Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tiểu luận Mô tả truyền thuyết về đền Cảnh Xanh ở thị xó Tuyên Quang - tỉnh Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.49 MB, 32 trang )

Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con chèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay…”
Con người ai cũng có quê hương, nguồn cội, và khi xa quê họ sẽ nhớ về
những gì thân thiết nhất, từng gắn bó với họ một thời như kiểu “Anh đi anh
nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi nắng dầm
sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”…
Là một người con xa quê đi học, ngoài việc nhớ đến cha mẹ, người thân
là điều tất yếu, tụi cũn luụn đõu đáu rằng mình phải làm được một điều gì đó
cho nơi mình sinh ra và lớn lên. Và bài viết này, tuy nó không hề to tát, nhưng
là tấm lòng, là thành ý của tôi đối với quê hương Tuyên Quang yêu dấu. Tụi
yờu cả tờn đất,tờn rừng, yêu cả những tín ngưỡng, tập tục và những con người
nơi đây.
Tuyên Quang cũng như bao vùng quê đất Việt khác, nhân dân có những
tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc như tục thờ tổ tiên,
thờ Mẫu, thờ đa thần…
Theo GS.VS Nguyễn Duy Quý, “tớn ngưỡng thờ Mẫu là một gia trị văn
hóa tinh thần cao đẹp của Việt Nam. Đó là tinh hoa được chắt lọc trong suốt
chiều dài lịch sử, là biểu tượng cho sức mạnh của cộng đồng, cho sự sáng tạo
và phát triển không ngừng của dân tộc Việt Nam”.
Thờ Mẫu Thượng Ngàn tuy đã được các nhà nghiên cứu quan tâm
nhưng chưa thật đầy đủ. Công việc nghiên cứu này bên cạnh việc mong muốn
thể hiện tình yêu đối với quê hương và giới thiệu về một tỉnh trung du miền
núi phía Bắc với những đặc sắc văn hóa nổi bật, còn nhằm đóng góp thêm vào
kết quả nghiên cứu về hiện tượng thờ Mẫu ở nước ta để có cái nhìn sâu sắc
hơn về Bà cũng như về một địa điểm thờ ở đền Cảnh Xanh - Tuyên Quang


Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề nghiên cứu về Bà Chúa Thượng Ngàn nói riêng và nghiên cứu
tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung có lịch sử không lâu nhưng có sức hút kì lạ,
bởi tin ngưỡng thờ Mẫu là một nét văn hóa hết sức nhạy cảm. Tín ngưỡng thờ
Mẫu là một loại hình văn hóa - tâm linh nên vấn đề này ở từng giai đoạn nhân
thức của xã hội và ở từng người có cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau.
Đến nay, tín ngưỡng thờ Mẫu được quan tâm hơn rất nhiều, đã có nhiều
công trình nghiên cứu tiêu biểu về Bà Chúa Thượng Ngàn như cuốn “Suối
Mỡ” in năm 1989 tại Hà Bắc tập hợp các bài viết của một số tác giả địa
phương đã “mở ra một cách nhìn rộng hơn về các mặt địa lý, lịch sử, phong
tục tập quán của một đất danh thắng”. Trong cuốn “Tiếp cận tín ngưỡng dân
dã Việt Nam” của Nguyễn Minh San, NXBVHDT 1994 đã đề cập tới vấn đề
“Bà Chúa Thượng Ngàn và hội đền công đồng Bắc Lệ”.
Bên cạnh đó là các cuốn “Linh thần đất Việt” của Vũ Ngọc Khánh và
Phạm Minh Thảo, NXBVHTT, HN 2002 giới thiệu về Bà Chúa Thượng
Ngàn; Rồi cuốn “Nữ Thần và Thánh Mẫu Việt Nam” của các tác giả Vũ Ngọc
Khánh, Mai Ngọc Chúc, Phạm Hồng Hà, NXB Thanh Niên 2002.
Trong “Tổng tập văn học dân gian tập 4”, Viện KHXH VN,
NXBKHXH-HN 2004 có đề cập đến hai truyền thuyết về Bà Chúa Thượng
Ngàn. Một truyền thuyết kể về công chúa La Bình và một truyền thuyết kể về
công chúa Quế Nương.
Ở Tuyên Quang cũng có một số nghiên cứu về Bà Chúa Thượng Ngàn
nhưng còn lẻ tẻ, chủ yếu có trong các truyền thuyết ở các miếu, đền.
Như vậy, Bà Chúa Thượng Ngàn đã được nhiều sách, tài liệu của các
nhà nghiên cứu đề cập đến.
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành vận dụng phương pháp chuyên môn và chuyên
ngành vào việc tìm hiểu, nghiên cứu các nội dung sau:

Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Thứ nhất, tìm hiểu khái quát một số vấn đề về tín ngưỡng thờ Mẫu nói
chung và tín ngưỡng thờ Mẫu ở thị xã Tuyên Quang nói riêng.
Thứ hai, tìm hiểu, phân tích và đánh giá giá trị tư tưởng thẩm mỹ của
truyền thuyết về đền Cảnh Xanh thị xã Tuyên Quang
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương
pháp sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp điền dã
- Phương pháp tiếp cận hệ thống
- Phương pháp so sánh loại hình
5. Cấu trúc của bài làm
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, nội dung chính của bài viết gồm
ba chương:
- Chương I: Tín ngưỡng thờ Mẫu - một nét văn hóa đặc sắc, bản địa của
dân tộc Việt Nam và truyền thuyết về Bà Chúa Thượng Ngàn
- Chương II: Mô tả truyền thuyết về đền Cảnh Xanh ở thị xã Tuyên
Quang - tỉnh Tuyên Quang
- Chương III: Đặc điểm và lễ hội đền Cảnh Xanh
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
PHẦN NỘI DUNG
Chương I
TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU - MÉT NÉT VĂN HÓA ĐẶC SẮC,
BẢN ĐỊA CỦA DÂN TÉC VIỆT NAM VÀ TRUYỀN THUYẾT
VỀ BÀ CHÓA THƯỢNG NGÀN
I. Tín ngưỡng thờ Mẫu
1. Hình tượng thờ Nữ thần ở Việt Nam

Mặc dù chưa có thống kê một cách chính xác ở nước ta có bao nhiêu vị
nữ thần được thờ phụng. Nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng đây là một
hiện tượng tín ngưỡng có từ lâu đời và phổ biến ở nhiều vùng, nhiều địa
phương trên địa bàn nước ta.
Các thần nữ trong huyền thoại và truyền thuyết thường gắn với việc tạo
lập vũ trụ như Nữ thần mặt trời, Nữ thần mặt trăng, và gắn với các biểu tượng
về đất nước, về quê hương, dân téc như các Nữ thần nghề dệt, nghề méc, nghề
làm bánh hay các Nữ thần tham gia chống giặc cứu nước như Hai Bà Trưng,
Nguyên Phi Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân…Họ được nhân dân tôn thành thần, thánh, và
được triều đình ban sắc phong. Những Nữ thần này có thể có thật hoặc hoang
đường nhưng vai trò của họ trong lịch sử dựng nước và giữ nước là rất lớn.
Trong các nữ thần, nhân dân đã tôn nhiều bà là Mẫu thánh như Thánh
Mẫu, Vương Mẫu, Quốc Mẫu, nhưng không phải tất cả các nữ thần đều là
Mẫu. Khảo sát các Mẫu trong huyền thoại và truyền thuyết, chúng ta thấy
Mẫu ở đây không chỉ để gọi những nữ thần sinh ra một người nào đó mà quan
trọng hơn rất nhiều là các nữ thần trở thành Mẫu này đều là những nữ thần có
vai trò vô cùng quan trọng như một người “Mẹ”.
Nh vậy, các Mẫu - Thánh Mẫu vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có
nguồn gốc nhân thần, là hình thức tín ngưỡng “nâng cao”, “lên khuôn” từ cái
nền thờ nữ thần vốn rất phổ biến và cổ xưa của nước ta.
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
2. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam
a. Về định nghĩa “tín ngưỡng”, theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện
ngôn ngữ học thì đó là “tin theo một tôn giáo nào đó”. Còn theo tài liệu
chuyên đề về “nghiên cứu văn học dân gian từ mã và mã văn hóa” của PGS -
TS Nguyễn Bích Hà thì “tín ngưỡng là một sản phẩm văn hóa do con người
quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành. Tín ngưỡng là
niềm tin về những điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí, vĩ đại mà con
người chỉ cảm nhận được mà không thể nhận thức được”. Hai cách định nghĩa

