Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

on tap van 9 2010-2011 -cuc hot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.77 KB, 53 trang )

Chuyện ngời con gáI Nam Xơng
(Trích Truyền kì mạn lục Nguyễn Dữ)
1.Bài 1: Trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng Vũ Nơng là con ngời đẹp đẽ cả về dung nhan và tính hạnh nhng nàng đã phải chịu
1 số phận đầy bất hạnh.
Bằng 1 đ.văn khoảng 15 câu, em hãy làm rõ điều đó. Trong đoạn có s.dụng 1 câu ghép và 1 cách dẫn trực tiếp.
2.Bài 2: Trong Chuyện ng ời chi tiết cái bóng có ý nghĩa gì trong cách kể chuyện?
3.Bài 3: Chuyện ngời con gái Nam Xơng của N.Dữ x.hiện nhiều yếu tố kì ảo. Hãy chỉ ra các y.tố kì ảo ấy và cho biết t.giả
muốn thể hiện điều gì khi đa ra những y.tố kì ảo vào 1 câu chuyện quen thuộc?
4.Bài 4: Chi tiết cuối kết thúc truyện Chuyện ngời con gái là 1 chi tiết kì ảo.
a.Hãy kể ngắn gọn chi tiết ấy bằng 1 đ.văn từ 3 5 câu.
b.Nhận xét về chi tiết cuối cùng này, có ý kiến cho rằng: Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái lung linh kì ảo.
Nhận xét đó có đúng không? Vì sao?
5. Bài 5: (Đề thi học sinh giỏi Quận 06 + 07):
Khi T.Sinh lập đàn tràng giải oan trên bến sông Hoàng Giang, Vũ Nơng hiện về ở giữa dòng mà nói vọng vào: Đa tạ tình
chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian đợc nữa.
(Chuyện ngời con gái Nam Xơnng Nguyễn Dữ).
Đó là câu nói cuối cùng của V.Nơng với T.Sinh trớc khi biến mất. Em thử lí giải vì sao V.Nơng Không thể trở về nhân gian đợc
nữa. (Trình bày bằng 1 đoạn văn T P H có độ dài khoảng 20 dòng)
7. Bài 7: ( Đề thi học sinh giỏi Quận HBT 06 + 07):
Trong cuốn Bình giảng truyện dân gian, khi nhận xét về chi tiết nghệ thuật cái bóng của truyện cổ tích Vợ chàng Trơng,
tác giả Hoàng Tiến Tựu có viết: Cái bóng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo Tuy không phải là ngời và không tồn tại độc lập,
nhng nó (cái bóng) thực sự là 1 nhân vật có vai trò quan trọng đặc biệt ở trong truyện cổ tích có tính bi kịch này ,
Theo em, n.xét trên có đúng với chi tiết ngh.thuật cái bóng trong Chuyện ngời con không? Vì sao?
8. Bài 8: (Đề thi thử lần 1 Tr ờng THCS Quỳnh Mai):
Trong SGK Ngữ văn 9 tập I có đoạn văn: Chàng đi chuyến này. không có canh shồng bay bổng.
a.Những c.văn trên nằm trong VB nào? Của ai? Hãy kể tóm tắt những chi tiết khiến cho văn bản ấy mang đậm yếu tố truyền kì và
nêu ý nghĩa của những chi tiết đó.
b.Em hiểu những hình ảnh thế trẻ tre, mùa da chín quá kì, cánh hồng bay bổng nh thế nào? Đó có phải đều là hình
ảnh ẩn dụ không?
c.Hãy tìm trong đ.văn trên 2 câu rút gọn, 2 cụm C V mở rộng th.phần câu và nói rõ những cụm chủ vị đó mở rộng cho
thành phần nào của câu?


9 Bài 9 . (Đề thi tuyển sinh vào THPT 07 + 08)
Từ một truyện dân gian, bằng tài năng và sự cảm thơng sâu sắc, Nguyễn Dữ đã viết thành Chuyện ngời con gái Nam Xơng. Đây
là một trong những truyện hay nhất đợc rút từ tập Truyền kì mạn lục của ông.
a.Giải thích ý nghĩa nhan đề Truyền kì mạn lục.
b.Trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng, lúc vắng chồng, Vũ Nơng hay đùa con, chỉ vào bóng mình mà bảo là cha Đản. Chi tiết
đó đã nói lên điều gì ở nhân vật này? Việc tác giả đa vào cuối truyện yếu tố kì ảo nói về sự trở về chốc lát của Vũ Nơng có làm cho
tính bi kịch của tác phẩm mất đi không? Vì sao?
10. Bài 10 (Đề khảo sát chất l ợng 07 + 08 - Tr ờng THCS Quỳnh Mai):
Đọc kĩ đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Thiếp vốn con kẻ đừng 1 mực nghi oan cho thiếp.
a.Đ.văn trên đợc trích từ t.phẩm nào? Của ai? Trình bày hiểu biết của em về khái niệm Truyền kì mạn lục.
b.Giải thích nghĩa của cụm từ một tiết trong đoạn trích dẫn trên.
c.Lời thoại trên là lời của ai nói với ai? Nhằm mục đích gì? Từ đây em có suy nghĩ nh thế nào về vẻ đẹp và thân phận của ngời
phụ nữ dới chế độ phong kiến.
d.Kể tên 2 t.phẩm khác viết về đ.tài ngời p.nữ dới c.độ PK trong c.trình Ngữ văn THCS và ghi rõ tên tác giả.
11. Bài 11: P.tích ý nghĩa của h.ảnh cái bóng trong truyện Chuyện ng ời con gái Nam Xơng
12. Bài 12: Viết tiếp câu mở đoạn sau để hoàn chỉnh 1 đ.văn khoảng 10 câu theo cách d.dịch: Nhà văn đã đặt nhân vật Vũ Nơng
vào nhiều hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của nàng.
13. Bài 13: Trong bài thơ Lại viếng Vũ Thị của Lê Thánh Tông có câu kết: Khá trách chàng Trơng khéo phũ phàng . Em có
đồng ý với ý kiến của tác giả không? Viết một đoạn văn ngắn trình bày ý kiến của em.
14. Bài 14: Viết tiếp câu chủ đề sau 1 đ.văn khoảng 8 - 10 câu: Đáng thơng thay cho nàng Vũ Nơng
15. Bài 15:
a.Chữa lỗi câu văn sau:
Nhng Vũ Nơng không chỉ là ngời con gái đẹp đẽ cả về dung nhan và tính hạnh. Qua ngòi bút của Nguyễn Dữ còn cho ta thấy Vũ
Nơng đã phải chịu nỗi oan khổ vô bờ vì chồng nàng đa nghi, thô bạo.
b.Từ câu chủ đề đó, viết một đ.văn từ 6 8 câu. Trong đ.văn có s.dụng phép nối để l.kết câu.
16. Bài 16:
Viết đ.văn d.dịch khoảng 15 câu với câu chủ đề sau: Chuyện ng ời con gái Nam Xơng đã thể hiện niềm cảm th ơng đối với số
phận oan nghiệt của ngời phụ nữ dới chế độ phong kiến. Trong đ.văn có sử dụng một câu ghép đẳng lập.
17. Bài 17: Trong Truyện cổ tích, khi bị oan, V.Nơng đã chạy ra sông tự tử. Còn trong Chuyện ng ời con gái Nam Xơng , V.Nơng

tắm gội chay sạch, chạy ra bến Hoàng Giang thề cùng trời đất rồi mới gieo mình xuống sông.
Hai cách kể khác nhau về chi tiết đó có mang đến ý nghĩa khác nhau không? Vì sao?
18. Bài 18: So với truyện cổ tích Vợ chàng Trơng thì Chuyện ngời con gái Nam Xơng có thêm nhân vật bà mẹ Trơng Sinh. Theo
em, điều đó có làm loãng câu chuyện không? Vì sao?
19. Bài 19: Giới thiệu sơ lợc về Nguyễn Dữ và tác phẩm Truyền kì mạn lục .
20. Bài 20: Tr.bãy những h.biết cuả em về g.trị ng.thuật của những đoạn đ.thoại và những lời tự bạch trong Chuyện
21. Bài 21: P.tích ý nghĩa cuả yếu tố truyền kì trong truyện Chuyện ng ời con gái Nam xơng .
22. Bài 22: Cho đoạn văn sau:
Ngời con gái Nam Xơng của Nguyễn Dữ, tác phẩm văn xuôi trữ tình có giá trị đầu tiên của văn học cổ nớc ta thế kỉ XVI. Nhận
vật chính của truyện là Vũ Thị Thiết. Nàng là cô gái thuộc tầng lớp bình dân, tính tình thuỳ mị nết na, lại thêm có t dung tốt đẹp
hơn ngời. Từ khi về nhà chồng, nhất là sau khi chồng là Trơng Sinh đi lính. Ngời vợ trẻ đó phải gánh chịu bao nỗi đắng cay oan
khuất. Tuy vậy Ngời con gái Nam Xơng ấy vẫn giữ chọn tình nghĩa thuỷ chung với chồng.
a.Chép lại đoạn văn trên sau khi đã sửa hết lỗi sai về chính tả và đặt câu.
b.Chỉ ra chỗ ngời viết dùng phép thế.
c.Giải nghĩa các từ oan khuất , t dung .
d.Có thể thay thế từ thuỳ mị bằng từ nào?
e.Viết 1 đoạn văn khoảng 10 câu theo kiểu T P H để làm sáng tỏ ý câu chủ đề: Vũ Thị Thiết là ng ời vợ rất giàu tình
nghĩa, thuỷ chung với chồng .

Trong truyn Ngi con gỏi Nam Xng, nhõn vt Trng Sinh vi tin cõu núi ngõy th ca con tr
ó nghi oan cho V Nng rung ry v ỏnh ui nng i. V Nng b oan c nờn nhy xung sụng t vn.
Em hóy c k li tỏc phm v tỡm xem cú nhng chi tit no trong truyn tỏc gi mun hộ m kh nng cú
th trỏnh c thm kch au thng cho V Nng. Nhng nguyờn nhõn no lm cho thm kch ú vn din ra dn n
cỏi cht au thng ca ngi ph n c hnh?
Em hóy bỡnh lun v nguyờn nhõn cỏi cht ú.

1. c k tỏc phm, nm vng chi tit, c lp suy ngh tỡm ra nhng chi tit m yờu cu. Ti tht nỳt
v m nỳt l ch y. Mi em tỡm tũi theo cỏch ca mỡnh min l hp lớ.
2. Bỡnh luõn v nguyờn nhõn cỏi cht ca V Nng. Cú nguyờn nhõn trc tip do tớnh nt cỏ nhõn ca
Trng Linh v nguyờn nhõn sõu xa ca ch xó hi t ú tỡm ra ý ngha t cỏo v nhõn o ca tỏc phm.


Truyn kỡ mn lc l mt tỏc phm cú giỏ tr ca vn hc c nc ta th k XVI, mt tp truyn vn th u
tiờn bng ch Hỏn Vit Nam. Truyn Ngi con gỏi Nam Xng l mt truyn hay trong tỏc phm.
Truyn k rng, V Th Thit l mt ph n c hnh Nam Xng, chng l Trng Linh, ngi nh giu
nhng khụng cú hc, tớnh lai a nghi. Triu ỡnh bt lớnh, Trng Linh phi tũng quõn trong khi v ang mang thai.
Chng i xa mi c mi ngy thỡ nng sinh con trai t tờn l n. Nm sau, gic tan, vic quõn kt thỳc, Trng
Linh tr v thỡ con ó bit núi, nhng a tr nht nh khụng nhn Trng Linh lm b. Nú núi: hay! Th ra ụng
cng l cha tụi ? ễng li bit núi, ch khụng nh cha tụi trc kia ch thin thớt. Trc õy thng cú mt ụng ờm no
cng n, m n i cng i, m n ngi cng ngi nhng chng bao gi b n c.
Tớnh Trng Sinh hay ghen, nghe con núi vy inh ninh rng v h, ó vu oan cho V Nng, rung ry v
ỏnh ui nng i. V Nng b oan c ó nhy xung sụng t vn.
c k tỏc phm, em thy truyn khụng phi khụng hộ m kh nng cú th d dng trỏnh c thm kch au
thng ú. Ti k chuyn ca tỏc gi l ch ú, ci ra ri li tht vo y cõu chuyn i ti, khin ngi c hng thỳ
theo dừi v suy ngh, ch ca tỏc phmtng bc ni lờn theo dũng k ca cõu chuyn. Li con tr nghe nh tht m
chứa đựng không ít điều vô lí không thể tin ngay được, nếu Trương Linh biết suy nghĩ, người cha gì mà lạ vậy: “không
biết nói, chỉ nín thin thít” chẳng bao giờ bế con mình, mà hệt như “cái máy” - “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng
ngồi”. Câu nói đó của đứa trẻ chẳng phải là một câu đố, giảng giải được thì cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra.
Nhưng Trương Linh cả ghen, ít học, thiếu suy nghĩ, đã vô tình bỏ dở khả năng giải quyết tấm thảm kịch, dẫn tới cái chết
oan uổng của người vợ mà chàng không phải không có tình yêu thương. Tất nhiên sự đời có thế mới thành chuyện, vả lại
trên đơì làm gì có sự ghen tuông sáng suốt.
Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương Linh kể lại lời con nói mọi chuyện sẽ
rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở một mình nàng hay đùa với con trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản.
Mãi sau này, một đêm phòng không vắng vẻ, ngồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ vào bóng mình trên
vách mà bảo đó là cha nó, Trương Linh mới tỉnh ngô, thấu hiểu nỗi oan của vợ thì mọi chuyện đã xong. Vũ Nương không
còn nữa trên đời.
Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ ghen tuông. Không ít tác phẩm xưa
nay đã viết về cái chuyện thường tình đầy tai hoạ này. Vũ nương không may lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân
trực tiếp dẫn nàng đến cái chết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Nhưng sự thực vẫn là sự thực!cái chết
oan uổng quá và người chồng độc đoán quá!
Một phụ nữ đức hạnh, tâm hồn như ngọc sáng mà bị nghi oan bởi một chuyện không đâu ở một lời con trẻ,

