Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

BÀI THU HOẠCH SAU BUỔI ĐI BẢO TÀNG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.74 KB, 18 trang )

BÀI THU HOẠCH SAU BUỔI ĐI BẢO TÀNG CHIẾN DỊCH HỒ
CHÍ MINH.
Đề tài: 30 Tháng 4 – 33 năm của những người lính.
30 Tháng 4
33 năm của những người lính
33 năm đã trôi qua, đếm từ cái mốc thời gian 30 tháng 4 năm
1975 đến 30 tháng 4 năm nay 2008. 33 lần Tháng Tư, lại Tháng
Tư, lại 30 Tháng Tư!.
33 lần xoáy mũi dao nhọn vào vết thương vẫn còn ứa máu của
những người lính miền Nam trước năm 1975 may mắn sống còn
sau cuộc chiến.
33 năm tiếc, nhớ, thương bạn bè chiến hữu bỏ mình trong cuộc
chiến, trong trại tù Cộng Sản hoặc ra đi vì tuổi đời chồng chất.
33 năm những người lính còn ở lại quê nhà oằn oại chịu đựng
ngon roi thù của kẻ chiến thắng.
33 năm những người thương binh vẫn từng ngày ngậm ngùi nhìn
thân thể với những vết sẹo, những thương tật chiến trận để lại.
33 năm còng lưng gánh nặng những đau buồn, tủi nhục, khắc
khoải của người lính thua trận mà không phải vì mình bất tài, hèn
yếu
Họ và tên: Nguyễn Quang Thái
Lớp 64 – K33
STT: 31
MSSV: 107206431
33 năm đã trôi qua, những người lính vẫn mắc nợ những người
lính, nợ nghiệp lính, nợ quê hương tổ quốc nhưng cuối nẻo đường
trần không bao giờ trả được!
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long-tuyền đới nguyệt ma!! . . .
33 năm đã trôi qua nhưng vết hằn cuộc chiến vẫn còn đó!
33 năm trăn trở, tiếc nuối một quãng đời dang dở, nửa đường đứt


gánh đời lính!
Sơ lược về ngày 30/4:
Sự kiện 30 tháng 4, 1975, thường được gọi là 30 tháng tư hay
ngày giải phóng miền Nam (tên gọi tại Việt Nam) hay ngày miền
Nam sụp đổ (trong báo chí Tây phương gọi là Sài Gòn sụp đổ, Fall
of Saigon; ngày nay, tên gọi Ngày Quốc Hận 30 Tháng 4 cũng khá
phổ biến trong cộng đồng người Việt chống Cộng ở hải ngoại), là
sự kiện chấm dứt Chiến tranh Việt Nam khi tổng thống Việt Nam
Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện các
lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam vào sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Ngày này là kết quả trực tiếp của Chiến dịch Mùa Xuân năm 1975
và là một mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam
Các sự kiện dẫn đến 30 tháng 4 :
Sự cắt giảm hỗ trợ từ Hoa Kỳ
Sau khi người Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam, viện trợ quân sự cho
Việt Nam Cộng Hoà đã cắt giảm nhiều:
• Tài khoá 1973: 2,1 tỷ USD
• Tài khoá 1974: 1,4 tỷ USD
• Tài khoá 1975: 0,7 tỷ USD
Giáo sư Warren Nutter là cựu Phụ tá Tổng trưởng quốc phòng,
đặc trách phần tài chính của chương trình "Việt nam hoá". Khi dự
điểm tâm với ông Thiệu vào sáng ngày 23 tháng Tám năm 1974
tại Dinh Độc Lập, Tổng thống Thiệu bày tỏ sự lo ngại về viện trợ:
Mới vài ngày trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì
được với số tiền này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi
mua vé máy bay hạng nhất từ Sài gòn đi Tokyo.
Giáo sư Nutter cũng rất bối rối và giải thích hành động của Quốc
hội:
Quốc hội Hoa kỳ đôi khi hành động vô trách nhiệm như vậy… Cái