tuy có khác nhau nhưng chúng có một điểm chung rằng: tín ngưỡng là một
niềm tin vào một điều gì đó linh thiêng, không thể nhận thức mà chỉ có thể
cảm nhận được.
b. Dân téc Việt Nam là một dân téc có đời sống văn hóa tâm linh hết
sức phong phó. Không kể các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài vào như
Phật giáo, Đạo giáo, Thiên Chóa giáo… chúng ta có nhiều tín ngưỡng bản địa
hình thành từ lâu đời, phổ biến ở nhiều dân téc như tín ngưỡng thờ Tổ tiên ở
các gia đình, thờ Thành hoàng ở các làng, xã và thờ Mẫu trong cộng đồng các
dân téc Việt.
Theo GS.VS Nguyễn Duy Quý (nguyên GĐ trung tâm KHXH & NV
quốc gia) thì tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng “lấy việc tôn thờ người phụ
nữ, người mẹ làm đấng sáng tạo và bảo trì cho sự tồn tại, sinh thành của vũ
trụ, đất nước và con người”. Đến nay tín ngưỡng thờ Mẫu này đẫ có xu hướng
phát triển trở thành một tôn giáo thể hiện qua việc một nhóm các Mẫu đã hình
thành cho mình một đạo riêng: Đạo Tam phủ - Tứ phủ. Đó là Thiên phủ ở
trên trời với Mẫu Cửu Thiên huyền nữ; Nhạc phủ ở núi rừng với Mẫu Thượng
Ngàn; Thủy phủ ở sông biển với Mẫu Thoải; và Địa phủ ở dưới đất với Mẫu
Địa. Đặc biệt sau này xuất hiện thêm Mẫu Liễu Hạnh đã đưa tín ngưỡng thờ
Mẫu ở nước ta lên một tầm cao hơn, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ hơn.
c. Tín ngưỡng thờ Mẫu hình thành và phát triển trên cơ sở coi trọng vai
trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Xưa kia nền kinh tế của
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
người Việt còng nh của các nước Đông Nam Á đều là nền kinh tế nông
nghiệp trồng lúa nước, từ đấy nảy sinh các tập tục, nghi lễ gắn liền với nền
văn minh của cây lúa nh tín ngưỡng thờ Đất, thờ Lúa, thờ Nước. Tất cả đều
được gọi bằng Mẹ và được thờ ở nhiều nơi: Đất thì có Mẫu Địa thờ ở Láng
Hạ - Hà Nội; Nước thì có Mẫu Thoải thờ ở các tỉnh Thái Bình, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Tuyên Quang; Còn lúa thì có Mẫu Lúa xuất hiện trong “Mẹ Lúa xuống
đồng” ở Yên Lập - Phó Thọ. Ngoài ra, các yếu tố tự nhiên khác có liên quan

đến canh tác cây lúa cũng được người dân suy tôn nh Thần Sấm, Thần Chớp,
Thần Mây, Thần mưa. Cây lúa muốn sinh sản được tất yếu cần phải có đất,
nước và bản thân cây lúa cũng sản sinh ra thóc gạo để nuôi sống con người.
Chính vì vai trò vô cùng quan trọng và không thể thay thế được nh vậy, nên
các yếu tố này được người dân rất coi trọng và suy tôn. Vì có khả năng sinh
sản nên hiển nhiên các vị thần này được gọi là Nữ thần.
Trong chế độ Mẫu hệ thời xưa, vai trò Êy của người phụ nữ lại càng
được củng cố hơn, họ có quyền hành và chi phối đời sống cộng đồng. Đến khi
chế độ phụ hệ lên ngôi và sau này là chế độ phong kiến đã kìm kẹp, không coi
trọng người phụ nữ, nhưng không vì thế mà vai trò của họ bị mất đi. Vào thời
Lê Thánh Tông, trong bộ luật Hồng Đức đã có nhiều điều khoản khẳng định
vị trí và quyền lợi của người phụ nữ ở mức cao nhất, có phần ưu ái. Họ có
quyền hủy bỏ hôn nhân nếu phát hiện người con trai có ác tật hoặc phạm vào
hành án. Như vậy có thể thấy quyền lợi và hạnh phóc của người phụ nữ được
bảo vệ, vị thế của họ được khẳng định vững chắc.
d. Tín ngưỡng thờ Mẫu hình thành ở nước ta còn xuất phát từ ý thức
tưởng nhớ tổ tiên, lòng tôn kính, sự tin tưởng vào những thế hệ đi trước. Dân
téc ta có nhiều truyền thống quý báu được truyền từ đời này qua đời khác,
một trong những truyền thống đó là “uỗng nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ
trồng cây”, “kính lão đắc thọ”. Các nghi lễ thuộc về tuổi già thường được tổ
chức linh đình là lễ mừng thọ, lễ chúc thọ hay lễ sinh nhật. Người già sau khi
mất, các con cháu còn tổ chức đám giỗ. Đây là một truyền thống mà không
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
phải dân téc nào cũng có được. Cùng với việc tiếp thu ảnh hưởng của Đạo
giáo Trung Quốc được du nhập vào nước ta trong thời kì Bắc thuộc, tín
ngưỡng này đã hình thành và định hình một thứ đạo Mẫu mang tính hệ thống
hơn.
e. Tín ngưỡng thờ Mẫu còn gắn bó chặt chẽ, thiết thực với những yêu cầu
về đời sông tâm linh của người dân. Tin ngưỡng thờ Mẫu gắn với những nhận

