới phía Bắc Chăm, lúc bấy giờ vẫn còn là sứ Giao Châu thuộc
nhà Đường (Trung Quốc).
Campuchia đang bước vào giai đoạn ổn định xứ sở, định hình quốc
gia. Song song với việc tiến chiếm Phù Nam, người Khmer đã dần tách khỏi
địa bàn cư trú ban đầu ở lưu vực sông Semun và vùng bình nguyên Korat
mênh mông, xuống phía Nam, rồi tập trung xung quanh Biển hồ, phát triển
nhanh ở phía Tây và Tây Bắc.
Trong giai đoạn đầu lập quốc, cả Champa và Chân Lạp đều phải lo
xác định địa bàn cư trú, ổn định tộc người, định đô và xây dựng bộ máy cai
quản đất nước. Trong hoàn cảnh lịch sử đó, một quan hệ hữu nghị, theo con
đường giao lưu tự nhiên giữa những bộ phận dân cư ở gần nhau, lại cùng
nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hoá Ên, được bắt đầu trong lịch sử bang
giao giữa hai quốc gia.
Bia Ang Chumnik của người Khmer cho biết: Vua Chân Lạp là
Mahendravarman (khoảng 600-615) đã cử quan thượng thư là Sunhadeva đi
sứ sang Champa. Một thời gian ngắn sau đó, khoảng năm 650, có một
Hoàng thân Chăm đến kinh đô Isanapura ở Sambor Prei Kuk, cưới công
chúa của Chân Lạp, trở thành con rể của thành Isanapura. Người con của
cuộc hôn nhân này, sau đó trở về Champa và lên ngôi Vua. Những mối quan
hệ tốt đẹp về chính trị và hôn nhân của hai vương triều Champa – Chân Lạp
là điều kiện khách quan thuận lợi để thúc đẩy những tiếp xúc và giao lưu về
nghệ thuật của hai quốc gia này. Khoảng đầu thế kỷ VIII là thời kỳ nở rộ của
ảnh hưởng tiền Ankor trong nghệ thuật Champa.
Bên cạnh những hoạt động kinh tế thế mạnh khác, Champa là một
quốc gia nông nghiệp vùng khô. Do chỉ có những đồng bằng nhỏ hẹp, nên
vương quốc này luôn nuôi khát vọng chiếm đoạt những châu thổ rộng lớn.
18
Quan hệ giữa vương quốc cổ Champa với thế giới hải đảo thế kỷ
VII-X.
ĐÕn giữa thế kỷ VIII, lịch sử Champa dường nh đã diễn ra những
biến động lớn về chính trị. Tân Đường Thư (q.222 ha, 1b) cho biết: “Sau
niên hiệu Chí Đức (Đường Minh Hoàng – khoảng 756-758) [Lâm Êp] đổi
tên Hoàn Vương”. Nhưng Lâm Êp hay Hoàn Vương cũng đều là để chỉ
Champa. Vương triều thứ hai của Champa đóng đô ở miền Nam, tên kinh đô
được biết qua bi ký là Virapura - có lẽ là vùng Panduranga, tên chỉ vùng
Nam Chăm, xuất hiện trong bia Po Nagar thế kỷ VIII.
Trong vòng một thế kỷ tồn tại (khoảng giữa thế kỷ VIII đến giữa thế
kỷ IX), vương triều miền Nam Panduranga là vương triều chính thức duy
nhất trên toàn lãnh thổ Champa. Trên cơ sở kế thừa những quan hệ đã có,
vương triều Virapura tiếp tục phát triển và mở rộng những mối quan hệ với
thế giới bên ngoài.
Thế kỷ VII, chứng kiến sự suy tàn của đế chế biển Phù Nam, đô thị
cảng lớn nhất Đông Nam Á trong suốt 7 thế kỷ đầu Công nguyên đã vĩnh
viễn biến mất khỏi lịch sử. Sự suy tàn của vương quốc Phù Nam, về phương
diện nào đó, đã trở thành một điều kiện khách quan thúc đẩy sự ra đời và
phát triển của nhiều quốc gia, đặc biệt là các tiểu quốc ven biển hay Nhà
nước Cảng thị. Trong đó, nổi bật hơn cả là sự trỗi dậy của đế chế biển
SriVijaya ở vùng Eo và Java ở vùng đảo phía Đông. Java với sức mạnh thuỷ
quân của mình, đã thường xuyên có những cuộc tấn công bằng thuỷ quân
nhằm đến các tiểu quốc ở vùng Đông Nam Á lục địa. Trong đó, Champa với
tiềm năng to lớn từ vị trí quan trọng trên con đường giao thương quốc tế và
nguồn hàng phong phú, dồi dào đã trở thành một đối tượng tấn công thường
xuyên của Java. Đặc biệt là cuộc tấn công vào các năm 774 và 797, người
Java không chỉ phá huỷ nhiều công trình kiến trúc, tôn giáo quan trọng mà
19
cũn cp ot v mang i nhiu ca ci, vng bc ca Champa, thm chớ h
cũn bt cỏc c dõn Champa v lm nụ l.