Trung Tâm Tài Nguyên Đông Dương (Indochina Resource Center,
1 trung tâm của những người phản chiến) đang hết sức tìm cách
tiêu diệt quý quốc.
Sau này, trong tập hồi ký "Mùa Xuân Đại Thắng", Văn Tiến Dũng
của Hà Nội đã viết về động cơ thúc đẩy Bắc Việt mở cuộc tổng tấn
công Miền Nam là do Mỹ đã giảm viện trợ làm cho kế hoạch tác
chiến và xây dựng lực lượng quân đội Sài Gòn không thể thực
hiện theo như ý muốn. Đó là vì "hoả lực đã sút giảm gần 60% vì
thiếu bom, đạn; khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy
bay, xe cộ, và nhiên liệu"
Tổng thống Gerald Ford không thuyết phục được Quốc hội Hoa Kỳ
chi thêm nhiều tiền cho chiến trường Việt Nam. Đầu năm 1975,
sau hai năm ký hiệp định đình chiến, Mặt trận giải phóng miền
Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa huy động gần như
toàn bộ
[2]
lực lượng gần 1 triệu quân của mình
[3]
, mở cuộc tấn
công lớn trên toàn miền Nam Việt Nam, bắt đầu là ở Tây Nguyên.
Buôn Ma Thuột thất thủ gây chấn động hệ thống phòng thủ của
quân đội Việt Nam Cộng hòa và là khởi đầu của những chiến dịch
nối tiếp nhau.
Ngày 23 tháng Ba Tổng thống Thiệu nhận được thư của Tổng
thống Hoa Kỳ Gerald Ford.
White House
Ngày 22 tháng Ba, 1975
Thưa Tổng thống,
Cuộc tấn công hiện nay của Bắc Việt chống lại quý quốc thật vô
cùng xáo trộn khiến riêng cá nhân tôi lo âu. Theo quan điểm của

tôi, thì cuộc tấn công của Hà Nội tượng trưng cho một sự việc
không kém gì sự huỷ bỏ Hiệp định Paris bằng vũ lực.
Biến chuyển này mang theo không hậu quả nghiêm trọng nhất cho
cả hai dân tộc chúng ta. Đối với Ngài và nhân dân Ngài thì dây là
lúc hy sinh lớn nhất, nó sẽ quyết đinh chính số phận quí quốc. Tôi
tin tưởng rằng dưới quyền lãnh đạo của Ngài, quân lực và nhân
dân VNCH sẽ tiếp tục công cuộc bảo vệ kiên trì chống lại vụ xâm
lược mới này. Tôi cũng tin tưởng chắc chắn rằng nếu có được sự
yểm trợ bổ túc từ bên ngoài vào thì quý quốc sẽ thắng thế trong
cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của mình.
Riêng đối với Hoa kỳ thì vấn đề cũng không kém phần cấp bách.
Khi hành động như thế này, Hà Nội đang tìm cách huỷ diệt tất cả
những gì mà chúng ta đã chiến đấu để thành đạt, với phí tổn vô
cùng to lớn, suốt mười năm qua
Sự quyết tâm của Hoa kỳ để yểm trợ một người bạn đang bị các
lực lượng (Bắc Việt) với vũ khí hùng mạnh tấn công, hoàn toàn vi
phạm một thoả ước quốc tế (đã được ký kết) long trọng, là một
điều hết sức cần thiết.'
Riêng tôi, tôi quyết tâm rằng Hoa kỳ sẽ đứng vững sau lưng Việt
nam cộng hoà trong giờ phút tối quan trọng này. Với mục đích tôn
trọng những bổn phận của Hoa kỳ trong tình thế này, tôi đang theo
dõi những biến chuyển với chủ tâm cao độ nhất và đang khẩn cấp
tham khảo ý kiến các cố vấn của tôi về những hành động mà tình
thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho phép. Về việc cung ứng viện
trợ quân sự đầy đủ cho quân đội Ngài, xin Ngài yên tâm là tôi sẽ
cố tâm nỗ lực để thoả mãn những nhu cầu vật chất của Ngài trên
chiến trường.
Trước khi chấm dứt, tôi xin được nhắc lại một lần nữa lòng cảm
phục liên tục của tôi đối với quyết tâm của Ngài và đối với sức bền
bỉ và sự anh dũng của nhân dân Việt Nam Cộng Hoà.

