Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

tiểu luận Một vài những đặc điểm chủ yếu của đô thị Thăng Long - Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288 KB, 33 trang )

Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
Đề bài: Hãy tìm hiểu về một đô thị cổ Việt Nam trong lịch sử và phân
tích những đặc điểm của nó trên cơ sở vận dụng các đặc điểm chung của
đô thị cổ Việt Nam.
BÀI LÀM
A. MỞ ĐẦU
Gắn liền với sự phát triển về kinh tế và chính trị của lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam chính là các đô thị. Việc nghiên cứu về đô thị cổ Việt
Nam cho đến nay vẫn là đề tài thu hút sự quan tâm của giới học thuật trong
và ngoài nước.
Thăng Long từ thế kỷ XI đã là một trung tâm chính trị quan trọng bậc
nhất của nước ta – với tư cách là kinh đô của nhiều triều đại phong kiến. Xét
một cách toàn diện, đây có thể coi là một đô thị tiêu biểu nhất của lịch sử
Việt Nam thời cổ trung đại. Trước những biến thiên của thời cuộc, vai trò và
vị trí của nó vẫn được khẳng định một cách chắc chắn trên nhiều phương
diện chính trị, kinh tế, văn hoá…Song trong bài tiểu luận này, do trình độ
điều kiện, thời gian và tư liệu còn nhiều hạn chế nên người viết xin được đề
cập đến một vài những đặc điểm chủ yếu của đô thị Thăng Long - Hà Nội.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐÔ THỊ THĂNG LONG - HÀ NỘI
Nét địa lý trường tồn của nghìn xưa của Thăng Long đó là cái đặc
trưng thành phố sông: thành phố ngã ba sông, nếu lấy cả hai dòng Nhị Hà –
Tô Lịch làm hệ quy chiếu, làm trục chủ đạo; thành phè một bờ sông (bờ
phải) nếu chỉ lấy một sông Nhị làm trục chính. Phần lãnh thổ chủ yếu của
Thăng Long xưa là phần đất bồi được bao bọc bởi sông Hồng ở phía bắc và
phía đông, bởi sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu (nhánh sông Tô) ở phía tây
và phía nam. Lũy bọc ngoài là đê mà cũng là thành đất, là đường giao thông
1
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -


Lịch sử
(đê La Thành). Sông hồ là nguồn nước trên mặt dùng trong sinh hoạt và
cũng là hệ thống thủy lợi và giao thông truyền thống. Sông hồ cũng là những
điều kiện địa lý được dùng làm nguyên lý sơ khởi chỉ đạo việc quy tụ xóm
làng, phường phố và thành lũy phòng vệ (sử dụng những đoạn sông Hồng,
sông Tô làm ngoại hào). Dân gian Hà Nội xưa đã khái quát giùm chúng ta về
khoảnh đất cốt lõi của Hà Nội cổ, của kinh thành cổ kính.
Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Nhị Hà, Tô Lịch, Kim Ngưu là những trục chủ đạo, hồ Tây, hồ Gươm
là những điểm trung tâm, từ đó mà tỏa ra “phố giăng mắc cửi, đường
quanh bàn cờ”.
Khen ai khéo họa dư đồ
Trước sông Nhị thủy sau hồ Hoàn Gươm
Khen ai khéo họa dư đồ
Giữa nơi thành thị có hồ xanh trong!
Khu làng cổ đầu tiên của Hà Nội có cái tên huyền thoại là Long Đỗ
(Rốn Rồng). Vào thời Hùng Vương – An Dương Vương dựng nước trước
công nguyên thuộc bộ hay bộ lạc Tây Vu. Trong thời Bắc thuộc là đất huyện
Tây Vu và Phong Khê đời Hán (đầu công nguyên), đất Nam Định đời Ngô
(thế kỷ III) và đời Tấn (thế kỷ VI).
Từ giữa thế kỷ V, Thăng Long đã là một huyện Tống Bình. Thế kỷ VI
nó là một châu (Tống Châu), Lý Nam Đế với con mắt tinh đời, năm 554 đã
dựng nước Vạn Xuân, xây chùa Khai Quốc, dựng điện Vạn Thọ, đắp thành ở
cửa sông Tô Lịch (theo Lương thư, Nam Tề thư). Đến thế kỷ VII-VIII nó
2
Bi tp chuyờn Trn Th Thu H - K54 CLC -
Lch s
tr thnh mt ph (An Nam ụ h ph) cú thnh cú th. Nú l mt ụ th
him hoi ca t Vit v ụng Nam .

1
T y cho n th k X Thng Long tr thnh dinh lu ch yu ca
chớnh quyn phng Bc, vi mt vũng thnh i La rng bao quanh.
õy ó tr thnh ni ginh git gia cỏc lc lng khi ngha: tiờu biu l
cuc khi ngha ca Phựng Hng cui th k VIII, cuc ni dy ca Dng
Thanh u th k IX, u th k X vi s kin h Khỳc dy nghip, Dng
ỡnh Ngh v cuc khỏng chin ca Ngụ Quyn nm 938 ó kt thỳc thi
i hng nghỡn nm Bc thuc.
n nm 1010, sau khi lờn ngụi vua m u nh Lý, Lý Cụng Un ri
ụ v i La v t tờn cho kinh ụ l Thng Long. Thnh i La trung
tõm b cừi t nc, c cỏi th rng cun, h ngi, v trớ gia bn
phng ụng, tõy, nam, bc; tin hỡnh th nỳi sụng sau trc. ú, a
th rng m bng phng, vựng t cao m sỏng sa, dõn c khụng kh v
ngp lt, muụn vt rt phong phỳ, tt ti. Xem khp nc Vit ta, ch
ấy l ni hn c, tht l ch hi hp ca bn phng, l ni ụ thnh bc
nht ca vng muụn i.
Vic nh ụ ca Lý Cụng Un Thng Long l quyt nh ht sc
sỏng sut trong s la chn mt kh nng an ton cao nht cho triu i mi.
Lý Cụng Un ch trng nh ụ Thng Long v t ú m ra mt thi k
mi trong lch s ngn nm vn hin v anh hựng ca Thng Long- thi k
Thng Long vi biu tng Rng bay va mang khớ th vn lờn mnh m
ca dõn tc, va cha ng ý nim thiờng liờng v ci ngun Rng-Tiờn v
c m v ngun nc, ma thun giú ho ca c dõn vn minh nụng
nghip trng lỳa nc. Nh vy, t một lng quờ, một k quờ khiờm tn bờn
b sụng Tụ, cnh gũ cao mang tờn lch s nỳi Nựng, thi i ng thau
hay thi i cỏc vua Hựng bt u dng nc Vn Lang; ến một th trn,
1
Trần Quốc Vợng, Tìm hiểu di sản văn hoá dân gian Hà Nội, NXB Hà Nội 1994, tr.70 .
3
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -

Lịch sử
mét phè huyện thế kỷ V, mang tên Tống Bình của một thời Bắc thuộc hay
tên Long Đỗ bắt nguồn từ huyền thoại; đÕn mét trung tâm đầu tiên của nước
Vạn Xuân một thời độc lập tạm thời, giữa thế kỷ VI, với tòa thành cổ đầu
tiên mà sử sách còn ghi ở cửa sông Tô Lịch; và trải qua mấy trăm năm Bắc
thuộc và chống Bắc thuộc giữa trung tâm An Nam đô hộ phủ đời Đường (thế
kỷ VII – X); mảnh đất núi Nùng sông Nhị, núi Tản sông Tô này mới vươn
lên trong chức năng trung tâm đầu não của quốc gia Đại Việt đầu thế kỷ
XI. Từ Êy kết thúc thời kỳ “tiền Thăng Long” và bước vào thời kì phát triển
của đô thị.
Từ năm 1010 đến năm 1225 trong vòng 215 năm, với tên gọi Thăng
Long, Hà Nội là đô thị – kinh thành của triều Lý. Trong thế Thăng Long -
Rồng lên đó, nhà Lý đã thực hiện nhiều chính sách tích cực xây dựng đất
nước trên quy mô lớn, thời kỳ phục hưng toàn diện của dân tộc và nền văn
hoá dân tộc.
Tiếp sang đời Trần, từ năm 1226 đến hết thế kỷ XIV, triều đại này vẫn
sử dụng đô thị Thăng Long làm kinh thành. Thăng Long thời Trần đã mang
dáng dấp của một thành phố quốc tế. Một thành phố nhân ái, đón nhiều
người đến cư trú chính trị, chống sự xâm lược của đế quốc Nguyên Mông.
Như: đại quan nhà Tống Hoàng Bính đem cả 1200 người sang Thăng Long
xin trú ngụ; tham chính Tăng Uyên Tử, tướng Tống Triệu Trung, gia đình
nghệ sĩ leo dây múa rối Đinh Bàng Đức…
Thời Trần, ngoài sứ thần các nước, Thăng Long còn tiếp nhận nhiều
thượng khách và cư dân nước ngoài đến buôn bán làm ăn và cư trú chính trị.
Năm 1274, có 30 thuyền Trung Quốc đến xin cư trú và được nhà Trần cho ở
phường Nhai Tuân, lập phố, mở chợ buôn bán. Thăng Long mở rộng cửa
đón nhận các thương nhân người Hoa, người Hồi Hột (người Ouigour ở
Trung Á theo đạo Hồi, thuyền buôn Chà và (Java), sư người Hồ, thầy thuốc
4
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -

Lịch sử
và nghệ sĩ Trung Quốc, trong đó có nghệ sĩ leo dây Đinh Bàng Đức, nghệ sĩ
tuồng Lý Nguyên Cát.
Thăng Long có Ýt nhiều dáng vẻ quốc tế của một kinh thành đô hội.
2
Mét vai trò lịch sử của Thăng Long là vị trí đặc biệt của đô thị trong
cả ban lần kháng chiến chống xâm lược Mông – Nguyên. Thăng Long từ
chối không cho Mông Cổ mượn đường đánh Chiêm Thành. Thăng Long gửi
quân vào giúp Chiêm Thành kháng chiến chống Nguyên Mông.
Vào năm 1397, khi nhà Trần sắp mất và nhà Hồ thay thế cầm quyền
bính thiên hạ, một thử rhách đã đến với Thăng Long sau gần 400 năm tồn tại
với tư cách là một quốc đô: một đô thành mới được xây dựng gấp ở miền
Tây Thanh Hoá để người sắp cướp ngôi nhà Trần là Hồ Qói Ly buộc vua
Trần dời đô - gọi là Tây Đô, còn Thăng Long đổi thành đông Đô.
Triều Lê thành lập sau cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi
và vẫn sử dụng Thăng Long - Đông Đô làm quốc đô, một lần nữa lại đổi tên
đô thị thành Đông Kinh vào năm 1430. Tồn tại trong vòng 100 năm nhà Lê
đã xây dựng một chế độ quân chủ chuyên chế theo mô hình Nho giáo, cũng
cho tu bổ và xây dựng lại Đông Kinh theo qui cách đế đô của một quốc gia
quân chủ chuyên chế. Tuy đã trở thành một đô thị và một quốc gia thịnh đạt
nhưng đồng thời cũng phải chứng kiến những tệ nạn: chuyên quyền, độc
đoán, tham nhũng, bè đảng tranh chấp…nhất là bước sang đầu thế kỷ XVI,
triều Lê suy thì Đông Kinh là diễn trường của những cuộc ăn chơi trác táng,
là chiến trường xung đột giữa các phe phái và mục tiêu tấn công của các
cuộc khởi nghĩa nông dân. Song đô thị cổ Hà Nội lúc này đã trưởng thành và
qui hoạch 36 phố phường được cố định.
Triều Mạc thay thế triều Lê (1572 - 1592) sử dụng lại Đông Kinh làm
quốc đô và quay trở lại tên gọi Thăng Long. Tuy có nhưng khủng hoảng về
2
Phan Huy Lª: Th¨ng Long - §«ng §« - §«ng Kinh- Hµ Néi thÕ kû XI-XIX. Trong: Th¨ng Long-Hµ Néi,

NXB ChÝnh TrÞ Quèc Gia, Hµ Néi-1995, tr.80.
5
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
chính trị nhưng Thăng Long vẫn là một trung tâm kinh tế lớn của đất nước
tiếp tục phát triển với nền kinh tế hàng hoá. Đến cuối thế kỷ XVIII, thì một
biến cố lại đến, thử thách đô thị cổ Hà Nội một lần nữa, đó là sự tấn công
Thăng Long nhằm xoá bỏ chính quyền chúa Trịnh, quân xâm lược nhà
Thanh tiến vào xâm lược Thăng Long. Và triều đại Tây sơn chỉ tồn tại trong
một thời gian ngắn trên đô thị cổ Hà Nội.
Vào năm 1802, nhà Nguyễn đánh bại nhà Tây Sơn và định đô ở Huế.
Đô thị Thăng Long bước đầu bị hạ cấp xuống thành phủ Bắc Thành (miền
Bắc Bộ) và bắt đầu bị đổi chữ Long (có nghĩa là Thịnh Vượng) và không
được dùng chữ Hoàng thành ở Thăng Long nữa. Tất cả là để giảm tầm vóc
của đô thị. Đến năm 1831 cùng với việc đổi tên Thăng Long thành Hà Nội,
đô thị này lại bị hạ cấp một lần nữa – chỉ là thủ phủ của một tỉnh.
Không có điều kiện chính trị để phát triển, ở thế kỷ XIX đô thị Hà Nội
có chiều hướng nông thôn hoá một bộ phận. Nhưng khu vực “thị” của đô thị
vẫn được duy trì và chiều dày văn hoá vẫn được nuôi dưỡng. Và đến cuối
thế kỷ XIX, tình hình đô thị sa sút hơn chủ yếu do sù can thiệp và xâm lược
của thực dân Pháp. Nhưng cũng từ đây, lịch sử đô thị trở sang trang khác:
thành phố trung cổ đặt dưới sự bảo hộ của chế độ thực dân, dần dần ảnh
hưởng của chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển mình sang đô thị hoá thời
cận đại.
Trên cơ sở những nét khái quát nhất về lịch sử hình thành và phát
triển của đô thị cổ Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, người viết sẽ tập trung
vào phân tích những đặc điểm nổi bật của đô thị Thăng Long nhằm làm rõ
những nét riêng và những nét chung của đô thị cổ Việt Nam trong một hệ
thống chung.
6

Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
CHƯƠNG 2
MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐÔ THỊ CỔ THĂNG LONG - HÀ NỘI
1. Nguồn gốc
Đặc điểm chung nhất dễ nhận thấy của các đô thị cổ Việt Nam được
gói lại ở ngay trong hai từ tố hợp thành tên gọi, là phần lớn đều có hai bộ
phận: đô và thị.
Đô= thành, dinh, trấn = chính trị
Thị = phó, phường = kinh tế
Có thể yếu tố đô ra đời trước, sau đó là yếu tố thị. Hình dáng vật chất
và vẻ ngoài của đô thị, qui hoạch và kiến trúc đô thị đều được phản ánh qua
đấy, đặc biệt là mối quan hệ biện chứng giữa hai yếu tố Êy. Vấn đề đặt ra là
đô thị Thăng Long ra đời do nguyên nhân kinh tế có trước hay từ một trung
tâm chính trị hành chính mà thành, có nghĩa là do nhà nước quân chủ lập ra.
Năm 1010, Lý Thái Tổ đã định đô ở Đại La vì nơi đây “muôn vật cực
kỳ giàu thịnh”, tức là trước khi trở thành “đô” chỗ này đã thành “thị” rồi.
Song trong “Chiếu dời đô” đã nói rằng nơi đây là “đô” cũ của Cao Vương
(Biền), tức là đã thừa nhận tính chất chủ yếu của đô thị này vốn là một trung
tâm thống trị đất nước ở thời Bắc thuộc, đúng với sự mách bảo của các
nguồn sử liệu về đô thị Tống Bình - Đại La ở nơi đây, chính là nơi đặt
“dinh”, “trấn”, “thành” của các triều đại Tuỳ, Đường vào nửa sau thiên
niên kỷ thứ I. Luận về địa thế của Thăng Long và sự kiện Lý Công Uẩn dời
đô ra thành Tống Bình, Đại La cũ, nhà sử học thế kỷ XVIII, Ngô Thì Sĩ bàn:
“Đất Long Đỗ là nơi Cao Biền đóng ở đấy, núi Tản Viên chống vững một
cõi, sông Phú Lương như hào trời sinh ra, ngàn dặm bằng phẳng, trăm
họ giàu có: phía Tây thông với Sơn Tây, Tuyên Hưng; phía bắc thấu đến
Ninh Sóc, Kinh Bắc. Miền Đông Nam thì vận chuyển bằng thuyền, miền
7
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -

Lịch sử
Cần Xương thì liên lạc bằng trạm. Là nơi trung tâm của nước bốn
phương chầu về, núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông,
trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiểm, rộng mà dài, có thể làm
nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền. Hình thế đất Việt thật không
nơi nào được như nơi này. Cho nên trước kia nhà Đinh, nhà Lê bỏ đất đó
mà ở Hoa Lư, sau đó nhà Hồ cũng bỏ đất đó mà ở An Tôn thì đời làm vua
ngắn ngủi, thân bị bắt, nước bị mất là vì không được “địa lợi” đấy! Lý
Thái Tổ lên ngôi, chưa vội làm việc khác mà trước tiên mưu tính việc
định đô đặt đỉnh, xét về sự quyết đoán sáng suốt, mưu kế anh hùng, thực
những vua tầm thường không thể theo kịp. Cho nên truyền ngôi trong
hơn 200 năm, đánh giặc Tống, dẹp giặc Chiêm Thành, nước mạnh, dân
giàu có thể gọi là đời rất thịnh trị”.
3
Sử liệu cũng chỉ ra rằng phần “đô” này đã được định đặt ở đây, trước
tiên là trên cơ sở của một làng chài cá, có tên là “Rốn Rồng” (Long Đỗ), chứ
không phải là một trung tâm kinh tế phi nông nghiệp.
Yếu tè thành trong đô thị cổ Thăng Long được thể hiện rất rõ càng
chứng tỏ đô thị này ra đời có nguồn gốc là nhà nước. Trước hết, khu thành
Đại La bao quanh kinh thành Thăng Long, vốn đã có từ lâu đời. Thời Lê,
năm 1477, Lê Thánh Tông đã cho xây lại thành Đại La. Năm 1587, để đề
phòng quân Trịnh tấn công, Mạc Mậu Hợp đã cho xây đắp lại thành Đại La,
qua tư liệu thư tịch và thực địa thu được, nay bao bọc cả Hồ Tây, các khu
Ngọc Hà, Liễu Giai, Giảng Võ. Năm 1592, hệ thống thành luỹ này bị phá
huỷ hoàn toàn khi Trịnh Tùng tiến ra Thăng Long. Từ đó cho đến năm 1749,
“Kinh thành Thăng Long không có thành luỹ tầng ngoài”. Đến năm 1749,
Trịnh Doanh cho đắp sửa thành mới là Đại Độ, mở 8 cửa, 16 ô (mỗi cửa 2
ô). Thành Đại La lúc này đã thu hẹp lại, bỏ qua cả một phần rộng lớn là khu
Hồ Tây, và khu Thập Tam Trại ở phía Tây. “Như vậy, trong nửa sau của
3

§¹i ViÖt Sö Ký tiÒn biªn, NBX Khoa Häc X· Héi Hµ Néi 1994, tr.194.–
8
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
thế kỷ XVIII, toàn bộ kinh thành Thăng Long đã được bao bọc bởi một hệ
thống thành luỹ (Đại Độ hay Đại La) khép kín, được thông với bên ngoài
bằng 16 cửa ô”
4
.
Quần thể kiến trúc lớn trong thành được chia làm hai khu: Hoàng thành
và Phủ Chúa. Giáo sĩ Marini đến Kẻ Chợ năm 1666, đã miêu tả đoạn Hoàng
Thành thời Lê - Trịnh như sau: “Nếu ta đi từ Kẻ Chợ và triều tức là Cung
điện của Nhà Vua, thì chúng ta sẽ trông thấy không những một toà cung điện
mà là cả một thành phố rất đẹp và rất rộng… Mặc dù các cung điện nhà Vua
chỉ làm bằng gỗ, người ta đã trông thấy ở đấy những đồ trang trí bằng vàng
và những đồ thêu, những tấm chiếu dệt rất mịn, trang trí các mầu sắc khác
nhau, cũng như hàng bao tấm thảm đẹp, tất cả mọi thứ đều không thể so
sánh được. Người ta còn trông thấy những cửa vòm bằng đá và những bức
tường thành dầy đến lạ lùng nơi cung vua ở. Cung điện đó được xây dựng
trên một rừng cột to lớn và chắc chắn, chỉ cao khoảng một tầng gác, có một
cầu thang bắc lên đó. Những rui kèo ở đây đẹp hơn tất cả mọi kiến trúc khác.
Các phòng thật rộng rãi, hành lang có mái che với những sân lớn rộng bao
la…”
5
.
Trọng tâm của kinh đô sau đó đã chính thức dịch chuyển ra phía ngoài
khu thành này, đó là quần thể phủ Chúa Trịnh. Phủ Chúa Trịnh là một dãy
lâu đài nguy nga, đồ sộ, bên trong còn được bố trí rất nhiều cảnh sắc thiên
nhiên để tô điểm. Samuel Baron đã mô tả về phủ chúa Trịnh mà ông gọi là
“Phủ tướng quân” là một công trình kiến trúc lớn ở kinh thành. “Phủ tướng

quân đặt tại Kẻ Chợ, gần như là ở giữa thành phố: nó rất là rộng và xây
tường xung quanh; trong đó có đầy những ngôi nhà nhỏ, thấp và không được
xây bằng gạch vốn thuận tiện cho binh lính ở; ở trong đó có hai gác cao hầu
như lộ thiên. Những cái cổng rộng và trang nghiêm, tất cả đều làm bằng sắt,
4
NguyÔn Thõa Hû, s®d, tr. 25
5
DÉn theo NguyÔn Thõa Hû, s®d, tr. 33-34
9
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
dường như đây mới chính là phần vĩ đại nhất của khu cung điện. Nơi ở của
ông ta và những người vợ của ông ta cũng rất uy nghi và tốn kém ngang với
những toà lâu đài, bốn phía đều được trạm trổ, mạ vàng và sơn mài. ở cánh
đồng đầu tiên của cung điện là những cái chuồng cho những con voi to nhất
và những con ngưạ tốt nhất của ông ta; phần đằng sau là nhiều công viên,
những khu rừng nhỏ, những con đường bách bộ, chỗ ở, ao cá, và tất cả
những gì có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu khiển hay những lúc nghỉ ngơi,
giải trí của ông ta, bởi ông ta hiếm khi thoả mãn”
(6)
. Cũng giống nh lâu đài
của nhà vua, “ở đằng trước phủ Chúa (Choua) có một thao đường rộng, một
sân hình vuông để cho binh lính sắp hàng. Một phía là chỗ các quan ngồi
xem binh lính tập, còn phía bên kia là một cái nhà chứa đồ mà trong đó có
xếp xung quanh những khẩu đại bác và súng hạng nặng”
(7)
.
Nh vậy là vai trò của nhà nước được thể hiện rất rõ trong việc xây dựng
và hình thành khu đô thị cổ Thăng Long. Vói chính sách mở rộng thành đô
của nhà nước phong kiến, Thăng Long đã trở thành một trung tâm hấp dẫn