thức rất cụ thể về môi trường tự nhiên - xã hội với những ước muôn thiết thực
trong đời sống của con người. Qua tín ngưỡng dân gian chóng ta có thể thấy
quần chúng nhân dân luôn luôn tin và cầu mong sự giúp đỡ từ sức mạnh của thế
giới tự nhiên như hạn hán cầu Thần Mưa, không có nắng cầu thần Mặt Trời…
Tín ngưỡng thờ Mẫu gắn với uy lực của các bà Mẹ, và một số địa
phương lại có một bà Mẹ riêng của mình. Mỗi Mẹ có chức năng, quyền lực
riêng. Nhưng bao giê Mẹ cũng có sức mạnh thần kì bảo hộ và giúp đỡ những
người lương thiện, trừng phạt kẻ xấu. Mẫu sẵn sàng đáp ứng thỉnh cầu cụ thể
của con người nh: cầu sức khỏe, cầu tài léc, cầu được mùa, cầu hạnh phúc…
Nh vậy, tin ngưỡng thờ Mẫu không những xuất phát từ vai trò quan trọng
của người phụ nữ trong sản xuất còng nh trong gia đình mà còn xuất phát từ
những yêu cầu thiết thực về đời sống tâm linh của người dân trong xã hội.
3. Tam tòa Thánh Mẫu
Trong cuốn “Nữ thần và thánh Mẫu Việt Nam” của các tác giả Vũ
Ngọc Khánh, Mai Ngọc Chúc, Phạm Hồng Hà, ba tòa ở đây chính là ba cõi:
cõi Trời, cõi Non, cõi Nước. Tam tòa Thánh Mẫu là hiện tượng thờ phụng có
nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ Nữ thần phát triển mà thành.
Có ba hình thức thờ phông: Thờ Nữ thần, thờ Mẫu và thờ Tam tòa Thánh
Mẫu. Đó là các mốc của một quá trình phát triển thống nhất qua mỗi giai đoạn
với những bước tiến ngày càng cao dần. Từ thờ Nữ thần đến thờ Mẫu là một sự
phát triển cao hơn về vị trí, vai trò của các Nữ thần trong cảm quan của nhân
dân. Từ thờ Mẫu đến Tam tòa Thánh Mẫu là sù phát triển về tính hệ thống.
II. Truyền thuyết về Mẫu Thượng ngàn trong dân gian
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Mẫu Thượng Ngàn được mặc trang phục màu xanh, là con gái của Sơn
Tinh (tức Tản Viên Sơn Thánh) và công chúa Mỵ Nương (trong truyền thuyết
Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng cầu hôn Mỵ Nương, con gái vua Hùng).Khi còn
trẻ, Mẫu là một cô gái đức hạnh, lại tài sắc vẹn toàn, được cha mẹ đặt tên là
La Bình.

La Bình thường được cha cho đi cùng, đến khắp mọi nơi, từ miền núi
non hang động đến miền trung du đồi bãi trập trùng. Trong địa hạt mà Tản
Viên Sơn Thánh cai quản, Ngài đã dạy dân không thiếu điều gì, từ săn bắn thú
dữ đến chăn nuôi gia súc, từ trồng cây ăn quả, trồng lúa nương đến việc đắp
ruộng bậc thang, trồng lúa nước Rồi dựng nhà dựng cửa, hái cây thuốc chữa
bệnh Ngài cũng thường dùng các vị Sơn thần, Tù trưởng luận đàm thế sự và
bàn soạn công việc
Do luôn luôn được theo cha như thế nên La Bình cũng học hỏi được
rất nhiều điều. Vốn thông minh sáng dạ, lại chăm chỉ thực hành nên việc gì La
Bình cũng biết, cũng giỏi. Những khi Sơn Thánh bận việc hay không thể đi
khắp những nơi mà dân chúng cần đến thì La Bình thường được cha ủy nhiệm
đi thay. Những lần như thế, La Bỡnh luụn tỏ ra là một người đầy bản lĩnh,
biết tự chủ trong giao tiếp, lại cũng biết thành thạo trong mọi cụng việc.Cỏc
Sơn thần, Tù trưởng đặc biệt quý trọng nàng, coi nàng là người đại diện xứng
đáng của Sơn Thánh chủ tướng. Còn bản thân nàng, chẳng những hòa hợp, ân
cần với mọ người, mà còn rất thân thuộc, quyến luyến với phong cảnh, từ cây
cỏ hoa lá đến hươu nai chim chóc
Khi Tản Viên và Mỵ Nương về trời, trở thành hai vị thánh bất tử, thì
Ngài cũng phong La Bình là Công chúa Thượng Ngàn, thay cha đảm nhận
công việc dưới trần, nghĩa là trông coi tất cả 81 cửa rừng và các miền núi non
hang động, các miền trung du đồi bãi trập trùng của nước Nam ta
Trở thành chúa tể của miền núi non và trung du, Thượng Ngàn công
chúa vẫn luôn luôn chăm chỉ, hàng ngày hết sức làm tròn các trọng trách của
mình. Ngài bảo ban các loài cầm thú phải biết sống hòa hợp với nhau. Dạy
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
chúng đừng ăn những loài quả độc, nấm độc, biết tránh khỏi những cây cối
đổ, những cơn lũ quét Ngài dạy bảo con người cũng thật chu đáo, tỉ mỉ.
Những gì cha Ngài đã dạy, Ngài đều đem ra áp dụng. Khi tiếp xúc với các Tù
trưởng, Ngài cũng học thêm ở họ được nhiều điều. Thế là Ngài lại đem những

điều hiểu biết mới đi truyền bá ra mãi.
Ngài cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, ở cha Ngài
chỉ mới bắt đầu. Làm nhà không những đã chắc chắn, lại còn phải biết trạm
trổ cho thật đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng thế, có khắc cả hình hai
đầu rồng chạm hẳn vào nhau. Cách nấu nướng thức ăn,chẳng những chỉ có
kho, luộc mà còn chế thêm ra được nhiều món mới.Rồi công việc đồng áng,
Ngài dạy mọi người cách lấy ống bương để dẫn nước từ khe núi xuống. Lại đi
phân phát hạt giống, cho nên nơi nào cũng có cơm dẻo nếp thơm.
Trong các con vật nuôi trong nhà, Ngài đem về thêm nhiều giống gia
súc mới. Lại trồng thêm nhiều giống cây ăn quả. Rồi trồng cả những hoa
thơm cỏ lạ lấy từ trên rừng núi về Công lao của Ngài đối với dân chúng
thực không kể sao cho hết. Ngọc Hoàng Thượng đế còn ban tặng cho Ngài
thêm nhiều phép thuật thần thông, đi mây về gió, và trở thành vị Thánh bất tử
để luôn luôn gần gũi, gắn bó với cõi trần, vĩnh viễn ở miền trung du và núi
non hùng vĩ.
Khi dân chúng sinh sôi nảy nở ra thêm, từ miền núi non và trung du
tràn xuống các miền đồng bằng và ven biển, đã mang theo những cách thức
làm ăn và phong tục tập quán từ hồi còn ở trong rừng, dưới sự bảo ban dìu dắt
của Công chúa Thượng Ngàn.
Cùng với nhiều vị thần thỏnh khỏc, Công chúa Thượng Ngàn vẫn ngày
đêm lặng lẽ âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Và thật là
tự nhiên, khi mọi người đều gọi Ngài là Mẫu, một cách vừa trìu mến gần gũi
mà cũng vừa tôn kính.
Lịch sử nước Việt từ các thời về trước, đã từng ghi lại các chiến công
âm phù lừng lẫy của Ngài.Tướng sĩ của nhà Lý đỏnh quõn Tống, tướng sĩ nhà
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Trần đỏnh quõn Nguyờn, đều có Ngài âm phù. Các triều đại này, sau khi
thắng lợi đều có lễ tạ ơn và có sắc thượng phong cho Ngài.
Lại đến đầu hồi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, lúc ấy lực lượng nghĩa