Kính thư,
(kí) Gerald R. Ford
Dù là nói tới quyết tâm ủng hộ nhưng người thảo bức thư đã khôn
khéo gài vào: "(tôi) đang khẩn cấp tham khảo ý kiến các cố vấn về
những hành động mà tình thế có thể đòi hỏi và pháp luật cho
phép".
Ngày 23 tháng 3, Huế rơi vào tay quân Giải phóng trong khi ở Đà
Nẵng, hàng ngàn dân thường và binh lính tìm cách chạy thoát
bằng đường biển khỏi thành phố đang bị bao vây và nã pháo.
Trong 4 sư đoàn bộ binh của QLVNCH, 4 liên đoàn Biệt động
quân, lữ đoàn thiết giáp, sư đoàn không quân, và hàng ngàn nhân
viên quân sự và địa phương quân, chỉ có 16.000 rút được. Trong
số gần 2 triệu dân thường dồn lại tại Đà Nẵng từ cuối tháng 3, chỉ
có hơn 50.000 sơ tán được bằng đường thủy. 70.000 binh sĩ
VNCH còn lại sau bị bắt làm tù binh. 33 máy bay phản lực A-37
còn nguyên vẹn cùng gần 60 máy bay khác tại căn cứ không quân
Phú Cát cũng bị bỏ lại. Trong cuộc sụp đổ của Đà Nẵng, không có
một trận chiến nào. Khi Quân Giải phóng tiến vào thành phố,
không mấy binh sĩ VNCH đóng quanh thành phố chống cự. Các
trung tâm phòng thủ còn lại dọc theo bờ biển cũng nhanh chóng
tan vỡ dây chuyền: Quảng Ngãi ngày 24 tháng 3; Qui Nhơn và
Nha Trang ngày 1 tháng 4; và cảng Cam Ranh ngày 3 tháng 4.
Trong nửa đầu tháng 4, với Quân đoàn 2 của quân Giải phóng từ
phía bắc tiến vào và quân đoàn 3 từ Tây Nguyên đổ xuống, các
tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà lần lượt rơi vào
tay Quân Giải phóng.
Ngày 9 tháng 4, Quân đoàn 4 quân Giải phóng định đánh chiếm
huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai trên hành tiến - tuyến phòng thủ từ
xa cuối cùng của Sài Gòn - nhưng Sư đoàn 18 của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa đã kháng cự ác liệt có tổ chức để giữ vững được

thị xã. Đây là trận đánh dài ngày có tổ chức cuối cùng của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa. Trận Xuân Lộc đã gây thương vong rất
lớn cho cả hai bên.
Ngày 17 tháng 4, Thượng viện Mỹ từ chối khoản viện trợ khẩn cấp
trị giá 722 triệu đô la mà chính phủ Mỹ đề nghị. Tuy không ai tin
rằng viện trợ Mỹ có thể xoay chuyển tình thế, Ngoại trưởng Mỹ
Henry Kissinger và một số người khác đã hy vọng rằng nó có thể
giúp Việt Nam Cộng Hòa lấy lại được đủ vị thế về quân sự để
thuyết phục Bắc Việt đàm phán. Hai ngày sau phán quyết này của
Thượng viện, giám đốc CIA William Colby nói với tổng thống Ford:
"Nam Việt Nam đang đối mặt với thất bại hoàn toàn và nhanh
chóng". Các chuyến bay di tản do CIA tổ chức đã bắt đầu đưa các
cộng tác viên người Việt ra khỏi Việt Nam, và Sứ quán Mỹ đã bắt
đầu đốt tài liệu mật từ trước đó. Ngày 20 tháng 4 các thủ tục pháp
luật được đơn giản hóa cho việc sơ tán người Việt bắt đầu có hiệu
lực. Việc sơ tán này được thực hiện tại sân bay quân sự Tân Sơn
Nhất, do tướng Homer Smith chỉ huy. Các máy bay C-130 và C-
140 liên tục lên xuống vào ban ngày; công việc giấy tờ được tiếp
tục suốt đêm. Tướng Smith đã phải dùng đến toàn bộ trung đội
Thủy quân lục chiến số 43 của Mỹ để giữ trật tự tại Tân Sơn Nhất.
Ngày 20 tháng 4 quân phòng thủ bỏ Xuân Lộc rút lui. Ngày Xuân
Lộc thất thủ, không còn gì để cứu vãn nữa. Với việc bỏ Xuân Lộc
khiến Sài Gòn không còn phòng thủ từ xa nữa, quân Giải phóng
áp sát thành phố ở các tuyến ngoại vi. Cùng ngày 20 tháng 4, đại
sứ Mỹ Martin đến phủ Tổng thống thuyết phục Nguyễn Văn Thiệu
từ chức, phía Bắc Việt đã liên tục tuyên bố sẽ không đàm phán với
tổng thống Thiệu.
Đà Nẵng thất thủ - Dòng người bỏ trốn khỏi Đà Nẵng trước nguy
cơ quân giải phóng tràn vào thành phố.
Tối ngày 21 tháng 4, Nguyễn Văn Thiệu đọc một bài diễn văn từ