và kích thích đối với các địa phương xung quanh, khơi lên một luồng chuyển
dịch hanhg hoá và đưa đến sự hưng khởi của thành thị.
2. Hoạt động kinh tế
Phương diện chủ yếu của đời sống đô thị là những hoạt động kinh tế
mà nền tảng cốt lõi là kinh tế công thương và dịch vụ. Tuy nhiên trong suốt
hàng nghìn năm tồn tại của mình đô thị cổ Thăng Long còn có một đặc trưng
chủ yếu nữa là vị trí quốc đô của nó. Vai trò quốc đô này vừa qui định
những hoạt động đô thị chỉ riêng ở Thăng Long cổ mới có, về các phương
diện chính trị văn hoá vừa ảnh hưởng ngay đến cả tính chất của hoạt động
kinh tế đô thị.
6
S. Baron, S®d, tr. 692.
7
William Dampier, Du hµnh vµ kh¸m ph¸, S®d, tr. 52.
10
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
Từ khi định đô ở thế kỷ XI cho đến ngay cả khi quốc đô đã rời về Huế
hồi thế kỷ XIX Thăng Long cổ vẫn là một đô thị tập trung những hoạt động
triều chính cung đình. Và sinh hoạt hàng nghìn năm của Thăng Long đã tạo
ra một đường hướng, một mô hình vận động theo kiến thức và tổ chức của
một đô thi kết hợp chợ – bến – phố- phường mà hạt nhân là những khu chợ.
Ngay từ khi mới định đô, hoạt động chợ búa ở Hà Nội cổ đã in dấu
vào sử sách: “mở chợ Tây Nhai với hành lang dài”
8
, “Mở phố chợ về cửa
đông, hàng quân chen chúc đến bên đến Bạch Mã rất là huyên náo”
9
. Sứ
giả nhà Nguyên khi đến Thăng Long cuối thế kỷ XIII , đã ghi chép về một

mạng lưới chợ, họp định kì “hàng hoá phong phú có dựng lều quán”. Đến
thế kỷ XV thì cố đạo Ferreira đã tổng kết: “Kẻ Chợ có rất nhiều chợ đẹp”.
Những phiên chợ này thu hút một số lượng lớn dân xung quanh kinh thành
đến trao đổi buôn bán tại đây với rất nhiều loại hàng hoá tạo một số lượng
người đông “không thể tưởng tượng nổi; vài đường phố dù rất rộng rãi
mà cũng trở nên chật cứng đến nỗi một người có thể tìm thấy nhiều việc
để làm nếu anh ta đi xuyên qua một đám đông khoảng 100 bước trong
vòng nửa tiếng đồng hồ”
(10)
.
Từ thời Lý-Trần, với sức mạnh của một quốc gia đang lên, Thăng
Long - Đại Việt đã phát triển lên một tầm cao mới, dự nhập mạnh mẽ vào hệ
thống thương mại, buôn bán chung của khu vực Đông Nam Á-hệ thống
thương mại biển Đông. Với lợi thế giao thông đường thuỷ, đó là con sông
Cái – sông Hồng, kinh thành là trung tâm buôn bán lớn, thu hút nhiều thuyền
hàng ra vào tập nập. Theo Richard, số lượng thuyền “khổng lồ” đến nỗi mà
mỗi chiếc chỉ cần trả hai xu rưỡi phí đỗ thuyền thôi mà cũng có thể thành
một khoản thu nhập lớn. Các loại thuyền đậu san sát đến nỗi “rất khó có thể
tiến vào gần được bờ sông; những con sông ở nước chúng tôi và hầu hết
8
§¹i ViÖt sö lîc, biªn niªn sö n¨m 1039.
9
ViÖt ®iªn u linh tËp, chuyÖn ®êi cña vua LÝ Th¸nh T«ng.
10
S. Baron, S®d, tr. 659.
11
Bi tp chuyờn Trn Th Thu H - K54 CLC -
Lch s
nhng cng buụn bỏn, thm chớ Venice, vi tt c thuyn di
(11)

v thuyn
nh, cng khụng th no bng c s nhn nhp v ụng ỳc trờn sụng
K Ch, mc dự ú ch l s ngi cn thit li qun lý thuyn v bo
v hng hoỏ cũn li ca h: tt c cỏc lỏi buụn u cú nh riờng ca h
nhng lng xung quanh, khụng ai trong s h sng trờn nhng chic
thuyn.
Tuy ụng ỳc nh vy nhng nhng hot ng buụn bỏn ca ngi dõn
õy li rt quy c m Richard gi l mt trt t hon ho. Mi loi
hng hoỏ khỏc nhau c sp t vo mt ph nht nh, v nhng ph
ny mt ln na cng nhn hng bi mt, hai hay nhiu lng khỏc nhau;
nhng ngi dõn ti nhng lng ny mi cú c quyn m ca hiu
õy, cng phn nhiu ging vi mt s cụng ty hay nghip on nhng
thnh ph chõu u
(12)
. Hot ng buụn bỏn ca K Ch c chia ra thnh
nhng phng m c th l cú khong 36 phng. Nhiu trong số 36
phng ny (n v hnh chớnh) ca Thng Long c t di cỏi tờn
ca nhng sn phm th cụng c lm ra õy. Mi phng ny nm
gi mt ph nht nh vi nhng ca hng c dnh bỏn loi sn phm
ca h
(13)
. Nhng thng nhõn õy cng thnh lp nhng Hi buụn bỏn.
Nhng hi ny u cú ngi ng u, thu hỳt nhiu nhúm ngi khỏc
nhau, cú lc lng bo v v lut l riờng. Quy mụ buụn bỏn rt ln di
hỡnh thc ch yu l qua nhng ngi rao hng v nhng con thuyn
trờn con sụng rng chy qua thnh ph ny
(14)
.
Trong thi k thng mi, hot ng buụn bỏn ca K Ch khụng
ch bú hp trong nc m cũn c m rng giao lu quc t. Nhng

thng im H Lan, Anh ó ln lt c thnh lp õy iu khin mi
11
Loại thuyền cong và dài thờng đi hơn 50 ngời ở thành phố Venice.
12
S. Baron, Sđd, tr. 659.
13
Anthony Reid, Đông Nam á trong thời kỳ thơng mại 1450 - 1680, tập 1, Nxb. Yale University, USA,
1988, tr. 101.
14
Richard, Sđd, tr. 714.
12
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
hoạt động buôn bán của cả vùng. Theo những ghi chép của người Hà Lan,
Anh, Kẻ Chợ là một trung tâm buôn bán lớn trong hệ thống các thành phố
thương mại quốc tế dọc tuyến sông Đàng Ngoài, trong đó, Thăng Long/Kẻ
Chợ, Phố Hiến – Domea là những địa danh được nhắc đến nhiều hơn cả.
Theo William Dampier, “nhưng công việc kinh doanh ở vương quốc này
làm ở Cacho (Kẻ Chợ), là thành phố chính. Vì vậy cho nên các công ty
Đông Ên của người Anh và người Hà Lan đặt tại đây những uỷ viên
thường trực. Thành phố này còn ngược xa hơn nữa trên con sông, nằm
cách chỗ chúng tôi thả neo (Domea) chừng độ tám chục dặm (mile)”
(15)
.
Với sù nhộn nhịp buôn bán đó, ở Kẻ Chợ tập trung nhiều mặt hàng
phong phú. Hơn thế, theo ghi chép của những người Âu, đây là một vùng đất
rất trù phú: “Tỉnh Cachao (Kẻ Chợ), ngay trung tâm vương quốc, nằm
giữa các tỉnh Miền Đông, Miền Tây, Miền Bắc và Miền Nam. Đây là một
vùng rất đẹp và rất tốt. Đất đai màu vàng hay mầu xám và có khá nhiều
gỗ… Hai mặt hàng chính của nền thương mại, tức là sơn sống và tơ tằm,