Nhng ú cú th l nhng cuc xung t u tiờn v cng l cui
cựng trong lch s quan h ca hai vng quc ny. Lch s Champa v Java
sau ú ó chng minh mi quan h bang giao hu ho ca hai quc gia ny.
iu ny cú l phự hp vi xu hng kt thõn vi cỏc vng quc bin
th gii hi o m rng cỏc mi quan h vi cỏc quc gia ng tc
vựng hi o ca Champa thi k sau ny.
Bi ký Java ó lu ý n s cú mt ca ngi Chm vo nhng nm
762-831 Saka (840-902 sau Cụng Nguyờn) trong hong cung ca Kuti
ụng Java. Bi ký cũng cung cp nhng thụng tin cho bit s cú mt ca cỏc
nh buụn Champa Java
18
Na cui th k IX (niờn i chc chn l nm 875), một trung tõm
mi ni lờn phớa Bc Champa, lp kinh ụ mi mang tờn thn ch Indra -
Indrapura a im ng Dng (nay thuc huyn Thng Bỡnh, tnh
Qung Nam) tin ng giao thụng Nam Bc v ra bin. S thay i vng
triu v thnh lp kinh ụ mi ny cng khỏ trựng hp vi thi gian m th
tch c Trung Hoa (v sau ú l th tch c Vit Nam) s dng tờn gi
Chiờm Thnh phiờn õm ỳng ca tờn nc (Campapura). Sự thay i
ny cú th phn ỏnh nhng thay i trong thng mi hng hi quc t.
ng Dng l mt vng triu hng thnh, trong ú xu hng thng
nht t ra l chim u th. Giai on Indrapura l mt giai on c sc, hn
na cũn l mt bc ngot trong lch s v vn hoỏ Chm.
19
S n nh v
thit ch chớnh tr ca Champa l yu t tiờn quyt cho vic tin hnh trao
i buụn bỏn v thit lp nhng mi liờn h mi vi bờn ngoi. Theo
18
AbdulRahman Al-Ahmadi, Champa in Malay Literature, in proceedings of the seminar on Champa,
University of Copenhagen 1987, Southeast Asia Community Resource Center, 1994, p.100-110.
19
Lơng Ninh, Lịch sử vơng quốc Champa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hn.2004, tr.49.
20
G.Maspero: giai đoạn từ thế kỷ II đến X là thời kỳ ổn định của Champa về
chính trị, tạo điều kiện cho việc tiến hành xâm lấn, cướp bóc. Trên cơ sở sự
phát triển hưng thịnh với xu hướng thống nhất tỏ ra chiếm ưu thế, vương
triều Đồng Dương đã mạnh dạn mở rộng và phát triển nhiều mối quan hệ
khu vực. Champa thời kỳ vương triều Đồng Dương không chỉ đơn thuần
quan hệ với các quốc gia trong khu vực trên lĩnh vực buôn bán thương mại,
mà các mối quan hệ giao lưu về văn hoá cũng đã được thúc đẩy mạnh mẽ
với sự du nhập ngày càng mạnh của cả Phật giáo và Hindu giáo vào Champa
Bia Nhan Biểu được phát hiện trên địa bàn của vương quốc Champa
có niên đại 908-911 đã cung cấp cho thế hệ sau nhiều thông tin quan trọng
về mối quan hệ khá thân thiết giữa Champa và Java. Người lập nên tấm bia
Êy là một người trong hoàng tộc Chăm có tước hiệu và tên là Po Khun Pilin
Rajadavara. Rajadavara làm quan trải bốn đời Vua Champa. Ông đã hai lần
hành hương qua Java trong khoảng thời gian cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X.
