Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

tiểu luận Vai trò của người Hoa đối với sự phát triển của vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.54 KB, 61 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển ở các nước Đông Nam Á, sự hình thành và
tiến triển của các nhóm cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á đã trải qua
những biến động phức tạp trên nhiều lĩnh vực.Từ chỗ chỉ là những người
Hoa di cư sống rải rác ở các đô thị hay một số vùng nông thôn dần dần tiến
đến hình thành các nhóm cộng đồng tương đối ổn định và thường xuyên
trong lòng các quốc gia sở tại. Không những thế họ còn tạo ra cho họ một
vị trí đáng kể trong xã hội thông qua hoạt động kinh tế. Đây là một đặc
trưng nổi bật của các nhóm cộng đồng người Hoa ở nước ngoài và rất đáng
lưu tâm, bởi không phải cộng đồng ngoại kiều nào đạt được những kết quả
như vậy. Nếu như trong lĩnh vực văn hoá có những biểu hiện hoà đồng, đan
xen đôi khi làm cho ta khó phân biệt được một cách rạch ròi đâu là yếu tố
Hoa đâu là yếu tố bản địa, thì trong lĩnh vực kinh tế - xã hội thì vai trò, vị
trí của người Hoa lại nổi bật, sắc nét.
Việt Nam là một trong những quốc gia ở Đông Nam Á, cũng là nơi
dừng chân của nhiều nhóm di dân người Hoa. Trong số các dân tộc Việt
Nam hiện nay, người Hoa chiếm một tỷ lệ khá cao. Họ là một lực lượng
kinh tế - xã hội quan trọng của Việt Nam. Trong quá khứ cũng như trong
hiện tại, người Hoa đã có một vị trí quan trọng trong các hoạt động kinh tế,
văn hoá xã hội của Việt Nam.
Nhằm tăng thêm tình hữu nghị cũng như mối quan hệ đoàn kết giữa
hai nước Việt Nam và Trung Quốc, nhằm giúp các cộng đồng người Hoa ở
Việt Nam hiểu rõ nguồn gốc di cư, quá trình phát triển của họ như thế nào
thì việc tìm hiểu cộng đồng người Hoa ở Việt Nam mà đặc biệt là người
hoa ở vùng đất Nam Bộn là điều cần thiết, nhất là từ khi vùng đất này được
khia phá và mở mang.
1
Nghiên cứu đề tài này không nững có ý nghĩa khoa học mà còn có ý
nghĩa thực tiễn. Thông qua việc phân tích vai trò của người Hoa đối với sự
phát triển kinh tế , chính trị, văn hóa- xã hội ở vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ


XVI đến thế kỷ XIX khoá luận sẽ giúp chúng ta có những đánh giá đúng
đắn về vai trò của người Hoa đối với sự phát triển mọi mặt ở xứ này. Từ đó
thấy được mối quan hệ, tình đoàn kết giữa hai nước Việt Nam – Trung
Quốc trong quá khứ cũng như trong hiện tại.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài:
“Vai trò của người Hoa đối với sự phát triển của vùng đất Nam Bộ
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề
Xung quanh vấn đề người Hoa ở Việt Nam nói chung, vùng đất
Nam Bộ nói riêng đã thu hút đông đảo học giả trong và ngoài nước nghiên
cứu. Có rất nhiều công trình chuyên biệt đề cập đến vai trò của người Hoa.
Trong đó có thể kể đến:
Cuốn “Vai trò người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á”
của tác giả Trần Khánh đã trình bày về đặc điểm tình hình cộng đồng người
Hoa và các hoạt động kinh tế ở Đông Nam Á trước thời kỳ nô dịch và
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân. Các hoạt động kinh tế của người Hoa
trong điều kiện xâm nhập và bành trướng của tư bản phương Tây. Vai trò
của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai đến nay.
Cuốn “Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ
XVII – XVIII” của Li Tana, do Nguyễn Nghị dịch đã nghiên cứu về lịch sử
kinh tế- xã hội xứ Đàng Trong (miền Nam Việt Nam) thế kỷ XVII-XVIII.
Khắc họa một vương quốc phía Nam dưới triều Nguyễn, kinh tế , thương
mại , hệ thống tiền tệ…Đặc biệt là về vai trò của các thương nhân đối với
sự phát triển của xứ này, trong đó có các thương nhân người Hoa.
2
Cuốn “Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỷ XVII đến
năm 1945)” của tác giả Nguyễn Cẩm Thuý trình bày về làn sóng di cư, tổ
chức chính trị xã hội của người Hoa cũng như hoạt động kinh tế của người
Hoa ở Nam Bộ.

Cuốn “Người Hoa ở Nam Bộ” của tác giả Phan An đã trình bày tổng
quan về người Hoa ở Nam Bộ: dân cư, hiện trạng, nguồn nhân lực, lối
sống, tín ngương, tôn giáo, chùa Hoa.
Cuốn”Người Hoa Việt Nam và Đông Nam Á- hình ảnh hôm qua và
vị thế hôm nay” của tác giả Châu Thị Hải giới thiệu tên gọi, khái niệm và
quá trình hình thành các nhóm cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á. Lịch
sử hiện trạng và xu hướng phát triển các loại hình liên kết truyền thống của
người Hoa. Các mối liên kết của người Hoa với cộng đồng cư dân bản địa.
Vai trò và vị trí kinh tế của người Hoa ở các nước Đông Nam Á, trong đó
có Việt Nam.
Cuốn“ Việt sử xứ Đàng Trong (1558-1777) cuộc Nam tiến của dân
tộc Việt Nam” của tác giả Phan Khoang đã trình bày lịch sử cư trú và hoạt
động kinh tế của người Hoa tại Nam Bộ, tình hình kinh tế-xã hội của người
dân Nam Bộ trong thời gian này.
Luận án phó tiến sĩ sử học “ Tim hiểu sự hình thành các nhóm cộng
đồng người Hoa ở Việt Nam trong bối cảnh lịch sử Đông Nam Á” dã trình
bày về làn sóng di cư đến Việt Nam trong bối cảnh lịch sử chung của các
nước Đông Nam Á. Những loại hình liên kết của các nhóm cộng đông
người Hoa ở Việt Nam. Vai trò, vị trí của người Hoa trong đời sống kinh
tế, xã hội ở Việt Nam và Đông Nam Á.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu về vấn đề
người Hoa ở xứ Đàng Trong như: Sự xâm chiếm Nam Kỳ bởi nhà Nguyễn
và vai trò của người Hoa di cư (Boudet, Hà Nội, 1943); Mạc Cửu và đất Hà
Tiên (Anh Nguyễn văn hoá nguyệt san Sài Gòn năm 1957); Họ Mạc và
3
chúa Nguyễn tại Hà Tiên (Trần Kính Hoà, Văn hoá Á Châu, Sài Gòn
1957); Lịch sử Hoa Kiều tại Việt Nam (Tân Việt Điểu, Văn hoá nguyệt
san, Sài Gòn 1961); Cổ điển học Trung Hoa ở Viẹt Nam xưa (Nguyễn
Khắc Phạm, Việt Nam khảo cổ tập san, Sài Gòn,năm 1971); Chính sách đối
với dân Trung Hoa di cư của các triều đại Việt Nam (Fuzuwana Riichirô,

