Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

tiểu luận Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 48 trang )

Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Việc nhìn nhận đối tượng tiền tệ - bên cạnh vai trò lưu hành thông thường
với chức năng trung gian tiền tệ, cũn cú một giá trị rất đặc biệt xột trờn khía cạnh
văn hoá - nghệ thuật, ý nghĩa chính trị quốc gia, hay một nền kinh tế - xã hội và
còn phản ánh trình độ phát triển khoa học công nghệ in, đúc tiền.
Tiền Việt Nam đã có lịch sử ra đời và phát triển hàng ngàn năm (từ
đồng tiền đầu tiên năm 970 dưới triều đại nhà Đinh đến nay). Mỗi một đồng
tiền trong mỗi giai đoạn lịch sử đều gắn chặt với với những đặc điểm kinh tế,
chính trị và xã hội của thời kỳ đó, mang những đặc trưng văn hoá, truyền
thống và bản sắc dân tộc Việt Nam. Những đồng tiền hình tròn lỗ vuông
tượng trưng cho quyền năng của trời và đất trong suốt các triều đại phong
kiến trước đây, những đồng tiền trong các giai đoạn cách mạng Việt Nam sau
này, là một tập hợp đa dạng về chủng loại, phong phú về hình thức và đều có
chung một sức sống mãnh liệt, khát vọng hoà bình và chứa đựng những giá trị
nghệ thuật đậm nét văn hoá, con người Việt Nam.
Lịch sử tiền tệ Việt Nam đã có từ lâu, nhưng thực sự chưa có một công
trình nghiên cứu nào đánh giá một cách toàn diện về các giá trị lịch sử, kinh
tế, xã hội của các đồng tiền qua các triều đại. Trong những năm qua, mặc dù
đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử tiền tệ nói chung, lịch sử đồng
tiền nói riêng của các nhà chuyên môn, nhà khoa học, nhà sưu tầm trong và
ngoài Ngành. Nhưng đến nay, có thể nói chưa có một công trình nào thực sự
hoàn chỉnh, bởi lịch sử đồng tiền nước ta đã có từ lâu, đa dạng, phong phú trải
dài theo chiều dài lịch sử, và bản thân đồng tiền lại chứa đựng một cách tinh
xảo nhất những giá trị lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và nghệ thuật.
Tìm hiểu những hình ảnh, họa tiết trang trớ trờn đồng tiền xưa và nay đã từng
tồn tại, lưu hành trong xã hội Việt Nam để hiểu rõ về tính chất ứng dụng cùng
1
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương


K55A SPMT
hình ảnh biểu trưng của con người, đất nước Việt Nam, đó là lý do tôi chọn đề
tài tốt nghiệp của mình.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIấN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam thời nguyên
thủy và hiện đại.
2.2.Phạm vi nghiên cứu:
Hình ảnh trờn cỏc đồng tiền
3. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI:
Tìm hiểu và nghiên cứu hoa văn, họa tiết, hình ảnh trang trí trên đồng tiền
giỳp tụi hiểu được thêm rõ ràng về lịch sử dân tộc, về tính chất đặc trưng, tiêu
biểu mà người sản xuất, làm ra đồng tiền đã truyền đạt một cách trung thực,
sống động nhất. Khi cầm trên tay một đồng tiền dù là tiền cổ, tiền giấy hay tiền
kim loại, mỗi người đều cú cỏch nghĩ: đồng tiền không chỉ là mang yếu tố sử
dụng mà nó cũn mang tính mỹ thuật, giá trị lưu giữ lịch sử vô cùng to lớn. Việc
nghiên cứu đề tài này sẽ phần nào đó không chỉ riờng tụi mà sẽ có thật nhiều
người thờm yờu và hiểu về đồng tiền – giá trị tinh thần của mỗi quốc gia.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Tổng hợp vấn đề, phân tích, so sánh, chứng minh tìm ra hướng giải
quyết.
- Nghiên cứu tài liệu tham khảo.
- Gặp gỡ, trao đổi ý kiến của các giảng viên, thạc sĩ, nhà phê bình mỹ
thuật
5. DỰ KIẾN ĐÓNG GểP CỦA ĐỀ TÀI:
- Tìm hiểu, nghiên cứu yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam là
tìm hiểu về bảo lưu những giá trị lịch sử truyền thống, khai thác những
yếu tố tích cực để áp dụng vào những môn nghệ thuật khác.
- Là tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên mỹ thuật.
2

Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
6. CẤU TRÚC CỦA TIỂU LUẬN:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, cấu trúc của đề tài gồm có 3 chương,
đó là:
Chương 1: Nguồn gốc và lịch sử ra đời của đồng tiền Việt Nam
Chương 2: Yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt nam nguyên thủy
Chương 3: Yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam hiện đại
3
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ RA ĐỜI
CỦA ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tiền là gì?
Tiền là thứ để trao đổi hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn bản thân và
mang tính dễ thu nhận (nghĩa là mỗi người đều sẵn sàng chấp nhận sử dụng).
Tiền là một chuẩn mực chung để có thể so sánh giá trị của các hàng hoá và
dịch vụ. Thông qua việc chứng thực các giá trị này dưới dạng của một vật cụ
thể (thí dụ như tiền giấy hoặc tiền kim loại) hay dưới dạng văn bản (dữ liệu
được ghi nhớ của một tài khoản) mà hình thành một phương tiện thanh toán
được cộng đồng công nhận trong một vùng phổ biến nhất định. Khi một
phương tiện thanh toán, tiền là phương tiện chuyển tiếp vì hàng hoá hay dịch
vụ không thể trao đổi trực tiếp cho nhau được. Người ta có thể nhìn tiền như
vật môi giới, biến việc trao đổi trực tiếp hàng hoá và dịch vụ, thường trao đổi
phải mất nhiều công sức tìm kiếm, thành một sự trao đổi có 2 bậc.
Nói một cách chặt chẽ thì tiền chỉ là những gì mà pháp luật bắt buộc
phải công nhận là một phương tiện thanh toán.
Ngoài giá trị hiển nhiên của một phương tiện thanh toán, tiền còn thể
hiện đặc trưng của một quốc gia và một vùng lãnh thổ phát hành. Có những

đồng tiền dày đặc chi tiết nhỏ, nhưng cũng có những tờ trình bày đơn giản
bằng những hình khối, màu sắc hiện đại và ấn tượng. Điều đó cho thấy khả
năng sáng tạo vô hạn của các nhà thiết kế trong việc truyền tải những hình
ảnh đực trưng của quốc gia, dân tộc cũng như nói lên giá trị lịch sử (một
chứng nhân lịch sử sống động) lên từng tờ giấy bạc.
1.2. Nguồn gốc của đồng tiền:
* Thế giới: Tiền hình thành như một phương tiện trao đổi đa năng để
đơn giản hóa thương mại. Nếu như trước kia tiền thường được kiên kết với
4
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
các phương tiện trao đổi hiện thực có giá trị thí dụ như đồng tiền bằng vàng
thì tiền ngày nay thông thường là từ vật liệu mà chính nó không có giá trị
(tiền giấy). Trong trao đổi quốc tế người ta gọi các loại tiền khác nhau là tiền
tệ. Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện cho chúng.
Ngày xưa vàng và bạc là các vật bảo đảm giá trị của tiền tại châu Âu. Ngày
nay việc này không còn thông dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của
hàng hóa mà người ta có thể mua được.
Người ta tin rằng đầu tiên hàng hóa và các dịch vụ được trao đổi trực tiếp
với nhau (thương mại trao đổi). Vì điều này không thực dụng nên hàng hóa
và dịch vụ được trao đổi với các loại hàng hóa khỏc mà có thể được tiếp tục
trao đổi một cách dễ dàng. Loại hàng hóa là tiền này là những vật có giá trị
đẹp hay hữu ích như bò, lạc đà, lông súc vật, dao, xẻng, vòng trang sức, đá
quý, muối và nhiều loại khác. Khi người ta khám phá ra rằng một số vật
không còn được sử dụng nữa mà chỉ được tiếp tục trao đổi thỡ cỏc bản sao
chép nhỏ hơn và ít có giá trị hơn của các vật này được sử dụng làm phương
tiện thanh toán. Thuộc về các loại hàng hóa trở thành tiền là các vỏ sò cho đến
khi người Trung Quốc tiến quân vào năm 1950 (chữ "bối" trong "bảo bối" chỉ
đến con sò).
Đó là các hình thức thanh toán đầu tiên trước khi có tiền. (Tiền trong