quân còn yếu, đang đồn trú ở Phản Ấm thì giặc Minh kéo đến bao vây. Nghĩa
quân người ít chống cự không nổi, phải tan tác mỗi người mỗi nơi. Trong đêm
tối, Công chúa Thượng Ngàn đã hóa phép thành bó đuốc lớn, soi đường cho
quân sĩ, tập hợp và dẫn dắt họ đi vào đất Mường Yên, về cơ sở núi Chí Linh.
Ánh đuốc thiêng của Ngài, chỉ quân sĩ của ta biết được, cũn quõn giặc thì
không thể nào nhìn thấy.
Ở Chí Linh, nghĩa quân vừa sản xuất, vừa tập luyện và tập hợp, phát
triển thêm lực lượng. Thật gian khổ, lắm phen không còn lương thực, phải lấy
củ nâu củ mài thay cơm, nhưng nhờ sự che chở của Công chúa Thượng Ngàn,
quân ta vẫn ngày một thêm lớn mạnh. Quân Minh nhiều lần đến bao vây cũng
đành phải chịu rút về. Từ Chí Linh, quân ta tiến vào giải phóng Nghệ An,
Thuận Hóa. Sau đú,với những trận thắng oanh liệt, ở Tốt Động, ở Chi Lăng,
và cuối cùng, bao vây bức hàng quân giặc ở Đụng Quan,đó giải phóng hoàn
toàn đất nước.
Sau chiến thắng vẻ vang, Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi, viết bản Bình
Ngô đại cáo, tổng kết lại cuộc chiến tranh. Trong bản Bỡnh Ngụ cú cõu: "Khi
Linh Sơn lương hết mấy tuần", là nhắc lại thời nghĩa quân ở núi Chí Linh, tuy
gian lao vất vả nhưng vẫn bảo toàn được lực lượng, vỡ đó được sự âm phù,
che chở của Cụng chúa Thượng Ngàn.
Công chúa Thượng Ngàn, cũng như bao nhiêu vị thần thánh được
mọi người tôn thờ, chính là hồn thiêng của sông núi, bao nhiêu đời nay dẫn
dắt con cháu vững bước đi lên. Ngài có mặt ở khắp nơi, theo bước chân của
dân chúng, khi từ miền rừng núi rồi xuống miền đồng bằng.Vỡ vậy, ở nơi nào
dân chúng cũng lập điện thờ, thờ phụng Ngài.Tuy nhiên, đại bản doanh của
Ngài vẫn là vùng núi non và các cửa rừng. Những người đi rừng, muốn bình
yên, mọi sự tai qua nạn khỏi, thường cầu xin sự che chở, phù trợ của Ngài. Ai
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
muốn săn bắt hay khai thác thứ gì trong rừng, cũng đặt lễ, thắp hương, cầu xin
để được Ngài chấp thuận.


Tiểu kết:
Nh vậy, ta có thể thấy tÝn ngưỡng thờ Mẫu là một nét văn hóa đặc sắc,
mang đậm tính bản địa của dân téc Việt Nam, nã có nội dung và ý nghĩa giáo
dục đạo đức sâu sắc. Đến nay, truyền thuyết và tín ngưỡng này vẫn còn
nguyên giá trị, Mẫu Thượng Ngàn được thờ ở rất nhiều vùng miền khác nhau
trên khắp nước Việt Nam. Tỉnh Tuyên Quang cũng là một trong những miền
quê lưu giữ truyền thuyết đó.
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Chương II
MÔ TẢ TRUYỀN THUYẾT VỀ ĐỀN CẢNH XANH Ở
THỊ XÃ TUYÊN QUANG - TỈNH TUYÊN QUANG
I. Tuyên Quang - vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa
1. Điều kiện địa lý tự nhiên
1.1 Vị trí địa lý
Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Bắc, phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang,
phía Đông giỏp Thỏi Nguyờn và Bắc Kạn, phía Tây giỏp Yờn Bỏi, phía Nam
giỏp Phỳ Thọ và Vĩnh Phúc. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 586.800 ha, trong
đó có 70% diện tích là đồi núi.
Tuyên Quang có 5 huyện, 1 thị xã, 137 xã, 3 phường và 5 thị trấn, trong
đó có 51 xã và 72 thôn bản nằm trong vùng đặc biệt khó khăn. Là tỉnh nằm
sâu trong nội địa, cách xa các trung tâm kinh tế - thương mại lớn của cả nước,
Tuyên Quang chưa có đường sắt và đường không vì vậy việc thông thương
sang các tỉnh khác và ra nước ngoài nhờ vào hệ thống đường bộ quốc lộ 2 và
quốc lộ 37; tỉnh cú sụng Lụ chảy qua nên rất thuận lợi cho việc phát triển giao
thông đường thuỷ.
1.2. Đặc điểm địa hình
Địa hình của Tuyên Quang khá phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều dãy núi
cao và sông suối, đặc biệt ở phía Bắc tỉnh. Phía Nam tỉnh, địa hình thấp dần, ít

bị chia cắt hơn, có nhiều đồi núi và thung lũng chạy dọc theo cỏc sụng. Có thể
chia Tuyên Quang thành 3 vùng địa hình sau: (1) vùng núi phía Bắc tỉnh gồm
các huyện Na Hang, Chiờm Hoỏ, Hàm Yên và phía Bắc huyện Yên Sơn, độ
cao phổ biến từ 200 – 600 m và giảm dần xuống phía Nam, độ dốc trung bình
25
0
, (2) vùng đồi núi giữa tỉnh gồm: phía Nam huyện Yên Sơn, thị xã Tuyên
Quang và phía Bắc huyện Sơn Dương, độ cao trung bình dưới 500 m và
hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, độ dốc thấp dần dưới 25
0
, (3) vùng đồi
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
núi phía Nam tỉnh là vùng thuộc phía Nam huyện Sơn Dương, mang đặc điểm
địa hình trung du.
1.3. Khí hậu
Tuyên Quang mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có
hai mùa rõ rệt: mùa đông lạnh – khô hanh; mùa hè nóng ẩm mưa nhiều. Đặc
điểm khí hậu này thích ứng cho sự sinh trưởng, phát triển của các loại cây
trồng nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 22 – 24
0
C, lượng mưa trung
bình từ 1.500 mm – 1.800 mm; độ ẩm trung bình là 85%.
Hệ thống sông suối của Tuyên Quang khá dày đặc, phân phối tương đối
đều giữa cỏc vựng, có thể chia làm 3 vùng trong đó sụng Lụ có khả năng vận tải
tốt, đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển giao thông đường thuỷ của tỉnh.
1.4. Tài nguyên thiên nhiên
Thiờn nhiờn Tuyờn Quang tươi đẹp và hùng vĩ, tiềm ẩn nguồn tài
nguyên phong phú về khoáng sản, đất rừng, du lịch…
Tuyên Quang có tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên

rừng phong phú. Tài nguyên đất của Tuyên Quang hết sức đa dạng về chủng
loại, chất lượng tương đối tốt, đặc biệt là các huyện phía nam, thích ứng với
các loại cây trồng. Bao gồm cỏc nhúm chớnh: đất đỏ vàng trờn đỏ sét và đá
biến chất, diện tích, chiếm 67,2% diện tích tự nhiên; đất vàng nhạt trên đá cát,
chiếm 11,55%; đất đỏ vàng trên đá macma, chiếm 4,17% diện tích; đất vàng
đỏ trờn đỏ biến chất, chiếm 3,89%; đất phù sa ven suối chiếm 1,66%; đất dốc
tụ - thung lũng, chiếm 1,38%; ngoài ra cũn cú một số loại đất khác chiếm diện
tích nhỏ: đất nâu vàng, đất mun vàng nhạt, đất nâu đỏ; đất phù sa không được
bồi đắp…
Tổng diện tích rừng Tuyên Quang có khoảng 357.354 ha, trong đó rừng
tự nhiên là 287.606 ha và rừng trồng là 69.737 haTuyờn Quang có khả năng
phát triển kinh tế lâm nghiệp, đồng thời phát triển rừng trên diện tích đồi, núi
chưa sử dụng khoảng 120.965 ha.
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Về khoáng sản, Tuyên Quang có nhiều loại khoáng sản khác nhau như
quặng, barit, mănggan, đỏ vụi…và cỏc loại khoáng sản quý phục vụ cho công
nghiệp hóa chất, chế tạo máy.
2. Đời sống văn hóa
2.1. Văn hóa đời thường
Là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc anh em (22 dân tộc), tiêu biểu như
các dân tộc: Kinh, Tày, Dao, Cao Lan, Mụng, Sỏn Dỡu, Pà Thẻn…
Tuyên Quang là một vùng văn hoá đa hương sắc. Suốt chiều dài lịch
sử, cộng đồng các dân tộc anh em đang chung sống trên mảnh đất Tuyên
Quang đã đoàn kết, gắn bó, phát huy truyền thống lao động cần cù để xây
dựng, bảo vệ quê hương và sáng tạo ra những giá trị văn hoá đậm đà bản sắc
dân tộc.
2.2. Tôn giáo tín ngưỡng
Nét chung về đời sống tín ngưỡng, tâm linh của các dân tộc tỉnh Tuyên
Quang là đều thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã khuất, Thành Hoàng làng,