chức dài trước quốc hội, buộc tội Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam Cộng
hòa. Phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng phía MTGP
không chấp nhận nói chuyện với ông ta. Thời điểm 21 tháng 4 khi
Nguyễn Văn Thiệu từ chức có ý nghĩa quyết định. Đại tướng Võ
Nguyên Giáp nói rằng "chìa khóa là ngày 21 tháng 4, khi Thiệu từ
chức. Khi đó tôi biết rằng chúng tôi phải tấn công ngay lập tức,
cướp lấy thời cơ, tất cả chúng tôi cũng đồng ý như vậy". Đêm hôm
đó, tại sở chỉ huy tiền phương tại Lộc Ninh, cách Sài Gòn 75 dặm,
tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy các cánh quân Cộng sản tiến
về thành phố, ra lệnh bắt đầu cuộc tổng tiến công.
Để đảm bảo áp đảo chắc thắng Quân Giải Phóng đưa thêm cả
Quân đoàn 1 (hay còn gọi là Binh đoàn Quyết thắng) bằng tầu
biển và hàng không vào chiến trường cho trận cuối cùng có tên là
Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lực lượng tiến công Sài Gòn tương
đương 20 sư đoàn với 5 quân đoàn.
17 giờ ngày 26 tháng 4, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu nổ súng
với 5 quân đoàn ở 5 hướng tấn công: hướng Bắc với Quân đoàn
1, hướng Tây Bắc với Quân đoàn 3, hướng Tây và Tây Nam với
Đoàn 232, hướng Đông với Quân đoàn 4 và hướng đông nam với
Quân đoàn 2.
Ngày 27 tháng 4, Sài Gòn phải chịu 3 loạt hỏa tiễn của quân Giải
phóng, lần đầu tiên trong hơn 40 tháng làm nhiều người chết và bị
thương và nhà cửa đổ nát.
Tại mặt phía Nam của Sài Gòn, ngay từ ngày 28 tháng 4/1975, Bộ
Tư lệnh Biệt khu Thủ Ðô không còn quân trừ bị để phòng thủ. Họ
buộc phải rút 1 liên đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân về
quận lỵ Cần Đước và đặt dưới quyền điều động của Bộ Tư Lệnh
Biệt Khu Thủ Ðô. Liên Tỉnh Lộ nối liền Chợ Lớn và Cần Đước
cũng bị cắt nhiều đoạn nên các lực lượng VNCH không thể phá vỡ
được các chốt chận của Bắc Việt tại cầu Nhị Thiên Đường vốn đã