tiếng La tinh là pecunia bắt nguồn từ pecus có nghĩa là con bũ vỡ đồng tiền
kim loại đầu tiên của La Mã tượng trưng cho giá trị của một con bò.) Khả
năng có thể đếm được, dễ bảo toàn, dễ vận chuyển đó đúng một vai trò quan
trọng trong việc lựa chọn vật liệu cũng như khả năng có thể giữ được giá trị.
Các thỏi hay sợi dây bằng đồng thiếc hay bạc đáp ứng được các yêu cầu này
vì có giá trị bền vững và có thể bảo toàn dễ dàng.
Tiền kim loại: Mãi cho đến trong thế kỷ 18 giá trị của các loại tiền tệ
của châu Âu được định nghĩa thông qua lượng kim loại quý. Bên cạnh việc
theo dõi sản xuất trong nước, các xưởng đúc tiền quốc gia còn theo dõi cả
5
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
việc đúc tiền của nước ngoài. Một tiền tệ được đánh giá quá cao hay quá thấp
khi đồng tiền được tớnh trờn hay dưới giá trị của kim loại trong lúc tính toán
với các tiền tệ khỏc trờn thế giới. Các đồng tiền kim loại đầu tiên được người
Lydia ở phía Tây của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay đúc từ vàng, trong thời gian giữa
640 và 600 TCN, có nhiều kích thước và giá trị khác nhau và được dùng như
là một phương tiện thanh toán để đơn giản hóa việc trả lương cho những
người lính đánh thuê. Một lượng nhất định của các hạt bụi vàng được nấu
chảy thành đồng tiền và sau đó hình của nhà vua được dập nổi lên trên. Nhà
vua người Lydia cuối cùng, Croesus, vì thế mà mang danh là giàu có vô hạn.
Các đồng tiền kim loại này đã làm cho việc thương mại dễ dàng đi rất nhiều
vỡ chỳng cú ưu điểm là bao giờ cũng có kích thước, trọng lượng và hình dáng
không thay đổi và thay vì là phải cõn thỡ có thể đếm được. Việc cố tình mài
mòn đồng tiền để lấy bớt đi kim loại đã tạo nên nhiều vấn đề rất lớn trong
việc sử dụng tiền kim loại. Việc giá trị của các kim loại quý biến động khi so
sánh với nhau còn mang lại nhiều vấn đề lớn hơn. Giá trị của các loại tiền tệ
khác nhau, bao gồm các đồng tiền bằng vàng, bạc và đồng, không thể giữ ổn
định khi so sánh với nhau được. Giải pháp cho vấn đề này trong đầu thế kỷ 18
tại Anh là loại tiền tệ về nguyên tắc

dựa trên vàng.
Tiền giấy: Mặc dù tư tưởng dùng
tiền giấy có thể nhận thấy qua ý
thức sử dụng hối phiếu và phiếu
nhận của người Babylon cổ từ rất
sớm khoảng 2500 TCN, những đồng tiền giấy đầu tiên lần tìm được đầu tiên
ở Trung Hoa cổ đại, thời Bắc Tống. Tiền giấy Trung Quốc được sử dụng từ
thế kỷ VII dưới triều đại nhà Đường. Khi ấy hệ thống tiền tệ chính của Trung
Quốc vẫn là tiền xu tròn lỗ vuông và tiền vàng, bạc. Xuất phát từ hoạt động
của các hiệu cầm đồ, kim hoàn nhận giữ tiền hộ khác hàng, người ta nghĩ ra
6
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
cách thanh toán bằng những tờ giấy chứng nhận gửi tiền để dễ vận chuyển và
an toàn trong sử dụng. Tiền ngày ấy được gọi là “phi tệ” vỡ nó nhẹ. Đến thế
kỷ X, tiền giấy Trung Quốc đã được sử dụng rất rộng rãi trên địa bàn rộng lớn
và đó cú một hệ thống thanh toán ngân hàng khá hoàn chỉnh.
Khi ấy người châu Âu hầu như không biết gì về Trung Quốc. Một sự
kiện rất nổi tiếng và được coi là đem lại những hiểu biết đầu tiên của châu Âu
về Trung Quốc là cuộc phiêu lưu của một người Italia tên là Marco Polo đến
Trung Quốc vào thế kỷ XIII. Cuộc phiêu lưu này được chính Marco Polo kể
lại bằng một cuốn hồi ký làm xôn xao dư luận châu Âu thời đú vỡ vô vàn
những điều mới lạ. Trong đó, ụng cú trình bày về cách sản xuất và lưu hành
tiền giấy. Khi đó, tiền giấy là một điều hoàn toàn mới lạ ở châu Âu, nhiều
người tỏ ra không tin và nghi ngờ giá trị của một loại tiền được làm bằng
giấy.Tuy nhiên tiền giấy này thực chất mới chỉ là các “ngân phiếu”, nó khụng
thay thế hoàn toàn cho tiền kim loại trong đời sống thường nhật. Nó cũng chỉ
lưu hành trong một tầng lớp thương nhân và quý tộc giàu có bởi mệnh giá của
nó rất lớn. Để trở thành một đồng tiền hoàn chỉnh như ngày nay thỡ cũn cú
một khoảng cách rất dài. Tiếc rằng tiền giấy Trung Quốc đã không có nhiều