người có công mở đất, dạy nghề, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Ngoài ra, mỗi dân tộc cú nột riờng, như: Dân tộc Kinh chịu ảnh hưởng của đạo
Khổng, một bộ phận theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành, một bộ phận theo đạo
Phật; các dân tộc thiểu số cũng chịu ảnh hưởng của Tam giáo và còn thờ cúng
các loại ma, thần; riêng dân tộc Mụng cú một bộ phận theo đạo Tin Lành.
2.3. Phong tục và lễ hội dân gian
Mỗi dân tộc có tiếng nói, phong tục tập quán riêng. Về tiếng nói, được
xếp vào 4 nhúm chớnh là: Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (có dân tộc Kinh);
nhóm ngôn ngữ Tày - Thỏi (cú cỏc dân tộc Tày, Cao Lan, Nùng); nhúm ngôn
ngữ Mông - Dao (cú cỏc dân tộc Mông, Dao, Pà Thẻn, Tống); nhóm ngôn
ngữ Hỏn (cú cỏc dân tộc Sỏn Dỡu, Hoa). Các phong tục tập quán mang nét
chung là có liên quan đến chu kỳ một đời người như: Phong tục sinh đẻ, nuôi
con, cưới xin, làm nhà, tang lễ và trong lao động sản xuất, sinh hoạt; trong đó,
có những phong tục đẹp như: hát Quan làng trong lễ cưới của dân tộc Tày, hát
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Soọng cô của dân tộc Sỏn Dỡu, hỏt Pỏo dung và cấp sắc của dân tộc Dao, hỏt
Sỡnh ca của dân tộc Cao Lan,
Lễ hội dân gian của các dân tộc thường được tổ chức sau tết Nguyên Đán
với phần nghi lễ trang trọng và phần hội đậm đà bản sắc dân tộc, tiêu biểu có lễ hội
Lồng Tông (xuống đồng) của dân tộc Tày, lễ hội Dâng hương tại đình Giếng Tanh,
Minh Cầm của dân tộc Cao Lan, lễ Cầu mùa của dân tộc Dao Tiền
3. Tuyên Quang – mét vùng đất huyền thoại
3.1. Tuyên Quang - vùng đất giàu truyền thống cách mạng
"Tuyên Quang là tỉnh có kho tàng di tích lịch sử - cách mạng độc đáo và
vô giá". sử sách đã ghi chép khá chi tiết, rõ ràng rằng, khi tìm địa điểm bí mật
tiện lợi để chỉ đạo kịp thời chuẩn bị Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, từ Pác Bú (Cao Bằng) Bác Hồ đã quyết định chọn Tuyên Quang -
Tân Trào. Bởi lẽ Người nhận thấy ở đú (Tuyờn Quang) "Thiên thời, địa lợi,
nhân hòa". Và Tuyên Quang - Tân Trào trở thành "Thủ đô khu giải phóng", rồi

một lần nữa là trung tâm của "Thủ đô kháng chiến", nơi Bác Hồ, Trung ương
Ðảng, Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan đầu não ở và làm việc để lãnh đạo
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến ngày thắng lợi.
Cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi, những địa điểm được
Bác Hồ, Trung ương Ðảng, Chính phủ và các bộ, ngành trung ương ở và làm
việc thành những di tích vô cùng quý giá. Trên địa bàn tỉnh hiện nay có 498 di
tích lịch sử - văn hóa, trong đó có 74 di tích cách mạng, 348 di tích kháng
chiến chống thực dân Pháp. Đó là căn cứ địa cách mạng ghi đậm dấu ấn từ
mỏi lỏn Nà Lừa, mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào… nơi ngọn lửa cách
mạng đã được Đảng và Bác Hồ lãnh đạo
3.2. Tuyên Quang - nơi lưu giữ một kho tàng truyền thuyết dân
gian phong phú với tục thờ Mẫu.
Trên khắp vùng miền cả nước, hệ thống thờ Mẫu trong đạo tứ phủ đã
khẳng định những người Mẹ “chủ trỡ” trong cõi dân gian. Mẹ trên trời (Mẫu
Cửu trựng thiờn), Mẹ núi rừng ở Đụng Cuông Yờn Bỏi (Mẫu Thượng Ngàn),
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Mẹ sông biển ở Hà Trung Thanh Hóa (Mẫu Thoải), Mẹ trần gian ở Phủ Dày
Nam Định (Mẫu Liễu Hạnh)… Có thể nói những địa danh đó là xứ sở của các
Mẹ đã hóa thân trong cảm quan huyền thoại và đi vào hơi thở của cuộc sống
con người, cùng với một gia tài đầy ắp chất dân gian. Đó là những truyền
thuyết, sự tích về Mẹ.
Tuy hình tượng các Mẫu thần Việt Nam được thống nhất trong đạo tứ
phủ như y xiêm, lễ vật thờ cúng, quyền năng sức mạnh và nguồn gốc xuất
xứ… nhưng ta dễ nhận thấy nột riờng trờn mỗi vùng đất, thông qua phong
tục, tập quán, đền thờ, lễ hội. Và người dân Tuyên Quang vẫn coi các Mẫu
thần này là của riêng mình (Mẫu bản tỉnh) thể hiện ở việc có những truyền
thuyết bản địa. Có lẽ, sự hội tụ của mây trời, non nước ở đây đủ cho bốn cõi
để con người sáng tạo ra một vùng văn hóa tâm linh, di dưỡng tâm hồn.
Theo “Võn Cỏt Thần Nữ” của giáo sư Vũ Ngọc Khánh và Nguyễn Văn