Dù mục đích của chuyến đi Êy vẫn còn nằm trong vòng bí Èn; nhưng với
việc được ghi nhận lại trong bi ký Êy cũng đã là một bằng chứng sống động
để minh chứng cho mối quan hệ thân thiết giữa hai bộ phận cư dân đồng tộc
sớm có những quan hệ thường xuyên về đường biển.
Bia ký Châu Sa, không chỉ có niên đại cụ thể được khắc vào năm 903,
mà còn có những thông tin về hai vị vua đầu tiên của vương triều Indrapura
(875-982) là Indravarman II và Jaya Simhavarman. Vị vua đầu Indravarman
II sau khi được triều đình Champa (khi đó là vương triều Panduranga phía
Nam) chọn, đã rời đô từ phía Nam ra Bắc và dùng tên mình đặt cho đô thành
mới: Indrapura. Dưới thời trị vì của Indravarman II, Champa trở nên mạnh
và có những quan hệ rộng rãi với các nước trong khu vực. Đặc biệt, bắt đầu
từ vị vua Indravarman II, Phật giáo trở nên hưng thịnh ở Champa. Các thời
kỳ tiếp sau đó, đất nước Champa vẫn tiếp tục hưng thịnh và có những quan
21
h rng vi bờn ngoi. c bit cỏc ti liu bia ký cho bit, di thi Jaya
Simhavarman, cú mt nhõn vt tờn l Po Khun Pilh Rajadvara ó hnh
hng n cỏc thỏnh a vựng o Java (Yavadvipa). Cng vo thi gian
ú, mt s gi ca Srivijaya ó ti triu ỡnh Champa.
Theo cỏc nh nghiờn cu, ngụi n Chaya ca Srivijaya (ngy nay
thuc min Nam Thỏi Lan) l ngụi n cú nhiu nột ging vi cỏc ngụi thỏp
Champa thi Panduranga (phong cỏch Ho Lai u th k th IX). Nh
nghiờn cu Ngụ Vn Doanh, cng ó cung cp mt thụng tin quan trng l
"Cỏc tiu phm Pht giỏo bng t nung nỳi Chi cú niờn i th k X"
20
,
v cú "s ging nhau k l gia nhng tiu phm t nung Nỳi Chi vi
nhng hin vt cựng kiu ca Srivijaya". iu ú cú th l nhng chng c
quan trng chỳng ta cú th i n nhn xột: Champa v Srivijaya (Tam
Pht T), mt trung tõm Pht giỏo i tha ln nht phng ụng thi by
gi, ó cú nhng mi quan h qua li thc s. Nhng hin vt phỏt hin
Nỳi Chi ó gúp thờm nhng bng chng v mi quan h gn gi gia
Champa v th gii ụng Nam hi o thi c m cỏc bia ký Champa
thnh thong li nhc ti
21
.
Srivijaya l mt vng quc c ụng Nam tn ti vo khong
thi gian t th k VII n th k XIII v cú phm vi thng tr tri khp o
Sumatra, bỏn o Mó Lai v Nam Thỏi Lan. Tụn giỏo chớnh ca vng quc
ny l Pht giỏo i tha. Trong sut thi gian tn ti ca mỡnh, Srivijaya ó
tng l mt trung tõm Pht giỏo ln thu hỳt nhiu nh s v tng on t cỏc
nc theo Pht giỏo hnh hng ti cỏc thỏnh tớch, hoc ti trau di kinh
sỏch. Trong thi gian tn ti v hng thnh, ch bin Srivijaya ó li
khụng ít nhng cụng trỡnh kin trỳc v nhng tỏc phm ngh thut Pht
20
Ngô Văn Doanh, Về những hiện vật bằng đất nung của Champa ở Núi Chồi, Quảng Ngãi, tc Xa & Nay,
số 81, tháng 11, năm 2000, tr.27.
21
Ngô Văn Doanh, Thành Châu Sa - Cổ Luỹ và quan hệ Champa - Srivijaya, tc Nghiên cứu Lịch sử, số 2-
2005, tr.23-29.
22
giáo có giá trị. Nơi lưu giữ nhiều công trình kiến trúc và điêu khắc Srivijaya
là Chaya.
Những hiện vật Núi Chồi, cùng những sự kiện lịch sử về vị đại quan
Rajadvara của vương triều Indrapura hai lần hành hương tới các thánh tích ở
vùng đảo Java đã chứng tỏ mối quan hệ mật thiết giữa vương quốc cổ
Champa với đế chế biển hùng mạnh và giàu có Srivijaya ở Đông Nam Á vào
thế kỷ IX-X.