cơ hội tiếp tục phát triển do những hạn chế về chính trị. Năm 1455, triều đại
nhà Minh đã ban hành nhiều biện pháp hạn chế tiền giấy đồng thời đóng cửa
nhiều trung tâm tài chính lúc đó. Từ đó tiền giấy Trung Quốc hầu như không
được nhắc đến nữa.
Tờ giấy bạc châu Âu đầu tiên được in tại Thuỵ Điển năm 1661, và
nước Pháp đã đưa tiền giấy vào lưu thông rộng rãi ở thế kỷ 18.Và tư tưởng
dùng tiền giấy trở nên phổ biến với các khác cũng như ở các thuộc địa.
* Việt Nam: Tiền Việt Nam được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ
10, thời kỳ nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Bộ Lĩnh. Thời
phong kiến, gần như mỗi đời vua lại cho phát hành loại tiền mới. Nhiều khi,
mỗi lần thay đổi niên hiệu, vua lại cho phát hành loại tiền mới. Suốt một thời
7
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
gian dài, tiền kim loại là thứ tiền duy nhất và mô phỏng theo tiền kim loại của
các triều đình Trung Quốc. Cho đến tận thời kỳ Pháp thuộc Việt Nam vẫn lưu
thông tiền kim loại, nhưng trong lịch sử, tiền giấy đã từng xuất hiện ở Việt
Nam từ khá sớm. Tiền giấy được phát hành lần đầu tiên năm 1396 dưới thời
vua Trần Thuận Tông, tuy nhiên người quyết định khi đó lại là Hồ Quý Ly.
Có thể hình dung rằng, một loạt các động tác ngoài tài chính - tiền tệ sẽ xảy ra
đồng bộ, có tổ chức với quy mô lớn (trong toàn quốc) trong việc phát hành
tiền giấy như: thết kế mẫu, vẽ mẫu, làm giấy chuyên dùng, in ấn, phát hành,
cho thấy một khía cạnh văn hoá rất phát triển và có hiệu quả trên toàn cõi Đại
Việt lúc bấy giờ. Tuy chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn ngủi và còn
nhiều tranh cãi về mục đích phát hành, nhưng đồng tiền giấy Thông bảo hội
sao của Hồ Quý Ly cũng đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử đáng trân trọng của
mình và được lưu danh thiên cổ với tư cách là đồng tiền giấy đầu tiên của
Việt Nam.
1.3. Đặc điểm của đồng tiền:
Ngoài giá trị hiển nhiên của một phương tiện thanh toán, tiền còn thể

hiện đặc trưng của các quốc gia và vùng lãnh thổ phát hành. Chính vẻ đẹp đó
được các nhà sưu tập cất công tìm kiếm. Những tờ tiền giấy đủ kích cỡ, khi
thỡ bộ xíu bằng 3 ngón tay như tiền của Somaliland, có tờ lại mong manh như
một tấm vé số - tiền Nam Cực Nhưng tổng hòa lại, tiền của mỗi quốc gia và
vùng lãnh thổ có những đặc điểm dễ nhận ra. Chẳng hạn tiền các nước khu
vực châu Phi thường có màu sắc sặc sỡ, chi tiết cầu kỳ; tiền khu vực châu Mỹ
thường gắn với những vị anh hùng, những cuộc khởi nghĩa, hỡnh cỏc bộ tộc
đặc trưng Chính vẻ đẹp phong phú đó mang đến niềm cảm hứng cho các
nhà sưu tập tiền đang lưu hành. Qua so sánh tổng quan giữa tiền các nước với
tiền Việt Nam, những đồng tiền cổ xưa hay những tờ tiền giấy nhỏ ấy chứa
đựng trong nó những giá trị mỹ thuật cực kỳ phong phú và đa dạng.
8
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
*Hình thức tiền cổ Việt Nam: có những đặc điểm khá riêng biệt và
đặc sắc.
Mặt trước: Ngoại trừ tiền giấy phát hành dưới thời Hồ Quý Ly, tiền cổ
của Việt Nam đều được đúc bằng kim loại dạng hình tròn với lỗ vuông ở
chính giữa.
Mặt chính của đồng tiền cú các chữ Hán

mà ít nhất có hai chữ (vị trí 1
và 2) thường là niên hiệu

của nhà vua và hai chữ sau (vị trí 3 và 4) dùng để
chỉ loại tiền. Cũng có thể có loại tiền không có hai chữ này. Vị trí của bốn
chữ đôi khi viết theo chiều thuận của kim đồng hồ và đôi khi viết theo kiểu
chéo (Xem phần: "Tên gọi tiền cổ" bên dưới). Mặt trước của đồng tiền, viền
tròn của rìa tiền và viền vuông của lỗ tiền thường được viền nổi để giảm bớt
sự hao mòn của chữ đúc và việc mài dũa mặt tiền để lấy bớt chất đồng của

kẻ gian.
Mặt sau : Mặt sau của tiền thường không có chữ, tuy nhiên một số
nhỏ có chữ để chỉ một trong các ý nghĩa sau:
Kích thước và trọng lượng : Các đồng tiền cổ có đường kính trung
bình từ 22mm - 24mm, những đồng lớn có đường kính 25 - 26mm (như tiền
Thành Thỏi thụng bảo) và những đồng nhỏ 18 - 20mm (như đồng Bảo Ðại
thông bảo). Kích thước của lỗ vuông trung bình vào khoảng 5 mm, nhưng
cũng có những đồng tiền có lỗ vuông to đến 7 mm như trường hợp tiền ngoại
thương Trường Kỳ tiêu dùng ở Hội An vào thế kỷ 17. Chiều dày của tiền cổ
thường vào khoảng 0,5mm, ngoại lệ tiền Ðoan Khỏnh thụng bảo của Lê Uy
Mục dày đến 1 mm. Ðường kính và bề dầy là hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến trọng lượng của đồng tiền. Những đồng tiền có kích thước và trọng lượng
cân đối vừa đủ, không quá dầy nặng sẽ dễ dàng trong việc tiêu dùng. Tiền quá
nhẹ mỏng thì dễ gẫy vỡ. Với kích thước trung bình như trên, trọng lượng
khoảng 3,5 - 4 gram là vừa phải. Tiền Ðoan Khỏnh Thụng Bảo của Lê Uy
9
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
Mục được coi là ngoại cỡ so với các đồng tiền khác, vừa dầy vừa to, có đồng
nặng đến 6,2 gram.
Tên gọi tiền cổ: Hai chữ ở vị trí 1 và 2 trên đồng tiền thường là niên
hiệu của vị vua cho đúc tiền. Hai chữ này do đó thường phản ánh thời gian
tiền được đúc. Các chữ thứ 3 và thứ 4 trên đồng tiền có ý nghĩa, nguồn gốc
khác nhau, trong đó có những chữ noi theo cách gọi của tiền cổ do các triều
đại Trung Quốc phát hành; hoặc do hoàn cảnh, sự kiện lịch sử đương thời;
hoặc đơn giản chỉ là hàm ý nhấn mạnh giá trị đồng tiền:
• Thông bảo là chữ thường thấy nhất trờn cỏc đồng tiền, nghĩa là đồng
tiền lưu hành thông dụng. Hai chữ này xuất hiện đầu tiên trong tiền
Khai Nguyên Thông Bảo do Đường Cao Tổ của Trung Quốc đúc năm
621.

• Nguyên bảo: tiền mới đầu tiên
• Đại bảo: tiền có giá trị lớn
Ngoài những chữ trên hay được dựng, cũn cú những chữ khỏc đỳc trên
tiền cổ là:
• Vĩnh bảo: tiền lưu thông mãi mãi
• Chí bảo: tiền cao quý nhất. Đồng tiền đầu tiên dùng hai chữ "chí bảo"
là tiền Gia Định Chí Bảo của Tống Ninh Tông (1208 - 1224).
• Chính bảo: tiền chính thống. Đồng tiền đầu tiên dùng hai chữ "chính
bảo" là tiền Gia Định Chính Bảo của Tống Ninh Tông (1208 - 1224).
• Cự bảo: tiền có giá trị to
• Trọng Bảo: Đồng tiền trọng yếu. Đồng tiền đầu tiên dùng hai chữ
"trọng bảo" là tiền Càn Nguyên Trọng Bảo của Đường Túc Tông (758 -
759).
• Thuận Bảo: tiền của vua Lê Hiển Tông, kỷ niệm dịp chiếm đóng Thuận
Hóa và lấy súng đồng của chúa Nguyễn ở Thuận Hoá mà đúc thành
tiền
10
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
Đơn vị và mệnh giá: (Đơn vị đếm) Ðơn vị đếm cơ bản của tiền cổ
Việt Nam quan, tiền và đồng. Theo đó "đồng" là đơn vị đếm nhỏ nhất. Từ
thời Pháp thuộc

, ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện các đơn vị

đếm là hào, xu,
chinh và cắc. Tiền Việt Nam kể từ sau khi đất nước giành độc lập cú cỏc
đơn vị đếm là đồng, hào và xu. Một đồng bằng mười hào. Một hào bằng
mười xu. Hiện nay, tiền giấy và tiền kim loại chỉ được phát hành với một
đơn vị đếm duy nhất là đồng.