có ở đây rất nhiều. Người ta cũng đưa đến đây Ýt gạo. Nhưng có thể nói
rằng không tỉnh nào trong các tỉnh này thiếu những thứ Êy, tuy rằng tỉnh
nọ không có đầy đủ bằng tỉnh kia, do tính chất đất đai khác nhau”
(16)
.
Trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi còn nhắc nhiều tới gốm sứ Bát
Tràng. Vào thế kỷ XVI, các lái buôn thường đến Thăng Long mua đồ gốm
sứ mang đi bán ở một số nước khác trong vùng Đông Nam Á.
Đến thế kỷ XVIII, nghề khảm xà cừ khá phát triển ở Thăng Long. Lê
Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục” cho rằng: Nghề khảm xà cừ từ rất lâu
trước đây đã vừa lan đến những miền xa xôi nhất của đất nước, tận những
vùng thuộc Chiêm Thành và Cao Miên, lại vừa hội tụ trong 36 phố phường
15
William Dampier, Mét chuyÕn du hµnh s¸ng B¾c Kú vµo n¨m 1688, S®d, tr. 11.
16
William Dampier, Mét chuyÕn du hµnh sang B¾c Kú vµo n¨m 1688, S®d, tr. 16, 17.
13
Bi tp chuyờn Trn Th Thu H - K54 CLC -
Lch s
ca t ụ, ó khng nh hựng hn s phỏt trin ca nú c v chiu rng
lónh th, c v s lng v cht lng.
3. V mt qun lớ xó hi ụ th Thng Long
3.1. B mỏy hnh chớnh Thng Long:
Thi Lý, qun lý ụ th H Ni l Ty Bỡnh Bc tn ti nh mt chớnh
quyn a phng c bit, trc thuc triu ỡnh trung ng. i Trn, nm
1265 i Ty Bỡnh Bc lm Kinh s An ph s, nm 1311 i lm kinh s
i doón, nm 1394 li i trung o doón. ụ thi c H Ni lỳc ny c
coi nh tng ng vi mt ph, mt l nhng do v trớ c bit ca nú nờn
ngi ng u chớnh quyn ụ th c tuyn chn rt ngt nghốo. Theo
qui nh nm 1265, ngi ny phi tri qua chc An ph s cỏc l, l

kho duyt thỡ v lm An ph s thiờn trng sau ú mi c kho duyt
lm kinh s An ph s.
n i Lờ, nm 1466 ụ th H Ni chớnh thc t thnh mt ph
mang tờn l ph Trang ụ. n v hnh chớnh cp trung gian ụ th cng l
huyn nh cỏc vựng nụng thụn.
Thit ch ụ th kiu ny cũn tn ti H Ni c cho n th k XIX
mi b xỏo trn v h cp. T nm 1831, triu Nguyn thnh lp tnh H
Ni
17
v ụ th H Ni c úng vai tnh thnh cu tnh ny, Nhng ng u
tnh li l chc Tng c H Ninh, cai qun c hai tnh H Ni v Ninh
Bỡnh.
Trờn phng din chớnh quyn trung ng, s dch chuyn quyn lc
ca cỏc tp on phong kin l nột ni bt ca th k XVI. Phi n th k
XVII, tc l khi c ch lng u c thit lp, s n nh v c bn
ca kt cu quyn lc mi c m bo. GS. TSKH Vũ Minh Giang cú
a ra mụ hỡnh hoỏ th ch lng u ny nh sau:
17
Gồm kinh thành Thăng Long cũ và huyện Từ Liêm, phủ ứng Hoà, phủ Lý Nhân.
14
Bi tp chuyờn Trn Th Thu H - K54 CLC -
Lch s
Cú thc quyn
Khụng thc quyn

S dch chuyn quyn lc chớnh tr thc tin theo hng ra bờn ngoi
Hong Thnh cho thy Vua Lờ tn ti ch l danh ngha, thc quyn nm
hon ton bờn Ph Chỳa. Cng Mc chộp s kin thỏng 9 nm 1714, Trnh
Cng t tin t ra Lc phiờn; n thỏng giờng nm 1724, Trnh Cng
tm quyn thay nh vua c hnh l t nam giao

V c cu t chc ca b mỏy hnh chớnh ca Kinh thnh gm cú 1
ph Phng Thiờn, 2 huyn Th Xng (do Vnh Xng i ra) v Qung
c. ng u ph Phng Thiờn l chc Ph doón, cũn chc Thiu doón
trc õy thay bng chc lnh. Chc v v quyn hn ca hai viờn quan
ny c quy nh khỏ rừ rng.
Theo D a chớ v Hong Vit a d, thỡ mi huyn u cú 18
phng, tng cng l 36 phng. Tuy nhiờn, cho n nay chúng ta vn cha
th cú con s thng kờ danh sỏch ca 36 phng trờn. Da vo kt qu
nghiờn cu ca tỏc gi Nguyn Tha H, chỳng ta cú:
+ Huyn Th Xng:
Vua Lê Chúa Trịnh
Triều Đình
Lục Bộ: Binh; Hình;
Công; Lại; Lễ; Hộ
Phủ Liêu
Lục Phiên: Binh; Hình;
Công; Lại; Lễ; Hộ
Chính quyền
địa ph ơng các cấp
15
Bi tp chuyờn Trn Th Thu H - K54 CLC -
Lch s
- Cỏc phng phớa ụng Hong Thnh (gia Hong Thnh v
Sụng Hng): ng Xuõn, ụng H, H Khu, ụng Cỏc, Diờn
Hng, Thỏi Cc, C V, Kim C, Bỏo Thiờn.
- Cỏc phng phớa nam Hong Thnh: Vnh Xng, Bớch Cõu, Xó
n, Kim Hoa, Phỳc Lõm, Phc C, Hng Mai, Yờn Xỏ.
Cng 17 phng
+ Huyn Qung c:
- Cỏc phng phớa ụng H Tõy: Nht Chiờu, Qung Bỏ Tõy H,

Nghi Tm, Yờn Hoa, Thch Khi (D a Chớ chộp: H Tõn),
Hoố Nhai.
- Cỏc phng phớa tõy H Tõy: Trớch Si, Bỏi n, Yờn Thỏi,
Vừng Th, H Khu, Thu Chng.
- Cỏc phng phớa tõy nam Hong Thnh: Thnh Ho, Cụng B,
Quan Trm, Thnh Quang.
Cng 17 phng.
Thỏng 2 nm Dng c 3 (1674), chiu lnh ca vua quy nh chc
v ca quan Ph doón l Ct gi gỡn trt t; nu thy nhõn viờn trong cỏc
nh quyn th, kiờu dụng ngang ngc, khụng theo phỏp ch, thỡ c
phộp n hc vic by ra nh chc trỏch trng tr. Cũn s tra xột cỏc
t tng, phi theo úng th bc l lut m tha hnh. Viờn no lm vic
xng chc s c thng thng; nu lm vic trỏi phộp s tu vic nng
nh m lun ti
18
. Lch triu hin chng loi chớ ghi: quan Ph doón cú
chc trỏch n ỏp nhng k quyn quý cng ho, xột hi nhng v
kin do huyn quan x m kờu li bn ht, cựng l kho xột thnh tớch
ca quan li, kho lun s t trong k thi hng v cỏc vic khỏc
19
. Nm
1718, chỳa Trnh li quy nh trỏch nhim v cỏch tp tng nh h, vic giỏ
18
Lê triều chiếu lịnh thiện chính, Đại học viện Sài Gòn, 1961, Q.1, Lại thuộc, tr. 39
19
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chơng loại chí, tập II, Nxb KHXH, H.1992, tr. 42
16
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
thú, việc ruộng đất ở trong kinh thì do Phủ doãn”. Qua một số quy định trên,