bị chiếm từ rạng sáng ngày 29 tháng 4/1975.
Các đơn vị Nhảy Dù phòng ngự tại phòng tuyến khu vực từ ngã tư
Quân Vận (gần Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung) đến cầu
Tham Lương Bà Quẹo, khu Bình Thới-Ngã ba Bà Quẹo, khu Bảy
Hiền-Lăng Cha Cả đã cố gắng ngăn chận đối phương. '
Một chiến đoàn thuộc Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù tại vòng
đai Bộ Tổng Tham Mưu do Thiếu Tá Phạm Châu Tài chỉ đã dàn
quân và từ 8 giờ sáng đến 10 giờ sáng, chiến đoàn này đã bắn
cháy 6 chiến xa và đánh bật địch ra khỏi trận địa.
Phi công Hoa Kỳ di tản trẻ em tỵ nạn rời khỏi Việt Nam
Đến cuối ngày 28 tháng 4 tất cả các tuyến phòng thủ đã bị chọc
thủng tại tất cả các hướng, quân Giải phóng có thể đi ngay vào
thành phố. Các lực lượng chính trị thứ ba dàn xếp để đưa Đại
tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống trong ngày 28 tháng 4
năm 1975. Ngay khi nhậm chức để tiến hành đàm phán Tổng
thống Dương Văn Minh yêu cầu người Mỹ ra đi.
Binh sĩ VNCH thuộc sư đoàn 18 ở Xuân Lộc tịch thu cờ đối
phương
4 giờ sáng ngày 29/4 tức 16 giờ theo giờ Washington, hỏa tiễn và
đạn pháo Bắc Việt đã nã tới tấp xuống phi trường Tân Sơn Nhứt,
phá hủy nhiều phi cơ trên mặt đất, vô hiệu hóa phi trường này và
gây cho số người Việt đang tụ tập ở đấy để trốn chạy 1 sự hỗn
lọan thực sự.
Tổng thống Ford triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia họp khẩn
cấp lúc 19h 30, ông đã yêu cầu Đại sứ Martin phải di tản ngay
những người Mỹ còn lại và cả những người Việt Nam càng nhiều
càng tốt.
Một số sĩ quan người Việt đã tự bắn vào đầu để tự vẫn, người thì
vì danh dự bị hoen ố trước thất bại, người thì vì lo sợ trước những
nhục hình tàn bạo đang chờ họ trong những trại cải huấn của

Cộng sản.
Ở Sài Gòn và phần còn lại của Nam Việt Nam, hàng triệu người
dân Việt Nam bắt đầu tự đặt cho mình 1 câu hỏi mấu chốt: họ có
thể sống sót dưới chế độ Cộng sản hay tốt hơn là trốn chạy bằng
đường biển mà không có 1 sự trợ giúp nào.
Trong các ngày 28, 29 tháng 4 từ các hàng không mẫu hạm ngoài
khơi Thuỷ quân lục chiến Mỹ dùng trực thăng di tản người nước
ngoài và một số người Việt đã từng cộng tác chặt chẽ với họ.
Cuộc di tản đã diễn ra trong lộn xộn vì rất nhiều người muốn ra đi
nhưng không thể đáp ứng hết được. Các điểm đỗ của trực thăng
trở nên hỗn loạn. Lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ đã phải rất vất vả
mới duy trì được trật tự, họ dùng sức mạnh thô bạo gạt phăng các
bạn đồng minh cũ đang trong cơn hoạn nạn. Người Mỹ đã phải bỏ
lại nhiều người bạn lâu năm của mình. Hình ảnh di tản đã in đậm
trong trí óc nhiều người Mỹ và Việt như một kỷ niệm rất buồn. Đại
sứ Graham Martin là một trong những người Mỹ cuối cùng ra đi.
Trong số 120.000 người Việt và 20.000 người Mỹ được di tản
trong đợt này, không có một người nào bị thiệt mạng do hoạt động
quân sự của quân Giải phóng. Quân Giải Phóng dừng lại bên
ngoài thành phố 1 ngày để cho người Mỹ di tản hết mới vào. Theo
lời tướng Trần Văn Trà, họ đã đợi vì mục đích chính là để giải
phóng Sài Gòn chứ không phải để giết người. Còn theo hồi kí của
tướng Hoàng Cầm, cánh quân của Quân đoàn 4 mà ông chỉ huy
gặp rất nhiều kháng cự trên đường tiến về Sài Gòn và chỉ đánh
được đến nơi vừa kịp sáng ngày 30 tháng 4.
Ngày 30 tháng 4
Phạm Xuân Thệ (phải) đưa Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu đến
đài phát thanh
8 giờ sáng 30 tháng 4 Tổng thống Dương Văn Minh và Bộ tổng
tham mưu quân đội Việt Nam Cộng hòa hạ lệnh đơn phương