Tỵ, ở tỉnh Tuyên Quang có hệ thống thờ Mẫu thần như: Núi Dựm, Mỏ Than,
Minh Lương, Đền Cấm, Đền Ỷ La, Đền Hạ… Sách đã dẫn “…Nguồn gốc hình
tượng các Mẫu thần chắc chắn từ văn hóa nông nghiệp và xã hội Mẫu hệ mà
ra…”. Trong hoàn cảnh đó, Đền Cảnh Xanh được khai sinh không ngoài những
khát vọng hòa nhập vào với thiên nhiên của con người. Tỉnh Tuyên Quang có
nhiều đền, miếu thờ, và các ngôi chùa cổ kính, linh thiêng. Mỗi đền thờ một vị
thần Mẫu riêng: Đền Hạ thờ Phương Dung công chúa, Đền Thượng thờ Ngọc
Lân công chúa, Đền Cảnh Xanh thờ La Bình công chúa (Cô Bé)… Danh thờ
tuy có khác nhau nhưng đều chung một màu sắc tín ngưỡng, sự tôn vinh những
giá trị tinh thần không ngoài những khát vọng của người đời và những giá trị
tinh thần ấy đã hóa thân vào mơ ước, cuộc sống con người.
II. Truyền thuyết về Đền Cảnh Xanh ở thị xã Tuyên Quang, kết
cấu và cỏc mụtip nổi bật
1. Giới thiệu
Một ngày nào đó, du khách có dịp ngược dòng Lô Giang về với Tuyên
Quang, thăm lại vùng đất lich sử - chiếc nôi của quê hương cách mạng trong
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
thời kì chống thực dân Pháp. Cây đa Tân Trào, mỏi đỡnh Hồng Thái, bến
nước Bình Ca… mãi đi vài huyền thoại. Bạn sẽ còn được nghe lời con suối,
con khe cất lên thành nhạc, thành thơ chảy vào lòng sông những bến bờ khát
vọng của rừng xanh.
Đây đó, giữa thị xã yên ả, thanh bình, một vài bức tường thành còn sót
lại, im lìm, rêu phong, phủ kín nhưng không giấu nổi những thăng trầm của
vương triều Mạc xưa. Không xa với dấu tích thành cổ, về phía bắc thị xã là
ngôi đền Cảnh Xanh thuộc phường Minh Xuân, khiêm nhường nép dưới “Tũa
xanh” lộng lẫy hàng trăm năm tuổi, khiến chúng ta vừa kinh ngạc chiêm
ngưỡng, vừa băn khoăn tự hỏi khi lời cung văn trong đền ngân nga:
“Tuyờn Quang cảnh trí hữu tình
Nỳi Dựm cụ ngự trước ghềnh nguy nga

Cảnh rừng Cấm một màu xanh đậm
Đền Ỷ La lồng lộng ngôi cao
Đền Cảnh Xanh cô mắc võng đào
Mỏ Than cô ngự thấp cao mấy tầng
Cảnh núi rừng đèo heo hút gió
Thỳ lâm tuyền hoa quả tốt tươi
Cô chơi Minh Lương suối lượn quanh đèo
Khi chơi ghềnh Quýt, khi sang Móc Giằng…”
Lời cung văn có khi còn hồn nhiên, thô vụng nhưng ở lòng thành mà hóa
linh thiêng. Bất chợt, ta như được ai đúsẻ san trờn đụi vai gánh nặng cuộc đời.
Từ thời Vua Hùng xa xưa đến ngày nay, tên gọi của vùng đất Tuyên
Quang đã bao lần thay đổi, nhưng cây xanh cùng với ngôi đền Cảnh Xanh nơi
đây vẫn hiện hữu trước sự khắc nghiệt của mưa nắng đại ngàn, như một điểm
nhấn thời gian về sức sống lâu bền của ngôi đền. Mà ở đó mãi ẩn chứa một
sức mạnh tiềm tàng cả tinh thần và vật chất, đây cũng là bức thông điệp của
núi rừng mà dân gian truyền lại qua cả truyền thuyết lẫn di tích này.
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
2. Nội dung truyền thuyết đền Cảnh Xanh và hình tượng Bà Chúa
Thượng Ngàn
Để đi vào tìm hiểu nội dung, chúng tôi xin tóm tắt truyền thuyết như
sau: Thời Hùng Vương thứ 18, Tản Viên Sơn Thánh có một người con gái
thông minh, xinh đẹp, húy là La Bình hay còn gọi là Cô Bé. Công chóa không
những giỏi đường kim mòi chỉ, mà còn thạo cả đường cung kiếm. Nàng
thường theo cha đi khắp núi non, hang động thăm thó cảnh tiên. Cô Bé đi đến
đâu thì mưa tạnh, rét ngõng…muông thó trong rừng trông thấy nàng từ xa đã
ùa tới giao duyên làm bạn.
Thấy nàng có nghĩa, có tình với cỏ cây, hoa lá, chim muông…ở trên
trời cao Thượng Đế biết tin đã phong hiệu cho nàng là “Thượng Ngàn công
chóa cai quản các cửa rừng cõi Nam Giao”. Từ đó Cô Bé trở thành bà chóa

của rừng xanh.
Một hôm Thượng Ngàn công chóa xa giá xe mây thăm thó đại ngàn. Từ
trên trời cao nàng nhìn xuống Lô Giang, dòng sông khúc quanh, khúc lượn,
ghềnh đá chênh vênh, trăng gác đầu non hắt hiu ánh vàng trải xuốn dòng sông
mềm như dải lụa. Thấy phong cảnh hữu tình, nàng hạ giá nghỉ lại nơi đây.
Đêm Êy, dân làng đều mộng thấy, có một thần nữ dung nhan ngời ngợi,
đầu đội mũ xanh, thắt lưng xanh, khoác áo choàng lộng lẫy giáng ngự bên hồ
(thuộc đền Cảnh Xanh ngày nay), muông thó khắp nơi kéo về mở hội, xung
quanh nàng đầy ắp tiếng chim…xao động cả vùng sơn cước.
Khi ban mai vừa hửng lên, những tia nắng Êm áp chưa kịp mang đi những
giọt sương long lanh trên từng mắt lá, người người chợt thức bỗng nghe tiếng gà
tao tác bên sông. Gặp nhau, ai cũng đều kể lại giấc mộng đêm qua, rồi cùng nhau
đến nơi xem xét. Lạ thay, nơi Êy chỉ còn lại một cây xanh, thân rễ đan xen, lá
cành rủ xuống giống nh động tiên. Thay vì những nhò đá, là những thân rễ
buông thả thiên hình vạn trạng. Thấy sự lạ kì, mọi người mang hương hoa đến
vái lạy, rồi lập một am nhỏ dưới gốc cây để tuần rằm nhang khói.
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Thời gian trôi qua, cây xanh đã phủ kín am thiêng, thấy không tiện cho
việc thờ phụng lâu dài, người dân trong vùng đã dâng lễ xin với Bà chúa
Thượng Ngàn cho lập đền thờ trong khu vực cây xanh hiện nay”.
Như vậy ta có thể thấy, truyền thuyết về đền Cảnh Xanh - Tuyên
Quang có nguồn gốc từ truyền thuyết về Bà Chúa Thượng Ngàn ở trên, chỉ có
điều nó được gắn với địa danh Tuyên Quang. Bên cạnh truyền thuyết về công
chúa La Bỡnh, cũn cú truyền thuyết về công chúa Quế Hoa, cũng được nhân
dân tôn phong làm Bà Chúa Thượng Ngàn.
Nhân vật chính trong truyền thuyết xuất thân từ dòng dõi Vua Hùng: La
Bình là cháu ngoại của Vua Hựng, cũn Quế Hoa là con gái của Vua Hùng
Định Vương. Đây là xu hướng lịch sử hóa cỏc nhân vật thần thoại.
La Bình là con gái của Tản Viên Sơn Thánh và nàng Mỵ Nương. Thánh

