MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I: TỔNG QUAN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG
1.1Cơ sở lí luận chung Error: Reference source not found
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế Error: Reference source not found
1.1.2. Bất bình đẳng xã hội Error: Reference source not found
1.2. Các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội 6
1.2.1. Các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế 6
1.2.2. Các tiêu chí đo lường công bằng xã hội. Error: Reference source not
found
II: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG
Ở VIỆT NAM
2.1Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở việt nam 11
2.1.1.Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam những năm gần đâyError:
Reference source not found1
2.1. 2. Tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế 22
2.2 . Thực trạng bất bình đẳng ở Việt Nam những năm gần đây 24
III: MỘT SỐ HẠN CHẾ BẤT BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
3.1.Các hạn chế của bất bình đẳng đến tăng trưởng kinh tế 26
3.1.1. Hạn chế 26
3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế 28
3.2. Các biện pháp khắc phục 29
KẾT LUẬN
LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện công cuộc đổi mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, trong những
năm qua, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu trong cải cách và phát triển KT-
XH như bình quân thu nhập đầu người tăng, cơ sở hạ tầng được xây dựng hiện đại
hóa, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Việc chuyển hướng từ nền kinh
tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã dần dần tạo ra
những bước phát triển, những cơ hội mới để Việt Nam nhanh chóng hội nhập khu
vực và thế giới, trở thành một nước công nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường còn có những mặt hạn
chế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội không đồng đều tới các nhóm, các
vùng dân cư. Vì vậy một bộ phận dân cư do các nguyên nhân khác nhau chưa bắt kịp
với sự thay đổi, gặp những khó khăn trong đời sống sản xuất,dẫn đến tình trạng bất
bình đẳng ở Việt Nam.
Xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và khăng định
bất bình đẳng ảnh hưởng mạnh mẽ tới ổn đinh chính trị, kinh tế, xã hội, môi
trường…Đảng và nhà nước ta coi việc giảm bất bình đẳng đưa tới công bằng xã hội
là một chủ trương lớn, là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội.
Vì vậy, trong đề tài môn học kinh tế Việt Nam, chúng em xin được đề cập đến
vấn đề “Tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở Việt Nam”.
2
I: TỔNG QUAN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG
1.1.Cơ sở lí luận chung
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập ( hay sản lượng) được tính cho toàn
bộ nền kinh tế trong một thời kì nhất định (thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế
có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối ( tỷ lệ tăng
trưởng) – là tỉ lệ phần trăm của sản lượng tăng thêm trong thời kì nghiên cứu so với
mức sản lượng của thời kì trước đó hoặc thời kì gốc.
Tăng trưởng kinh tế còn được xem xét dưới góc độ chất lượng. Chất lượng tăng
trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền
kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong thời gian dài;
- Thứ hai, phát triển có hiệu quả, thể hiện qua năng suất lao động,năng suất tài
sản cao và ổn định, hệ số, hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và đóng góp của
nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) cao;
- Thứ ba, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng nâng cao hiệu quả, phù hợp
với thực tiễn của nền kinh tế trong mỗi thời kì;
- Thứ tư, nền kinh tế có tính cạnh tranh cao;
- Thứ năm, tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo hài hòa đời sống xã hội;
- Thứ sáu, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;
*Đo lường tăng trưởng kinh tế:
3
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ
tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai
đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so
sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô
kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%)
Trong đó :Y là qui mô của nền kinh tế
y là tốc độ tăng trưởng.
Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ
tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng
GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông
thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
● Các nhân tố của tăng trưởng kinh tế
Các nhân tố kinh tế tác động đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế bao
gồm:vốn,lao động,tiến bộ công nghệ và tài nguyên. Bốn nhân tố này khác nhau ở
mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương
ứng.
Vốn: là yếu tố đầu vào quan trọng,có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh
tế.Vốn sản xuất có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế được hiểu là vốn vật
chất,đó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích lũy lại của nền kinh tế,bao gồm:nhà
máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được sử dụng như những
4
yếu tố đầu vào trong sản xuất. Để có được vốn, phải thực hiện đầu tư nghĩa là hy
sinh tiêu dùng cho tương lai. Điều này đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài
hạn, những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tính trên GDP cao thường có được sự tăng
trưởng cao và bền vững.