ngừng chiến sẵn sàng đón quân đối phương vào Sài Gòn để bàn
giao chính quyền.
9 giờ sáng cùng ngày, đúng 1 tiếng đồng hồ sau khi chiếc trực
thăng cuối cùng của Mỹ rời nóc tòa Đại Sứ quán, tướng Trần Văn
Trà lệnh cho quân Giải Phóng tiến vào Sài Gòn từ năm hướng. Họ
đã tiến nhanh mà không gặp kháng cự có tổ chức.
10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, xe tăng mang số hiệu 843 húc
nghiêng cổng phụ và bị kẹt tại đó. Bùi Quang Thận - Đại đội
trưởng, chỉ huy xe 843 - nhảy xuống xe, cầm cờ chạy bộ vào. Xe
tăng 390 húc tung cánh cửa chính của dinh.
11 giờ 30 phút cùng ngày, Trung úy Quân đội Nhân dân Việt Nam
Bùi Quang Thận đã hạ lá cờ Việt Nam Cộng hòa trên nóc dinh
xuống, kéo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
lên.
Cùng lúc này, đại úy trung đoàn phó Trung đoàn 66 Phạm Xuân
Thệ cùng lực lượng đột kích thọc sâu của Quân đoàn 2 và biệt
động thành Sài Gòn tiến vào dinh Độc Lập bắt Tổng thống cuối
cùng của Việt Nam Cộng hòa là ông Dương Văn Minh cùng toàn
bộ những nhân vật chủ chốt của nội các chính quyền Sài Gòn.
Tổng thống Dương Văn Minh cùng toàn bộ nội các của chính
quyền Việt Nam Cộng hòa đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện với
quân đội cách mạng (tức quân Giải phóng miền Nam Việt Nam).
Thư đầu hàng và chấp nhận đầu hàng
Khoảng 12 giờ trưa, đại úy Phạm Xuân Thệ đưa tổng thống
Dương Văn Minh, thủ tướng Vũ Văn Mẫu lên xe Jeep để đến đài
phát thanh. Chiếc xe thứ hai chở trung tá chính ủy lữ đoàn xe tăng
203 Bùi Văn Tùng cùng hai nhà báo Borries Gallasch (người Đức,
báo Der Spiegel) và Hà Huy Đỉnh. Tại đài phát thanh, tổng thống
Dương Văn Minh đã đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Thay
mặt các đơn vị Quân giải phóng đánh chiếm dinh Độc Lập, trung

tá Bùi Văn Tùng đọc lời tiếp nhận đầu hàng. Chiến tranh kết thúc.
Tổng thống VNCH Dương Văn Minh và Tướng Trần Văn Trà tại
dinh độc lập
Theo Jean Louis Margolin, tác giả này xác nhận là không có tắm
máu trong ngày quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn nhưng sau đó
đã đưa ra con số 200 ngàn người bị giam giữ theo xác nhận của
Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên về việc này, tác giả ghi thêm: "Những
ước tính nghiêm chỉnh nói từ 500 ngàn đến một triệu tù nhân trong
tổng số dân là 20 triệu"
Kết quả
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 có vai trò rất quan trọng và lâu dài
trong lịch sử Việt Nam với kết quả:
• Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh Đông
Dương, một quá trình chiến tranh hao người tốn của kéo dài
30 năm. Việt Nam bắt đầu bước vào một thời kỳ mới.
• Kết thúc sự tồn tại của nhà nước Việt Nam Cộng hòa. Sự
kiện này đã ngã ngũ sự thất bại của phía Hoa Kỳ và Việt
Nam Cộng hòa trong cuộc chiến tại Việt Nam.
• Chấm dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp vào Việt
Nam
• Trên phương diện quốc tế, sự chấm dứt Chiến tranh Việt
Nam với thắng lợi của Cộng sản đánh dấu sự thắng thế của
phe Cộng sản trên thế giới trong thập niên 1970 và kết quả
là một loạt các phong trào cộng sản và thân cộng sản thắng
thế hoặc lên cầm quyền ở một số nước châu Á, châu Phi và
châu Mỹ La Tinh hướng tới mục tiêu cộng sản.
• Là điều kiện để thống nhất lãnh thổ Việt Nam. Thực hiện
quyết định của Hội nghị Hiệp thương chính trị của đại biểu
Miền Bắc và Miền Nam họp ở Sài Gòn tháng 11 năm 1975,
ngày 25 tháng 4 năm 1976 toàn quốc tiến hành tổng tuyển