Việt Nam khảo cổ tập san, Sài Gòn, 1979) và hàng loạt các công trình
nghiên cứu khác có đề cập đến vai trò của người Hoa ở xứ Đàng Trong ở
những khía cạnh khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn chung phần lớn tài liệu nghiên cứu vấn đề này mới
chỉ đề cập một cách lẻ tẻ, phân tán. Nhiều tài liệu tham khảo nếu so sánh
đối chiếu dễ nhận ra sự so le, thiếu nhất quán, thậm chí khó hiểu và mâu
thuẫn. Trên cơ sở những nguồn tài liệu quan trọng đó, người viết muốn đưa
ra một cái nhìn hệ thống, toàn diện và cụ thể về vai trò của người Hoa đối
với sự phát triển kinh tế,chính trị văn háo- xã hội ở vùng đất Nam Bộ này.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Vai trò của người Hoa đối với sự
phát triển của vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX ”.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết đứng trên quan điểm Mác xit,
vận dụng đường lối của Đảng ta về đường lối đối ngoại và những vấn đề
quốc tế để làm cơ sở phương pháp luận cho việc tiếp cận, phân tích, đánh
giá vấn đề.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là những phương pháp cơ
bản được vận dụng để nghiên cứu đề tài này. Trên cơ sở những sự kiện cụ
thể và hoạt động của người Hoa trong các lĩnh vực kinh tế,chính trị,văn hoá
– xã hội, người viết rút ra những đánh giá kết luận về vấn đề nghiên cứu.
4
Ngoài ra, người viết còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
khác như: phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp để làm rõ
những vấn đề nội dung của khoá luận.
5. Đóng góp của khoá luận
Qua khoá luận này, người viết mong muốn góp phần làm sáng tỏ một
số vấn đề sau:
- Vai trò của người Hoa đối với sự phát triển của vùng đất Nam Bộ
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.

- Mối quan hệ của người Hoa đối với người Việt trong quá khứ.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận có hai chương:
Chương I: Khái quát quá trình hình thành và phát triển của người
Hoa ở Việt Nam
Chương II: Vai trò của người Hoa đối với sự phát triển của vùng đất
Nam Bộ từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX
5
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM
1.1. Quá trình di cư cỉa người Hoa vào Việt Nam
Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại xảy ra một hiện tượng
vừa mang tính xã hội, vừa thể hiện quá trình phát triển tộc người của các
dân tộc, đó là hiện tượng di dân. Có lẽ trong quá trình phát triển của mình,
không một quốc gia nào trên thế giới lại không xảy ra quá trình di dân với
những nguyên nhân chính trị - kinh tế- xã hội hết sức khác nhau. Những đợt
di dân thường xuyên với những thời gian và cường độ khác nhau đã làm
thay đổi lãnh thổ tộc người và cơ cấu dân cư, bức tranh văn hoá cũng xuất
hiện những gam màu khác nhau, một khi xảy ra những cuộc di dân lớn có
thể làm nảy sinh ra những cộng đồng tộc người mới với những lãnh thổ tộc
người cũng được tổ hợp lại. Cuộc di dân của người Thái về phương Nam đã
làm thay đổi cơ cấu tộc người và địa bàn cư trú của dân bản địa. Giữa cư
dân bản địa và cư dân mới đến đã diễn ra một quá trình giao lưu kinh tế,
văn hoá với nhiều nét đặc săc
Việt Nam - một đất nước liền kề với Trung Quốc có đất đai phì
nhiêu, tài nguyên thiên nhiên phong phú. Thật khó xác định chính xác
những người Hoa đầu tiên đã đến Việt Nam từ bao giờ, nhưng sự hiện diện
của họ trên mảnh đất này đã ghi nhận cách đây trên 2000 năm. Đúng như
Raymon. S de Seaghet trong sách ”Người Hoa tại Việt Nam” đã viết: “Thật

khó xác định những người Hoa đầu tiên đến Việt Nam khi nào, nhưng tối
thiểu là từ hai nghìn năn nay rồi”[37;3]. Vào thế kỷ thứ II TCN, một nhà
cai trị người Hoa đã thiết lập vương quốc Nam Việt. Khi vương quốc này
sụp đổ vào năm 111 TCN, vùng đất này trở thành một tỉnh của đế quốc
6
Trung Hoa. Tình trạng này kéo dài một ngàn năm, cũng theo Raymon. S de
Seaghet “Người Hoa tiếp tục di dân xuống phía Nam ngay cả khi Việt Nam
giành được độc lập vào năm 939, một nền độc lập được kéo dài liên tục,
ngoại trừ một giai đoạn ngắn dưới quyền cai trị của người Trung Hoa trong
những năm 1400, cho tới khi Pháp xâm chiếm nước này vào thập niên
1860”[37;3]. Các dợt di dân lớn của người Hoa sang Việt Nam đã được ghi
lại trong sử sách của Trung Quốc và Việt Nam như ”Sử kí Tư Mã Thiên”,
“Hậu Hán thư”, “Hoài Nam Tử”, “Tam Quốc chí”, “Ngô Việt Xuân Thu”,
“Minh thực lục”,” Ức Trai thi tập”, “Đại Việt sử kí toàn thư”, “Lịch triều
hiến chương loại chí”, ”An Nam chí lược”, “Đại Nam thực lục tiền biên”
Cuộc di dân lớn đầu tiên của người Hoa xuống phương Nam được
bắt đầu từ chính sách Nam tiến của các triều đại phong kiến Trung Quốc.
“Năm thứ 33 (214 TCN) Tần Thuỷ Hoàng sai tất cả bọn lang thang, vô
thừa nhận, bọn ăn không ngồi rồi và bọn con buôn đi chiếm đất Lục Lương.
Ông lập ra các quận Quế Lâm (Quảng Tây), Nam Hải (Quảng Đông) và
Quận Tượng (An Nam) và đầy những kẻ có tội đến ở đó để giữ”. “Khi Tần
Thuỷ Hoàng đã thôn tính thiên hạ và dẹp yên Dương Việt thì lập ra các
quận Quế Lâm, Nam Hải và Quận Tượng. Trong mười ba năm ông bắt bọn
côn đồ tù tội đem đến các nơi ở với dân Việt”[37;4]. Hai đoạn trích trên
trong” Sử ký Tư Mã Thiên” cho thấy đoàn quân viễn chinh này không chỉ
có nhiệm vụ đánh chiếm đất, mà với thành phần cấu tạo của nó, nhà nước
phong kiến Trung Quốc đã có ý định chuẩn bị cho họ ở lại lâu dài trên
vùng đất mới chiếm.
Tiếp đó, vào cuối thế kỷ II TCN (năm 111 TCN), nước Âu Lạc của
người Việt bị nhà Hán chinh phục và bị sát nhập, trở thành quận, huyện của