Chất liệu: Tiền cổ Việt Nam có nhiều loại:
• Tiền đúc bằng đồng: là kim loại thông dụng nhất dựng đỳc hầu hết tiền
cổ của Việt Nam. éõy là một hợp kim của đồng gồm thêm kền, sắt,
thiếc mà thành phần rất thay đổi bởi kỹ thuật luyện kim thời xa xưa
chưa được tiêu chuẩn hóa.
• Tiền đúc bằng kẽm: kẽm là kim loại thông dụng thứ nhì sau đồng được
dùng để đúc tiền, nhất là từ thế kỷ 17 trở về sau. Như hợp kim đúc tiền
đồng, người ta xử dụng những tạp chất có thành phần kẽm khá cao, gọi
chung là ụ diờn mà đúc tiền.
• Tiền đúc bằng chì: chì là kim loại mềm được pha thêm kim loại khác
để có một hợp kim đúc tiền chì. Loại tiền có lượng chì cao khá mềm,
đặt nhẹ giữa hai ngón tay, ấn nhẹ là đồng tiền có thể bị bẻ cong. Hiện
nay, hơn 400 mẫu tiền chì Việt Nam đã được nhận diện nhưng nguồn
gốc của thứ tiền này vẫn còn là một nghi vấn chưa được giải đáp thỏa
đáng.
• Tiền đúc bằng sắt: Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi Mạc Đăng Dung
lấy ngôi vua của nhà Hậu Lê, sử thần cho rằng nhà Mạc không được
lòng trời nên đúc tiền đồng không thành mà phải đúc tiền sắt để tiêu
dùng. éú là lần đầu tiên tiền sắt được nhắc đến. Tuy vậy, di chỉ khảo cổ
hiện đại cho thấy không có tiền sắt Minh Ðức Thông Bảo của nhà Mạc,
mà chỉ thấy tiền đồng. Và trong tiền cổ Việt Nam có một số mẫu tiền
11
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
đồng nhưng lại rỉ sét đỏ khá bất thường của sắt, nhất là tiền Hồng Ðức
Thông Bảo và Minh Ðức Thông Bảo. Các nhà nghiên cứu đặt giả thiết,
có thể vào lúc đó, hợp kim đồng có chứa nhiều sắt hơn lúc bình thường
được sử dụng, vì ngẫu nhiên hoặc vì cho dễ đúc, chứ không có loại tiền
sắt.
• Tiền đúc bằng vàng: Thường là tiền dùng để ban thưởng của vua

• Tiền đúc bằng bạc: Thường là tiền dùng để ban thưởng của vua
Một đồng tiền thưởng của vua Khải Định
• Tiền làm bằng giấy: của nhà Hồ phát hành. Vào tháng 4, năm Bính Tý,
niên hiệu Quang Thái thứ 9 (1396) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly lúc đó
đang giữ chức Nhập nội phụ chính, Thái sư, Bình chương quân quốc trọng sự,
Tuyên trung vệ quốc Đại vương, đã cho in và phát hành tiền giấy "Thông bảo
hội sao" để thay thế cho loại tiền đúc bằng đồng trước đó. Đây là đồng tiền
giấy đầu tiên trong lịch sử tiền tệ Việt Nam. Thể thức tờ tiền giấy đầu tiên
như sau: Tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền
vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền
giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu. Về sự kiện này, nhiều sử gia có
những đánh giá rất khác nhau. Có người cho rằng Hồ Quý Ly cần thu đồng để
đúc vũ khí. Cũng có người đánh giá cao cải cách tiền giấy của Hồ Quý Ly bởi
cùng với tiền giấy, Hồ Quý Ly cũn cú những cải cách khác rất tiến bộ và có
đóng góp rất lớn cho sự phát triển của xã hội bấy giờ. Mục đích phát hành tiền
giấy Thông bảo hội sao của Hồ Quý Ly còn phải nghiên cứu thêm, tuy nhiên,
12
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
rõ ràng đây là một bước tiến lớn trong hình thức hoạt động tiền tệ - tài chính
của đất nước từ hơn 600 năm trước rất đáng được tự hào. Các tài liệu lịch sử
đều chộp phộp chế tiền giấy Thông bảo hội sao quy định: Bên ngoài vẽ cái
khung vuông có hoa văn, số tiền viết ngang, bên tả viết số hiệu, bên hữu viết
chữ "khoa" (tức là bộ, như chữ Phỏp: sộrie). Bên ngoài nữa viết chữ triện gồm
những chữ "làm giả bị tội chém, ai tố cáo hay bắt được thì được thưởng".
Giấy làm tiền chế tạo từ vỏ cây dâu.
* Hình thức tiền giấy:
Đất nước ta trải qua mấy nghìn năm lịch sử, có rất nhiều hình thức tiền
giấy được lưu hành với nhiều kiểu dáng, hình dạng, màu sắc, chất liệu khác
nhau. Tùy thuộc vào từng giai đoạn mà tiền giấy có hình thức phù hợp.

1.4. Chức năng của đồng tiền:
Nếu một người có tiền thì có thể dùng tiền để làm những việc sau đây:
• Tiêu tiền (tiêu thụ, phương tiện thanh toán)
• Gửi tiền để lấy tiền lãi (đầu tư)
• Đổi lấy một loại tiền tệ khác (trao đổi)
• Trữ tiền (bảo toàn giá trị)
Tổng số tiền trong lưu hành phản ánh sự phân chia của sản phẩm quốc gia:
Lượng tiền mà một người sở hữu tương ứng với lượng sản phẩm quốc gia mà
người đó có thể có khi tiêu dùng lượng tiền sở hữu.
* Chức năng là phương tiện thanh toán: Trong một nền kinh tế
không có một chuẩn mực đo giá trị chung (thí dụ như là tiền) thì một giao
dịch thành công giữa 2 vật trong kinh tế đòi hỏi các nhu cầu trao đổi phải phù
hợp với nhau.
* Chức năng là phương tiện tính toán: Khi tiền là một chuẩn mực
chung để đo giá trị thì tất cả các giá cả của một nền kinh tế có thể được thể
13
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
hiện bằng đơn vị tiền tệ. Trong một nền kinh tế với 1 triệu loại hàng hóa khác
nhau khi so sánh giá trị trao đổi của mỗi hai loại hàng hóa một sẽ có vào
khoảng 500 tỉ giá tương đối khác nhau.
* Chức năng bảo toàn giá trị: Một phương tiện thanh toán phải giữ
được giá trị của nó. Vì thế mà hầu như chỉ là các loại hàng hóa không hư
hỏng mới được thỏa thuận là "tiền" (thí dụ như là vàng hay kim cương). Nếu
tiền không tồn tại thì một người nông dân chỉ có khả năng trao đổi ngũ cốc để
lấy các hàng hóa khác cho đến khi ngũ cốc này bị hư hỏng. Vì thế mà người
nông dân tốt nhất là nên trao đổi ngũ cốc sớm để đổi lấy tiền "không bị hư
hỏng". Điều này còn được gọi là chức năng bảo toàn giá trị hệ quả
(consecutiv). Chức năng bảo toàn giá trị tạo thành (constitutiv) là chức năng
tạo tài sản từ tiền bằng cách cất giữ, tức là giữ tiền duy nhất chỉ vì muốn bảo