chúng ta thấy quan Phủ doãn trong coi phủ Phụng Thiên về các mặt chính
trị, tổ chức quan lại, kinh tế, pháp luật dân sự và khoa cử.
Chức vụ của quan Đề lĩnh là “Trông nom sửa sang những đường xá và
cầu cống trong kinh đô; phải khơi ngòi để tháo nước chữa cháy và ngăn
ngừa bọn gian phi. Theo Phạm Đình Hổ trong Vò trung tuỳ bút, “đời Trịnh
An Vương (Trịnh Cương 1709-1729), Nguyễn Công Hãng làm Thượng thư
cầm quyền chính, mới chia hai huyện ra làm 8 khu, mỗi khu đặt một người
trưởng khu và phó khu; lại chia ra 5 nhà làm một ti; 2 ti là 1 lư; mỗi lư cũng
có một lư trưởng; 4 lư là 1 đoàn, mỗi đoàn đặt một quản giám, 2 quản điểm,
dưới quyền người khu trưởng và trực thuộc quan Đề lĩnh. Đó là phỏng cái ý
cổ nhân bảo trợ phù trì lẫn nhau. Phàm những việc phòng hoả phòng trộm và
nhất thiết những việc giao dịch thuế má đều uỷ trách cho khu trưởng, đoàn
trưởng cả. Bởi vậy, những con nhà quan thường không thèm làm, chỉ để cho
những côn đồ trong các xóm chợ làm. Bọn chúng cùng những kẻ ti thuộc
quan Đề lĩnh thông nhau làm càn, rất phiền nhiễu cho dân phố”
20
. Nh vậy,
chức Đề lĩnh đứng đầu về mặt quản lý bảo vệ trật tự trị an, trông nom tu sửa
các công trình công cộng.
Không chỉ có vậy, chúa Trịnh còn hướng tới mục tiêu đem lại sự công
bằng bằng những biện pháp hành chính rất tiến bộ. Năm 1747, “Trịnh
Doanh cho đặt chuông và mõ ở cái điếm cửa phủ đường. Trịnh Doanh
đương hăng hái về công việc chính trị, hạ lệnh đặt chuông và mõ ở cái
điếm về cửa phía tả phủ đường. Có người nào trình bày công việc hiện
thời và người nào có tài nghệ mà tự mình tiến cử, thì đánh chuông; người
nào bị bọn quyền quý ức hiếp và người nào có sự oan uổng chưa được
20
Ph¹m §×nh Hæ, Vò trung tuú bót, Nxb V¨n häc, H.1972, tr. 23
17
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -

Lịch sử
bày tỏ, thì đánh mõ. Những người này đều phải làm đủ giấy tờ niêm
phong kín. Lại phiên lập tức dâng lên để chúa biết”
21
.
Năm 1785, tháng 4, nhà Chúa “Hạ lệnh cho bầy tôi và thứ dân nói
thẳng những điều thiếu sót lầm lỗi”
22
.
3.2. Công việc quản lý dân cư:
Ngay từ thời còn là Tống Bình - Đại La, đô thị Hà Nội cổ đã có dân cư
khá đông đúc. Nếu cả vùng Giao Châu (châu thổ sông Hồng thời Êy) gồm
có 55 hương, thì riêng Tống Bình đã có 11 hương. Tư liệu cổ Trung Quốc
nói về Đại La cho biết dân cư nội ngoại thành có 12 vạn người và 40 vạn
ngôi nhà.
Nh chóng ta đã biết, đô thị Thăng Long được phân bố chủ yếu làm hai
khu chính: Khu Thành quan liêu và khu Thị kinh tế dân gian. Nguồn gốc
của dân cư Thăng Long - Kẻ Chợ là rất phức tạp, nhiều thành phần. Bộ phận
nguồn gốc của dân cư kinh thành Thăng Long chủ yếu là lượng nhập cư từ
các vùng lân cận có nghề thủ công, buôn bán tương đối phát triển: Đa Ngưu
(nghề thuốc bắc ở Văn Giang – Hưng Yên), Đan Loan (làng nghề nhuộm vải
ở Hải Dương)… Sự bố trí dân cư mang nhiều tính tự phát. Bên cạnh đó,
chúng ta còn thấy xuất hiện một bộ phận thương nhân người nước ngoài
xuất hiện ở đô thị này vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Phía bắc kinh thành
xuất hiện một số dãy nhà ngói, đó là các thương điếm ngoại quốc, cụ thể là
của công ty Đông Ên Hà Lan và Anh. Theo miêu tả của Baron, ngôi nhà của
công ty người Anh là “ngôi nhà đẹp nhất mà tôi thấy được ở Kinh thành”
23
.
Năm 1597, Cương Mục chép sự kiện:

“Xét duyệt sổ dân đinh ở Phụng Thiên.
Nhà vua hạ lệnh xét duyệt những hạng quân, dân, đinh tráng ở tứ
chiếng hiện ngụ tại Phụng Thiên để lấy ngạch nhất định. Lúc Êy bọn cai
21
C¬ng Môc, tËp 2, tr. 593
22
C¬ng Môc, tËp 2, tr. 775
23
DÉn theo NguyÔn Thõa Hû, s®d, tr. 51
18
Bi tp chuyờn Trn Th Thu H - K54 CLC -
Lch s
qun a phng chuyờn vic búc lt, li lm phin nhiu dõn t ching v
vic i ct c cho voi. Dõn b kh s khụng sao k xit, nhiu ngi i theo
ng ngu cp búc
24
.
Nm 1658, theo Lờ triu chiu lnh thin chớnh, cú t tuyn quõn Cỏc
phng thuc ph Phng Thiờn c dõn s 100 ngi, ch ly hng quõn 20
ngi. Cng nm ú, cú quy nh v vic tuyn chn ngi cú hc thc:
Cỏc huyn, xó, phng trong cỏc x Thanh Hoỏ, Ngh An v cỏc x
phiờn trn thuc ph Phng Thiờn, lỳc im duyt cỏc hng nhõn dõn, cú
ngi no hi cú hc thc, cỏc quan x y phi hi ng kho hch qua, ai
hi thụng vn lý, thỡ cp cho bng nhiờu hc (cng nh khúa sinh) t cỏi
c ý ca triu ỡnh giỏo dng nhõn s.
25
Ngoi nhng t xột duyt dõn inh giỏm sỏt v qun lý d dng hn
(tuyn quõn, thu thu), trong cỏc b s, chỳng ta thy rt nhiu nhng c
gng qun lý dõn c v mt trt t tr an ca chớnh quyn phong kin:
- Nm 1649, thỏng 9, cú quy nh trong ni k (kinh ụ) cỏc quan

viờn quyn quý v cỏc hng ngi ph phng khụng c hp nhau ỏnh
c, ỏnh bc, ỏnh bi, mờ man v cuc n thua, n ni ht ca tan nh,
c n n b cng cú ngi chi bi nh th, khin cho nhng ngi cỏc
ph huyn ngoi, nhiu k bt chc thúi cn by y, sinh ra cú nhiu k
khỏnh kit ti sn, cm bỏn v con, lm bi hoi phong tc, khụng gỡ t hn
iu ó, nay phi cm nghiờm b thúi xu y i. Nu l quan viờn bc
quyn quý, ai cũn quen gi mói tt xu xa kia, s phi pht c tin 200 quan,
ngi phng ph m phm li ny, s phi pht c tin 100 quan, li b
ỏnh 100 trng, cựng l truy thu s tin tang vt bt c trong ỏm c
bc, nộp vo kho, lm gng rn k khỏc
26
.
24
Cơng Mục, tập 2, tr. 216-217
25
Lê triều chiếu lịnh thiện chính, sđd, Q. 2, Hộ thuộc, tr. 101
26
Lê triều chiếu lịnh thiện chính, sđd, Q. 3, Lễ thuộc thợng, tr. 175
19
Bi tp chuyờn Trn Th Thu H - K54 CLC -
Lch s
- Nm 1662, cú quy nh cm t tp chi g Quan v kớnh cỏc
doanh, c, i, v cỏc chin thuyn trong kinh ngoi trn, v dõn chỳng
cỏc ph, phng nht thit khụng c t hp nhau, by ra cuc chi g, say
mờ chi bi, b khoỏng chc v v ngh nghip. Ai trỏi lnh ny, cho phộp
quan lnh v quan Ph doón cựng l cỏc nhõn viờn chng kin cỏc cuc
y, c bt ly tang vt, gii np nh chc trỏch lun ti
27
.
Trnh Doanh h lnh rng: Dõn cú ngh nghip nht nh, thỡ s vt l