đế quốc Hán. Từ thời điểm đó cho đến tận thế kỷ X, miền Bắc Việt Nam
ngày nảy trở thành một trong những nơi dừng chân trú ngụ của dân tị nạn,
7
những người di cư tự do và lính đồn trú Trung Hoa từ phương Bắc xuống.
Trong số những người di cư xuống phương Nam có cả tầng lớp thương gia
giàu có, quan lại, nho sĩ bất mãn với triều đình trong đó có cả nhà sư. Qua
nhiều thế hệ, một bộ phận trong số người di cư này đã kết hôn với người
bản địa và trở thành người địa phương thực thụ.
Theo các tài liệu lịch sử thì số người có gốc Hán cư trú trên đất Việt
Nam lúc đó lên tới hàng chục vạn người. Để dễ bề cai trị và phòng ngừa bất
trắc có thể làm tổn hại đén an ninh quốc gia, Ngô Quyền sau khi giành
được độc lập cho dân tộc (thế kỷ X) đã đưa trở lại Trung Hoa 87 ngàn
người Hán. Phần lớn trong số này là quan lại cai trị, binh lính và gia đình
của họ. Mặc dầu vậy, ở Việt Nam lúc đó có rất nhiều người Trung Hoa tự
nguyện ở lại Việt Nam sinh sống. Những người này được ghi vào sổ đinh
như những cư dân bản địa.
Từ thế kỷ X trở đi, dòng người Trung Hoa tiếp tục vào Việt Nam.
Giống như trước đây, dòng người Trung Hoa di cư rất đa dạng về thành
phần xã hội. Nhưng khác với giai đoạn hơn một nghìn năm Bắc thuộc, từ
thế kỷ thứ X Việt Nam ngày càng tiếp nhận nhiều hơn, quy mô lớn hơn
dòng người tị nạn Trung Hoa (đặc biệt là tị nạn chính trị) và dân di cư tự
do, trong đó có các thương nhân. Các nguồn thư tịch cổ Việt Nam ghi lại
rằng thời kỳ quân Nguyên Mông, tiến đánh Nam Tống và thiết lập ách cai
trị tại Trung Quốc (1279 – 1368) có hàng chục vạn người Hán phải chạy
lánh nạn ra nước ngoài. Chẳng hạn vào năm 1257, khi quân Nguyên tiến
vào Nam Tống, nhiều quan lại và binh lính Trung Hoa bỏ chạy sang nước
Đại Việt, trong số đó có Hoàng Vĩnh Mạc - một quan lại cấp cao của Nam
Tống. Vua Đại Việt lúc đó là Trần Thánh Tông đã cho phép các người tị
nạn này định cư tại Thăng Long.
8

Tương tự, vào năm 1276 khi Hàng Châu - thủ đô của Nam Tống thất
thủ thì làn sóng di cư của người Trung Hoa ra nước ngoài tăng cao hơn,
trong đó có 30 chiến thuyền của Nam Tống vượt biên bỏ chạy sang các
nước Đông Nam Á. Có nhiều tàu chiến đến Việt Nam để xin tị nạn, trong
đó thuyền của Đỗ Tôn, Trọng Trung và Tăng Uyên Tử. Nhà Trần đã chấp
nhận lời thỉnh cầu xin tị nạn của những người này và họ được phép định cư
tại kinh thành Thăng Long. Những người tị nạn Trung Hoa xuất thân từ
thành phần quan lại, tầng lớp trí thức được chính quyền nhà Tần đối đãi tử
tế và nhiều người trong số họ được trọng dụng, làm quan trong triều. Yếu
tố này đã làm cho một bộ phận người Trung Hoa di trú có điều kiện thuận
lợi để hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam.
Cuộc chiến tranh xâm lược do nhà Minh phát động đối với Đại
Việt và sự chiếm đóng của họ tại đây trong những năm 1418 – 1428
cũng tạo ra đợt di cư mới của người Trung Hoa. Cũng giống như các
cuộc hành quân cướp bóc và thôn tính trước đây, quân đồn trú Trung
Hoa được triển khai đông đảo ở những nơi chúng chiếm được và thực
hiện chính sách đồng hoá cao độ trong đó có việc tiêu huỷ các di sản văn
hoá của Đại Việt, gia tăng truyền bá văn hoá Hán và khuyến khích binh
lính kết hôn với người địa phương.
Sử sách có ghi lại rằng, sau khi ĐạiViệt đánh đưổi được quân Minh
xâm lược có rất nhiều binh lính Trung Hoa bị bắt làm tù binh không muốn
về nước, xin ở lại Việt Nam sinh sống. Một số khác thì không được phép trở
về Trung Hoa, những người này bị kiểm soát một cách gắt gao. Họ không
được thay đổi chỗ ở hoặc tự do đi lại nếu như không được phép của chính
quyền sở tại, và phải ăn mặc, sinh hoạt theo tập quán của người Việt. Đối
với những người Trung Hoa nhập cư nhưng là tầng lớp thương gia thì chính
quyền Lê Sơ lúc đó (1428 – 1592) cũng rất dè dặt với họ. Những người này
9
bị đánh thuế rất cao đối với các mặt hàng buôn bán của mình và không được
phép kinh doanh những mặt hàng như sách báo và các loại văn hoá phẩm

khác có xuất xứ từ Trung Quốc. Lê lợi, sau đó là Lê Thánh Tông, với mong
muốn củng cố nền độc lập chính trị với Trung Quốc, ngăn ngừa sự phá hoại
từ bên trong và củng cố bản sắc quốc gia, dân tộc Đại Việt nên đã đưa ra một
số chính sách khá khắt khe với người Trung Hoa di trú. Chính sách kiểm
duyệt gắt gao đối với kiều dân Trung Hoa dưới thời Hậu Lê dã góp phần hạn
chế dòng người Hoa di cư đổ vào Việt Nam, làm chậm qúa trình hình thành
cộng đồng người Hoa di trú như một thực thể tương đối ổn định, thường
xuyên trong cơ cấu xã hội ở Việt Nam ở thế kỷ XV – XVI.
Vào thế kỷ XVII, sự gia tăng một cách dòng người Trung Hoa di cư
ra nước ngoài đã tạo ra một bước ngoặt trong sự hình thành cộng đồng này
tại tại Việt Nam. Đó là sự sụp đổ của nhà Minh (Mãn Thanh lật đổ vào năm
1644). Nhằm đè bẹp những lực lượng chống đối trung thành với nhà Minh
và bình định những vùng đất còn lại, nhà Thanh trong những năm 70 – 80
của thế kỷ XVII đã mở những cuộc hành quân lớn vào các tỉnh phía Nam
Trung Quốc, nơi ẩn náu phần lớn toàn quân của nhà Minh. Để thoát khỏi bị
tiêu diệt, một bộ phận khá lớn quân trung thành với nhà Minh đã chạy sang
các nước Đông Nam Á xin tị nạn, trong đó có Việt Nam.
Các thư tịch cổ Việt Nam đã ghi lại rằng vào tháng giêng năm 1679
có một bộ phận khá lớn quân trung thành với nhà Minh gần 3000 người với
50 chiến thuyền do Dương Ngạn Dịch và Trần Thượng Xuyên chỉ huy vượt
biển chạy sang vùng đất Đàng Trong xin tị nạn. Chúa Nguyễn (lúc đó là
Nguyễn Phúc Tần) muốn sử dụng những người Trung Hoa di cư này để
khai khẩn đất hoang ở vùng đất phía Nam, nên đã đồng ý cho họ vào vùng
đất Đông Phố (ngày nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai)
sinh cơ lập nghiệp. Sau khi được phép định cư tại những địa phương trên,
10
họ đã lập nên những làng, phố kiểu Trung Hoa. Các chùa chiền, hội quán,
cơ sở chữa bệnh, giáo dục của họ lần lượt ra đời. Trong sử sách thường gọi
những người Trung Hoa di cư thế kỷ XVI – XVIII là Minh Hương. Nhờ
môi trường làm ăn thuận lợi nên khu vực này không những thu hút nhiều