một câu nói đùa của mẹ với con mà phải tìm đến cái chết bi thảm, ai oán trong lòng sông thăm thẳm. Câu chuyện đau
lòng vượt ra ngoài khuôn khổ cuả một gia đình, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ tới số phận mong manh của con người
trong một xã hội mà những oan khuất, bất công, tai hoạ có thể xảy ra bất cứ lúc nào đối với họ mà những nguyên nhân
dẫn đến nhiều khi rất lạ lùng không thể lường trước được. Đó là xã hội phong kiến ở nước ta, nhất là ở thời nó đã suy
vong. Xã hội đó đã sinh ra những chàng Trương Sinh, những người đàn ông đặc đầu óc “nam quyền”, chà đạp lên quyền
sống của người phụ nữ. Tính ghen tuông của cá nhân cộng với tư tưởng “nam quyền” trong xã hội đã làm nên một
Trương Sinh độc đoán đến kỳ cục, khư khư theo ý riêng, nhất thiết không nghe ý kiến của người khác. Đứa trẻ nói thì tin
ngay, còn vợ than khóc giãi bày thống thiết thì nhất định không tin, họ hàng, làng xóm phân giải công minh cũng chẳng
ăn thua gì. Hậu quả là cái chết thảm thương của Vũ nương mà nguyên nhân sâu xa là chế độ phong kiến bất công cùng
chế độ “nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai hoạ cho người phụ nữ nói riêng và con người thời đó
nói chung.
 Phân tích truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi
bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “ Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó
được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ
đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính
ở phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi.
Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh
Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho
nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.
Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày
trời vì một chuyện vờ ghen vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của
người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ
gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót
chén rượi đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng
sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn
tụ làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.

Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”,
mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân
trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn sống,
chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẳng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để
chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến
thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang
có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương
thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm
khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá
Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giải bày, cứu chữa nàng đành mượn cái
chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang
giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhựợc bằng lòng chim, dạ
cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ
nhổ ” lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa - con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải
oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm
giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng, truyện đã khẳng định những
nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam - một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo
vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình,
lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt ngã của lễ giáo phong
kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông của chồng,
thói hung bạo, gia trưởng của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng (thiếp vốn con nhà khó, được nương
tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì
phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời, con vừa học nói, lòng buồn
bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một

người đàn ông đêm nào cũng đến ”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn
đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên
cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của Trương Sinh vô hình
dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực trạng về thân phận người
phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và
chịu nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan của người thiếu
phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “ Truyện
Kiề”u của Nguyễn Du, người cung nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình
trong thơ Hồ Xuân Hương,
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công
trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút
và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây
chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan
hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng, phải kết thúc bi
thảm trêm một dòng sông.
“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng Trương trên vách: “cha
Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu
chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân
hậu, từng trải ; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lí, có tình - lời của người phụ nữ
hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn nhiên, ngây thơ, thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ
Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích
“Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới.
Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân
dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập
trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với

kiệu hoa rực rỡ trên sông đó là những tình tiết kì ảo, không có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh
huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì không thể cứu được cuộc đời
Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và
quê hương mà không thể trở về được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ
Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ,
chúng ta càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang
vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của
thời đại mới.
  Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.

“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện
văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truền kì mạn lục là một tác phẩm hay trong
tập truyện đó. Nhân vật chính là vũ nương, một phụ nữ đếp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen
tuông vô cớ của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI. Hình ảnh người con gái Nam
Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài
thơ “miếu vợ chàng Trương”:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương “
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ Nương - người phụ nữ dưới chế độ
xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân
đạo khiến ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nương và dễ dàng nhận thấy được Vũ
Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm
đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một người vợ hiền, ngoan nết “chẳng
lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù Trường Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi

quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam
quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh động và lời lẽ đưa tiễn chồng của người vợ hiền, lời
thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong chàng ái gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ
rồi” , “thư tính, nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa ”, “ là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-hạnh” mà Vũ Nương đã
làm được một cách chân thành.
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng ta phải ca ngợi con người
nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt
với chồng của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng
đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời. Vũ nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với
chồng.
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là trong gia đình phong kiến.
Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều
đó còn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như
con đã chẳng phụ mẹ “
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng thơm thảo của người con dâu
đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt
những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu Bé Đản thơ
ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên
nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thậtt vô tình).
Nỗi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán, phàm phu lại kém văn hoá như
Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng
ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, trương Sinh
vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư” , mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng
nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh
vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có
cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc - niềm vui “nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết
để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của

nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội tình gì. Mãi đến sau cái chết đo,
người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình. chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho
giáo nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải
sống trong cảnh đời như vậy:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Li rng bc mnh cng l li chung
Cỏi cht ca V Nng l s phn, nhng cng l li t cỏo thúi nghen tuụng ớch k, s h , v phu ca n
ụng- ngi chng vụ hc, a nghi nh Trng Sinh- l li t cỏo lut l phong kin h khc dung tỳng cho s c ỏc, bt
cụng- ch nam quyn di thi phong kin ng tr.
V Nng trong truyn l mt nhõn vt rt p, theo ỳng quan nim c im truyn thng, nhng phi chu
ni oan ty tri v phi chng thc s vụ ti ca mỡnh bng cỏi cht. Cỏi cht au n bt cụng, ch vỡ s hiu nhm, t
mt cõu núi th ngõy ca con tr m ngi chng Trng Sinh ó nghi oan, ó lm mt i ngi v quý trờn i. Nguyờn
nhõn sõu xa ca bi kch nỏt lũng ny chớnh l do chin tranh lon lc v l giỏo phong kin trng nam quyn trong xó hi
ngy trc.
Hoàng lê nhất thống chí
1.Bài 1: Giải thích nhan đề HLNTC.
2. Bài 2: Có thể gọi HLNTC là tiểu thuyết lịch sử vì lí do nào?
3. Bài 3: Cho câu văn sau:
Hồi thứ mời bốn của HLNTC đã miêu tả chân thực hình ảnh thảm bại của quân xâm lợc và số phận bi đát của bọn vua quan
phản nớc hại dân.
a.Hãy biến đổi câu văn trên thành câu bị động.
b.Hãy viết câu chủ đề trên để hoàn thành 1 đoạn văn diễn dịch (khoảng 15 câu). Trong đoạn văn có sử dụng 1 câu ghép, một câu
trần thuật đơn có từ là.
4. Bài 4: (Đề thi thử 08 + 09 Trờng THCS Tân Mai):
Đọc c.văn sau và trả lời c.hỏi: Giữa tra hôm ấy, vua Q.Trung tiến binh đền T.Long, rồi kéo vào thành.
a.Câu văn trên đợc trích từ đâu? Của tác giả nào? Câu văn đã cho chúng ta biết sự kiện gì?
b.Hãy ghi lại nội dung chính của đoạn trích chứa câu văn trên (đợc nêu ở phần đầu đoạn trích học). Theo em, tại sao t.giả của
t.phẩm trên vốn trung thành với nhà Lê lại viết chân thực và hay về vua Q.Trung nh vậy?

5. Bài 5: (Đề thi thử lần 3 08 + 09 Trờng THCS Ngô Gia Tự):
Có 1 đoạn văn mở đầu bằng câu: Văn học đã ca ngợi hình ảnh ng ời anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ và ngời anh hùng có lí tởng
đạo đức cao đẹp Lục Vân Tiên .
Viết một đ.văn khoảng 12 câu, theo cách T P H có câu mở đoạn trên. Trong đoạn có 1 câu mở rộng thành phần, một trợ từ
và 1 thành ngữ.
6. Bài 6: (Đề thi thử 08 + 09 Trờng THCS Ngô Quyền):
Đọc kĩ phần trích sau: Vua Q.Trung lại truyền lấy máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.
a.Tại sao tác phẩm dù đợc viết bởi những cựu thần nhà Lê thế nhng vẫn tạo dựng nên hình ảnh ngời anh hùng Nguyễn Huệ có
lòng yêu nớc nồng nàn, quả cảm, tài trí, nhân cách cao đẹp?
b.Dựa vào đ.trích trên, em hãy viết 1 đ.văn khoảng 10 12 câu theo cách T P H tr.bày những c.nhận của em về ngời anh
hùng áo vải Q.Trung N.Huệ. Trong đoạn có sử dụng phép liên kết thế và 1 câu cảm.
7. Bài 7: (Đề thi học sinh giỏi 03 + 04 Quận Hoàng Mai)
Cuối hồi thứ 14 của tác phẩm HLNTC có đoạn thuật lại cảnh vua Quang Trung chỉ huy quân Tây Sơn đánh Ngọc Hồi và tiến
vào Thăng Long.
Em hãy viết tiếp 1 đ.văn khoảng nửa trang giấy để d.tả những h.dung và c.nghĩ của em về h.ảnh ng ời anh hùng Q.Trung đợc gợi
tả trong đ.văn nói trên. Trong đoạn có sử dụng 1 câu nghi vấn, một câu cảm thán.
8. Bài 8: Nêu ngắn gọn những c.nhận của em về h.ảnh ngời a.hùng d.tộc Q.Trung N.Huệ trong đ.trích Hồi thứ 14 HLNTC .
Theo em, nguồn cảm hứng nào đã chi phối ngòi bút t.giả khi tạo dựng h.ảnh ngời a.hùng này?
Chuyện cũ trong phủ chúa trịnh
1.Bài 1: (Đề thi thử 08 + 09 Trờng THCS Huy Văn):
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là 1 câu chuyện sinh động, chân thực trích trong thiên rtuỳ bút cổ Vũ trung tuỳ bút tác
phẩm văn học đặc sắc của Phạm Đình Hổ.
a.Trong văn bản này, tác giả có đa ra lời nhận xét kẻ thức giả biết đó là triệu bất tờng.
-Em hiểu thế nào là kẻ thức giả, triệu bất tờng?
-Tại sao tác giả lại đa ra lời nhận xét nh vậy?
b.Cũng trong văn bản này, kết thúc câu chuyện kể về thủ đoạn của bọn hoạn quan, tác giả kể lại 1 sự việc có thật trong gia đình
mình. Đó là sự việc gì? Các kể đó của tác giả có tác dụng gì?
c.Bộ mặt của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến thời Lê Trịnh còn đợc thể hiện qua một tác phẩm văn học trung đại
khác mà em đã đợc học ở lớp 9. Hãy nêu tên tác phẩm và tên tác giả của tác phẩm đó.
2 Bài 2: Theo em, thể loại tuỳ bút trong Chuỵên cũ trong phủ chúa của Phạm Đình Hổ có gì khác so với các thể loại văn truyện

khác mà em đã đợc học?
3. Bài 3 : Em có suy nghĩ gì về cuộc sống ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu nhân dân của bọn vua chúa và lũ quan hầu cận trong phủ
chúa qua đoạn trích Chuyện cũ trong phủ chúa .
Tr.bày suy nghĩ của em bằng 1 đ.văn khoảng 8 10 câu theo cách quy nạp, trong đó có s.dụng 1 câu bị động.
Truyện Kiều và các đoạn trích
1. Bài 1: Một bài thơ trong sách Ngữ văn 9 có câu:
Làn thu thuỷ nét xuân sơn .
a.Hãy chép lại 9 câu thơ nối tiếp câu thơ trên.
b.Đoạn thơ em vừa chép có trong tác phẩm nào, do ai sáng tác? Kể tên nhân vật đợc nói đến trong đoạn thơ.
c.Từ hờn trong câu thơ thứ 2 của đ.thơ trên bị một bạn chép nhầm thành từ buồn. Em hãy gi.thích ngắn gọn cho bạn hiểu
rằng chép sai nh vậy đã làm ảnh hởng lớn tới ý nghĩa câu thơ.
d.Để phân tích đoạn thơ đó, 1 học sinh có câu: Khác với Thuý Vân, Thuý Kiều mang 1 vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà cả về tài lẫn sắc.
-Nếu dùng câu văn trên làm câu mở đoạn của đoạn văn theo kiểu Tổng Phân Hợp thì đoạn văn ấy sẽ mang đề tài gì?
-Viết tiếp sau câu chủ đề trên khoảng từ 8 đến 10 câu để hoàn chỉnh đoạn văn với đề tài em vừa xác định. Trong đoạn có 1 câu
ghép đẳng lập (Gạch chân dới câu ghép đẳng lập đó).
2. Bài 2: (Đề thi thử 05 + 06)
a.Hai câu sau nằm trong văn bản nào? Của ai? Mỗi câu nói về nhân vật nào?
Mây thua nớc tóc, tuyết nhờng màu da
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
b.Hai cách miêu tả sắc đẹp của hai nhân vật ấy có gì giống và khác nhau? Sự khác nhau ấy có liên quan gì đến tính cách và số
phận của mỗi nhân vật?
3. Bài 3: Viết đoạn văn quy nạp khoảng 12 câu triển khai câu chủ đề sau:
Trích đoạn Chị em Thuý Kiều đã miêu tả vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của Thuý Vân.
Trong đoạn có sử dụng lời dẫn trực tiếp và phép nối liên kết.
4. Bài 4: Phân tích 8 câu thơ gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.
5. Bài 5: Cho câu thơ sau: Hỏi tên rằng Mã Giám Sinh
a.Hãy chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo.
b.Đoạn thơ vừa chép nằm trong đoạn trích nào? Vị trí của đoạn trích?
c.Viết đ.văn từ 6 8 câu theo lối T P H nêu c.nhận của em về đ.thơ em vừa chép.
6. Bài 6: N.xét về b.chất của MGS trong đ.trích Mã Giám Sinh mua Kiều , có ý kiến cho rằng: Về b.chất, MGS là điển hình của