khụng th cỏm d thay i c ý chớ; trong nc khụng cú ngi dõn
phúng tỳng chi bi, thỡ phong tc t nhiờn thun hu. Vy nu xột thy cú
ngi no khụng theo v ngh nghip t dõn, tớnh tỡnh hung hón, chi bi c
bc, thỡ quan s ti trỡnh by n hc tr ti
28
Cựng vi nhng lnh cm l cỏc ch ti x lý i vi nhng ai v phm
cỏc t nn xó hi nh trờn.
Nm 1687, Vua Lờ cú lnh phũng ho tai: trong kinh thnh, phi
gi nghiờm cn. Giỏn hoc cú ngi no khụng gi cn thn n ni bc la
chỏy nh mỡnh, s b ti trng tỏm chc, nu chỏy lan ra nh ngi khỏc s
b riu i trc cụng chỳng ba ngy, v phi bt giam, tu vic nng nh
m khộp ti. Nu c ý t nh ngi ta, u b khộp vo ti n cp m x
trm. Ai bt c k t nh, s thng cho c tin 50 quan, t ý khuyn
khớch
29
3.3. Qun lý hot ng buụn bỏn:
Thng Long K Ch th k XVI-XVIII l mt trong nhng ụ th bc
nht v thng mi. Dõn gian cú cõu Th nht Kinh k, th nhỡ Ph Hin l
ch v s thnh vng ca cỏc hot ng buụn bỏn tp np ni õy.
khuyn khớch, to iu kin cho nhng ngi buụn bỏn, nh Lờ ó
ra mt iu lnh nm 1634: Cỏc ch v ca hng trong kinh k mua bỏn
27
Lê triều chiếu lịnh thiện chính, sđd, Q. 3, Lễ thuộc thợng, tr. 271
28
Cơng Mục, tập 2, tr. 635
29
Lê triều chiếu lịnh thiện chính, sđd, Q. 6, Hình thuộc, tr. 471
20
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử

giao dịch để lưu thông hàng hoá và phương tiện sự nhật dụng. Từ nay về
sau, các nhà quyền quý và các nha môn phải nghiêm cấm người nhà không
được ăn hiếp lấy tài vật của người ta ở ngoài chợ, để yên ổn lòng người. Ai
trái lệnh này, thì cho phép viên Xá nhân được tra xét, cũng là người chứng
kiến được tróc nã chính phạm cùng với đồ tang vật đem nộp, để xét thực,
khép phạm nhân vào tội nặng.”
30
(Xá nhân là một chức phụ trách về việc
này).
Năm 1645, có lệnh cấm giết trâu đem bán một cách bừa bãi: “Các chợ
và phường ở trong kinh kỳ và ở các xứ, giết vụng trâu bò, đÒu phải cấm
ngặt. chỉ còn các phường Đồng Xuân và Cầu Rền, mỗi ngày được giết trâu
một con; hoặc là ở kinh kỳ, quan các doanh các cơ cho phép người nào mới
được giết trâu. Nha môn Phủ doãn cùng với ty Xá nhân phải xem xét, và ở
ngoài trấn hai ty Thừa và Hiến, cùng nha môn các phủ huyện, có thấy người
nào giết trâu bán thịt, bắt được quả tang, thì dẫn đến phủ đường mà nộp, sẽ
kết tội, để trừng trị việc trái phép”
31
.
Năm 1647, vua Lê có lệnh “Chốn kinh kỳ là nơi văn vật, người ở các
phố phường và người buôn bán, có hàng hoá đều tàng trữ ở các chợ, vậy
phải cấm ngặt các nha môn, không được lấy tiền của các chợ trong kinh
kỳ, để cho nhân dân đều được an cư lạc nghiệp”
32

Không những thế, để đảm bảo tài sản cho những người buôn bán khi
gặp hoả hoạn, năm 1652, ban bố lệnh cấm cướp trộm tài sản: “nhất là cấm
không được hùa nhau cướp của cải và hàng hoá; nghiêm ngặt ngăn cản
những quân gian phi không được lẩn vào nhà người ta cướp lấy của cải và
đồ vật. Hoặc có người mang của cải chạy tránh lửa, mà quả thật là người ở

nhà đang bị cháy, phải để cho đi. Nếu là quân gian lạ mặt, thì phải bắt tên ấy
cùng tang vật đem giải nộp, sẽ khép hắn vào tội ăn cướp, còn tang vật thì
30
Lª triÒu chiÕu lÞnh thiÖn chÝnh, s®d, Q. 2, Hé thuéc, tr. 75
31
Lª triÒu chiÕu lÞnh thiÖn chÝnh, s®d, Q. 2, Hé thuéc, tr. 77
32
Lª triÒu chiÕu lÞnh thiÖn chÝnh, s®d, Q. 2, Hé thuéc, tr. 79
21
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
giao lại cho khổ chủ. Kẻ nào lấy trộm của ấy làm của mình, cho phép người
mất của được tố cáo, xét ra sự thực, cũng khép tên lấy trộm kia vào tội ăn
cướp. người nhà nào không giữ gìn cẩn thận, đến nỗi gây ra hoả hoạn, phải
chiếu luật khép vào tội trượng. Nếu là bị kẻ gian phóng hoả đốt nhà mình,
làm cho thiệt hại, thì phóng xá không bắt tội”
33
.
3.4. Một số điều khoản với người nước ngoài.
Bên cạnh những nguồn cư dân bản xứ, nội địa, Thăng Long thế kỷ
XVI-XVIII còn xuất hiện một bộ phận thương nhân nước ngoài đến đây
buôn bán và sinh sống.
Trước hết là việc xuất hiện những dãy nhà của khu thương điếm người
Anh, Pháp, Hà Lan… trong quần thể kiến trúc Thăng Long. Ngoài ra, còn có
cả những giáo sĩ đến kinh thành truyền đạo. Cũng cần phải kể đến những
thương nhân Hoa kiều, là những người có nhiều mối quan hệ làm ăn trong
nhiều đô thị sầm uất của Việt Nam giai đoạn đó.
Năm 1650, trong Lê triều chiếu lịnh thiện chính chép một đoạn dài về
những việc cấm liên quan đến người nước ngoài ở Kinh thành như sau: “Khi
có những tàu người các nước Hoa lang, Ô lan và Nhật Bản đến cửa bể nước