người Trung Hoa di cư mới đến vùng Đông Phố, mà còn cả những khách
buôn người Arập, Nhật Bản, Ấn Độ và Châu Âu.
Từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII trở đi càng có thêm nhiều
người Trung Hoa nhập cư vào Việt Nam. Một trong số đó có nhóm dân tị
nạn chiến tranh do Mạc Cửu dẫn đầu gồm 400 người đến vùng đất Hà Tiên.
Họ cũng là tàn quân của nhà Minh, sau khi kháng chiến chống Thanh thất
bại tìm đường đến Đàng Trong xin cư trú chính trị. Chúa Nguyễn đã cho
phép những người này sinh cư lập nghiệp và trở thành thần dân của triều
đình. Năm 1708, chúa Nguyễn chấp nhận lời thỉnh cầu của Mạc Cửu cho
ông làm Thống đốc Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất (năm 1735), con của
ông là Mạc Thiên Tích nối nghiệp cha trị vì vùng đất này. Những người
Trung Hoa di trú tại đất Hà Tiên dưới sự lãnh đạo của dòng họ Mạc (đặc
biệt dưới thời Mạc Thiên Tích) đã xây thành, mở chợ, đúc tiền đồng, phát
triển thủ công mỹ nghệ và xây dựng trường học. Họ đã biên vùng đất Hà
Tiên thành một trong những trung tâm thương nghiệp và truyền bá văn hoá
Trung Hoa ở ĐÀng Trong Đại Việt và Campuchia ở thế kỷ XVIII.
Như vậy, từ cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, khắp ba miền Bắc –
Trung – Nam của Đại Việt đã hình thành nên các cộng đồng dân cư của
người Hoa di trú tương đối ổn định và có vai trò quan trọng trong cơ cấu
dân cư – dân tộc và kinh tế - xã hội của Đàng Trong. Từ thời điểm này trở
đi (cuối thế kỷ XVII), Nam Bộ - miền đất mới của Việt Nam trở thành nơi
thu hút phần lớn dân Trung Hoa nhập cư trên phạm vi cả nước. Cả làng ,
phố của người Hoa di trú được hình thành ở những trung tâm kinh tế, chính
11
trị và văn hoá của Việt Nam như ở Trấn Biên (Biên Hoà), Phiên Trấn (Gia
Định), Hà Tiên, Hội An, Thanh Hà (Huế), Phố Hiến, Thăng Long Hầu
hết người trung Hoa di trú gọi làng, phố của mình là làng, phố Minh Hương
hay Thanh Hà. Từ thế kỷ XVII trở đi, những nơi có đông người Hoa sinh
sống trở nên sầm uất, thương mại và nghề thủ công phát triển nhanh. Và
cũng từ thời gian này, tầng lớp nhà buôn người Hoa tại Việt Nam bắt đầu

được hình thành và sau đó họ có vai trò quan trọng trong việc môi giới –
buôn bán giữa Việt Nam với nước Ngoài, giữa người sản xuất và tiêu dùng
của cư dân bản địa.
1.2. Quá trình di cư của người Hoa vào Nam Bộ từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XIX
1.2.1. Các giai đoạn của quá trình di cư
1.2.1.1. Giai đoạn I (từ cuối thế kỷ XVI đến trước năm 1645)
Giai đoạn này có hai sự kiện chính: năm 1567, Minh Mục Tông
xuống lệnh cho phép thương nhân được xuất dương buôn bán sau gần 200
năm duy trì lệnh hải chỉ ; Sự kiện thứ hai: năm 1600, Nguyễn Hoàng về lại
Thuận Quảng, bắt đầu thực hiện ý đồ li khai, cát cứ, đã mở cửa từ để người
Hoa có thể đi lại hợp pháp. Các cảng biển ở Thuận Quảng cũng mở cửa
đón người Hoa đến vì chúa Nguyễn đang cố gắng phát triển ngoại thương
để thoả mãn các nhu cầu ở Đàng Trong. Nhiều thương thuyền ở Trung Hoa
đã đến buôn bán với Thuận Quảng, nhiều người trong số họ đã ở lại Đàng
Trong làm ăn lâu dài, nhất là ở hai trung tâm Hội An và Thanh Hà.
1.2.1.2. Giai đoạn II (từ 1645 đến 1678)
Giai đoạn này được bắt đầu từ khi người Mãn Thanh chiếm được
Trung Hoa, cơ bản thiết lập chế độ cai trị đến năm 1678, khi nhà Thanh hạ
lệnh “Thiên giới” buộc dân duyên hải phải rời vào nội địa và cấm giao
thương hải ngoại. Sự kiện đáng lưu ý là trong thời gian này là tháng 8 năm
12
1645, triều đình Mãn Thanh lệnh “chi phát nghiêm chỉ” bắt dân cắt tóc và
theo tục người Thanh bím tóc đuôi sam, đồng thời thi hành các chính sách
cai trị độc đoán, hà khắc. Nhiều người Hoa xem lệnh cắt tóc là biến động
xúc phạm đến văn hoá Trung Hoa, đồng thời bất mãn với chế độ cai trị
Mãn Thanh đã rời bỏ đất nước ra đi, tìm đất sống ở các nơi khác, trong đó
có Đàng Trong. Tiêu biểu cho các nạn dân di cư này là trường hợp của mạc
Cửu và Trịnh Hội (là ông nội của Trịnh Hoài Đức sau này).
1.2.1.3. Giai đoạn III (từ 1678 đến trước năm 1685)