toàn giá trị.
* Chức năng lưu giữ văn hoá, tái tạo lịch sử: mỗi một đồng tiền Việt
Nam đều ghi rõ những mốc lịch sử rất đáng chú ý trong lịch sử nước ta. Khi
nhìn vào hình ảnh, hoạ tiết trang trí trên đồng tiền ta biết được đồng tiền đó ra
đời trong hoàn cảnh nào, tại sao lại được trang trí như vậy, hay đú cũn được
coi là những bức tranh thu nhỏ giới thiệu cảnh đẹp của quê hương đất nước,
giới thiệu bản sắc văn hoá dân tộc, hay chân dung của các triều đại vua trong
lich sử và ngày nay hầu hết trờn cỏc tờ giấy bạc Việt Nam là hình ảnh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ cao nhất, sáng ngời nhất của dân tộc Việt
Nam.
14
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
CHƯƠNG 2: YẾU TỐ TRANG TRÍ TRấN ĐỒNG TIỀN
VIỆT NAM NGUYấN THUY
2.1. Khởi thuỷ của tiền
2.1.1. Xã hội thời nguyên thuỷ:
Cách ngày nay khoảng 30 – 40 vạn năm, trên đất nước Việt Nam đã có
Người tối cổ sinh sống. Trải qua hàng chục vạn năm, Người tối cổ đã tiến hoá
thành người hiện đại, đưa xã hội nguyên thuỷ ở Việt Nam chuyển dần qua các
giai đoạn hình thành, phát triển của công xã thị tộc và từng bước tạo tiền đề
cho sự tan rã của xã hội nguyên thuỷ. Trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm
Hai (Lạng Sơn), người ta đã tìm thấy một số chiếc răng Người tối cổ giống
với răng Người tối cổ Bắc Kinh, có niên đại cách đây khoảng 30 – 40 vạn
năm và nhiều xương cốt động vật thời cổ. Ở nhiều địa phương khác như núi
Đọ, Quõn Yờn, nỳi Nuụng (Thanh Hoá), Hàng Gòn, Dầu Giây (Đồng Nai),
An Lộc (Bình Phước) v.v… cũng tìm thấy nhiều công cụ đá được ghè đẽo rất
thô sơ. Người tối cổ sống thành từng bầy. Mỗi bầy có khoảng 20 – 30 người,
gồm 3 – 4 thế hệ. Họ săn bắt và hái lượm để sinh sống. Trong quá trình tiến
hoá, Người tối cổ đã chuyển biến thành Người tinh khôn. Họ sống thành các

thị tộc, bộ lạc, lấy săn bắt và hái lượm làm nguồn sống chính.
Công cụ của cư dân Sơn Vi đều làm bằng đá cuội, được ghè đẽo ở rìa
cạnh tạo thành lưỡi sắc. Do cỏch ghè đẽo còn thô sơ nên mặt vỏ cuội tự nhiên
còn giữ lại rất nhiều. Cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu cải tiến công cụ
sản xuất và phương thức kiếm sống ngày càng cao. Các dấu tích của văn hoá
Hoà Bình được phát hiện ở các tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá, Lai Châu, Sơn La,
Hà Giang, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị. Cư dân Hoà Bình
sống định cư lâu dài trong các hang động, mỏi đỏ gần nguồn nước hợp thành
các thị tộc và lấy săn bắn, hái lượm làm nguồn sống chính. Ngoài ra, họ còn
biết trồng các loại rau, củ, cây ăn quả. Một nền nông nghiệp sơ khai đã bắt đầu.
15
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
Cư dân Hoà Bỡnh cũn biết ghè đẽo nhiều hơn lên cả một bên mặt công cụ như
rìu ngắn, rìu bầu dục và bước đầu biết mài ở lưỡi rìu. Ngoài ra, có một số công
cụ được làm bằng xương, tre, gỗ. Và người nguyên thuỷ đã dần hình thành một
loại hình thức khá phát triển. Đó là biết dùng những vật dụng thường ngày để
trang trí làm đẹp cho bản thân và coi đó là những đồ vật có giá trị.
2.1.2. Hình ảnh hiện vật trao đổi thời nguyên thuỷ:
Hình 1: Các loại vòng tay, vòng tai bằng đá
giai đoạn văn hoỏ Phùng Nguyờn
(đồ đá mới) đến văn hoá Đông Sơn (cuối thời đại đồng thau)
2.1.3. Giá trị sử dụng để trao đổi.
Việt Nam là đất nước có cư dân sinh sông từ rất lâu đời. Cách đây 30 vạn
năm (thời đồ đá cũ ở di tích núi Đọ - Thanh Hoá) con người sống bằng hái lượm,
săn bắn, chưa có hình thức trao đổi. Đến thời đồ đá giữa, cách đây 1 vạn năm
(văn hoá Hoà Bỡnh) đó có dấu vết của sự thay đổi. Thời đại đồ đá mới cách đây
5000 năm (văn hoá Bắc Sơn) đến thời đồ đồng (văn hoỏ Phùng Nguyờn - cách
đây 4000 năm) thấy dấu vết của nền sản xuất nông nghiệp: trồng lúa nước, chăn
nuôi gia súc. Nhiều xưởng chế tạo đồ đá, gốm, đồ đồng còn di tích - Thuyền bè