ta thì trong kinh phải sai viên Thể sát trước đi do thám rõ tình hình, rồi cho
bọn họ được ở những địa phận các làng Thanh Trì và Khuyến Lương, rồi
chọn người làm Thủ bả (viên chức coi xét) để răn bảo họ phải giữ phép. Lại
chọn người bản quốc làm Thông sự (thông ngôn) hiểu dụ viên trưởng tàu và
các phu tàu để bọn họ giữ gìn lễ phép, để đến kinh lễ mừng. Khi đi đường,
chước lượng cho một người trưởng tàu được cưỡi ngựa. Mỗi khi đi qua các
cửa điện và phủ đường (phủ chóa - người dịch chú) cùng là đền miếu các
tiên thánh thì phải xuống ngựa. Nếu qua những nơi cung cấm không được
xông xáo đi lại. có kẻ nào trái lệnh, thì cho phép quan Đề lĩnh, Phủ doãn tra
xét ra sự thực, rồi bắt tội viên thông sự. Còn như người Hoa lang giảng đạo,
33
Lª triÒu chiÕu lÞnh thiÖn chÝnh, s®d, Q. 6, H×nh thuéc, tr. 399
22
Bi tp chuyờn Trn Th Thu H - K54 CLC -
Lch s
kinh k cú ai theo c, thỡ cho phộp nha T l tra xột m cm ngtNu
bn kia (tc ngi Hoa lang truyn giỏo - ngi dch chỳ) cú dng nh th
by b, thỡ trong kinh k, cho phộp quan Ph doón c phỏ b in
nh tu buụn ngi Phúc Kin n õu buụn bỏn, phi dũ xột s tỡnh cho
minh bch, cho bn lỏi buụn y c a phn cỏc xó Thanh Trỡ v
Khuyn Lng, by hng m mua bỏn, cho s giao dch ỳng phộp; tu
ca bn y khụng c n hip mua hng hoỏ ca ch ta, ngi nc ta
cng khụng c h hip ly hnh hoỏ ca tu h. Nhng th hoỏ vt quý
bỏu riờng ng dng, u nghiờm cm khụng c cha chp mi ni
m bỏn giu gim cho nhau. Nu viờn giỏm th khụng bit nghiờm cm, s
b pht nng. Hoc khi cú s thn Tu n, cựng l khỏch thng do ng
b n min Bc, phi cho tr ti im Yờn Thng i lnh, cho c
nghiờm gió l phộp v ngn nga s dũm nom
34
Nm 1696, Cng Mc chộp: Nghiờm sc cho ngi phng Bc

sang trỳ ng, nht lut phi tuõn theo phong tc nc ta.
T khi ngi nh Thanh vo lm vua Trung Quc, giúc túc, mc ỏo
vn, gi y nguyờn tp tc c Món chõu, l giỏo phong tc v ỏo m i
Tng, i Minh b b ht. Lỏi buụn phng Bc i li nc ta lõu ngy,
trong nc cng cú ngi bt chc. Triu ỡnh bốn nghiờm sc:
Cỏc ngi phng Bc, ngi no ó biờn tờn vo s sỏch nc ta, thỡ
t ng n mc nht lut phi theo phong tc nc ta.
Cỏc lỏi buụn phng Bc n trỳ ng nc ta, nu khụng cú ngi
quen bit hng dn, khụng c t tin vo kinh thnh.
Nhõn dõn ven biờn gii khụng c bt chc ting núi v mc
ca ngi phng Bc.
Ngi no trỏi sc lnh trờn s b tr ti
35

34
Lê triều chiếu lịnh thiện chính, sđd, Q. 3, Lễ thuộc thợng, tr. 177
35
Cơng Mục, tập 2, tr. 373
23
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
4. Đô thị cổ Thăng Long chịu sù chi phối của nông thôn
Trong khi có hàng loạt các làng làm công thương thực hiện các chức
năng của thành phố thì thành Thăng Long thành phố lớn nhất và quan trọng
nhất của Việt Nam lại mang nhiều đặc tính của thôn làng và chịu chi phối
của các làng.
Phần lớn các phố của Thăng Long đều do các làng độc quyền chiếm
cứ. Những phố này bán các hàng sản xuất của làng hoặc dân làng ra thành
phố: vừa sản xuất vừa bán tại chỗ. Samuel Baron nhân xét về sự độc quyền
của một số làng đối với các phố phường của Thăng Long bằng mỗi phố đều

do mét hai hoậc nhiều làng mạc chiếm cứ. Và chỉ có dân các làng đó mới có
quyền mở hiệu buôn ở đó.
Những người buôn bán ở Thăng Long do đó không phải là thị dân tự
do nh là các thành thị ở phương Tây. Mỗi người dân Thăng Long vẫn thuộc
về làng quê của mình. Họ gắn bó tình cảm với làng vãn đóng góp nghĩa vụ
với làng, với họ. Giỗ têt hội hè vẫn trở về làng tham dự. Những người có
nhiều tiền vẫn hay tậu ruộng ở làng. Khi tình hình bất an hay loạn lạc họ
thường đưa của về làng quê hay về làng cư trú. Nói tóm lại thị dân Thăng
Long không tách khỏi làng xóm và nông nghiệp, họ vẫn nối cái cuống rốn
với làng xã được gọi là nơi “chôn rau cát rốn”, nơi có mồ mả tổ tiên. Họ
không có ý thức thị dân mà vẫn mang ý thức thôn làng. Thường họ còn
mang cả bát hương thờ thần làng và bát hương thờ nhà họ ra Thăng Long để
lập nơi thờ cúng – Thăng Long đầy rẫy các đình thờ thành hoàng các làng ở
các phố phường. Thăng Long cũng không khác làng xã là bao nhiêu, mỗi
làng là một công xã, thành thị lớn thì phân chia thành các phường mà mỗi
phường cũng là một công xã. Rõ ràng là thị dân ở Thăng Long xưa vẫn có
nhiều chỗ tương đồng với thôn dân ở các vùng nông thôn. Những thiết chế
tương tự như công xa nông thôn tức làng quê vẫn có tác động quan trọng
trong việc quy định thế ứng xử và lối ứng xử của thị dân ở Thăng Long. Hệ
24
Bài tập chuyên đề Trần Thị Thu Hà - K54 CLC -
Lịch sử
ý thức phong kiến vốn ràng buộc thôn dân ở các vùng nông thôn cũng ràng
buộc họ. Nhưng thị dân ở Thăng Long vẫn có chỗ khác với thôn dân ở Kẻ
quê.
Giữa thị dân và nông dân tức là đại bộ phận thôn dân có sự khác nhau
vì thị dân đã thoát li sản xuất nông nghiệp và chuyên sống bằng các nghề thủ
công mỹ nghệ, thương nghiệp, dịch vụ. Giữa những người làm nghề này ở
Thăng Long tức là thị dân và những người làm cùng nghề ở nông thôn tức là
một bộ phân thôn dân cũng có sự khác nhau. Thợ thủ công mỹ nghệ ở các

làng và ngưòi buôn bán ở các chợ quê Ýt hoặc nhiều vẫn tham gia vào sản
xuất nông nghiệp. Hơn nữa vì sống rải rác giữa đông đảo nông dân cho nên
về cơ bản họ vẫn suy nghĩ và ứng xử nh nông dân.
Ở Thăng Long – Kẻ Chợ thị dân vì chuyên sống bằng các nghề thủ
công mỹ nghệ, thương nghiệp, dịch vụ lại cư trú theo phường cho nên có
điều kiện thuận lợi hơn để rèn luyện tay nghề và chuyên nghiệp hoá cao hơn
thôn dân làm cùng nghề. Mặc dù đã có kinh tế hàng hoá chưa phát triển
nhưng cũng đủ để làm cho trong cách suy nghĩ và lối ứng xử thị dân ở đấy
khác với thôn dân. Ở Thăng Long – Kẻ Chợ hơn bất cứ vùng nào khác có sự
giao lưu rộng rãi và đa dạng với các vùng khác trong cả nước. Và Thăng
Long – Kẻ Chợ lại là một trong những nơi có sự giao lưu nhiều nhất với
nước ngoài vì vậy mà trìng độ hiểu biết và nhãn quan của thị dân có điều
thuận lợi hơn để được mở rộng hơn so với thôn dân.
Ngoài ra, Thăng Long – Kẻ Chợ là nơi trực tiếp bị ảnh hưởng bởi
những biến động về kinh tế chính trị xã hội và văn hoá hơn các vùng khác
trong nước ta và vậy mà xét về lối ững xử của thị dân ở Thăng Long – Kẻ
Chợ phải thích nghi với sự thay đổi nhiều hơn thôn dân. Và lối ứng xử của
họ hoạt bát năng động hơn thôn dân là điều dễ hiểu.
5. Tình hình văn hoá
25

×