Bối cảnh của giai đoạn này là cuộc kháng chiến “phản Thanh phục
Minh” của Trịnh Thành Công ở Đài Loan và “Loạn Tam Phiên” do Mãn
Thanh cấm dân duyên hải ra biển nhằm cô lập, cấm vận quân kháng chiến
Đài Loan nên Trịnh Thành Công phải đưa thương thuyền đến nhiều nước ở
Đông Nam Á, trong đó có Đàng Trong để mua lương thực, khí tài. Một số
người Hoa trong số họ đã ở lại Đàng Trong. Đến khi phong trào kháng
chiến ở Đài Loan tan vỡ năm 1683, các di thần nhà Minh đã kéo nhau ra đi,
đến Đàng Trong định cư lâu dài. Tiêu biểu là đoàn người 3000 binh lính
với trên 50 chiến thuyền của Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch.
1.2.1.4. Giai đoạn IV (từ năm 1685)
Sự kiện đáng lưu ý là năm 1865, Thanh Thánh Tổ đã ban hành
“Triển hải lệnh” cho phép nhân dân được vượt biển đi các nước buôn bán.
Đông đảo người Hoa đã đến định cư ở Đàng Trong trong giai đoạn này. Họ
chủ yếu là dân thường di cư vì kế sinh nhai và các lí do khác.
Nói tóm lại, trong 4 giai đoạn trên, giai đoạn III đáng được chú ý với
cuộc di cư có quy mô lớn của các di thần nhà Minh. Tuy nhiên giai đoạn từ
1865 trở đi có ý nghĩa rất quan trọng, cuộc chiến tranh dai dẳng hơn 40
năm giữa Trịnh - Nguyễn đã chấm dứt với thế cân bằng, tình hình chính trị,
13
xã hội. Đại Việt dần tương đối ổn định trở lại. Cả một vùng lãnh thổ rộng
lớn trải dài từ Thuận Quảng đến Cà Mau đang chờ đợi bàn tay lao động của
con người đến từ mọi miền, trong đó có một bộ phận lớn người Hoa.
1.1.2. Nguyên nhân của các cuộc di cư của người Hoa đến Nam Bộ
Nếu như trước thế kỷ XVI phần lớn người Hoa sang Việt Nam vì mục
đích kinh tế (các thương nhân buôn bán làm ăn, nông dân sang khai khẩn đất
đai) thì thời kỳ này, bên cạnh nguyên nhân kinh tế, nguyên nhân chính trị xã
hội đóng vai trò chủ đạo. Đương nhiên xứ Đàng Trong là vùng đất mới khai
khẩn, đất rộng, người thưa, sản vật tự nhiên dồi dào, phong phú. Thêm vào
đó, khu vực này có hệ thống sông dày đặc, thuận tiện cho việc đi lại bằng
thuyền bè, là cơ sở cho việc phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ. Vì thế di

dân người Hoa đến đây, ai giỏi buôn bán thì đi vào hoạt động buôn bán. Ai
không có tài buôn bán thì làm ruộng, khai hoang, thu nhặt lâm sản…Cuộc
sống có phần dễ chịu hơn rất nhiều so với ở Trung Hoa.
Thêm vào đó , vào thế kỷ thứ XVII - XVIII, ở Trung Hoa đã xảy ra
bạo loạn và biến động lớn. Đặc biệt la vào năm 1644 triều Minh bị triều
Mãn Thanh lật đổ. Đây là một triều đại ngoại tộc nên vấp phải nhiều sự
phản đối của nhân dân Trung Hoa mà đại đa phần là người Hán.Sau khi
chiếm đoạt Bắc Kinh quân Mãn Thanh đã mở những cuộc hành quân càn
quét với quy mô lớn kéo dài nhiều năm để bình định các tỉnh phía Nam
Trung Quốc,nơi cố thủ cuối cùng của một lực lượng khá lớn quân nhà
Minh.Phải vất vả lắm, sau gần bốn thập kỷ (1644 - 1683) phong kiến Mãn
Thanh mới chinh phục được ổ kháng cự cuối cùng trên đảo Đài Loan do
tướng Trịnh Thành Công chỉ huy.
Vì thế những vỗ quan quân đội, những người có tư tưởng chung
thành với nhà Minh đã lần lượt di cư ra nước ngoài, đặc biệt là đến khu vực
Đông Nam Á trong đó có Việt Nam nhằm tránh sự trả thù của chính phủ
14
Mãn Thanh. Rồi loạn Tam Quế ở miền Nam Trung Hoa gây bao loạn lạc.
Có lẽ đây là nguyên nhân chủ yếu trong công cuộc di cư của người Hoa.
Cũng có thể vì nguyên nhân chính trị nên hình thức di dân lần này có mang
tính chất tập đoàn quy mô lớn. Trong khi nếu chỉ vì nguyên nhân kinh tế,
hình thức chủ yếu là các nhóm nhỏ, số lượng ít hơn nhiều.
Mặt khác, giũa người Việt và người Hoa vốn đã có lắm điểm tương
đồng về chủng tộc. Thêm vào đó, tôn giáo và văn hóa, lối sống nói chung
của người Hoa di chú và người Việt hầu như không có khác biệt lớn với
người bản địa. Điều này có nghĩa là người Trung Hoa khi đến Đại Việt, đặc
biệt là vùng Nam Bộ, không cần phải thay đổi hay điều chỉnh nhiều về lối
sống của mình có thể dễ dàng hòa nhập vào đời sống xã hội của nhân dân
nơi đây.
Chúng ta, thử so sánh người Hoa với người Nhật. Rõ ràng người Hoa

có thể di cư tới nhiều nơi trên đất nước Việt Nam và làm nhiều việc để sinh
sống cũng như sống xen kẽ với người Việt. Còn người Nhật có rất ít, tập
trung ở khu vực Hội An và có lẽ ít tiếp xúc với những vùng nông thôn dù là
vùng lân cận về phương diễn văn hóa, tâm lý… Người ta chỉ biết đến các
thương nhân người Nhật đến buôn bán, Hội An đã hưng thịnh trước tiên
bởi các thương nhân Nhật Bản, chứ không có sử sách nào ghi kĩ về nếp
sống hay phong tục của người Nhật.
Song đặc biệt, chính sách của chúa Nguyễn và sau đó là chiều
Nguyễn đối với người Hoa di cư trong thế kỉ XVII – XIX cũng ảnh hưởng
sâu sắc đến dòng nhập cư của người Hoa vào vùng Nam Bộ.
Như đã đề cập từ nửa sau thế kỉ XVII, chúa Nguyễn đã sử dụng dân
tị nạn chính trị Trung Hoa để khai khẩn vùng đất mới Nam Kỳ, cho họ sinh
cơ lập nghiệp ở đó. Từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nhà Nguyễn trở nên thực tế
hơn trong quan hệ với kiều dân Trung Hoa. Biểu hiện trong chính sách này
15
là chúa Nguyễn đã dành cho họ nhiều ưu đãi đặc biệt mà các kiều dân khác
không được hưởng. Ví dụ như các thuyền tàu buôn của người Trung Hoa
cập bền tại Việt Nam chỉ phải nộp 2000 - 3000 quan tiền thuế nhập cảng,
trong khi đó tàu thuyền của các nước Âu Châu phải đóng tới 8000
quan.Tháng 6 năm 1834, tàu của các nước Anh cập bến Thị Nại (Bình
Định). Chính quyền nhà Nguyễn định tẩy chay tàu buôn này. Nhưng do
nhìn thấy trong tàu có người Trung Hoa và những người này xin phép
được lên bờ. Vua Minh Mệnh đã chấp nhận lời thỉnh cầu đó.
Thêm vào đó, nhà Nguyễn không có những cản trở gì đối với việc
buôn bán các mặt hàng khác nhau của người Trung Hoa di trú trên đất Việt
Nam, mà còn cung cấp thẻ bài, đặc biệt trong kinh doanh lúa gạo. Chính
những yếu tố này đã tạo ra những yếu tố thuận lợi cho kiều dân Trung Hoa
ở Nam Kỳ thiết lập vị thế kiểm soát của họ trong lĩnh vực kinh doanh lúa
gạo của Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.
Ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác như khai thác mỏ, kinh doanh