bản chất con buôn với đặc tính giả dối, bất nhân và vì tiền.
a.Hãy chép lại những câu thơ làm rõ bản chất con buôn của MGS.
b.Viết 1 đ.văn 7 10 câu theo cách d.dịch để làm rõ n.xét về b.chất của MGS.
7.Bài 7:
a.Chép chính xác đoạn thơ: T ởng ngời vừa ngời ôm
b.Giải nghĩa từ và cụm từ sau: chén đồng, quạt nồng ấp lạnh.
c.Cho câu mở đoạn: Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngng Bích, Kiều hiện lên là ngời con gái hiếu thảo, vị tha.
Hãy viết tiếp khoảng 10 câu văn nối tiếp câu mở đoạn trên để hoàn thành đoạn văn theo lối diễn dịch hoặc Tổng Phân Hợp.
8. Bài 8:
a.Chép chính xác 8 câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngng Bích.
b.Trong 8 c.thơ vừa chép, đ.ngữ buồn trông đợc lặp lại mấy lần? Cách lặp lại điệp ngữ đó có tác dụng gì?
c.Bằng 1 đoạn văn diễn dịch, em hãy phân tích 8 câu thơ đó.
d.Em có nhớ bài ca dao nào cũng bắt đầu bằng chữ buồn trông? Hãy chép lại những câu ca dao đó?
9. Bài 9: .Sửa lỗi trong câu mở đoạn sau:
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, đoạn trích Kiều ở lầu Ngng Bích không chỉ tả cảnh biển trớc lầu Ngng Bích trong xa mờ; mà
còn là nỗi nhớ ngời yêu, nhớ cha mẹ da diết của ngời con gái tài sắc Thuý Kiều.
a.Câu mở đoạn trên cho biết đề tài đ.văn đứng trớc đó là gì? Đề tài đ.văn sắp x.dựng là gì?
b.Viết tiếp câu mở đoạn mà em vừa sửa lỗi để có đ.văn T P H (15 câu). Đoạn văn có sử dụng lời dẫn trực tiếp.
10. Bài 10: Nhận xét về bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du qua hai câu thơ sau:
-Cỏ non xanh tận chân trời.
-Buồn trông nội cỏ rầu rầu.
11. Bài 11: (Đề thi thử 08 + 09 Trờng THCS Tân Mai):
Trong một đoạn trích của Truyện Kiều (Ngữ văn 9 tập I), Nguyễn Du viết:
Hoa cời ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nớc tóc tuyết nhờng màu da.
Sau đó tác giả lại viết:
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
a.Hãy cho biết những c.thơ trên nói về những n.vật nào trong t.phẩm? T.giả đã s.dụng b.pháp gì khi miêu tả những nhân vật đó?
b.Khi n.xét về n.thuật m.tả những n.vật ấy, Sách giáo viên N.văn 9 Tập I đã nêu: Chân dung của họ là chân dung mang t.cách,

số phận. Dựa vào c.thơ trên, em hãy tr.bày ngắn gọn hiểu biết của mình về n.xét đó.
12 . Bài 12: (Đề thi thử lần 3 08 + 09 Trờng THCSNgô Gia Tự):
a.Khi gợi tả nhan sắc của T.Vân và T.Kiều, t.giả đã s.dụng h.tợng n.thuật mang tính ớc lệ. Em hiểu thế nào là tính ớc lệ?
b.Các nhà nghiên cứu văn học đã cho rằng cách xây dựng chân dung nhân vật phản diện nh Mã Giám Sinh khác với cách xây
dựng nhân vật chính diện nh Thuý Vân, Thuý Kiều. Theo em, điểm khác nhau đó là gì, hãy lấy các văn bản đã học trong truyện để
làm sáng tỏ nhận định trên (Viết gọn trong khoảng 6 câu văn).
13. Bài 13: (Đề thi học sinh giỏi Quận 06)
Đ.trích Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều của N.Du) vừa m.tả cảnh th.nhiên tuyệt đẹp, vừa nói lên đợc tâm trạng của n.vật.
Viết 1 đ.văn có độ dài khoảng 15 câu trình bày suy nghĩ của mình về nhận xét trên.
14. Bài 14: (Đề thi học sinh giỏi Quận HBT 06 + 07):
Bằng việc p.tích 1 đoạn truyện thơ (4 8 câu) của Truyện Kiều, em hãy làm rõ nhận xét sau: Đến Truyện Kiều, tiếng Việt đã
đạt tới đỉnh cao của ngôn ngữ nghệ thuật, không chỉ có chức năng biểu đạt (phản ánh), biểu cảm (thể hiện cảm xúc), mà còn mang
chức năng thẩm mĩ (vẻ đẹp của nghệ thuật ngôn từ) .
15. Bài 15:
a.Chép 6 c.thơ cuối của bài Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều của N.Du).
b.Giải thích ý nghĩa các từ tà tà , nao nao , thanh thanh .
16. bài 16: Cho câu thơ: Xót ngời tựa cửa hôm mai.
a.Chép 3 c.thơ tiếp theo c.thơ dẫn trên đây. Sau đó ghi rõ những c.thơ đó đợc trích ra từ đ.thơ nào? Đ.thơ đó nằm trong t.phẩm
nào? Của ai? T.phẩm đó còn có tên gọi nào khác không? X.định thể loại của t.phẩm ấy?
b.Viết 1 đ.văn khoảng 10 câu theo lối T P H p.tích 4 c.thơ ấy. Trong đoạn có s.dụng 2 phép liên kết.
c.Xét trong mqh với n.dung toàn đ.thơ thì đ.văn mà em vừa viết có đ.tài gì và nó đợc nối sau đ.văn mang đề tài gì?
17. Bài 17: (Đề thi thử 06):
a.Chép nguyên văn 4 c.thơ đầu trong đ.trích Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều Nguyễn Du).
b.Em có nhận xét gì về cảnh ngày xuân đợc tác giả gợi tả trong 4 câu thơ đó.
c.So sánh bút pháp tả cảnh trong 4 câu thơ trên với 8 câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngng Bích .
d.Bằng 1 đoạn văn ngắn hãy phân tích 4 câu đầu đoạn trích Cảnh ngày xuân.
18. Bài 18: (Đề thi thử 07 + 08):
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bớc dần theo ngọn tiểu khê

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nớc uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
a.Sáu c.thơ trên nằm trong phần nào của Truyện Kiều (Nguyễn Du). Hãy nêu ngắn gọn n.dung đ.thơ.
b.Chúng ta đều biết: nao nao là từ láy diễn tả tâm trạng con ngời. Vậy mà Nguyễn Du lại viết nao nao dòng nớc uốn quanh.
Cách dùng từ nh vậy mang đến ý nghĩa nh thế nào cho câu thơ?
c.Trong Truyện Kiều , cách dùng từ tả tâm trạng ngời để tả cảnh vật không chỉ xuất hiện một lần.
Hãy chép lại hai câu thơ liền nhau trong đoạn Kiều ở lầu Ngng Bích có cách dùng từ nh vậy.
d.Viết đ.văn T P H d.tả c.nhận của em về kh.cảnh th.nhiên và t.trạng con ngời trong 6 c.thơ trên.
19. Bài 19: ý nghĩa nhan đề Truyện Kiều
20. Bài 20: Viết đ.văn triển khai câu chủ đề sau bằng 1 đ.văn có độ dài khoảng 12 câu trong đó có s.dụng 1 lời dẫn trực tiếp, 1 phép
nối và 1 phép thế: Trích đoạn Chị em Thuý Kiều đã m.tả vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của T.Vân
21. Bài 21 : Biến đổi những câu sau thành câu ghép sau đó viết đoạn văn có độ dài khoảng 15 câu theo lối T P H để hoàn
thành nội dung đoạn văn:
Trong đ.trích Chị em Thuý Kiều , bút pháp tinh diệu của N.Du đã dựng lên đợc hai chân dung mỗi ng ời một vẻ . Nhà thơ dờng
nh còn nói đợc cả tính cách, số phận toát ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng.
22. Bài 22: Cho câu thơ sau: Kiều càng sắc sảo mặn mà
a.Hãy chép những câu thơ tiếp theo để tả sắc đẹp của Thuý Kiều.
b.Em hiểu nh thế nào về những hình tợng ng.thuật ớc lệ thu thuỷ , xuân sơn ? Cách nói làn thu thuỷ , nét xuân sơn dùng
nghệ thuật ẩn dụ hay hoán dụ? Giải thích rõ vì sao em chọn biện pháp nghệ thuật ấy?
c.Khi tả vẻ đẹp của Thuý Kiều, tác giả Nguyễn Du đã dự báo trớc cuộc đời và số phận của nàng có đúng không? Hãy làm sáng tỏ
ý kiến của em.
23. Bài 23: Cho đ.văn sau: Bằng những hình ảnh mang ý nghĩa hai ngời đẹp .
a.Sửa lỗi đoạn văn trên.
b.Có thể thay từ Nguyễn Du bằng từ nào khác để không bị lặp từ?
c.Có thể thay từ tài hoa bằng tài trí , tài tình đợc không? Vì sao
24. Bài 24: So sánh cảnh ngày xuân trong những c.thơ đầu và cuối đ.trích Cảnh ngày xuân để thấy cảnh trong thơ N.Du không
đứng yên mà luôn vận động.
25. Bài 25: (Đề kiểm tra ôn tập Trờng THCSNgô Quyền):
Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du có 3 lần nói tói từ hoa: Thềm hoa Lệ hoa Ngừng hoa . Em hãy

cho biết ý nghĩa của ba từ này.
Hãy hình dung và thể hiện tâm trạng của Thuý Kiều qua những câu thơ đó bằng đoạn văn khoảng 3 câu.
26. Bài 26: Cho những câu viết sau:
Bằng những hình ảnh mang ý nghĩa tợng trng kết hợp với phép ẩn dụ. Đó là những biện pháp tu từ quen thuộc của nhà thơ mà
Nguyễn Du đã xử dụng để mô tả sắc đẹp của hai chị em Kiều. Từ hình giáng bên ngoài cho đến tâm hồn tính tình bên trong mỗi
ngời một vẻ mời phân vẹn mời . Thuý Vân với Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang . Có một vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang. Thuý
Kiều lại đẹp một cách sắc sảo mặn mà.
a.Chép lại câu văn trên sau khi đã sửa hết các lỗi về chính tả, về đặt câu và chấm câu (Khi sửa cần giữ nguyên ý của ngời viết, chỉ
đợc thêm bớt rất ít từ).
b.Những câu viết đó nói đến chủ đề gì?
c.Thêm câu chữ cần thiết vào hai câu cuối để các câu liên kết vói nhau.
d.Viết nối thêm 1 đoạn văn nghị luận khoảng 10 câu theo kiểu T P H để phân tích vẻ đẹp của Thuý Kiều.
Một số đoạn văn tham khảo
1.Truyện kiều NGUYễN DU
1. Chân tớng Mã Giám Sinh
a) ( Nguyễn Du không chỉ có tài năng miêu tả nhân vật chính diện mà đại thi hào còn rất thần tình trong việc khắc
họa nhân vật phản diện. Điển hình là nhân vật Mã Giám Sinh. Chân tớng nhân vật hiện lên rõ nét qua đoạn trích MGS
mua Kiều)
Đoạn trích MGS mua Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt buôn thịt bán ngời MGS.
Hắn xuất hiện với t cách đi hỏi vợ nhng lai lịch tung tích lại mập mờ vu vơ:
Hỏi tên rằng : MGS
Hỏi quê rằng: huyện Lâm Thanh cũng gần.
Hắn đã ngoại tứ tuần rồi mà còn Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Câu thơ miêu tả khách quan mà vẫn không
giấu đợc sự mỉa mai phê phán thói trai lơ của kẻ họ Mã này. Chân tớng MGS lộ rõ hơn qua dáng điệu cử chỉ:
Trớc thầy sau tớ xôn xao
Nhà băngđa mối rớc vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng .
Đi hỏi vợ mà thầy tớ ồn ào láo nháo, chẳng xem ai ra gì, rõ ra một bọn ngời vô giáo dục, thiếu văn hóa. Và thiếu văn hóa
nhất lại là thằng thầy. Cái hành động ngồi tótcủa MGS không chỉ là hành động sỗ sàng mà có gì đó rất l u manh. Và
đến cuộc mua bán thì chân tớng họ Mã mới bộc lộ hoàn toàn. Hắn một tên buôn ngời sành sỏi, lọc lõi tàn nhẫn và