Tản Viên vốn là vị thần cai quản vùng đồi núi, sau này ngài được xác định là
vị thần của núi Tản Viên (Ba Vì - Hà Tây). Sự xuất hiện của hình tượng Tản
Viên cho ta thấy được sự liên quan gần gũi giữa vị thần này và Bà Chúa
Thượng Ngàn.
Cả La Bình và Quế Hoa đều là nhân vật nữ. Đây là một biểu hiện của
tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng này xuất phát từ vai trò chi phối của người
phụ nữ đối với người đàn ông trong xã hội mẫu hệ.
Và một đặc điểm quan trọng nhất là hành trạng của công chúa Thượng
Ngàn đều gắn với núi rừng. Dù không xuất thân nhưng khi được tiếp xúc, họ
đều nhanh chóng có tình cảm đặc biệt với núi rừng cũng như những người
dân đói khổ nơi đây.
Được theo cha đi khắp núi rừng, hang động thăm thú cảnh tiên, La
Bình đi đến đõu thỡ mưa tạnh, rét ngừng, muông thú ùa đến giao duyên làm
bạn. Nàng thể hiện những tình cảm của mình bằng cách dạy dỗ muông thú,
bảo chúng làm điều thiện để giúp ích cho con người. Nàng Quế Hoa cũng đi
khắp nơi cứu trợ dân nghèo, làm cho xóm làng được yên lành, trù phú.
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Tình cảm và hành động của các nàng đã được Thượng Đế ghi nhận: La
Bình được “trời ban cho làm Thượng Ngàn Công Chúa cai quản cỏc cừi rừng
Nam Giao”, trở thành bà chúa rừng xanh; nàng Quế Hoa được “nhõn dân lập
đền thờ tôn phong làm Thượng Ngàn Công chúa đời đời hương khói và lễ hội”.
Các đặc điểm trên cho thấy, truyền thuyết về Bà Chúa Thượng Ngàn ở
một số nơi có khác nhau, nhưng “dấu ấn về Bà trong các câu chuyện dân gian
ấy có chi tiết quan trọng giống nhau là, hành trạng của Bà luôn gắn với rừng
núi, với miền trung du Bắc bộ” (Nguyễn Minh San). Sự giống nhau đú đó thể
hiện một cách đầy đủ nhất các đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu Thượng
Ngàn trong tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung.
3. Kết cấu truyền thuyết đền Cảnh Xanh
Kết cấu của truyền thuyết giống kết cấu của thần thoại. Kết cấu thần

thoại “khỏ đơn giản, ít tình tiết, hầu như không có nhánh rẽ vỡ ớt nhân vật và
ít quan hệ. Nó chủ yếu tập trung mô tả diện mạo, đặc điểm và hành trạng của
các thần một cách khỏi quỏt”.
Truyền thuyết về đền Cảnh Xanh không có nhiều tình tiết, không có
biến cố, nhân vật ít, chỉ mô tả Công Chúa Thượng Ngàn cùng mối quan hệ
với chim muông cây cỏ, và việc nàng xa giá xuống hồ thuộc đền Cảnh Xanh
ngày nay. Cốt truyện chảy theo một mạch, không hề có mâu thuẫn rẽ ngang.
Sự giống nhau về kết cấu hé mở cho chúng ta thấy truyền thuyết này có
nguồn gốc từ thần thoại, phát triển từ thần thoai lên. Đó là các câu chuyện kể
về các vị thần tự nhiên tạo lập vũ trụ.
4. Cỏc mụtip nổi bật
Khác với các truyền thuyết khác có mụtip sự ra đời thần kì (truyền
thuyết Thỏnh Giúng, truyền thuyết Linh Lang), có vật thần kì (truyền thuyết
An Dương Vương, truyền thuyết về Lê Lợi…), truyền thuyết về đền Cảnh
Xanh không có cỏc mụtip trờn mà chỉ có mụtip hóa thân và linh hiển âm phù.
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
4.1. Mụtip hóa thân
Đây là môtip có nguồn gốc từ xa xưa. “Húa thõn” là sự thay đổi dạng
của nhân vật mà phần hồn không mất đi”.
Môtip hóa thân xuất hiện trong rất nhiều truyền thuyết như truyền
thuyết về Hai Bà Trưng kể “hai bà do đám mây ngũ sắc cuộn lên trời”, truyền
thuyết về người anh hùng chiến trận Lê Thận cũng kể rằng “cơn gió lốc từ
phương đông, đám mây ngũ sắc hiện ra, người vợ đứng trên mây gọi Lê Thận
về thượng giới”. Trong truyền thuyết về công chúa Thượng Ngàn Quế Nương
cũng xuất hiện hình ảnh đám mây ngũ sắc “từ đó cỏ cây xanh tốt, mùa màng
bội thu, vạn vật khởi sắc, cuộc sống ấm no yên vui trở lại. Một áng mây ngũ
sắc xà xuống đón Quế Nương và mười hai thị nữ về trời”. Môtip này góp
phần tạo ra tính chất thiờng hóa cho nhân vật truyền thuyết.
Khác với những truyền thuyết trên, truyền thuyết về đền Cảnh Xanh

không có hình ảnh đám mây ngũ sắc, mà La Bình hóa thân vào hình ảnh cây
xanh “thõn rễ đan xen, lá cành rủ xuống giống như động tiờn”. Sở dĩ có sự
hóa thân này là bởi Tuyên Quang là tỉnh thuộc vùng núi trung du phía Bắc,
trùng trùng điệp điệp núi rừng, và cây xanh là một biểu tượng đặc trưng
không thể thiếu của nơi đây. Việc hóa thân này chứng tỏ sự gắn liền với miền
núi rừng của Công Chúa Thượng Ngàn, cây xanh tỏa rộng như bàn tay dang
rộng chở che cho muôn loài.
4.2. Mụtip Linh hiển âm phù
Đây là mụtip cú gốc tích sâu xa từ quan niệm “vạn vật hữu linh”, mọi
vật đều có linh hồn, trong đó có cả con người.
Theo Kiều Thu Hoạch, mụtip này thường được biểu hiện dưới hình
thức những phộp thiờng, thuật tà, nhằm phát huy thêm tài năng, uy đức của
nhân vật khi còn sống và cuối cùng là để thực hiện những công việc ích nước
lợi dân, hoặc đánh giặc, hoặc chống hạn; đặc biệt một nhân vật có thể âm phù
nhiều đời vua kế tiếp về sau”.
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Trong truyền thuyết về Bà Chúa Thượng Ngàn mô tả Bà linh hiển âm
phù giúp nhiều triều đại, nhiều bậc đế minh như nhà Lý, nhà Trần, Lê Lợi, Lê
Thái Tổ và các triều đại này đều phong sắc cho Bà (chương I, phần IV).
Tuy nhiên, truyền thuyết về đền Cảnh Xanh cú khỏc đôi chút, La Bình
không hiển thánh trực tiếp mà được hiện lên qua niềm tin của nhân dân.
Người dân nơi đõy luụn tin tưởng đi cùng mình, trợ giúp mình là các lực
lượng có sức mạnh vô song như sức mạnh thiên nhiên. Hơn nữa họ cũng luôn
muốn hòa nhập vời thiên nhiên, làm bạn với cỏ cây hoa lá để có được cuộc
sống chan hòa.
Môtip trên không chỉ giỳp chúng ta hiểu thêm về văn hoch dân gian mà
cũn giỳp ta hiểu thêm về một nét văn hóa trong đời sống tâm linh của con
người xứ Tuyên nói riêng và của người Việt Nam nói chung, đó là tin vào sự
linh thiêng, vào sức mạnh của thế giới tinh thần, của “niềm tin”.

 Tiểu kết:
Thiên nhiên Tuyên Quang tươi đẹp, con người Tuyên Quang anh hùng.
Dường như nơi đây là điểm hội tụ của thiên - địa – nhân. Với nhiều di tích
lịch sử và danh lam thắng cảnh đẹp, cùng với những nét văn hoá phong phú,
đặc sắc của các dân tộc, đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu trong các đền miếu
của người dân nơi đây, Tuyên Quang là một bảo tàng văn hoá - cách mạng, là
một điểm đến hấp dẫn của du khách bốn phương.

Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
Chương III
ĐẶC ĐIỂM VÀ LỄ HỘI ĐỀN CẢNH XANH
I. Đặc điểm ngôi đền Cảnh Xanh
Trải qua điền dã, khảo cứu và những lời cung văn trong đền Cảnh Xanh
được nhân dân ngợi ca, tỏn thỏn về công đức của vị thần đã phần nào mở ra
cho chúng ta một cái nhìn khái quát vị thế, cảnh quan sông núi ở đây - với hệ
thống đền thờ các thế lực tự nhiên dọc hai bên bờ sông Lô và trong lòng thị xã
như thần sông, thần núi rừng (Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn và các hàng cô,
hàng cậu…). Đây là một sự kết tinh, ngưng đọng, phản ánh những giá trị tinh
thần của vùng đất, mà quá trình lao động sản xuất con người đã tự nguyện
tiếp thu có chọn lọc những yếu tố cần thiết để đưa vào đời sống cộng đồng.
Biết bao thế kỉ đã đi qua, cùng những biến cố của lịch sử, sự khắc
nghiệt của thiên nhiên, hầu hết các dấu vết vật chất ban đầu của ngôi đền
Cảnh Xanh không còn nguyên vẹn các tư liệu thành văn cũng bị thất lạc.
Song, ta chỉ có thể tìm thấy trong tâm thức của người dân bản hạt nơi đây qua
những truyền thuyết vừa hư, vừa thực quanh gốc cây xanh này với lòng
ngưỡng vọng. Điều đó phần nào giúp chúng ta nhận thức được hình ảnh và
bóng dáng quá khứ của ngôi đền. Cho dù, vị trí của ngôi đền Cảnh Xanh
không được nói nhiều trong sử sách, nhưng sự tồn tại của ngôi đền đến hôm
nay củng với cảnh quan sông núi, vui buồn… đã hòa vào mạch nguồn tín

ngưỡng của dân tộc, góp phần làm nên diện mạo văn hóa chung.
Đền Cảnh Xanh ngù trong khuân viên khoảng 600m
2
, lưng tựa vào núi,
xa xa sơn thủy uốn khúc, long hổ ôm quanh, hồ lớn trước mặt. Đúng là cảnh
non tiên mà ngay giữa hồng trần. Đền có nét đặc biệt là có những tán lá của
“Tòa Xanh” rộng hàng trăm mét vuông nh những bàn tay nâng đỡ, che chở
từng đường cong, nét đao họa tiết của công trình kiến trúc này. Thật kì lạ, nơi
gốc cây xanh này, dù bất cứ mùa nào trong năm, ta có cảm giác những chiếc
lá trên “Tòa xanh” không bao giê rụng cả, bốn mùa non tơ, xanh thẫm một
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
vùng trời. Người dân trong vùng kể rằng: ban ngày, đố ai nhìn thấy chiếc lá
vàng rơi rụng dưới thềm sân, họa chăng chỉ có về đêm…
Ngoài những giá trị tâm linh mà người đời truyền tụng. Đến đây, ta còn
được chiêm ngưỡng “Bức tranh xanh” kì bí, đầy chất lãng mạn mà thiên nhiên đã
ban tặng cho con người. Có lẽ vì thế mà đền được dân gian gọi là đền Cảnh Xanh.
Đền được dựng theo kiểu chuôi vồ, hình chữ Đinh, gồm tòa tiền đường và
hậu cung theo kiểu tường hồi bít dốc, mái đền được đắp nổi rồng chầu mặt
nguyệt với bốn đầu đao cong vút cách điệu - một kiểu kiến trúc thời Nguyễn
muộn. Bước qua cổng đền chừng 10m là vào tới tiền cung. Ban chính cung
(công đồng) phía trên thờ vua cha Ngọc Hoàng, phía dưới thờ hội đồng Quan
lớn (ngũ vị Tôn Ông). Bên tả thờ tứ phủ ông Hoàng (Hoàng Cả, Hoàng Bảy,
Hoàng Mười, Hoàng Bơ). Bên hữu thờ động Sơn Trang (mười ba Cô Bé Sơn
Trang).
Tiếp đến hậu cung, ban trên thờ Phật, ban dưới thờ Tam Tòa Thánh Mẫu,
tiếp đến ban thờ Bà Chúa Thượng Ngàn (Bản Đền). Bên hữu của ngôi đền còn
có điện thờ vọng Đức thánh Trần gồm hậu cung và tiền cung.Tiền cung thờ Điện
Súy tướng công Phạm Ngũ Lão và các vị tướng thời Trần. Hậu cung thờ Đức
Thánh Trần, hai bên tả, hữu thờ vương phu, vương phụ của Ngài.

Trong đền hiện nay còn lưu giữ được một số hiện vật có niên đại trải
dài hàng thế kỉ: một quả chuông đồng cổ, ba bức đại tự bằng chữ Hán và năm
đạo sắc thời Nguyễn. Ngoài ra, đền Cảnh Xanh cũn cú cỏc hệ thống thờ
phụng quanh gốc cây xanh rất phong phú như: Lầu cô, lầu cậu, võng thần nơi
Bà Chúa Thượng Ngàn ngự lãm. Đó là một sự kết hợp nhuần nhuyễn, mang
nhiều nét kế thừa… không những không mất đi dáng vẻ riêng của ngôi đền
mà còn làm tăng thêm sự thâm nghiêm, huyền bí của di tích, đạt tới giá trị
thành kính.
II. Lễ hội đền Cảnh Xanh
Được sự quan tâm của chính quyền phường Minh Xuân thị xã Tuyên
Quang, ngành văn hóa các cấp và dưới sự quản lý trực tiếp của ban quản lý
Bài tập chuyên đề Triệu Phương Quỳnh - K54E
Ngữ văn
đền Cảnh Xanh, hiện nay đền đã đi vào hoạt động có hiệu quả thu hút khách
thập phương tìm về bái vọng.
Hàng năm, cứ mỗi độ xuân sang, vùng đất Minh Xuân lại bừng lên, náo
nức, như một trận mưa rào sau bao ngày nắng hạn, lòng người, lòng trời như
được giao hòa cùng sông núi cỏ cây.
Trong những ngày này, khắp miền quê đất nước rộn tiếng trống của
người kinh, tiếng cồng chiêng, tiếng khèn cựng những điệu xòe của các dân
tộc âm vang, rực rỡ khắp quèn, thung, thôn dã, thị thành, ở đâu ta cũng gặp
những truyền tích về nguồn cội. Hòa chung không khí linh thiêng của lễ hội
dân tộc, đền Cảnh Xanh đã lấy ngày 18 tháng Giêng âm lịch làm ngày lễ
trọng - Hội chính của đền. Người dân đến đây lễ bái cầu mong Công chúa
Thượng Ngàn ban phúc cho mưa thuận gió hòa, cuộc sống ấm no, mùa màng
tươi tốt…cầu sức khỏe cho gia đình, cầu phúc cho người thõn…
Lễ hội và những phong tục thờ cúng ở ngôi đền Cảnh Xanh đó đúng
góp một vai trò cố định các truyền thuyết về vị thần được tôn thờ trong ngôi
đền thành văn bản.
Đây cũng là điểm hẹn du lịch văn hóa tâm linh, hấp dẫn du khách thập

phương về lễ bái cũng như chiêm ngưỡng cảnh đẹp của “Tũa xanh” trong
hiện tại và tương lai.

×