đồn điền v.v… thì người Trung Hoa di trú cũng được nhận sự ưu đãi từ
phía nhà Nguyễn. Theo luật pháp được ban hành ở nửa đầu thế kỷ XIX,
người Trung Hoa đến Việt Nam định cư, sinh sống được nhà chức trách
cho miễn thuế tất cả các loại thuế trong ba năm đầu. Họ được ở tất cả các
hoạt dộng kinh tế trong đó có khai thác mỏ quặng và kinh doanh đồn điền.
Nếu họ không có điều kiện mua nhà và khai khẩn đất đai thì nhà nước cho
họ vay vốn. Nếu như họ kinh doanh trong nghành khai thác mỏ thì được
phép tuyển chọn, thuê nhân công. Chính vì vậy, không những khuyến khích
thêm nhiều người Hoa nhập cư vào Việt Nam, mà còn thúc đẩy quá trình
tích lũy vốn, kinh nghiệm và các mối quan hệ bạn hàng cho sự ra đời tầng
lớp nhà buôn, nhà thầu khoán Hoa Kiều và sau đó người Hoa ở giai đoạn
tiếp theo của lịch sử Việt Nam.
16
Về phương diện văn hóa - xã hội, nhà Nguyễn cho phép kiều dân
Trung Hoa lập nên các bang hội truyền thống của họ. Tổ chức đồng hương
(bang) của người Trung Hoa di trú đầu tiên được thành lập vào năm 1789.
Bang được thành lập trên cơ sở những người đồng hương, có chung thổ
ngữ. Mỗi bang được bầu ra bang trưởng để điều hành công việc trong bang.
Việc hình thành nên các bang một phần nào đó giúp cho chính quyền nhà
Nguyễn có điều kiện để quản lí hay kiểm soát việc nhập cư của người
Trung Hoa nói riêng, hoạt động của kiều dân Trung Hoa nói chung. Quan
trọng hơn, sự ra đời các bang trước hết đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa
- xã hội và sự tìm kiếm thêm phương tiện để bảo vệ của cải vật chất cũng
như sự an toàn tính mạng của người Hoa di trú nơi đất khách quê người.
Cùng với các yếu tố khác, tổ chức bang đã góp phần quan trọng
trong việc duy trì bản sắc văn hóa Trung Hoa, đặc biệt với quá trình liên
kết hóa tộc người và xã hội của cộng đồng người Hoa ở Việt Nam nói
riêng, ngoài lãnh thổ Trung Hoa nói chung.
Nói tóm lại, chúa Nguyễn, sau đó là triều Nguyễn trong những thế kỉ
XVII- XIX đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi không những cho việc định

cư, mà cho cả hoạt động sinh lời của họ. Điều này chứng tỏ rằng hoạt động
buôn bán và sản xuất hàng thủ công của người Hoa di trú không mâu thuẫn
với quyền lợi kinh tế của giai cáp thống trị Việt Nam. Nhằm để tăng thu
các nguồn lợi gián tiếp từ những việc buôn bán - trao đổi và tận dụng tay
nghề của kiều dân Trung Hoa, nên nhà Nguyễn luôn tỏ ra thân thiện với
họ.Mặt khác, thông qua quan hệ ”cộng sinh” này, triều Nguyễn muốn thắt
chặt mối quan hệ phong kiến Trung Hoa với ý thức hệ Khổng giáo, tạo
thêm chỗ dựa chính trị-xã hội, nhằm chống lại sự xâm nhập và bành trướng
của văn hóa phương Tây.
17
Nhìn chung, có thể nói rằng dân Trung Hoa đến xứ Đàng Trong bởi
cả ba nguyên nhân:nguyên nhân kinh tế, nguyên nhân chính trị và nguyên
nhân xã hội, trong đó thì lý do chính trị tạo cho những người di cư này có
những đặc thù nhất định.
1.2.3 Những đặc điểm đáng lưu ý của công đồng người Hoa ở Nam Bộ.
* Đa dạng về thành phần
Người Hoa đến Đàng Trong bao gồm những nạn dân, di thần nhà
Minh, các thương nhân, trí thức Nho giáo, Phật giáo…Trong họ có cả quan
hệ chính trị - xã hội đan xen khá phức tạp, nhất là trong thời gian các trung
tâm ”phản Thanh phục Minh” còn hoạt động. Phần đông trong số họ là
những người nghèo khổ, phải tha phương cầu thực, nhưng trong họ cũng có
cả những tầng lớp trên và những thương gia giàu có.
* Đa dạng về hình thức kiên kết cộng đồng
Cộng đồng người Hoa ở Đàng Trong liên kết với nhau bàng các hình
thức khá đa dạng. Đó là các hội quán đồng hương như Phúc Kiến hội quán,
Triều Châu hội quán ở Hội An, Thuận Hóa, Gia Định: hình thức kiên kết
theo nghề như Dương Thương hội quán ở Hội An: kiên kết theo quan hệ
thân tộc huyết thống như các kiến họ Ngụy, Trang, Ngô, Thiệu, Hứa, Ngũ
ở Hội An, họ Trịnh ở Biên Hòa, họ Mạc ở Hà Tiên…Tuy nhiên, điều đó có
thể khẳng định là trong các hình thức liên kết cộng đồng của người Hoa ở

Đàng Trong, hình thức liên kết theo làng xã là chủ yếu. Mặt khác, trong
cộng đồng người Hoa ở Đàng Trong, thời kỳ này, hình thức kiên kết theo
kiểu tổ chức các bang hình thành, người Hoa thuộc nhiều địa phương quê
quán khác nhau mới liên kết tự nhiên theo hình thức chủ yếu là các hội
quán đồng hương.
18
* Không biệt lập, khép kín, luôn thích nghi, năng động
Các tụ điểm tập trung của cộng đồng người Hoa ở Đàng Trong lúc
này chưa phải là những xã hội Trung Hoa truyền thống thu nhỏ, chưa mang
tính biệt lập và khép kín. Đặc điểm này do nhiều yếu tố kinh tế, chính trị,
xã hội quy định, trong đó yếu tố chi phối quan trọng là tỉ lệ nữ còn thấp,
thời gian định cư còn ngắn, cơ sở kinh tế của người Hoa mới chỉ bước đầu
hình thành.
Trong quá trình sinh sống, gắn bó với người Việt và thích nghi toàn
diện với xã hội Việt Nam để tồn tại và phát triển, cộng đồng người Hoa ở
Đàng Trong đã phát huy vai trò của mình trên các hoạt động, khảng định vị
trí quan trọng về kinh tế trong quá trình phát triển Nam Bộ. Vị trí quan
trọng của người Hoa về kinh tế hình thành từ nhiều nguyên nhân, trong đó
có cả sức mạnh đoàn kết và sự đảm bảo chữ tín, tinh thần lao động cần cù
và truyền thống kinh doanh năng động: đặc biệt là người Hoa đã nhanh
chóng nắm bắt, thích nghi và đáp ứng tốt, kịp thời các đặc điểm, nhu cầu
phát triển kinh tế ở Đàng Trong.
19
CHƯƠNG 2
VAI TRÒ CỦA NGƯỜI HOA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở NAM BỘ TỪ THẾ KỶ THỨ XVI – XIX
Sau khi đến Nam Bộ, người Hoa bắt tay ngay vào công cuộc mưu
sinh của mình. Vốn cần cù, chăm chỉ lại năng động sáng tạo người Hoa đã
tạo nên nhiều giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như đóng góp trong công
cuộc phát triển và bảo vệ xứ này.