vượt biển đã phổ biến. Sự giao lưu trao đổi cần có những hiện vật ngang giá
chung. Tuy nhiên chưa thấy xuất hiện tiền tệ. Các nhà nghiên cứu dự đoán,
những hiện vật có giá trị do khó kiếm hoặc mất nhiều công chế tác, tìm thấy ở
các di chỉ khảo cổ có thể là những vật ngang giá chung.
16
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
Vỏ ốc biển Cypraea, các loại vũng đỏ được dự đoán là những vật ngang
giá chung từ xưa nhất. Vỏ ốc được xâu thành chuỗi, có vân và màu sắc óng
ánh, sống ở biển sâu vùng nhiệt đới thấy nhiều ở các di tích từ thời đồ đá
giữa. Các loại vòng đá quý, kiểu dáng phong phú, chế tác công phu có nhiều
từ thời đồ đá mới đến tận thời đại đồ sắt sau này.
Ở thời đại đồng thau, các vật dụng bằng đồng có trình độ thẩm mỹ cao,
kỹ thuật luyện kim điêu luyện. Nhiều loại được dự đoán là những hiện vật
ngang giá chung như lưỡi xéo nhỏ, vòng, nhẫn, kể cả trống đồng nhỏ… Có ý
kiến cho là các sản phẩm nông nghiệp như gia súc, vải, muối… cũng cú lỳc,
cú nơi được trao đổi như vật ngang giá chung. Chúng là những mầm mống
của tiền tệ thời nguyên thuỷ - với sự phát triển của khoa học công nghệ, thời
gian tới các nhà nghiên cứu chắc sẽ xác định được các hình thức tiền tệ thời
đầu dựng nước của nước ta.
2.2. Tiền của các triều đại phong kiến Việt Nam.
2.2.1. Hoàn cảnh xã hội của triều đại phong kiến Việt Nam:
Năm 938, Việt Nam giành được độc lập. Năm 968, đặt tên nước là Đại
Cồ Việt, năm 1054 đổi tên thành Đại Việt. Đại Việt trải qua nhiều chế độ
phong kiến: nhà Lý (thế kỷ XI, XII), nhà Trần (thế kỷ XIII, XIV), nhà Hồ
(đầu thế kỷ XV), nhà Hậu Lê (thế kỷ 15, 16, 17, 18), nhà Tây Sơn (cuối thế
kỷ 18). Trong thời kỳ này các vương triều Trung Hoa mang quân sang xâm
lược, nhưng đều bị Việt Nam đẩy lùi: Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đẩy lui 2
lần quân nhà Tống (thế kỷ 10 và 11), nhà Trần đánh bại quân nhà Nguyên 3
lần (thế kỷ 13). Đầu thế kỷ 15 nhà Minh xâm chiếm được Việt Nam và cai trị

trong 20 năm, nhưng cũng bị Lê Lợi nổi lên đánh đuổi và thành lập nhà Hậu
Lê, cuối thế kỷ 18 nhà Thanh sang xâm lược cũng bị Nguyễn Huệ đánh bại.
Tuy nhiên, từ thế kỷ 18 trở đi phong kiến Việt Nam đã bắt đầu suy yếu.
Lịch sử Việt Nam, từ khi Đại Việt độc lập vào thế kỷ 10, mang dấu ấn
của hai khuynh hướng chính. Dấu ấn đầu là sự phát triển nhà nước Nho giáo
17
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
theo mô hình kiểu Trung Hoa. Sang đến thế kỷ 15 thì Đại Việt có một cơ cấu
chính quyền tương tự nước láng giềng Trung Hoa; cơ cấu luật pháp, hành
chính, văn chương và nghệ thuật đều theo kiểu Trung Hoa. Dấu ấn thứ hai là
sự bành trướng xuống phương Nam. Với một quân đội có tổ chức hơn, cuộc
Nam tiến nhằm tìm đất nông nghiệp để cung cấp lương thực cho sự gia tăng
dân số của Đại Việt. Giữa thế kỷ 11 và 17, Đại Việt chiếm hoàn toàn Vương
quốc Champa (ngày nay là miền Trung Việt Nam). Tiếp đó (thế kỷ 17, 18)
chiếm đồng bằng Nam Bộ của người Khmer và vào đầu thế kỷ 19 cạnh tranh
giành ảnh hưởng với Thái Lan ở Campuchia.
Việt Nam trong thời phong kiến phát triển vẫn dựa vào nông nghiệp mà
chủ yếu là trồng lúa nước để cung cấp lương thực.
2.2.2. Yếu tố trang trí được sử dụng trên đồng tiền:
Đồng tiền của triều đại phong kiến xưa nhất còn lại đến ngày nay là
đồng tiền mang niên hiệu Thái Bình Hưng Bảo - đồng tiền này được đúc từ
thời vua Đinh Tiên Hoàng (968 - 980), sau khi nhà vua thống nhất đất nước.
Đồng tiền hình tròn, lỗ vuông tượng trưng cho trời và đất theo quan niệm của
người phương Đông. Quan niệm trời đất vẫn được giữ gìn nhất quán trong
việc đúc tiền, qua hơn một chục triều đại vua tiếp theo - chất liệu bằng đồng,
sau đó hiếm nguyên liệu có khi được đúc bằng hợp kim đồng hoặc kẽm.
Ngoài tiền đồng và kẽm ra, nhiều triều đại cũn đỳc vàng, bạc thành thoi để
mua bán thay tiền; đỳc cỏc đồng tiền kích thước to để thưởng như các loại
huân chương. Thời Trần Thuận Tông (1390 - 1398), Hồ Quý Ly làm phụ

chính cho nhà vua, cho in tiền bằng giấy, gồm có 7 loại gọi là “thụng bảo hội
sao”. Đây là những đồng tiền giấy đầu tiên của nước ta và cũng là loại tiền
giấy xuất hiện sớm trên thế giới, cách đây gần 600 năm với kỹ thuật in thô sơ
chủ yếu là vẽ hình đơn giản như rong biển, con sóng, đám mây, con rùa,
Sau thời Hồ, suốt cả thời đại phong kiến, không có một triều vua nào cho in
và lưu hành tiền giấy nữa. Hầu hết các đồng tiền đều được đúc bằng đồng,
kẽm, thiếc nhưng thời Mạc Đăng Dung, cách đây trên 460 năm lại đúc tiền
18
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
“Đại Chính Thông Bảo” bằng sắt. Có lẽ đõy khụng là những đồng tiền sắt duy
nhất trong lịch sử Việt Nam mà còn của cả thế giới nữa.
Tiền cổ Việt Nam có nhiều loại không dùng để mua bán song lại được
lưu hành khá rộng rãi. Phổ biến hơn cả là tiền thưởng. Tiền thưởng là những
đồng tiền cỡ lớn, “mặt tiờ̀n” ghi niên hiệu nhà vua, “lưng tiờ̀n” ghi những câu
chúc tụng bốn mặt, tám chữ. Đúc hình rồng bay là tiền Phi Long, biểu tượng
giầu có, nhiều con trai, sống lâu là tiền Tam Đa, còn đúc hình năm con dơi là
tiền Ngũ Phúc Kỳ lạ hơn là những đồng tiền bùa, dân gian gọi là tiền cúng,
tiền này được các thầy bói, thầy cúng sử dụng lúc hành nghề. Nhiều đồng
mang những câu thần chú bí ẩn mà đến nay vẫn chưa ai hiểu được.
Độc đáo nhất trong số tiền cổ Việt Nam là
đồng tiền đúc nổi một đôi nam nữ giao hoan,
biểu hiện triết lý phương Đông coi việc trường
tồn dân tộc là thiêng liêng nhất. Triết lý này cũng
được thể hiện trờn nhiều cổ vật đặc biệt là trống
đồng. Đồng tiền đúc hình con ngựa phi với bốn
chữ “Đường trường thiên lý” chỉ dùng khi vua,
chúa ban cho con ngựa tốt cho một người nào
đó. Mỗi ông vua lên ngôi đều đổi niên hiệu và phát hành tiền để khẳng định sự
chính thống của mình.