giả dối . Hắn chính là một trong những bàn tay nhấn chìm hạnh phúc của Thúy Kiều.(Tóm lại : qua đoạn trích với số câu
không nhiều, chân tớng họ Mã hiện lên cụ thể sinh động nhng cũng hết sức khái quát. Đó là tài năng miêu tả nhân vật bậc
thầy của Nguyễn Du.)
b) MGS xuất hiện với t cách là ngời đi hỏi vợ nhng lai lịch, tung tích của y lại rất mập mờ, không rõ ràng (1). Y là
một viễn khách từ xa đến lại do một mụ nào dẫn tới (2). Hai con ngời ấy gốc gác mơ hồ khiến ta có thể đặt câu hỏi
(3). Đã thế cách trả lời lại nhát ngừng, không có CN, không thèm tha gửi: Hỏi tên rằng: MGS. Hỏi quê rằng: huyện
Lâm Thanh cũng gần (4). Dù đã ngoại tứ tuần nhng MGS vẫn Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao (5).
Những từ nhẵn nhụi, bảnh bao đã hàm ý không đẹp lại ở một kẻ đã ngoại tứ tuần càng gợi một cái gì không lơng
thiện (6). Tuổi tác đã nhiều nhng lại cố tô vẽ cho trẻ, cho ra vẻ th sinh phong lu, lịch sự (7). Thật đúng là kẻ trai lơ, chải
chuốt, thiếu đứng đắn! (8) Đi hỏi vợ mà trớc thầy sau tớ lao xao, thầy tớ ồn ào, láo nháo, ô hợp chẳng xem ai ra gì
(9). Và thiếu văn hóa nhất chính là thằng thầy, đi ở rể, ở bậc con cái mà lại ghế trên ngồi tót sỗ sàng (10). Chỉ một
từ tót thôi ND đã lột tả đợc bản chất vô học của một tên lu manh, thiếu văn hóa (11). Bằng một vài chi tiết, ND đã khắc
họa một cách sinh động, cụ thể nhân vật MGS- một kẻ giả dối, vô học (12).
(Bài viết của Nhung)
2. Thúy Kiều bất hạnh
Nhng Thúy Kiều không chỉ là ngời phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nh ta đã phân tích ở trên mà nàng còn là ngời con
gái bất hạnh. Cuộc sống gia đình đang êm ấm ,tai họa bỗng ập đến. Nàng đành dứt tình với chàng Kim để bán mình chuộc
cha. Từ đây nàng phải sống một cuộc sống địa ngục. Tiếng là lấy MGS song nàng bị coi là một thứ hàng hóa không hơn
không kém. Rồi nàng còn bị ép tiếp khách làng chơi. Hai lần rơi vào thanh lâu là hai lần nàng ê trề đau đớn. Nàng luôn
sống trong tâm trạng cô đơn day dứt. Nếu có hạnh phúc cũng chỉ là những giây phút ngắn ngủi khi nàng chung sống với
Từ Hải. Và rồi nàng lại phải chuốc lấy sự ân hận xót xa khi khuyên Từ Hải ra hàng. Từ Hải thì ra đi vĩnh viễn. Còn nàng
lại một lần nữa bị Hồ Tôn Hiến làm nhục . Tóm lại Thúy Kiều là nhân vật điển hình cho số phận bất hạnh của ngời phụ
nữ trong xã hội cũ.
3. Chân dung chị em Thúy Kiều:
Thơ Trung đại thờng lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn sắc đẹp của con ngời. Thơ Nguyễn Du cũng vậy. Song mỗi nhân
vật của ông lại có nét độc đáo riêng. Cùng so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên nhng với Thúy Vân , Nguyễn Du viết: Mây
thua nớc tóc tuyết nhờng màu da. Còn với Thúy Kiều ông lại viết: Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh. Rõ ràng có
sự khác nhau trong cách miêu tả của đại thi hào. Với Thúy Vân thiên nhiên sẵn lòng nhờng nàng, sẵn sàng thua
nàng vì có lẽ đó chỉ là vẻ đẹp đoan trang phúc hậu vô hại. Nhng với vẻ đẹp sắc sảo mặn mà của Thúy Kiều thì hoa cũng
phải ghen, liễu cũng phải hờn. Từ ghen và từ hờn gợi cho ta cảm giác rờn rợn . Cái rờn rợn ấy chính là sự dự báo

số phận bất hạnh của nàng Kiều. Ca dao đã từng nói:
Một vừa hai phải ai ơi
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.
Từ miêu tả , Nguyễn Du đã ngầm dự báo số phận nhân vật. Thúy Vân có cuộc đời phẳng lặng thì Thúy Kiều lại chìm nổi
lênh đênh. Cái tài, cái tâm của Nguyễn Du cũng chính là ở chỗ đó.
4. Chân dung Thúy Kiều:
Khác với Thúy Vân, Thúy Kiều mang một vẻ đẹp sắc sảo mặn mà về cả tài lẫn sắc (1). Nếu TV có một vẻ
đẹp đoan trang, phúc hậu một vẻ đẹp hoàn hảo thì TK lại vợt lên cái hoàn hảo ấy để trở thành cái đẹp tuyệt đích (2). Gợi tả
vẻ đẹp của TK, tác giả vẫn sử dụng những hình tợng NT ớc lệ tợng trng, song ND chỉ chấm phá, tập trung vào đôi mắt của
Kiều Làn thu thủy nét xuân sơn (3). Đôi mắt của TK trong xanh nh làn nớc mùa thu, ẩn dới đôi lông mày thanh tú nh
dáng núi mùa xuân (4). Đôi mắt ấy không chỉ thể hiện sự tinh anh sắc sảo mà còn ẩn dấu một tâm hồn, trái tim mặn
nồng, đằm thắm đầy quyến rũ (5). Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh, thiên nhiên phải
ghen ghét phải đố kị với sắc đẹp của nàng (6). Không chỉ là ngời con gái đẹp, Kiều còn là ngời con gái toàn tài, xuất
chúng thông minh vốn sẵn tính trời (7). Tài của Kiều đạt tới mức lí tởng theo quan niệm thẩm mỹ PK gồm đủ cả cầm
(đàn), kì (cờ), thi (thơ), họa (vẽ) (8). Đặc biệt tài đàn của nàng đã là sở trờng (9). Kiều còn biết sáng tác nhạc, bản nhạc
mang tên bạc mệnh chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm (10). Chỉ bằng một đoạn thơ ngắn, với
NT miêu tả tài tình, ND đã làm hiện lên trớc mắt ngời đọc bức chân dung tuyệt thế giai nhân (11).
(bài viết của Nhung)
5. Cảnh ngày xuân ( hai câu đầu)
Hai câu thơ trong TK:
Cỏ non xanh tận chân trời
-Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân (1). Bức tranh xuân ấy có phông, nền là màu xanh của thảm cỏ non trải rộng tới tận
chân trời (2). Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng, màu xanh của cỏ non và sắc trắng của hoa
lê làm cho màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu (3). Phép đảo VN đã gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh
khôi, giàu sức sống (4). Câu thơ của ND khiến ngời đọc liên tởng tới hai câu thơ cổ của TQ:
Phơng thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa(5)
Đây cũng là một bức tranh đẹp của mùa xuân với hơng vị, đờng nét, màu sắc song cảnh dờng nh tĩnh tại (6). Còn với câu
thơ của đại thi hào ND, chỉ cần đảo chữ điểm là cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh tại.

(bài viết của Nhung)

4. Tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngng bích
Tỏm cõu cui on truyn Kiu lu Ngng Bớch trớch Truyn Kiu ca Nguyn Du tht ỳng l b c tranh
tõm trng c phỏc ho bng bỳt phỏp t cnh ng tỡnh. Bc tranh tõm trng Thuý Kiu c bt u bng cỏi nhỡn
bun trụng ca n ng h ng v ca b lỳc chiu hụm. Cỏnh bum thp thoỏng xa xa nhc n ng nh n quờ hng, ni
ú cú m cha ang ng y ờm mong ngúng n ng. Ngh th, hn lũng n ng xút xa l m ! Gi õy, cụ qunh trc thiờn
nhiờn ni lu Ngng Bớch, n ng ch nh lũng thng cho thõn phn mỡnh. a cp mt bun thng hng v phớa
ngn nc mi sa, cỏnh hoa trụi sao ging thõn n ng th ? Nhỡn xung ni c, thiờn nhiờn rn ngp hoang vng,
chõn mõy mt t trin miờn mt m u xanh vụ nh y nh kip sng mũn mi ca n ng. Cú l , n ng s lm, n ng khúc
nhiu lm vỡ b ch p v vỡ b cụ c mt thõn mt mỡnh. Cp lc bỏt cui cựng vỡ th khụng ch din t ni bun
man mỏc, xa xm ca n ng m ý th cũn cho thy ni bun trong n ng c y lờn th nh n i khip s, hói hựng. Ting
giú, ting súng m m võy ly n ng l ng ý cho nhng gỡ kinh khng m n ng v a tri qua v d bỏo bao iu kinh
ho ng phớa tr c. Túm li, ch vi tỏm cõu th, ging th m bun, cú s kt hp h i ho gi a ip t v t lỏy gi
cm, on th ó din t sõu sc ni bun ti, cụ n ca Thuý Kiu và ẩn chứa lũng thng cm vụ b ca đại thi hào
vi ni bt hnh ca Thuý Kiu.
Bài văn về !"#$"%
& Qua vic tỡm hiu ct truyn v cỏc on trớch trong SGK ng vn 9, tp I, em hóy phõn tớch nhõn vt
Thuý Kiu lm ni bt giỏ tr nhõn o ca Truyn Kiu.
Kit tỏc truyn Kiu ca i thi ho Ng.Du cú 2 giỏ tr ln l giỏ tr hin thc v giỏ tr nhõn o. Truyn Kiu
l bc tranh hin thc v mt xó hi bt cụng, tn bo (na cui th k XVIII u th k XIX - cui Lờ u Nguyn), l
ting núi ca thng cm trc s phn (thi i) bi kch ca con ngi, ting núi lờn ỏn, t cỏo nhng th lc xu xa,
ting núi khng nh, cao ti nng, nhõn phm v nhng khỏt vng chõn chớnh ca con ngi nh khỏt vng v quyn
sng, khỏt vng t do, cụng lý, khỏt vng tỡnh yờu hnh phỳc
Ting núi nhõn o y toỏt lờn t hỡnh tng nhõn vt Thuý Kiu trong truyn Thuý Kiu. Thuý Kiu l hin
thõn ca ni au v bt hnh. Nng l mt ngi con gỏi ti sc, giu tỡnh cm nhng b xó hi phong kin vựi dp, o
y.
Nhõn vt Thuý Kiu l hin thõn nhng bi kch ca ngi ph n trong xó hi phong kin trc õy. i Kiu
l mt tm gng oan kh. S phn Kiu hi nhng bi kch ca ngi ph n. Tuy nhiờn hai bi kch ln nht Kiu
l bi kch tỡnh yờu tan v v bi kch b ch p nhõn phm.

Tỡnh yờu Kim Trng- Thuý Kiu l mt tỡnh yờu lớ tng vi Ngi quc sc,k thiờn ti, nhng cui cựng
gia ng t gỏnh tng t, nc chy hoa trụi l lng. Tỡnh yờu tan v v khụng bao gi hn gn c-tuy
mn on viờn cú hu v c bn cng ch l mt cung giú thm ma su.Hnh phỳc nng toan c nm trong tay
thỡ cuc i cp mt.
Kiu l ngi luụn cú ý thc v nhõn phm nhng cui cựng li b ch p v nhõn phm. Nng tr thnh
mún hng k buụn ngi h Mó cũ kố bt mt thờm hai. Ri nng phi tht thõn vi nhng k nh Mó Giỏm
Sinh, phi Thanh lõu hai lt thanh y hai ln- Ni au nht ca cuc i Kiu chớnh l: Thõn ln bao qun ln
u- chỳt lũng trinh bch t sau xin cha. Cú ni au no ln hn khi con ngi trng nhõn phm, luụn cú ý thc v
nhõn phm m cui cựng phi tuyờn b t b nhõn phm?
i Kiu khụng phi ch l mt tm bi kch, m l nhng chui di nhng bi kch ni tip nhau, mi ln nng
c ct u ra khi bựn nh l mt ln b dỳi xung, b p xung sõu thờm mt tng na.
Thuý Kiu l hin thõn ca mt v p nhan sc, ti hoa. Sc v ti ca Kiu ó t ti mc lớ tng. Th hin
v p, ti nng ca Kiu Ng.Du ó s dng bỳt phỏp c l ca vn hc c cú phn lớ tng hoỏ trõn trng mt v
p. Mt hai nghiờng nc nghiờng thnh-sc nh i mt ti nh ho hai.
Tõm hn p ca ngi con gỏi h Vng th hin tm lũng v tha, nhõn hu. Nng hi sinh tỡnh yờu
cu gia ỡnh, cha m. Khi lu Ngng Bớch, Kiu nh ti cha m vi nhng tỡnh cm chõn thc. Nng tng tng búng
dỏng ti nghip Ta ca hụm mai ca ngi sinh dng Nng. Kiu day dt khụng nguụi vỡ mt ni l khụng c
chm súc cha m gi: Qut nng m lnh nhng ai ú gi. Thuý Kiu l ngi chớ tỡnh chớ ngha n ai mt chỳt
chng quờn. Khi cú iu kin, nng ó tr n, hu t nhng ngi cu mang mỡnh, nhng nng vn thy cụng n ú
khụng gỡ cú th n ỏp ni Nghỡn vng gi chỳt l thng-m lũng phiu mu my vng cho cõn.
Thuý Kiu l hin thõn ca ni khỏt vng tỡnh yờu t do, khỏt vng hnh phỳc v khỏt vng v quyn sng.
Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối quan hệ Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới
gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa tiện nói với nhau một lời, mà mối tình không lời ấy đã như một chén rượu nồng,
khiến người ta choáng váng đê mê:
“Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê ”
Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân nàng thoăn thoắt đi sang nhà Kim
Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối tình đầu trong
trắng. Ng.Du đã dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm có một khong hai trong lịch sử văn
học Việt Nam.

Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do , chủ động của hai người. Khác với
nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ, Kiều chủ động đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều
táo bạo, chủ động nhưng đồng thời cũng là người thuỷ chung nhất trong tình yêu.
Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại diện cho con người bị áp bức vùng lên làm
chủ số phận của mình trong tư thế chiến tháng, tư thế chính nghĩa:
“Nàng rằng: Lồng lộn trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.
Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gở bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức khác vùng lên đòi quyền sống, đòi lẽ công
bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co giữa sự sống và sự chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong nhiều truyện nôm
khuyết danh khác cũng như trong truyện Kiều, về căn bản nào có khác gì nhau, chỉ khác Một bên nhiều khi con người
mượn yếu tố thần linh phụ trợ, một bên đã vươn tới tư tưởng trị nhân dân và con người quyết định theo công lí của
mình”- (Cao Huy Đỉnh)
Với nhân vật Thuý Kiều Ng.Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực yêu thương rất mực đề cao con người, đề
cao những khát vọng chân chính của con người- đặc biệt là thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất
công, tàn bạo và lễ giáo phong kiến.
 Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rỏ “Với bút pháp tinh diệu, Nguyển Du không
những xây dựng lên hai chân dung “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” mà dường như còn nói được cả tính cách,
thân phận toát ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng”.
Đoạn trích “Hai chị em Thuý Kiều” nằm ở phần đàu của câu chuyện. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du tập
trung miêu tả hai chân dung tuyệt mỹ của chị em Thuý Kiều. Đằng sau những nét bút miêu tả tinh tế và độc đáo, người
đọc có thể nhận thấy tấm lòng ưu ái, trân trọng đặc biệt của Nguyễn Du đối với nhân vật của mình. Qua ngòi bút của
Nguyễn Du, hai chị em Thuý Kiều đều xinh đẹp, nhưng “mỗi người (tài tình) mỗi vẻ” với dự báo trước số phận, tính
cách, cuộc đời của mỗi nhân vật, đặc biệt là Thuý Kiều, nhân vật của truyện.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em với bốn câu thơ:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Cả hai chị em đều có vẻ đẹp toàn mỹ, từ hình thức bên ngoài “Mai cốt cách” đến vẻ đẹp bên trong tâm hồn
“Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của Thuý Vân được miêu tả ở bốn câu thơ tiếp:

“Vân xen trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách toàn vẹn từ khuôn mặt, nét ngài, màu da, mái tóc
đến tiếng nói, nụ cười và cốt cách. Thuý Vân hiện ra qua những hình ảnh, những tính chất ước lệ của văn học cổ trung
đại. Nguyễn Du tập trung tô đậm vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân. Vẫn là cách thức quen thuộc của văn học
cổ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con người, nhưng bức chân dung của Thuý Vân, qua nét vẻ thân
tình của Nguyễn du bổng rở nên sống động là nhờ đã chứa đựng trong đó quan niệm về tài sá của chính nhà thơ. Gương
mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp đoan trang phúc hậu của Thuý Vân-một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường nhịn “Mây
thua nước tóc tuyết nhường màu da”-như dự báo trước một cuộc đời, một số phận êm đềm, tròn trịa, bình yên của nàng.
Quả thật, với những từ ngữ trau chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng vẻ đẹp và giàu sức gợi tả, được lọc
qua tâm hồn mẫn cảm, tinh tế, Ng.Du đã khắc hoạ khá sống động vẻ đẹp đài các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức
sống của Thuý Vân, biểu hiện một tâm hồn vô tư, dự báo trước một cuộc đời yên ổn, vinh hoa, phú quý sẽ mỉm cười, vui
vẻ rước đón nàng.
Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, không phải là chủ đích nghệ thuật của tác giả. Đó thực chất chỉ là
việc tạo tiền đề, tao ra một điểm tựa nghệ thuật “tả khách hình chủ” để làm nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật
trung tâm của tác phẩm.
Khác với Thuý Vân, Th Kiều có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” cả tài lẫn sắc đạt tới mức tuyệt vời.Cũng
những từ ngữ, hình ảnh ước lệ tượng trưng, qua ngòi bút miêu tả tài hoa của Ng Du, hình ảnh nàng Kiều hiện lên lộng
lẫy, sắc nước hương trời đến hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”.
Đôi mắt đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xin xắn, tươi non như sắc núi mùa xuân “làn thu
thuỷ, nét xuân sơn”. Nếu như vẻ đẹp của Thuý Vân trời xanh còn có thể nhường nhịn, thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều,
thiên nhiên tạo hoá cũng trở nên đố kị ghen ghét
“ Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Thiên nhiên đố kị, ghen ghét với nàng. Hồng nhan bạc mệnh, cái sắc đẹp “sắc sảo mặn mà” khiến thiên nhiên
cũng phải đố kị, ghen ghét ấy đã dự báo trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng. Ng Du đã không tiếc lời ca

ngợi sắc đẹp và tài nghệ của nàng Kiều. Khác hẳn Thuý Vân, Th Kiều thông minh, đa tài, đa cảm, một con người nhất
mực tài hoa: Tài thơ, tài hoạ, tài đàn của Th Kiều đạt tới mức tuyệt diệu:
“ Thông minh vốn sẳn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.
Cả diện mạo bên ngoài và diên mạo tâm hồn cũng hé mở dần tính cách số phận của nàng Kiều.
Rõ ràng, Ng.Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi gắm quan niệm “Tài hoa bạc mệnh” vào đấy - dự
báo trước cuộc đời, số phận long đong, lận đận, đầy bất hạnh của nàng.
Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển, với ngòi bút tài hoa, chắt lọc, trau chuốt
ngôn từ, Ng.Du đã khắc hoạ thật sinh động hai bức chân dung Th.Vân và Th.Kiều, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên
từ tính cách, từng số phận riêng, không lẫn vào nhau, không thể phai nhạt trong tâm hồn người đọc. Đây là thành công
trong bút pháp nghệ thuật miêu tả người của Ng.Du. Đã hơn hai thế kỉ rồi, với truyện Kiều và nghẹ thuật tả người đặc
sắc, tinh tế của Ng.Du, đẫ là bậc thầy làm rung động và sự cảm phục, trân trọng của bao thế hệ đối với đại thi hào dân tộc
Ng.Du.
 Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức
tranh tâm tình đầy xúc động.
Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ phải rơi vào một tên cò mồi Mã Giám Sinh và mụ
chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép được Kiều tiếp khách làng chơi, Tú Bà bèn đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thực ra, đây
cũng chỉ là khoảnh khắc tạm thời yên thân để rồi sau đó, đời nàng bị xô đẩy đi giữa bao mưu mô độc ác của mụ Tú Bà
mà nàng chưa lường hết được. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đúng là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình.
Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều đang ngổn ngang, tăm
tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái hiện, để rồi chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ thương vô hạn xoáy sâu
vào tâm can nàng.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu,
nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.
Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người, không một tiếng chim, càng tô đậm
thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy: “Trống trải, đơn côi”:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”
Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.
Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc, nàng hình dung
được nổi sầu muộn, chờ mong của chang và tự hứa với lòng mình giữ trọn mối tình chung thuỷ.
Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li không nói với nhau được một lời, nổi
oan gia quá ư đột ngột:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tinh sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”, cứu được cha, em thoát khỏi
vòng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình
không được chăm sóc, không được hầu hạ:
“Xót người tựa của hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn
biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Nổi buồn đó đang thức dậy trong lòng Thuý Kiều “Xuân
xanh đang tuổi đến tuần cập kê”-một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn toàn, vốn đa tình, đa cảm. Một nổi buồn mênh mông như đè
nặng, bao quang lấy nàng.
Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nôi buồn của nàng thì như cố định. Nàng
cảm nhận được những gì sẽ đến với mình, đối với người con gái họ Vương tài-sắc này như một định mệnh không sao
thoát được!
Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiều lại quay về với chính cảnh ngộ của

mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình.
Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí của nàng một nét buồn. Và Kiều mỗi
lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn của mình. Nổi buồn sâu sắc của Thuý Kiều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du mỗi
lúc lại càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo “Buồn trông”
”Buồn trông cửa bể chiều hôm”
”Buồn trông ngọn nước mới sa”
”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh”
Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khó tả, cũng có trời nước, nhưng mây
trời thì nhàn nhạt, dòng nước thì mãi miết cuốn trôi những càng hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”, “sóng
xô” giữa cái mênh mông của biển trời, lại vào
lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, một cách buồng thấp thoáng phía xa
“Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với tâm trạng buồn chán về cuộc đời, về số
phận của mình.
Nếu như “Thuyền ai thấp thoáng” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trôi nổi, bấp bênh thì cảnh “nước chảy
hoa trôi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vô định, không còn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái hướng
cuối cùng thì nổi buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”
Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cái thân phận bé nhỏ bất cứ lúc nào. Ta
tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm thanh khủng khiếp đó. Phải chăng như Nguyễn Du đã viết: “Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Qua điệp khúc “Buồn trông ” của Kiều, ta cảm nhận được nổi đau đớn mà nàng phải
trải qua trong suốt quảng đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”-“Cười ra tiếng khóc
-khóc trên trận cười”.
Trong đoạn thơ này, chúng ta nhận ra được một đặc điểm trong bút pháp Nguyễn Du: cảnh và tình bao giờ
cũng hoà hợp, tả cảnh là để tả tình, trong tả cảnh đã có tả tình. Truyện Kiều có hơn ba ngàn câu (3254 câu). Đoạn trích ở
trên chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây là đoạn thơ được nhièu người biết đến và quý trong nhất, vì
cái tài lớn của nhà thơ, nhưng trước hết là vì cái tình lớn của nhà thơ đối với nhân vật, đối với con người, đối với cuộc
đời.


  Phân tích tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích, nhưng thực chất là bị Tú Bà giam lỏng ở đấy, dùng “Mưu ma chước
quỷ” lừa gạt nàng, để buộc nàng phải ra tiếp khách ở lầu xanh. Sau lưng nàng là những tai biến, đau đớn, nhục nhã, ê chề:
gia đình bị mắc oan, phải trao duyên cho Thuý Vân, bị Mã Giám Sinh giả danh cưới về làm lẽ và bị gã lừa gạt, làm nhục
ngay ở dọc đường, bị Tú Bà xỉ nhục và dở trò đánh đạp để ra uy. Từ tâm trạng của mình, nhìn cảnh vật bên ngoài, do đó,
những ghi nhận về cảnh là những ghi nhận về tình. Vì mối quan hệ tình cảnh đó, người đọc càng hiểu sâu sắc tâm trạng
của Thuý Kiều trong đoạn trích này:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngon nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.
Mã Giám Sinh nói dối, mua Kiều về làm vợ lẽ. Kiều đã “thất thân” với Mã. Thật ra Mã mua Kiều về cho mụ
Tú Bà. Tú Bà khi biết hành vi của Mã đã nổi giận đùng đùng, đánh đập Kiều, bắt Kiều tiếp khách. Phẫn uất khi bị lừa dối,
bị hành hạ, Kiều quyết định tự vẫn. Lo ngại vì vốn liếng có thể “thất thoát” Tú Bà dùng thủ đoạn khuyên nhủ, dỗ dành
và hứa sẽ tìm một nơi xứng đáng cho nàng về sau, Tú Bà đưa Kiều về lầu Ngưng Bích.
Sau những đau đớn ê chề, trong lẻ loi, Kiều ngóng đợi tin tức người tình “Tưởng người dưới nguyệt chén
đồng-tinh sương trông mai chờ”. Nàng nghĩ về cha mẹ tuổi già bóng xế “Xót thương quạt nồng đó giờ?”
Chính trong tâm trạng ngổn ngang nhiều nỗi đó, Kiều nhìn ra cái mênh mông của biển cả. Từ trong cảnh soi
vào lòng mình hiện tại, Kiều gặp lại lòng mình:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
Giữa cái mênh mông của trời biển, trong màu xanh xam xám của ban chiều, có những cánh buồm lúc ẩn lúc
hiện: chiếc thuyền ra khơi, chiếc thuyền hướng về đất liền. Từ nội tâm đang đau khổ, Kiều như nhìn nhận “từ trong ai
đó”,”Trong những chiếc thuyền từ biển khơi”, trong tầm mắt xa khơi của cảnh và con người. Đang trông vọng một nỗi
hội tụ mà sao lại cách biệt, chia li làm vậy?

Lời thơ bình dị, những gì gợi lên trong âm hưởng của câu thơ - là nổi khắc khoải, xoáy sâu vào lòng Kiều:
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Trông ngọn nước đang cuồn cuộn chảy, nhiều cánh hoa trôi dạt. Có thật là cánh hoa chăng? Không phải vậy!
Người đọc cảm nhận được trong dòng nước đang cuồn cuộn chảy kia “nhiều cánh hoa trôi dạt”. Cũng có thể là cánh hoa,
cũng có thể là dòng nước cuồn cuộn thiếu gì những bọt bèo trôi nổi. Trong cái mênh mông vô định, cái cảnh “ nước
chảy, hoa trôi lỡ làng” ấy gắn hợp với thân phận con người bị ném vào cảnh sống đầy biến động, đầy bất công và bạc ác -
thân phận Thuý Kiều, chúng ta mới hiểu được tâm trạng của nàng Kiều trong lúc này.
Lời thơ rất giản dị và hình ảnh ẩn dụ sắc sảo về cuộc đời- cuộc đời người đàn bà (như người đời thường quan
niệm “đời hoa”)
Nhiều lần Kiều cũng tự ví mình “Hoa trôi, bèo dạt đã đành. Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi”
Buồn bã, Kiều lại nhìn vào đồng nội:
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.
Màu mây, màu cỏ nhạt hoà vào với nhau thành một màu “xanh xanh” khó phân biệt. Mà làm sao phân biệt
được “màu trời, sắc mây” trong cảnh chiều tà, giữa cái mênh mông, bát ngát trong lúc tâm hồn còn nhiều ngổn ngang
như thế. Và cuối cù m dự báo cơn sóng gió, bão táp của cuộc đời thật dữ dội sẽ ập đến với Thuý Kiều, với đoạn trường
mười lăm năm lưu lạc đang chờ đợi nàng.
Đoạn thơ này hay không những vì đã khái quát được tâm trạng của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích mà còn
mở ra những điều dự báo về sau của cuộc đời Kiều.
Những dự báo mơ hồ của tâm linh không lâu đã đến với Kiều. Tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu
Ngưng Bích” càng khẳng định ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du trong bút pháp tả cảnh, tả nội tâm nhân vật tài tình, gợi
cảm, để lại ấn tượng sâu lắng trong lòng người đọc xưa và nay, thấm đãm tinh thần nhân đạo sâu sắc.