2.1. Vai trò của người Hoa trong hoạt động kinh tế
2.1.1. Trong hoạt động buôn bán
Nam Bộ đã ra đời đúng thời đúng thời đại thương nghiệp. Chúng ta
có thể nói một cách hoàn toàn đảm bảo rằng chính thương nghiệp đã làm
cho vương quốc mới của Việt Nam, chỉ trong vòng ít thập niên, trở nên
giàu có và đủ mạnh để có thể duy trì được nền độc lập của mình đối với
phía Bắc và mở rộng về phía Nam. Không có thương mại, Đàng Trong khó
có thể tồn tại nổi, cho dù tài nguyên thiên nhiên có dồi dào, vì những khó
khăn này vương quốc này phải đối đầu. Thiếu nhân lực, thiếu tiền của,
không có sẵn quan hệ với bên ngoài và nhiều khó khăn khác, nhất là khi lại
phải xây dựng trên một vùng đất mới. Ngoại thương đã trở thành yếu tố
quyết định trong tốc độ phát triển của Đàng Trong, giúp họ Nguyễn xây
dựng một cách nhanh chóng vùng đất ít nhân lực này để có thể đứng đầu
nổi với một vùng đất có số tiềm lực nhiều gấp đôi, gấp ba Đàng trong về
mọi mặt. Đối với các nước khác ở Đông Nam Á châu Á, vấn đề ngoại
thương có thể chỉ là vấn đề làm giàu, nhưng đối với Đàng Trong vào buổi
đầu, đây là một vấn đề sống còn.
Do hoàn cảnh lịch sử - địa lý – đặc thù lãnh thổ của hai nước, đã từ
lâu Việt Nam và Trung Quốc đã có quan hệ buôn bán với nhau. Đây là mối
quan hệ buôn bán chủ yếu và thường xuyên. Trong “Bách khoa toàn thư”
20
có viết “Ngoài chủng tộc người Việt Nam chiếm đa số ở phía Nam có
nhiều người Trung Hoa đã ở đây từ lâu đời. Ở Nam Bộ, người Trung Hoa
đi theo người Việt Nam từ thế kỷ XVI. Họ chiếm vị trí hàng đầu trong
ngành thương mại, bán buôn và bán lẻ ở Nam Việt Nam”[32;49].
Đó không chỉ là lời nhận xét cho thời cận đại và về sau mà còn hoàn
toàn đúng đắn trong thời gian từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Trong khi
người Việt chỉ di cư từ các tỉnh miền Trung vào xứ Đàng trong chỉ có một
số rất ít làm nghề buôn bán nhỏ. Sử sách nhà Nguyễn cũng không ghi chép
gì những người này. Trong khi người Khơ me vốn định cư lâu đời ở đây

dường như không tham gia buôn bán (có lẽ người Khơ me trước khi lên các
gò cao, rừng sâu cũng có buôn bán song không mạnh, hình thức buôn bán
có lẽ còn sơ khai chẳng hạn như vật đổi vật hoặc dùng một loại tiền riêng),
người Hoa đến đây đã giành độc quyền giao thương gần như tuyệt đối.
Thương nhân người Hoa với số lượng đông đảo, năng động nhạy bén
kinh doanh nắm bắt thị trường, biết chiều khách hàng luôn coi trọng và giữ
chữ tín đã khiến họ vươn lên giữ vai trò quan trọng, tham gia vào nhiều
ngành kinh tế và chi phối khá mạnh mẽ đến thương nghiệp Việt Nam cũng
như các quốc gia khác trong vùng.
Thêm vào đó, do quen thuộc địa hình phong thổ, lại có hiểu biết sâu
về con người và tình hình đất nước, người Hoa đã tỏ ra khôn khéo và tháo
vát nên các lái buôn phương Tây phải thán phục và nhờ cậy họ làm môi
giới, nhưng chính vai trò đứng ở khâu trung gian đó mà họ trở nên giàu có
một cách nhanh chóng (đặc biệt là khi các lái buôn phương Tây thất bại
trong công cuộc buôn bán ở đây thì địa vị của các Hoa kiều lại càng nổi
rõ). Chỉ với khoảng 5% dân số, nhưng các Hoa kiều đã nắm trong tay gần
80% các ngành hoạt động thương mại, họ đã “làm biến đổi kinh tế tự cấp
tự túc và thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hóa”[3;53], góp phần làm
21
chuyển biến quan niệm “trọng nông ức thương” đã ăn sâu vào tiềm thức
của cư dân Việt Nam.
Từ xưa, truyền thống “trọng nông ức thương” đã ăn sâu vào người
Việt thân phận những người buôn bán bị xã hội coi thường, họ bị xếp vào
nấc thương cuối của bậc thang xã hội: sĩ, nông, công, thương. Khi di cư
vào vùng Nam Bộ, người Việt vẫn giữ truyền thống ấy. Trong khi nhu cầu
tiêu dùng rất lớn mà số thương nhân người Việt lại quá ít nên đương nhiên
người Hoa nắm đặc quyền và có điều kiện rất nhiều về quê hương, bán
quán, mồ mả tổ tiên. Việc đi khỏi làng của người Việt cũng là một điều
bất đắc dĩ và họ gắn bó mật thiết với làng của mình. Còn người Hoa họ
có gì ràng buộc khi đã rời bỏ Trung Hoa. Sang đến đây, họ tự do đi lại

buôn bán. Nhìn chung, có nhiều điều kiện thuận lợi cho người Hoa tham
gia việc buôn bán ở xứ Đàng Trong. Song điều kiện cốt yếu có lẽ là khả
năng và truyền thống kinh doanh của họ mà đến tất cả thế giới còn phải
khâm phục “ Có những dân tộc tỏ ra có tài năng hơn những dân tộc khác
trong một số hoạt động nào đó, như người Trung Quốc di cư ở Đông Nam
Á. Họ đã thành công trong lĩnh vực thương mại” [17;65]. Bên cạnh đó,
phần lớn người Hoa đến xứ này đều có nguồn gốc xuất thân từ vùng Hoa
Nam giáp biển – nơi đất rộng, người đông, buôn bán phát triển. Quá nửa
cư khu vực này buôn bán,sinh sống ở các tỉnh khác hoặc mua gạo ở các
nước phía Nam.
Khi người Hoa đến đây, họ đã nhạy bén nắm bắt được đặc điểm cư
dân bản xứ, đặc điểm thị trường cũng như nhanh chóng nhận ra thế mạnh
của từng vùng để có kế hoạch kinh doanh thích hợp. Người Hoa không chỉ
buôn bán giữa các vùng mà còn mở rộng buôn bán với nhiều nước.
Năm 1965, Bowyear tính có ít là 10 tới 12 thuyền Trung Hoa từ
Nhật, Quảng Đông, Xiêm, Cao Miên, Manila và Batavia Shotuku, số
thuyền Trung Hoa buôn bán với Đàng Trong trong các thập niên 1740 –
22
1750 đã tăng 80% mỗi năm, không kể các tàu từ Macao, Batavia và Pháp.
Các con số này chứng tỏ là khoảng nửa hay hơn số thuyền Trung Hoa
không được vào Nhật đã quay sang Hội An.
Hàng hóa phong phú của xứ Quảng Nam chắc chắn đã cuốn hút các
thương gia người Hoa. Theo một người Quảng Đông họ Trần sống vào thế
kỷ XIII thì:
“Từ phủ Quảng Châu do đường biển đến trấn Thuận Hóa được gió
thuận thì chỉ ba ngày ba đêm, vào cửa Eo, đến phố Thanh Hà ở Phú Xuân,
vào cửa Đại Chiêm, đến phố Hội An ở Quảng Nam cũng thế. Từ Quảng
Châu đến trấn Sơn Nam (cảng chính của xứ Đàng Ngoài) lại gần hơn, chỉ
một ngày hai đêm. Nhưng thuyền từ Sơn Nam về thì chỉ có một thứ hồ tiêu;
còn từ Quảng Nam về thì các hàng không món gì không có, các nước phiên