* Tiền nhà Đinh và nhà Tiền Lê:
Việt Nam lần đầu tiên có vua xưng hoàng đế là Lý Nam Đế, đặt niên
hiệu Thiên Đức (544 - 548), nhưng thời đó Lý Nam Đế chưa đúc tiền. Tới khi
Đinh Bộ Lĩnh xưng hoàng đế năm 968 và đặt niên
hiệu Thái Bình từ năm 970, Việt Nam mới có đồng
tiền đúc đầu tiên mang niên hiệu của vị hoàng đế
nước mình. Khi lên làm vua, Đinh Tiên Hoàng đặt
niên hiệu là Thái Bình và cho đúc tiền Thái Bình
19
“ Thái Bình Hưng bảo”
Một loại tiền thưởng
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
hưng bảo bằng đồng. Đây là tiền duy nhất được phát hành trong thời nhà
Đinh, vì cho dù sau này có sự thay đổi ngôi vua trong họ Đinh nhưng không
có sự thay đổi niên hiệu. Hiện các nhà sử học và khảo
cổ học chưa được xác định chính xác thời điểm xuất
hiện tiền này. Khảo cổ học cho thấy Thái Bình hưng
bảo có ba loạt khác nhau. Cả ba loạt đều có lỗ hình
vuông ở giữa và có đường kính không đều nhưng bình
quân khoảng 22 mm. Cả ba loạt đều có mặt trước ghi
chữ Thái Bình hưng bảo bằng chữ Hỏn. Cú một loạt
thay vì chữ Thái lại là chữ Đại. Hiện chưa rõ: do lâu
ngày đồng tiền đó bị hỏng nên mất một chấm, hay đó
thực sự là chữ Đại nhưng được đọc là Thái. Về mặt sau, thường có chữ Đinh
(họ của vua) đúc nổi; nhưng có một loạt không có chữ gì
* Tiền nhà Lý :
Đây là tiền kim loại được giới nghiên cứu tiền cổ ở Việt Nam cho là
của Lý Thái Tổ vì ông vua này có một niên hiệu là Thuận Thiờn. Bờn Trung
Quốc có Sử Tư Minh khi

làm vua cũng có niên hiệu
Thuận Thiên, nhưng ông
này cho đúc tiền Thuận
Thiên nguyên bảo đương
bách. Sau này, Lê Thái Tổ
cũng lấy niên hiệu Thuận
Thiên, nhưng tiền đúc ra gọi
là Thuận Thiờn thụng bảo
hoặc Thuận Thiên nguyên
bảo. Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy tiền đã được sử dụng và phát hành
nhiều trong thời Lý Thái Tổ. Cả lương bổng lẫn tô thuế đều có thể trả bằng
20
“ Thiên Phúc trấn bảo”
thời Lê Đại Hành
1. “ Thiên Thành nguyên bảo” thời Lý Thái Tông
2. “Đại Định thông bảo” thời Lý Anh Tông.
3. “Trị Bình nguyên bảo” thời Lý Cao Tôn
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
tiền. Với đường kính chừng 20 mm với mặt trước có bốn chữ Thiờn Phự
nguyên bảo đọc theo vòng tròn, mặt sau để trơn, có lỗ, không có gờ. Kích
thước đồng tiền Thiờn Phự nguyên bảo nhỏ hơn so với các đồng tiền thời
trước là vì thời Lý Nhân Tông trị vì có nhiều chiến tranh, nên dành được ít
đồng hơn cho việc đúc tiền.
* Tiền nhà Trần:
Khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện ra tiền kim loại Nguyên Phong.
Nhưng bên Trung Quốc cũng có loại tiền này, nên hiện chưa kết luận được
thứ tìm thấy ở Việt Nam là
do nước nào đỳc. Nguyờn
Phong là niên hiệu thứ ba của

vua Trần Thái Tông. Vào hai
thời có niên hiệu trước, vua
cũng cho phát hành tiền,
nhưng sử liệu không nói và
khảo cổ học không cho biết đó là tiền tờn gì. . Tiền có lỗ ở giữa và có gờ và
mép không rõ. Mặt trước tiền ghi bốn chữ Thiệu Phong thông bảo. Mặt sau để
trơn. Tiền nhỏ, mỏng, đường kính 21 mm.Đại Trị thông bảo Cũng là tiền do
Trần Dụ Tông phát hành. Đại Việt sử ký toàn thư có cho biết rằng vào năm
1360 đã đúc tiền này. Khảo cổ học cho biết tiền này có kích thước lớn hơn
tiền Thiệu Phong một chút.
• Tiền nhà Hồ:
Năm 1394, 6 năm trước khi nhà Hồ thay thế nhà Trần làm vua Việt Nam,
tiền giấy mang tờn Thụng Bảo hội sao được phát hành. Lúc đó đang là niên
hiệu Quang Thái của vua Trần Thuận Tông, nhưng việc ban bố các chủ
trương chính sách quan trọng của đất nước lại do Hồ Quý Ly nắm. Chủ
trương phát hành tiền giấy này chính là của Hồ Quý Ly. Mục đích của ông là
dùng tiền giấy để thay thế tiền kim loại, qua đó thu hồi kim loại về kho triều
21
1. “Khai thái nguyên bảo” thời Trần Minh Tôn
2. “Đại Trị thông bảo” thời Trần Dụ Tôn
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
đình. Nhiều ý kiến thống nhất rằng, sự ra đời
tiền giấy Thông Bảo hội sao không phản ánh
trình độ phát triển của kinh tế tiền tệ ở Việt
Nam đương thời. Tiền kim loại đang lưu hành
phải được đem đến đổi lấy tiền giấy theo tỷ lệ
1:1,2. Tiền Thông Bảo hội sao có bảy mệnh giá
khác nhau, đó là: 10 đồng, 30 đồng, 1 tiền, 2
tiền, 3 tiền, 5 tiền, 1 quan. Không thấy Đại Việt

sử ký toàn thư ghi lại tỷ lệ giữa các đơn vị đồng,
tiền và quan của tiền Thông Bảo hội sao thế nào. Về hình thức, không rõ kích
thước, hình dáng, màu sắc ra sao. Đại Việt sử ký toàn thư chỉ ghi sơ lược rằng
tiền mệnh giá 10 đồng có vẽ hình rong, mệnh giá 30 đồng có vẽ hình sóng,
mệnh giá 1 tiền có vẽ mây, 2 tiền có vẽ rùa, 3 tiền có vẽ lân, 5 tiền có vẽ
phượng, và 1 quan có vẽ rồng. Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi lại rằng tiền
Thông Bảo hội sao không được nhân dân ưa dùng, chẳng qua vì luật quy định
mà phải sử dụng.
Thời nhà Hồ, tuy phát hành tiền giấy Thông bảo hội sao và đổi thu hồi
tiền kim loại về, song có thể Hồ Quý Ly cũng cho phát hành một lượng nhất
định tiền kim loại mang niên hiệu Thỏnh Nguyờn (1400 - 1401) của mình.
Khảo cổ học đã phát hiện được ở Việt Nam nhiều đồng tiền kim loại Thỏnh
Nguyờn thụng. Theo Đỗ Văn Ninh, trong các vua Trung Quốc và Việt Nam,
chỉ có Hồ Quý Ly có niên hiệu Thỏnh Nguyờn. Tiền kim loại Thỏnh Nguyờn
thụng bảo có hình tròn, lỗ vuông, kích thước nhỏ (đường kính từ 19 đến 20
mm), mỏng. Mặt trước có bốn chữ Thỏi Nguyờn thụng bảo đọc chéo từ trên
xuống và từ phải qua trái, gờ viền mép và lỗ rõ ràng. Nhưng mặt sau lại để
trơn và không có gờ và viền mép hay lỗ. Một trong các mục đích phát hành
tiền kim loại Thỏnh Nguyờn thụng bảo là để quảng bá niên hiệu Thỏnh
Nguyờn của vua mới.
22
“Thánh Nguyên thông bảo”
thời Hồ Quý Ly
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
* Tiền nhà Hậu Lê:
Sau khi đánh bại hoàn toàn quân Minh xâm lược, chẳng cần đợi nhà
Minh công nhận, ngày 15 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi xưng vua và lấy niên
hiệu là Thuận Thiên; một tháng sau thì cho đúc tiền kim loại Thuận Thiờn
thụng bảo bằng đồng mà không tiếp tục chính sách sử dụng tiền giấy của nhà