' Phân tích đoạn thơ trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
(Ngữ văn 9 - tập I)
Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng với Kim Trọng thì bất ngờ gia đình Kiều bị
vu oan, giáng hoạ. Không đành lòng để cho gia đình tan nát, Thuý Kiều đau đớn trao duyên cho Thuý Vân, tự nguyện bán
mình để lấy tiền cứu cha và em trai. Lợi dụng tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh “vốn là một đứa phong tình đã
quen” đánh tiếng cưới nàng về làm thiếp nhưng thực sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn với mụ Tú Bà ở

Lâm Tri. Đoạn trích này miêu tả màn kịch mua bán, qua đó “lột mặt nạ” của Mã Giám Sinh và thể hiện nỗi đau đớn ê
chề, mở đầu cho đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đầy cay đắng của nàng Kiều.
Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi căm ghét của nhà thơ, Nguyễn Du đã lột tả bộ mặt bỉ ổi, tàn ác, ghê
tởm của bọn “buôn bán thịt người”. Trong màn kịch này, Mã Giám Sinh đóng vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để
làm “lễ vấn danh”, xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người viễn khách” mờ ám này, mù
mờ từ tên họ đến tên quán. Và ngòi bút thần tình của Nguyễn Du cứ mỗi nét lại khắc hoạ rõ hơn chân dung của Mã Giám
Sinh và cái bản chất con buôn ghê tởm của hắn:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy, sau tớ xôn xao
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trong”
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Mã Giám Sinh đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu nhẵn nhụi”, rõ ra một gã trai lơ. Lũ
thầy, tớ chúng kéo đến nhà Kiều thật là nhốn nháo, lố lăng và cái cử chỉ “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” đã làm rơi cái mặt
nạ sinh viên, phơi bày chân tướng của một tên vô học, thô lỗ của hắn.
Nguyễn Du cứ “khách quan” miêu tả cảnh mua bán vậy mà cái bản chất thật của Mã Giám Sinh vẫn bị lột
trần, phơi bày bằng hết. Dẫu được khéo léo che đậy bằng mọi thứ mánh lới xảo quyệt nhưng diện mạo, thái độ, cử chỉ,
hành vi và ngôn ngữ của hắn vẫn tự tố cáo bản chất đích thực của một tên “buôn thịt bán người” đê tiện.
Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài sắc của nàng chỉ là một món hàng rồi đây sẽ sinh
lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân tài”, hắn “ép”, hắn “thử” tài nghệ của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ
kiểu hệt như người ta mua bán một món hàng. Khi đã hoàn toàn vừa ý, bản chất con buôn của hắn vẫn còn lộ ra ở cái thái
độ “tuỳ cơ dặt dìu” khi mặc cả. Bản chất đó còn được che đậy bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng:
“ Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất:
“Cò kè bớt một, thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Với sự mặc cả “cò kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ thực chất là một cảnh “mua thịt bán
người” một cách trắng trợn và Mã Giám Sinh hiện nguyên hình là một tên con buôn ghê tởm và đê tiện nhất.
Trong đoạn trích này, hình ảnh Thuý kiều hiện ra với tất cả những buồn khổ, xót xa, ê chề, tủi hổ. Là một cô

gái tài sắc vẹn toàn, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ, màn che, tường đong ong bướm đi về mặc ai”, lại đang
ngây ngất trong hạnh phúc của mối tình đầu trong trắng thì thình lình tai hoạ ập đến, Kiều trở thành một món hàng cho
bọn “buôn thịt, bán người” trao tay mua bán, cò kè, mặc cả. Tâm hồn nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu sắc cảnh ngộ
éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ dáy, vừa đau đớn, nhục nhã của mình:
“ Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió, e sương,
Ngừng hoa bỗng thẹn, trông gương mặt dày”.
Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình (nỗi mình), vừa xót xa cho gia đình (nỗi nhà), lệ rơi khôn cầm. Kiều ra
với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra trước sương gió, cho nên “ dợn gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa
rụng. Và vì tự ví mình với hoa nên thẹn thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy không xứng với hoa. Đó là cái đạo đức thầm kín
của Kiều. Trong khi đó mụ mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng, một đồ vật: “vén tóc, bắt tay” cho khách xem. Bắt
nàng làm thơ, đánh đàn cho khách thấy. Còn Kiều thì “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”.
Trong màn kịch “lễ vấn danh” này, dưới sự “đạo diễn” của mụ mối và theo đòi hỏi, nài ép của Mã Giám Sinh,
Kiều “nhất cử, nhất động” đánh đàn , làm thơ như một “cái máy”. Bán mình để chuộc cha, cứu em là hành động tự
nguyện của nàng nên nàng chịu đựng và cam chịu tất cả. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, nàng Kiều hiện lên với sự im lặng
tuyệt đối mà vẫn không sao dấu được sự đau đớn, xót xa, tủi nhục, ê chề bởi nàng là người luôn có ý thức về nhân phẩm
mà lại bị chà đạp lên nhân phẩm một cách nhục nhã. Kiều đau uất trước cảnh đời ngang trái, đau khi nghĩ tới”nỗi mình” -
tình duyên dang dở, uất bởi “nỗi nhà” bị “vu oan giáng hoạ”, Bao trùm lên tâm trạng của Kiều là sự đau đớn, tái tê “thềm
hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”!
Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là cảnh “cành hoa đem bán cho thuyến
lái buôn”
Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn du đã khắc hoạ được tính cách nhân vật,
tác giả đã bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh, qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên tài sắc,
nhân phẩm của người phụ nữ đồng thời bộc lộ sự thương cảm sâu sắc bởi nỗi đau oan trái của Thuý Kiều ngay từ buổi
đầu của đoạn đời lưu lạc đầy bất hạnh của nàng.
( Phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại nhằm khắc hoạ tính cách
nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư trong đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo oán” (Trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Trải qua “hết hạn nọ đến hạn kia”, Kiều đã nếm đủ hết mọi điều cay đắng, tưởng rằng nàng sẽ buông xuôi
trước số phận “biết thân chạy chẳng khỏi trời - cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”. Chính lúc kiều đang vô vọng thì

Từ Hải xuất hiện. Kiều găph Từ Hải- một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của người con gái họ
Vương. Người anh hùng “đội trời, đạp đất” chẳng những cứu Kiều thoát khỏi cuộc sống ở lầu xanh mà còn đưa nàng từ
thân phận “con ong, cái kiến” bước lên địa vị một quan toà cầm cán cân công lý “ơn đền, oán trả”. Đoạn trích “Thuý Kiều
báo ân, báo oán” miêu tả cảnh thuý Kiều đền ơn những người đã cưu mang, giúp đỡ nàng đồng thời trừng trị những kẻ
bất nhân, tàn ác.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du có khi được thể hiện qua bút pháp ước lệ miêu tả ngoại hình
(đoạn trích “chị em Thuý Kiều”) , có khi được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại, qua bút pháp tả cảnh ngụ tình để miêu tả
tâm trạng (đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”). Trong đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo oán”, nghệ thuật miêu tả nhân
vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại để làm nổi rõ tính cách nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư.
Trước hết, nhà thơ miêu tả cảnh Thuý Kiều trả ơn Thúc Sinh trong mười hai câu thơ đầu “cho gươm mời đến
Thúc lang mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.
Thúc Sinh được mời tới trong cảnh oai nghiêm của nơi Kiều xử án:
“Cho gươm mời đến Thúc lang
Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run”.
Trước những “gươm lớn, giáo dài”, chàng thúc hoảng sợ đến mức “mặt như chàm đổ”, người run lên như đi
không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách có phần nhu nhược của Thúc Sinh. Hình ảnh tội
nghiệp của Thúc Sinh làm cho nàng Kiều động lòng trắc ẩn và họ tạo nên sự bất ngờ trong việc trả ơn, báo oán tiếp theo.
Qua lời nói của Kiều “nghĩa nặng nghìn non”, “sâm thương chẳng vẹn chữ tòng, tại ai há dám phụ lòng cố nhân” , có
thể nói rằng nàng rất trọng tấm lòng và giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn.
Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Cùng với chàng thúc, Kiều có
những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình. Nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Trong hình thức của cách
nói văn chương, sách vở là tấm lòng biết ơn chân thật của Kiều. “Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?”. Hai chữ
“người cũ”, tiếng việt mang sắc thái thân mật, gần gũi.
Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ đau đớn hơn một kẻ tôi đòi. Tuy
nhiên Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải do Thúc Sinh gây ra mà thủ phạm là Hoạn Thư. Thuý Kiều hiểu hoàn
cảnh của Thúc Sinh: “tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”. Với Kiều thì dù có “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” cũng chưa
xứng với ân nghĩa của Thúc Sinh. Tấm lòng ”nghĩa nặng nghìn non” thì gấm vóc, bạc vàng nào có thể cân cho được?
Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán - Việt “nghĩa tòng”, “cố nhân”, tiễn cố “sâm thương”.
Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của
nàng Kiều.

Trong khi nói với Thúc Sinh, Kiều đã nói về Hoạn Thư, điều đó chứng tỏ vết thương lòng mà Hoạn Thư gây
ra cho Kiều đang còn qua xót xa. Lúc nói về Hoạn Thư thì ngôn ngữ của Kiều lại hết sức nôm na, bình dị. Nàng dùng
những thành ngư quen thuộc “ kẻ cắp, bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén” với những từ tiếng Việt đễ hiểu. Hành
động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt bằng lời ăn, tiếng nói của nhân dân.
Đoạn thơ sau, còn lại trong đoạn trích là cuộc đối đáp giữa Kiều và Hoạn Thư trong cảnh báo oán “thoắt trông
nàng đã chào thưa truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”. Hành động và lời nói của Kiều biểu thị thái độ mỉa
mai đối với Hoạn Thư. Nàng vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều “chào
thưa”, hai điều “tiểu thư”. Cách xưng hô này trong hoàn cảnh giữa Kiều và Hoạn Thư đã có sự thay bậc, đổi ngôi là một
đòn mỉa mai quất mạnh vào danh gia họ Hoạn. Trong lời nói của Kiều có cả giọng đay nghiến, câu thơ như dằn ra từng
tiếng; từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: (dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt,
càng oan trái, ) cách nói này hoàn toàn phù hợp với dối tượng Hoạn Thư, phù hợp với con người “bề ngoài thơn thớt
nói cười - bề trong nham hiểm giết người không dao”. Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của Kiều cho thấy nàng quyết
trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm “mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.
Trong lời nói, thái độ của Kiều, phút giây đầu Hoạn Thư có “hồn lạc phách xiêu” nhưng ngay trong hoàn cảnh
ấy, Hoạn Thư vẫn kịp “liệu điều kêu ca”. đây quả là con người khôn ngoan, giảo hoạt. Lời “kêu ca” của Hoạn Thư thực
chất là cách lí giải để gỡ tội cho mình.
Trước hết, Hoạn Thư dựa vào tâm lí thường tình của người phụ nữ để gỡ tội “rằng tôi chút phận đàn bà -
ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. Lí lẽ này đã xoá đi sự đối lập giữa Kiều và Hoàn Thư, đưa Kiều từ vị thế đối
lập trở thành người đồng cảnh, cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của giới
nữ. “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Từ tội nhân, Hoạn Thư đã biện bạch để mình trở thành nạn nhân của chế độ
đa thê. Tiếp đến, Hoạn Thư kể lại “công” đã cho Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn
khỏi nhà Hoạn Thư:
“Nghĩ cho khi gác viết kinh
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”.
Cuối cùng, Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ còn biết trông cậy vào tấm lòng khoan dung, độ lượng
rộng lớn như trời biển của Kiều “còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Trước những lời kêu ca của Hoạn Thư, Kiều đã phải thừa nhận đây là con người “khôn ngoan đến mực nói
năng phải lời”. Hoạn Thư đã đưa Kiều tới chỗ khó xử “tha ra thì cũng may đời - làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”.
Nàng có răn đe Hoạn Thư nhưng rồi lại khoan dung độ lượng “đã lòng tri quá thì nên”. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã xin tha
thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm triết lý dân gian “đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại”!