không kịp được. Phàm hóa vật sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn,
Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang, đường thủy,
đường bộ, đi thuyền, đi ngựa, đều hội tập ở phố Hội An, vì thế người khách
phương Bắc đều đến tụ tập ở đấy để mua về nước. Trước đây hàng hóa
nhiều lắm, dù trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết
được”[27;104]
Có sự khác biệt trong buôn bán giữa các thương gia người Âu bà các
con buôn người Hoa ở Đàng Trong. Hàng hóa phương Tây thường quá đắt
so với người dân thường, do đo lợi chính họ thu được là do mua vào hơn là
bán ra. Trong đó, theo thương gia họ Trần, hàng Trung Hoa “được tiêu thụ
rất nhanh, hết sạch”[27;105]. Tình hình này hẳn đã lôi cuốn nhiều con buôn
người Hoa tới Đàng Trong hơn nữa.
Người Hoa còn lập những kho hàng quan trọng và tập trung về đấy
những sản phẩm của các vùng chung quanh để bán lại cho các thuyền buôn
phương Bắc cũng như các nước khác đến hàng năm theo gió mùa, đồng
23
thời mua lại của những thuyền ấy những sản phẩm của nước họ để bán lại
cho dân địa phương.
Để làm được việc đó, họ lại có hệ thống thương nhân cỡ nhỏ hơn
dùng thuyền bè đi dọc các sông, đi sâu vào làng mạc ven sông để thu mua
nông sản của nông dân rồi đem bán cho họ những nhu yếu phẩm mà họ
cần. Hệ thống bán buôn bán lẻ mà người Hoa thiết lập ở xứ Đàng Trong
khá hoàn chỉnh. Vì thế hàng hóa lưu thông dễ dàng tới tận các vùng quê xa
thành thị. Mạng lưới buôn bán với sự có mặt của người Hoa trở nên chằng
chịt và rộng mở hơn, Không chỉ ở thành thị mà cả “ở các nơi xa xôi hẻo
lánh, các bờ sông, cửa biển, hễ chỗ nào có chợ búa là có phố xá buôn bán
của họ. Như ở bờ phía Tây sông Bát Chiên, thuộc thượng lưu sông Hưng
Hòa (Trấn Định Tường) cách ly sở đạo phủ Tuyên Úy độ nửa dặm vẫn có
người Hoa sinh sống, chuyên giao dịch nhưng thổ sản trong núi rừng,
chằm,ao”[9;46].

Nhìn chung, ở thời kỳ này công việc mua bán của người Hoa mang
đậm tính chất “trung chuyển”. Họ không tự mình sản xuất ra hàng hóa để
bán mà phải mua của người này, bán cho người khác nhằm thu lợi nhuận.
Điều này khác hẳn giai đoạn sau (thương nhân kiểm soát). Cũng từ chỗ
kinh doanh thương nghiệp, những thương nhân người Hoa này dần có vị
thế về vốn, về thị trường và nắm độc quyền về nghề này. Họ giàu nên một
cách nhanh chóng và trở thành những đại thương gia có số vốn kếch
xù.Trịnh Hoài Đức trong“ Gia Định thành thông chí” có chép” Người mà
trong nước đều biết danh như ông tổ ngoại tộc tôi là Lâm tổ Quan, tên tự
của ông người Tàu gọi là Nhái, cho nên tục xưng là ông Nhái. Ông là người
huyện Tấn Giang, phủ Triều Châu, tỉnh Phúc Kiến, gặp lúc vua Thế tôn Võ
Vương (1738- 1765) đổi phục sắc, vì thấy kiểu áo mão đương cải cách ấy
thực là vinh diệu, nên ba cha con đồng nhất dâng vàng xin làm nộ viện thị
hàn, vua nghe danh tính của ba người khen là nhà phú hào “ [9;113] . Ông
24
nội của Trịnh Hoài Đức là Trịnh Hội cũng được xã hội đương thời công
nhận là “cự phách “ của giới thương gia giàu có.
Có thể nói, ở Nam Bộ từ thế kỷ XVII-XVIII, dường như ở đâu có
buôn bán, có chợ búa, cảng thị là ở đó có thương nhân người Hoa. Trong
đó, họ tập trung đông nhất ở các trung tâm buôn bán lớn – nơi mà họ có ý
tưởng và đã đứng ra lập nên. Những hoạt động cùng với những tổ chức
kinh tế của họ là những tiền đề đến sự hình thành các “khu đô thị Trung
Hoa” trong lòng các quốc gia Đông Nam Á thúc đẩy kinh tế bản địa phát
triển”[].
Song thời Nguyễn, luồng thương mại, buôn bán trao đổi giữa Việt
Nam và Trung Quốc vẫn thịnh hành.
Nhiều tàu thuyền cũng như thương nhân người Hoa đã sang Việt
Nam sinh sống và buôn bán. Trong các tàu thuyền sang Việt Nam buôn bán
thì tàu thuyền của Trung Quốc là chủ yếu (bao gồm các tỉnh như: Quảng
Đông, Phúc Kiến, Thượng Hải, Hải Nam…) Đồng nhất về hệ tư tưởng và

thần phục (tuy chỉ trên danh nghĩa), đối với Trung Quốc, Việt Nam không
còn mối lo ngại, đe dọa về chính trị, sợ bị xâm lược. Người Hoa cũng như
thương nhân và tàu thuyền Trung Quốc luôn được hưởng các chính sách,
chế độ ưu đãi của nhà nước như: mức thuế thấp hơn tàu thuyền các nước
khác (có những nơi rất thấp): mức thuế nhập cảng của những tàu thuyền
sang nước ta buôn bán thường thấp hơn chỉ ngang với mức thuế thuyền
buôn Hà Tiên, được phép thành lập những khu phố, các bang quản của
người Hoa. Ngành ngoại thương bị kiểm soát chặt chẽ bởi triều đình,
nhưng trên thực tế sự quản chế các thương gia Hoa kiều có phần lỏng lẻo
hơn, ngay cả những vùng giáp ranh cũng không có gì ngặt nghèo thương
gia Hòa kiều được hưởng mọi đặc ân của triều đình được phép đến mọi nơi
để buôn bán, dưới sự kiểm soát của các quan chức Việt Nam, chỉ với điều
kiện mang đủ hàng hóa.
25

×