Hồ. Đó là theo Đại Việt sử ký toàn thư. Còn theo phát hiện của khảo cổ học,
thỡ tờn tiền kim loại đó có lẽ là Thuận Thiên nguyên bảo. Hiện các nhà
nghiên cứu còn chưa có kết luận được là sử chép sai "nguyên" thành "thông"
hay Lê Lợi cho đúc hai loại nhưng hiện mới chỉ phát hiện di chỉ loại Thuận
Thiên nguyên bảo.
Thuận Thiên nguyên bảo có kích thước to hơn, dày hơn và được đánh
giá là đẹp hơn các đồng tiền kim loại của các thời trước ở Việt Nam. Đường
kính tiền là 25 mm, dày dặn. Mặt trước đúc nổi bốn
chữ Hán là Thuận Thiên nguyên bảo với nét viết chân
phương. Mặt sau không có chữ hay hỡnh gỡ, viền
mép và gờ viền lỗ rõ ràng và đều đặn. Thuận Thiờn
thụng bảo có ba đơn vị đếm là đồng, tiền và quan. Đại
Việt sử ký toàn thư cho biết 1 tiền bằng 50 đồng.
Là tiền do Lê Thánh Tông cho đúc. Di chỉ tiền này
được phát hiện khá nhiều. Quang Thuận thông bảo
được Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại
chí khen là đẹp vào loại nhất trong các tiền kim loại Việt Nam mà ông biết.
Không rõ tiền được bắt đầu phát hành từ năm nào, song niên hiệu Quang
Thuận của Lờ Thỏnh Tụng bắt đầu từ năm 1460, kết thúc vào năm 1469.
* Tiền nhà Mạc:
23
“Thuận Thiên nguyên
bảo” thời Lê Thái Tổ
“ Minh Đức thông bảo” thời Mạc Đăng Dung.
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
Đây là các tiền kim loại do Mạc Thái Tổ phát hành. Đại Việt sử ký toàn
thư có nhắc đến việc này. Minh Đức thông bảo có hai loạt. Loạt thứ nhất bằng
đồng được bắt đầu đúc từ năm 1528. Mặt trước có bốn chữ Minh Đức thông
bảo đúc nổi đọc chéo. Mặt sau có hai chữ Vạn Tuệ đúc nổi. Loạt này có kích

thước lớn, đường kính từ 23 đến 24,5 mm, dày dặn. Loạt thứ hai đúc bằng
kẽm. Kích thước vẫn như loạt trước. Mặt sau không còn chữ vạn tuế mà thay
vào đó là một vành khuyết nổi ở bên phải và một chấm tròn ở bên trái. Minh
Đức nguyên bảo làm bằng sắt. Sách sử Việt Nam không nhắc đến tiền này,
nhưng Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Mạc Đăng Dung có cho pha kẽm vào
khi đúc tiền rồi sau lại cho đúc tiền bằng sắt.
* Tiền nhà Nguyễn - Tây Sơn:
Tiền do vua Thái Đức Nguyễn Nhạc phát hành và lưu thông trong cỏc
vựng lãnh thổ do nhà Tây Sơn kiểm soát. Tiền này được đúc từ đồng. Tiền
không dày, nhưng đúc cẩn thận, chữ và dấu hiệu dễ đọc. Đường kính tiền tùy
loại từ 22,5 mm đến 24 mm. Mặt trước có bốn chữ Thái Đức thông bảo đọc
chéo. Mặt sau thì mỗi loạt một khác, thường thỡ cú cỏc ký hiệu như chấm nổi
tròn, hình mặt trăng lưỡi liềm. Có một loạt ở mặt sau có hai chữ Vạn Thọ.
Khi Quang Trung lên ngôi, Việt Nam cơ bản đã được thống nhất, vì thế
tiền do Quang Trung phát hành sẽ được lưu thông gần như khắp cả nước. Và
trong thực tế, khảo cổ học tìm thấy rất nhiều tiền Quang Trung khắp nơi, đặc
biệt nhiều từ đèo Hải Vân ra Bắc. Quang Trung đã cho phát hành hai loại tiền
mang niên hiệu của ông, đó là Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại
bảo. Quang Trung thông bảo được đúc nhiều đợt và kỹ thuật của thời đú đó
24
Nghiên cứu các yếu tố trang trí trên đồng tiền Việt Nam Trần Văn Phương
K55A SPMT
khiến cho mỗi đợt đúc tiền lại có một chút khác nhau. Tiền này được đúc từ
đồng, có kích thước từ 23 đến 26 mm. Mặt trước tiền có bốn chữ Quang
Trung thông bảo đọc chộo. Cú một loạt chữ bảo lại viết theo lối giản thể. Mặt
sau thì có thể để trống hoặc có một trong các chữ nhất, nhị, cụng, chớnh, sơn
nam hoặc các ký hiệu như dấu chấm, trăng lưỡi liềm, v.v Viền gờ mép và lỗ
rõ ràng. Có một số di vật tiền Quang Trung thông bảo được phát hiện mà ở đó
người ta thấy mặt sau của tiền cũng giống mặt trước. Đỗ Văn Ninh cho rằng
đó là do thợ đúc tiền ráp nhầm hai mặt của khuôn đúc. Quang Trung đại bảo

có chữ bảo viết theo lối giản thể. Mặt sau để trống.
Cảnh Thịnh thông bảo có loại nhỏ và loại lớn. Đây là tiền mang niên
hiệu đầu tiên của Nguyễn Quang Toản, vị vua cuối cùng của nhà Tây Sơn. Về
kiểu dáng và thiết kế thì Cảnh Thịnh
thông bảo loại nhỏ không khác gì tiền
Quang Trung thông bảo, nhưng chất
lượng đúc có phần tốt hơn. Cảnh Thịnh
thông bảo cũng có loạt mặt sau giống
mặt trước như một loạt của Quang
Trung thông bảo. Ngoài ra lại còn có
một loạt tiền mà một mặt là Cảnh
Thịnh thông bảo và một mặt là Quang
Trung thông bảo. Cảnh Thịnh thông bảo loại lớn được đúc cẩn thận, thiết kế
cầu kỳ, đường kính tới 48 mm, dày tới 5 mm. Viền gờ mép ở hai mặt là một
vành văn triện hình chữ T, viền gờ lỗ ở hai mặt là hai hình vuông lồng vào
nhau. Mặt trước tiền có bốn chữ Cảnh Thịnh thông bảo đọc chéo. Mặt sau có
hình rồng, mây ở phía trên lỗ, lại có hình cá chép và hình sóng nước ở phía
dưới lỗ. Đỗ Văn Ninh cho rằng tiền này hoa văn giống với tiền Cảnh Hưng
nên có thể là theo mẫu tiền Cảnh Hưng mà làm.
25
Tiền kỷ niệm:“ Cảnh Thịnh thông bảo”
thời Nguyễn Quang Toản

×