Sự phát triển của thương mại Champa thế kỷ VII-X.
Người Chăm trong lịch sử nói chung và trong thế kỷ VII-X nói riêng
có tiềm lực hàng hải không nhỏ, nếu không muốn nói là khá hùng mạnh.
Thương nhân Champa không chỉ sử dụng thuyền nhỏ để dễ bề cơ động, mà
còn có những đoàn thuyền có trọng tải lớn, đi biển an toàn và hoạt động
buôn bán có hiệu quả. Với thế mạnh này, người Chăm đã tiến hành trao đổi
với nhiều vùng ở Đông, Đông Nam, Nam và Tây Á.
Champa có hàng trăm chiến thuyền có lầu (lâu thuyền) cũng lại có
thương thuyền dài hơn 20 trượng (60m) cao hơn mặt nước hơn 2-3 trượng
(6m) trông như nhà gác chở được 6-700 người, hàng vạn hộc sản vật. Ghe
bầu Champa tham gia tích cực vào luồng giao thông-buôn bán ven biển quốc
tế ở phương Đông hầu như liên tục từ cổ đại đến trung đại: Champa cùng
với Giao Châu/rồi Đại Việt là cái gạch nối giữa thế giới văn minh Trung
Hoa với thế giới văn minh Ên Độ, văn minh Trung Cận Đông và văn minh
Địa Trung Hải. Thuyền buôn và thương nhân Hoa, Ên, Batư, Arập và thế
giới Mã Lai (Nam hải chư quốc trong thư tịch Trung Hoa) khi đi và khi về
đều ghé Champa để lấy nước ngọt và trao đổi hàng hoá hai chiều. Các tên
Lâm Êp, Chiêm Bà, Chiêm Bất Lao trở thành quen thuộc với thế giới. Theo
Tân Đường thư - địa lý chí, trên con đường biển từ Quảng Châu Trung Quốc
đến Bagad (Arập) thuyền bè quốc tế bao giờ cũng ghé qua Chiêm Bất Lao
23
(ca i) Tng Sn, Mõn c (Quy Nhn), C ỏt Quc (Kauthara Nha
Trang), Bụn D Lóng Chõu (Pandurraga, Phan Rang) l cỏc cng ca
Champa. Vng, t la, trm hng, ngc, thu tinh ca Champa l
nhng sn phm hng hoỏ trờn th trng th gii. Th tch c cho bit, nm
758, Champa ó phỏt trin nhng trung tõm buụn bỏn Kauthara (Nha
Trang) v Panduranga (Phan Rang)
22
.
Cú cng tt, cú chớnh sỏch kinh t v ngoi thng ỳng nờn mi th
tch Trung Hoa v th gii u ghi l: Thuyn buụn cỏc nc u ghộ cng
Champa. Th k VIII-X l thi k quan h buụn bỏn gia quc Arp
(Empire des Chalifes de Bagdad) v ấn , Champa, Trung Quc phỏt trin
rc r. Uy tớn trờn bin ca Champa rt ln c v hng hi v thng mi.
Cỏc cuc khai qut kho c hc di ch Bói Lng Cự Lao Chm
23
,
di ch Tr Kiu ó phỏt hin c nhiu hin vt mang ngun gc Trung
Hoa, Tõy , ụng Nam
24
. Cỏc nh kho c ó Phỏt hin di ch Bói Lng
nhiu gm Trung Quc. Vic phỏt hin s lng phong phỳ gm ng
Cự Lao Chm, mt mt phn ỏnh v th ca cm o trong tuyn buụn bỏn
trờn bin t ụng sang Tõy trong nhiu th k, mt khỏc th hin quỏ trỡnh
chuyn dch mnh trong c cu hng hoỏ xut khu ca Trung Quc t vng
bc, t lasang cỏc sn phm gm s th k th VII, khi con ng buụn
bỏn trờn t lin ca Trung Quc sang Trung , a Trung Hi ngy cng sa
sỳt v ngi Trung Quc quay sang dựng thuyn i xung buụn bỏn cỏc
22
Lê Tắc, An Nam Chí Lợc, dẫn theo: Keneth R. Hall, Maritime trade and State Development in early
Southeast Asia, p.178-179.