Qua cách lí lẽ để gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư “sâu sắc nước đời” đến “quỷ quái tinh ma”. Tuy nhiên, việc
Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự “tự bào chữa” mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của
Kiều.
Đoạn “Thuý Kiều báo ân, báo oán” một lần nữa đã làm ngời lên tấm lòng vị tha, nhân hậu của người con gái
họ Vương. Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý kiều đã trở thành vị quan toà cầm cán cân công lý. Đoạn
trích này là sự phản ánh khát vọng, ước mơ công lý chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Đó cũng chính là ước mơ công
lý chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân: những con người bị áp bức, đau khổ vùng lên đòi sự công bằng
cho chính họ - “ở hiến gặp lành, ở ác gặp ác”.
Lục vân tiên
1. Bài 1 : Nêu cảm nhận của em về nhân vật Lục Vân Tiên trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
2. Bài 2: Phân tích hình ảnh Ng Ông trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn .
3. Bài 3: Nêu cảm nhận về nhân vật Kiều Nguyệt Nga:
4. Bài 4: Liệt kê những phẩm chất cao đẹp của LVT.
5. Bài 5: (Đề thi thử 08 + 09 Trờng THCS Ngô Quyền):
Chép lại c.thơ thể hiện rõ q.niệm sống của LVT. Em hiểu nh thế nào về q.niệm ấy? Dựa vào các trích đoạn Truyện Lục Vân Tiên
của NĐC, hãy chứng minh rằng q.niệm ấy không phải chỉ là của Lục Vân Tiên.
6. Bài 6: Tìm những điẻm giống về thẻ loại, ng.ngữ và ng.thuật x.dựng n.vật của hai t.phẩm Tr.Kiều và Truyện LVT
7. Bài 7:
. Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm ngời thế ấy cũng phi anh hùng
a.Hãy cho biết hai câu thơ trên nằm trong tác phẩm nào?
b.Hãy giới thiệu những nét chính về tác giả và tác phẩm ấy.
c.Em hiểu nghĩa 2 c.thơ đó ntn? Tác giả muốn gửi gắm điều gì qua hai câu thơ đó?
16: Phõn tớch nột n i b t c a tớnh cỏch nhõn v t L c Võn Tiờn trong o n trớch L c Võn Tiờn c u Ki u
Nguy t Nga c a Nguy n ỡnh Chi u.

Núi n Nguyn ỡnh Chiu khụng nhng l núi n mt nh th yờu nc tiờu biu nht ca thi k t
nc ta b thc dõn Phỏp xõm lc cui th k XIX m ụng cũn c nhõn dõn bit n nh mt nh th ln, ca ngi o
lớ lm ngi, cao tit hnh ca ngi ph n, ca ngi lũng trung hiu v hnh ng v ngha ca nam gii m tỏc phm
Lc Võn Tiờn l mt minh chng hựng hn.

Lc Võn tiờn - nhõn vt chớnh ca tỏc phm, hn ai ht ó biu hin rừ nột lý tng ca ngi anh hựng. c
bit l on trớch Lc Võn Tiờn cu Kiu Nguyt Nga ó li trong lũng ngi c mt n tng khú phai m v hỡnh
nh mt trang ngha s ỏnh cp cu ngi.
Lc Võn tiờn l mt nhõn vt lý tng, nhõn vt p nht trong truyn Lc Võn Tiờn ca Nguuyn ỡnh
Chiu. Chng l con mt gia ỡnh thng dõn qun ụng Thnh, mt ngi hc trũ khụi ngụ, cú ti, cú c, vn vừ
song ton:
Cú ngi qun ụng Thnh
Tu nhõn tớch c sm sinh con hin.
t tờn l Lc Võn Tiờn
Tui va hai tỏm ngh chuyờn hc hnh
Núi theo nh vn, nh phờ bỡnh vn hc Hoi Thanh: Trong cuc u tranh gia cỏi thin v cỏi ỏc trong
mt xó hi suy tn, Nguyn ỡnh Chiu ó a vo trn c mt o quõn tng bng khớ th, kiờn quyt vỡ chớnh ngha m
chin u v chin thng thỡ th lnh o quõn ú phi l Lc Võn Tiờn ch khụng phi l mt ai khỏc.
Chớnh Lc Võn Tiờn tiờu biu cho lý tng sng, o c cao p ca nhõn dõn ta lỳc by gi. Chng l ngi
hc rng, ti cao, vn vừ kiờm ton li luụn sn sng ra tay cu giỳp ngi khỏc khi hon nn. Va t t tụn s xung
nỳi, nh v kinh ng thi, trờn ng i, cht thy mt ỏm ngi khúc than b chy, chng lin hi chuyn mi hay cú
mt bn cp d va phỏ lng xúm v bt i hai cụ gỏi. Lc Võn Tiờn khụng chu ni cn bt bỡnh, ni gin:
Võn Tiờn ni gin lụi ỡnh
Hi thm li nú cũn ỡnh ni nao.
Tụi xin ra sc anh ho
Cu ngi cho khi lao ao bui ny.
Thấy người mắc nạn, Lục Vân tiên liền ra tay:
“Vân tiên ghé lạibên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”
Dẫu chỉ mỗi một mình, bọn cướp thì đông ; dẫu trước đó, dân làng hết sức khuyên chàng tuổi trẻ không nê
dính vào việc này, e sẽ mang hoạ vào thân, nhưng Lục Vân tiên chủ động đi tìm cướp, đánh tan chúng để cứu người gặp
nạn yếu đuối. Hành động đánh cướp, trước hết bộc lộ tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa của Vân Tiên.
Hành đông “bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô” của chành trai Vân Tiên thật đẹp đẽ và mãnh liệt vì đã khắc hoạ được
hình ảnh một chàng trai nghĩa sĩ sẵn sàng trừ ác giúp dân. Chàng chỉ có một mình, hai tay không trong khi bọn cướp
đông người, gươm giáo đầy đủ, thanh thế lẫy lừng “người đều sợ nó có tài khôn đương”. Vậy mà Vân Tiên vẫn bẻ cây

làm gậy xông vào đánh cướp. Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh thật dũng mãnh, bất chấp bọn cướp bao vây tứ phía.
Lục Vân Tiên đã dũng cảm “tả đột, hữu xông”, “khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dương”. Ngay từ phần mở đầu
truyện thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu Vân Tiên là người “văn đà khởi phụng đằng giao - võ thêm tam lược lục
thao ai bì”. Thì lúc này, chính là cơ hội để chàng thi thố tài năng võ nghệ của mình. hình ảnh Vân Tiên tung hoành với
chiệc gậy trong tay, tạo một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc của mọi thế hệ. Sức mạnh của chàng trai trẻ đã khiến
bọn “lâu la khiếp sợ”:
“Lâu la bốn phía vờ tan
Đều quăng ươm giáo tìm đường chạy ngay”
Bọn lâu la phải quăng cả vũ khí để chạy tháo thân, còn tênđầu đảng thì:
“Phong lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Thế là chỉ một mình, Vân Tiên đã tài giỏi dẹp xong lũ cướp. Nhưng điều đáng quý hơn cả của chàng nghĩa sỹ
là thái độ vô tư. Làm xong việc nghĩa, chàng đã không coi đó là công ơn và từ chối việc đền ơn. Kiều Nguyệt Nga thì
thoát nạn, cảm tạ chàng và xin được đền ơn:
“ Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
Gặp đây đang lúc giữa đàng
Của tiền không có, bạc vàng cũng không.
Tưởng câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi!”
Nhưng Vân Tiên đã khẳng khái từ chối mọi sự đền đáp:
“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.”
Nụ cười của trang nghĩa sỹ này mới đẹp làm sao! Trong nụ cười ấy như hàm chứa cả sự thông cảm lẫn sự bao
dung.
Vân Tiên đã làm việc nghĩa một cách vô điều kiện và coi đó là lẽ tự nhiên: ở đời là phải thế, không thể nào
khác được. Vân Tiên cứu người mắc nạn là vì nghĩa, đó cùng chính là lý tưởng mà chàng ôm ấp và thực hiện:
“Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Tóm lại, Lục Vân Tiên là mẫu người hào hiệp, sẵn mạng trong mình truyền thống trọng nghĩa khinh tài của

dân tộc ta. Phẩm chất cao đẹp ấy đáng được người đời sau truền tụng, học tập và phát huy. Lục Vân Tiên cho chúng ta
một bài học lớn về tinh thần nghĩa hiệp, không thể làm ngơ trước tai hoạ và đau khổ của người khác. Trong xã hội ngày
any, mẫu người như thế không phải là không có. Đọc báo, nghe đài , đọc sách chúng ta vẫn gặp họ đâu đó ở chỗ này, chỗ
khác. Họ xứng đáng được xã hội biểu dương.
Gấp trang sách lại, hình ảnh hào hùng của chàng nghĩa sỹ sẵn sàng ra tay “trừ thói hồ đồ hại dân” vẫn cứ hiện
rõ. Trong lời thơ mộc mạc của nhà thơ vẫn âm vang mãi một tấm gương sáng về tinh thần thượng võ. Ngày nay, đâu phải
vic cu khn, phũ nguy l khụng cn thit na, do o, Lc Võn Tiờn vn gúp phn giỳp cho chỳng ta sng p hn v
xng ỏng hn vi li tõm nim:
Nh cõu kin ngói bt vi
Lm ngi th y cng phi anh hựng.
$)*+,-)./,/,0123
Chính Hữu "Đồng chí"
1.Tác giả:
Nhà thơ Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đôvà hoạt động trong quân đội suốt
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ Chính Hữu hầu nh chỉ viết về ngời lính và chiến tranh.
"Hiện Chính Hữu mới chỉ công bố: tập thơ Đầu súng trăng treo (1966), Thơ Chính Hữu (1977), Tuyển tập Chính Hữu (1988). Thơ Chính Hữu
giàu hình ảnh, nhiều suy tởng, ngôn ngữ chon lọc, cô đọng. Ông thờng sử dụng thể thơ tự do, giàu nhạc điệu, mà chủ yếu là nhạc điệu của nội
tâm, vừa lắng đọng vừa có sức âm vang. Chính Hữu làm thơ không nhiều nhng vẫn có một vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam, và
một số bài thơ của ông thuộc số những tác phẩm tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến (Đồng chí, Đờng ra mặt trận, Ngọn đèn đứng gác, Trang
giấy học trò). Chính Hữu đợc tăng Giải thởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2000 (Nguyễn Văn Long, Từ điển văn học, Sđđ).
2.Tác phẩm:
Bài thơ Đòng chí đợc sáng tác đầu năm 1948, thể hiện những cảm xúc sâu xa và mạnh mẽ của nhà thơ Chính Hữu với đồng đội trong chiến
dịch Việt Bắc. Cảm hứng của bài thơ hớng về chất thực của đời sống kháng chiến, khai thác cái đẹp và chất thơ trong sự bình dị của đời thờng.
Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đôi gắn bó thắm thiết của những ngời nông dân mặc áo lính trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, tình cảm đó thật cảm động đẹp đẽ.
Đồng chí
1.Bài 1: Để làm bài nghị luận thơ: Nêu cảm nhận của em về bài thơ Đồng chí của Chính Hữu, một bạn học sinh dự định trình
bày phần TB theo hệ thống luận điểm sau:
-LĐ 1: Phân tích khổ thơ đầu.
-LĐ 2: Tình đồng chí còn đợc thể hiện ở sự cảm thông chia sẻ tâm t, tình cảm và những khó khăn gian khổ của cuộc đời ngời

lính.
-LĐ 3: Đặc biệt tình đồng chí còn đợc thể hiện rõ nét trong chiến đấu gian khổ.
a.Theo em, bạn học sinh lập hệ thống luận điểm nh vậy đã đúng cha? Vì sao? Hớng sửa đổi của em?
b.Hãy chọn 1 luận điểm ở phần TB (sau khi đã sửa) viết thành đoạn văn hoàn chỉnh theo lối diễn dịch.
2.Bài 2: Cho các câu văn sau: B.thơ Đồng chí kết thúc bằng h.ảnh đặc sắc. Đây là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của
ngời lính, là biểu tợng đẹp về cuộc đời ngời lính.
a.Chép chính xác 3 câu thơ cuối của bàI thơ.
b.Viết tiếp những câu văn đã cho khoảng 8 10 câu nữa để hoàn chỉnh đoạn văn. Trong đoạn có sử dụng một câu mở rộng
thành phần.
3.Bài 3: Viết 1 đoạn văn khoảng 6 câu theo cách lập luận T P H, p.tích khổ cuối bài Đồng chí trong đoạn có s.dụng 1 câu
ghép chính phụ, 1câu có s. dụng th.phần tình thái.
4.Bài 4: Sửa lỗi câu văn sau: Với h.ảnh Đầu súng trăng treo đã d.tả đầy sức gợi cảm mối tình đồng chí keo sơn trong b.thơ
Đ.chí đ ợc s.tác năm 1954 sau ch.thắng Việt Bắc.
Triển khai đoạn văn có câu chủ đề trên.
5.Bài 5: Cho câu văn sau: Qua bài thơ Đồng chí đã khắc hoạ rõ nét vẻ đẹp bình dị mà cao cả của anh bộ đội cụ Hồ hồi đầu
cuộc kháng chiến chống Mĩ.
a.Em hãy phát hiện xem câu văn trên sai ở những chỗ nào? Hãy sửa lại cho đúng.
b.Coi câu vừa sửa là câu đầu tiên của đoạn văn T- P - H. Em hãy viết tiếp khoảng 7- 8 câu nữa để hoàn chỉnh đ.văn.
Trong đ.văn có s.dụng 1 câu phủ định
6.Bài 6: Phân tích bài thơ Đồng chí để thấy rõ chủ đề đồng chí hiện lên trong thơ Chính Hữu với rất nhiều dáng vẻ.
7. Bài 7: (Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 trờng PTDL Lơng Thế Vinh 2007 - 2008).
a.Tác giả của bài thơ Đồng chí là ai? Bài thơ ra đời vào năm nào?
b.Chép chính xác toàn bộ bài thơ.
c.Bằng 1 đoạn văn theo phép quy nạp, khoảng 8 câu, em hãy trình bày những cảm nhận của em về 3 dòng thơ cuối của bài Đồng
chí.
8.Bài 8 : Cho câu thơ: Ruộng n ơng anh gửi bạn thân cày .
a.Hãy chép tiếp sau câu thơ trên chín câu thơ nữa để hoàn chỉnh đoạn thơ.
b.Bằng 1 đoạn văn diễn dịch khoảng 8 đến 10 câu, em hãy trình bày cảm nhận của mình về khổ thơ em vừa chép. Trong đoạn có
sử dụng 1 câu bị động và 1 câu cảm thán.
9.Bài 9: Bài thơ Đồng chí có nói đến một số quan hệ tình cảm. Em hãy chỉ ra các mối quan hệ đó. Theo em, mối quan hệ nào đ -