cử bầu quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Quốc
hội thống nhất họp tại Hà Nội từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3
tháng 7 năm 1976 đã quyết định tên nước là: Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam và đã bầu các thành viên của cơ
quan chính quyền nhà nước. Việt Nam đã bước ra khỏi
chiến tranh và thực sự trở thành một quốc gia thống nhất.
• Bắt đầu hiện tượng thuyền nhân Việt Nam bỏ nước ra đi vì
các lý do chính trị hoặc kinh tế. Xem chi tiết:Di dân Việt Nam
sau 1975. Khoảng 150.000 người đã ra đi năm 1975, trong
đó có 140.000 người đi cuối tháng 4. Hàng trăm nghìn quân
nhân thuộc chế độ Việt Nam Cộng hòa bị học tập cải tạo
trong các trại tù cải tạo với thời hạn khác nhau từ vài ngày
đến 10 năm.
Chỉ trong 4 ngày chiến đấu vô cùng anh dũng, các cánh quân lớn
của Quân giải phóng đã đập tan hệ thống phòng ngự của địch trên
các hướng đông, đông-bắc, tây-bắc, bắc, tây và tây-nam, đánh
chiếm những mục tiêu chủ yếu của địch trong thành phố Sài Gòn -
Gia Định, buộc quân địch phải đầu hàng không điều kiện. Đúng 11
giờ 30 phút ngày 30-4-1975, cờ cách mạng đã cắm trên phủ tổng
thống nguỵ. Thành phố Sài Gòn mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại đã hoàn toàn giải phóng.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã tiêu diệt
và làm tan rã hơn 40 vạn tên địch, tiêu diệt và làm tan rã quân
đoàn 3 và quân đoàn 4 nguỵ gồm 10 sư đoàn bộ binh và lính nhảy
dù, lính thuỷ đánh bộ, 5 sư đoàn không quân, phần lớn lực lượng
hải quân, toàn bộ lực lượng xe tǎng, thiết giáp, pháo binh, thu toàn
bộ kho tàng, cơ sở thiết bị, phương tiện chiến tranh của địch ở Sài
Gòn và 2 quân khu 3,4 nguỵ.
Như vậy qua 55 ngày đêm tổng tiến công và nổi dậy mạnh mẽ,
quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến dấu một triệu 10 vạn quân

địch (có gần 70 vạn quân chính quy), làm tan rã toàn bộ lực
lượng phòng vệ dân sự gồm hơn 1 triệu tên; tiêu diệt và làm tan rã
hoàn toàn 4 quân đoàn nguỵ gồm 13 sư đoàn bộ binh, lính nhảy
dù, lính thuỷ đánh bộ, 6 sư đoàn không quân 22 trung đoàn hải
quân, toàn bộ lực lượng pháo binh, thiết giáp, thu toàn bộ vũ khí,
cơ sở thiết bị và phương tiện chiến tranh của địch. Quân và dân ta
đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ lực lượng quân sự, xoá bỏ hoàn
toàn bộ máy chiến tranh và bộ máy kìm kẹp của địch, giải phóng
hoàn toàn Miền Nam nước ta.

×