23
Cù Lao Chàm là một cụm gồm 7 đảo lớn nhỏ (Hòn Lao, Hòn Mồ, hòn La, hòn Dài, hòn Tai, hòn Khô và
hòn Ông, nằm ở vị trí 150 1520 đến 15 1515 vĩ độ Bắc và 180 2310 kinh độ Đông, thuộc xã Tân
Hiệp, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam, cách cửa Đại 15 km về phía Đông Bắc), có diện tích khoảng 15km2.
Trong đó chỉ có Hòn Lao là đảo duy nhất có c dân sinh sống (khoảng 3000 ngời) còn lại đều là đảo đá hiểm
trở.
Từ năm 1992 đến 1997, nhiều đợt khảo sát của Trung tâm quản lý di tích Hội An, kết hợp với Đại học
quốc gia Hà Nội, Viện khảo cổ học và các nhà nghiên cứu nớc ngoài đã đợc tiến hành và thống kê đợc 25
di tích kiến trúc nghệ thuật phân bố rải rác trên các đảo của Cù Lao Chàm.
24
Lâm Mỹ Dung, Hồ Tấn Cờng, Trần Văn An 1999, Báo cáo kết quả thám sát di chỉ Bãi Làng Cù Lao
Chàm 1998, in trong: Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1998, tr.649-651. Tham khảo thêm: Lâm
Mỹ Dung, Hoàng Anh Tuấn, Kết quả thám sát và khai quật di chỉ Bãi Làng- Cù Lao Chàm 1998, 1999, in
trong: Kỷ yếu Hội thảo khoa học, 5 năm nghiên cứu và đào tạo của Bộ môn Khảo cổ học (1995-2000), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hn.2001, tr.144-178.
24
vựng bin phớa Nam. Vo thi im ú, phng thc vn chuyn ch yu
ca hng hoỏ Trung Quc xung ụng Nam l s dng thuyn mnh, nờn
cỏc o v ca bin duyờn hi min Trung Vit Nam ngy cng cú v trớ
quan trng hn. Trong bi cnh ú, Cự Lao Chm v Lõm ấp ph (Hi An
ngy nay) vi v th thun li ca mỡnh ó vn lờn thnh trung tõm buụn
bỏn quc t quan trng ca vng quc Champa trong nhiu th k sau ú.
25
Cú nhiu hin vt cú ngun gc ụng Nam nh: cỏc lai thu tinh
trang sc, cỏc ht cm, ht chui cú sc trng chy dc hoc ngang thõn,
hay mt s ht chui lm t ỏ quý
Theo cỏc ngun th tch Hoa Tõy, Champa ó tranh th xut khu
mi th, t nc ló cỏc ging Chm ven bin n Trm hng, Mó nóo
nỳi rng, duy ch cú mt mún hng cm xut khu, vỡ thiu, ú l lỳa
go
26
.
Trong cỏc mt hng xut khu, lõm th sn l ngun hng quan trng
ca ngi Chm s dng bỏn ra ngoi. Trm hng Chm l mt mt
hng xut khu u th, thu hỳt s ngng m v say mờ thu mua ca cỏc
thng nhõn ngoi quc. Nh s hc Ba T Abe Ya Kub th k IX cho rng
trm hng Champa gi l Canfi, c ỏnh giỏ l tt nht trờn th trng
th gii, xc qun ỏo bn mựi nht. Cũn thng nhõn v gii quý tộc Trung
Hoa v Nht Bn thỡ rt quý chung mún hng ny, ngi Nht Bn gi
trm hng Champa l Gia-la-mc (Kyaraboku)
27
. Trm hng ca ngi
Champa l mt sn phm u vit, lm say mờ tt c cỏc thng nhõn Trung
v ụng .
25
Hoàng Anh Tuấn, Hải thơng Champa thế kỷ VII-X qua t liệu Khảo cổ học ở Quảng Nam và Đà Nẵng, in
trong: Một thế kỷ Khảo cổ học Việt Nam, sđd, tr.706.
26
Trần Quốc Vợng, Miền Trung Việt Nam và văn hoá Champa (một cái nhìn địa- văn hoá), tc Nghiên cứu
Đông Nam á, 4.1995, tr.18.
27
Trần Kỳ Phơng-Vũ Hữu Minh, Cửa Đại Chiêm thời vơng quốc Champa thế kỷ IV-XV, in trong: Đô thị cổ
Hội An, sđd, tr.132.
25