ợc tác giả nhấn mạnh nhất?
10. Bài 10: (Đề thi học sinh giỏi 03 + 04):
Về bài thơ Đồng chí của C.Hữu, nh.thơ Vũ Quần Phơng viết: Đ.chí, hai chữ ấy trong ngôn ngữ c.ta nửa thế kỉ nay, là tiếng x ng
hô của những ngời chung lí tởng cộng sản. Nhng bài thơ Đồng chí lại không gợi 1 vấn đề chính trị mà diễn đạt lòng ngời
Dựa vào ý kiến trên, em hãy làm rõ những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ và nêu rõ cảm nhận của mình về vẻ đẹp
của hình tợng anh bộ đội thời kì kháng chiến trong bài thơ.
11.Bài 11: Cho các câu văn sau: Bài thơ Đồng chí kết thúc bằng hình ảnh rất đặc sắc. Đây là một bức tranh đẹp về tình đồng chí,
đồng đội của những ngời lính, là biểu tợng đẹp về cuộc đời ngời chiến sĩ.
a.Chép chính xác 3 câu thơ cuói của bài thơ.
b.Có bạn hiểu đồng chí là đồng lòng và quyết chí . Hiểu nh thế có đúng không? Tại sao? Vận dụng phơng pháp giải nghĩa từ
mà em đã đợc học, hãy giải nghĩa hai từ tả thực và lãng mạn
c.Viết tiếp những c.văn đã cho khoảng 7 10 câu để hoàn chỉnh đ.văn. Trong đoạn có s.dụng 1 câu hỏi tu từ.
12.Bài 12: Có ngời còn cha hiểu hết c.thơ đợc coi là hay nhất trong b.thơ Đồng chí , câu : Đầu súng trăng treo . Vì sao trăng
vốn vời vợi trên trời cao lại có thể treo trên đầu súng nơi mặt đất? Nh.thơ đặt trăng bên cạnh súng để nhằm gợi ra vẻ đẹp gì về tâm
hồn của những ngời lính? Xét trong mqh với hai câu thơ trớc đó, tứ thơ Đầu súng trăng treo có thể giúp ngời đọc cảm nhận đợc
gì về đ.sống và tình đ.chí của những ngời lính? Em hãy gi.thích ngắn gọn câu hỏi trên.
13. Bài 13 : Bằng 1 đ.văn d.dịch (8 10 câu), em hãy p.tích tình đ.chí keo sơn của những anh lính cụ Hồ trong những
ngày đầu của cuộc kh.chiến chống P. Trong đ.văn em có sử dụng hợp lí 1 cách dẫn trực tiếp và 1 cách dẫn gián tiếp.
14. Bài 14:
Sửa lỗi câu văn sau: Với hình ảnh đầu súng trăng treo đã diễn tả đầy sức gợi cảm mối tình đồng chí trong bài thơ đồng chí
đợc sáng tác năm 1954 sau chiến thắng Việt Bắc.
Triển khai đoạn văn có câu chủ đề trên.
15. Bài 15: Phân tích hình ảnh ngời lính trong bài thơ Đồng chí .
16.Bài 16: P.tích g.trị ng.thuật của h.ảnh ẩn dụ mang tính nhân hoá trong c.thơ Giếng nớc gốc đa nhớ ngời ra lính .
17. Bài 17:
G.sử em phải làm b.văn p.tích b.thơ Đ.chí , em hãy xét xem phần thân bài của bài làm có đợc trình bày theo dàn ý đại cơng sau
đây không? Vì sao? Nếu dàn ý cha đúng, em hãy sửa lại cho hợp lí:
a.Phân tích 7 câu thơ đầu.
b.Bài thơ nói lên tình đồng chí gắn kết những ngời chiến sĩ trong 1 cuộc chiến đấu đầy gian khổ.
c.Bài thơ còn nêu lên 1 hình ảnh rất đẹp vào 1 đêm chờ giặc giữa rừng trong đêm trăng lạnh.

18. Bài 18:
Viết đoạn văn phân tích 7 câu đầu bài thơ Đồng chí .
19. Bài 19:
Về hình ảnh Đầu súng trăng treo cuối bài thơ Đòng chí nhà thơ Chính Hữu viết: Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng. Đi
phục kích giặc trong đêm, trớc mắt tôi chỉ có 3 nhân vật: khẩu súng, vầng trăng và ngời bạn chiến đấu. Ba nhân vật hoà quyện với
nhau tạo ra hình ảnh Đầu súng trăng treo .
Em có suy nghĩ và c.nhận nh thế nào về h.ảnh thơ độc đáo này? Tr.bày bằng 1 đ.văn q.nạp khoảng 8 câu.
20.Bài 20:
Vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ viết về ngời lính nông dân là Đồng chí ? Phân tích bài thơ để CMR: Tình đồng chí đã làm
nên vẻ dẹp anh bộ độ cụ Hồ.
21. Bài 21:
Ngời lính trong bài thơ Đống chí của Chính Hữu và ngời lính trong bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến
Duật có điểm gì chung?
22 .Bài 22. Sau đây là đoạn mở bài 1 bài TLV:
Đợc s.tác vào th.kì của cuộc kh.chiến chống Pháp th.kì nh.dân và bộ đội sống, ch.đấu hết sức dan khổ. B.thơ Đ.chí của
nh.thơ C.Hữu đã p.ánh trân thực h.thực đó. Bằng hàng loạt những chi tiết, những h.ảnh gợi cảm có sức k.quát lớn. B.thơ Đ.chí
kh.hoạ thật cảm động tình đ.chí, đ.đội keo sơn, gắn bó và thiêng liêng. Sức cảm nhận tinh tế kết hợp với 1 hồn thơ l.mạn bay bổng,
b.thơ Đ.chí một th.công đặc sắc của thơ ca kh.chiến chống P.
a.Chép lại đoạn văn trên sau khi đã sửa hết các lỗi sai về chính tả, về đặt câu và dấu chấm câu (Khi chữa câu cần giữ nguyên ý
của ngời viết, chỉ đợc thêm bớt rất ít từ).
b.Xác định chủ đề của bài TLV.
c.Thay 2 từ trong 3 ngữ Bài thơ Đồng chí bằng từ khác để khỏi lặp từ.
d.Viết tiếp 1 đoạn nghị luận theo kiểu T P H khoảng 10 câu phân tích tình đồng chí, đồng đội keo sơn của các anh bộ đội
trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
4.Đoạn văn về bài thơ Đồng chícủa chính hữu
1. Tình đồng chí trong thơ Chính Hữu:
Chủ đề đồng chí trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu hiện lên với rất nhiều dáng vẻ.Tình đồng chí bắt nguồn sâu
sa từ sự tơng đồng về cảnh ngộ nghèo khó:
Quê hơng anh nớc mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Sự đồng cảm về giai cấp khiến họ từ xa lạ thành đôi tri kỷ. Họ cùng chung lý tởng, cùng chung nhiệm vụ. Họ xa gia
đình để gánh trên vai nhiệm vụ cao cả thiêng liêng: cầm súng chiến đấu giành độc lập dân tộc. Từ những lẽ đó mà họ
thành đồng chí của nhau. Trong chiến đấu thì nh vậy còn trong cuộc sống hàng ngày thì tình đồng chí lại bao hàm cả tình
bạn. Họ hiểu tâm t tình cảm của nhau. Họ san sẻ cùng nhau những vui buồn, những thiếu thốn gian khổ. Không có gì
cho nhau, họ trao nhau cái bắt tay mộc mạc giản dị: Thơng nhau tay nắm lấy bàn tay. Cái bắt tay mộc mạc thế thôi
nhng lại chứa chan tình yêu thơng, xua tan cái giá lạnh của thời tiết và truyền cho nhau ý chí nghị lực sắt đá. Và cứ nh thế
họ sát cánh bên nhau :
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Đến đây ta mới thực sự cảm nhận đợc vẻ đẹp của ngời lính kháng chiến, vẻ đẹp của tình đồng chí. Đó là sự kết tinh kì diệu
giữa tâm hồn thi sỹ và chiến sỹ.
2 .Đoạn văn về khổ thơ cuối bài thơ Đồng chí (Bài viết của nhung)
Đoạn thơ :
Đêm nay rừng hoang sơng muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
đã khắc họa một cách rõ nét sự kết tinh tình đồng chí(1). Các chiến sĩ phục kích giặc trong cảnh rừng hoang sơng
muối, thời tiết ấy gợi cho ngời đọc cảm giác lạnh tê tái, cái lạnh đến thấu xơng buốt thịt (2). Đây là một hoàn cảnh hết
sức khó khăn, một thử thách lớn đối với ngời lính (3). Tuy khắc nghiệt nh vậy, dù ở giữa sự sống và cái chết nhng các anh
vẫn chủ động đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới(4). Trong hoàn cảnh này ta mới thấy hết đợc tình đồng chí gắn bó keo
sơn của những ngời lính (5). Bằng những lời thơ giàu tính tợng hình, nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp ngời lính trong t thế hiên
ngang, anh dũng, sẵn sàng chiến đấu(6). Câu thơ khép lại bài thơ thật ấn tợng:
Đầu súng trăng treo.(7)
Súng và trăng vốn là hai hình ảnh đối lập tởng chừng không thể đặt cạnh nhau (8). Súng là biểu tợng của ngời lính
với cuộc chiến đấu, với những máu lửa chết chóc, còn trăng là biểu tợng của cái đẹp vĩnh hằng, của hòa bình và là chất
liệu của thi sỹ (9). Âý vậy mà nhà thơ Chính Hữu lại có những liên tởng độc đáo thú vị: Súng, trăng và ngời lính nh hòa
quyện làm một (10). Đó là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ
(11). Điều đó làm nên vẻ đẹp tuyệt vời của ngời lính kháng chiến , ngời lính Chính Hữu (12). Phải chăng Chính Hữu cũng
mang trong mình chất lính mới có thể cảm nhận một cách chân thực và sinh động về ngời lính và tình đồng chí đến thế
(13).

3. Phân tích h/ả thơ: Đầu súng trăng treo
Câu thơ Đầu súng trăng treo có thể đợc coi là câu thơ hay nhất của bài thơ Đ/c. Đây trớc hết là một h/ả
thực đợc phát hiện từ chính những đêm hành quân, phục kích của tác giả. Trong hoàn ảnh đó, súng và trăng dờng nh là
hai ngời bạn thân thiết nhất của ngời chiến sĩ. Trong ánh sáng bàng bạc của màn sơng đêm, nòng súng chĩa lên trời trong
lúc đầu hôm sớm mai làm vầng trăng nh hạ thấp xuống. Ngời lính bỗng phát hiện ra mũi súng nh treo một vầng trăng. Từ
treo đã tạo nên mối quan hệ bất ngờ, độc đáo, nối liền mặt đất mặt đất với bầu trời. Trong hoàn cảnh đêm đông giá
lạnh, giữa rừng hoang sơng muối, ngời lính vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng, vẻ đẹp bất ngờ của vầng trăng. H/ả đầu
súng trăng treo thể hiện một phát hiện lí thú, một quan sát tinh tế, một tâm hồn lãng mạn của ngời lính giữa gian khổ,
hiểm nguy vẫn mở lòng trớc thiên nhiên. Đó là đôi cánh nâng đỡ, làm giàu đẹp tâm hồn ngời lính. Và từ đó tình đồng chí,
đồng đội của những ngời chiến sĩ đã tỏa sáng, vơn cao từ cuộc đời chiến đấu. Phải chăng chính vì thế mà Chính Hữu đã
chọn làm tựa đề cho cả tập thơ viết về ngời lính?
4. Ruộng nơng ra lính
Bằng bút pháp tả thực kết hợp với những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm, đoạn thơ đã diễn tả vẻ đẹp trong đời sống
của tình đồng chí(1). Ra đi chiến đấu các anh đã để lại bao nỗi khó khăn, vất vả lên vai ngời ở lại: Ruộng nơng anh gửi
bạn thân cày(2) Câu thơ đã cho thấy sự cảm thông với những tâm t nỗi lòng của ngời lính- những anh bộ đội xuất phát
từ nông dân (3). Họ còn là những con ngời thật dứt khoát, biết rằng gian nhà của mình bị gió lung lay nhng họ vẫn mặc
kệ để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của TQ (4). Những con ngời ấy đã sẵn sàng bỏ lại những gì gần gũi thân quen để ra
đi, chiến đấu giải phóng quê hơng, giải phóng dân tộc (5). Ra đi nh vậy nhng họ vẫn biết rằng nơi quê nhà có Giếng nớc
gốc đa nhớ ngời ra lính (6). Giếng nớc, gốc đa là những h/ả thân thuộc của làng quê hay đó cùng chính là những ngời
thân yêu ở đó (7). NT nhân hóa, ẩn dụ đã thể hiện rõ tình cảm nhớ thơng, gắn bó của quê hơng với những ngời lính và ng-
ợc lại (8).
' Phõn tớch bi th ng chớ ca chớnh Hu ( Ng vn 9 - Tp 1).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×