•Lao động: Là yếu tố đầu vào không thể thiếu của sản xuất. Trước đây người ta
chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất giống như vốn.Những mô hình tăng trưởng
kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động là
vốn con người,đó là lao động có kĩ năng sản xuất,lao động có thể vận hành máy móc
thiết bị phức tạp,lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh
tế… Thực tế nghiên cứu các nền kinh tế bị tàn phá sau Chiến tranh thế giới lần thứ
II cho thấy mặc dù hầu hết tư bản bị phá hủy nhưng những nước có nguồn nhân lực
chất lượng cao vẫn có thể phục hồi và phát triển kinh tế một cách ngoạn mục. Một ví
dụ là nước Đức, "một lượng lớn tư bản của nước Đức bị tàn phá trong Đại chiến thế
giới lần thứ hai, tuy nhiên vốn nhân lực của lực lượng lao động nước Đức vẫn tồn
tại. Với những kỹ năng này, nước Đức đã phục hồi nhanh chóng sau năm 1945. Nếu
không có số vốn nhân lực này thì sẽ không bao giờ có sự thần kỳ của nước Đức thời
hậu chiến."
[1]
•Tiến bộ công nghệ: Là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng ở
các nền kinh tế ngày nay.Yếu tố công nghệ được hiểu theo hai dạng: Thứ nhất là
thành tựu kiến thức; Thứ hai là sựu áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử
nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất.
•Tài nguyên: Là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, những tài nguyên
quan trọng nhất là đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước.Việc
sử dụng tài nguyên là vấn đề có tính chiến lược,lựa chọn công nghệ để có thể sử
dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên của quốc gia là vấn đề sống còn của sự phát
triển.
5
Bên cạnh các nhân tố kinh tế là các nhân tố phi kinh tế tức là các nhân tố chính
trị, xã hội, thể chế. Các nhân tố này có tác động gián tiếp và rất khó lượng hóa cụ thể
mức độ tác động của chúng đến tăng trưởng kinh tế. Có thể kể ra một số nhân tố phi
kinh tế tác động đến tăng trưởng như: các yếu tố văn hóa- xã hội, thể chế và sự tham
gia của cộng đồng.
1.1.2.Bất bình đẳng xã hội
Bất bình đẳng xã hội là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích
đối với những cá nhân khác nhau trong nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội.
Cơ sở tạo nên bất bình đẳng xã hội: Do sự khác nhau về những cơ hội trong
cuộc sống; Do sự khác nhau về địa vị xã hội; Do sự khác nhau về ảnh hưởng chính
trị
Phân tầng xã hội là vấn đề thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà nghiên cứu
và hoạch định chính sách. Để trả lời câu hỏi về mức độ bất bình đẳng ở Việt Nam,
trước hết chúng ta cần có hướng tiếp cận nhằm đo lường bất bình đẳng. Một cách
khái quát, có 2 phương pháp đo lường về bất bình đẳng: Thứ nhất, đo lường bất bình
đẳng nói chung thông qua hệ số Gini – được sử dụng rộng rãi trong nhiều nghiên
cứu; Thứ hai, đo bất bình đẳng về cơ hội thông qua khoảng cách chênh lệch về đầu
ra giữa các nhóm xã hội. Trong hai phương pháp này, bất bình đẳng cơ hội mô tả rõ
nét về sự bất bình đẳng xã hội hơn và chỉ ra “cái bẫy bất bình đẳng” tồn tại dai dẳng
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Theo cách tiếp cận thứ nhất, hệ số Gini của Việt Nam vào thời điểm năm 1998
là 0,35 và năm 2004 là 0,423 , trong khi đối với hầu hết các nước đang phát triển, hệ
số Gini chi tiêu hoặc thu nhập nằm trong khoảng từ 0,3 đến 0,6. Như vậy theo cách
tiếp cận này, trong sự so sánh với các nước có điều kiện tương tự trong khu vực và
trên thế giới, bất bình đẳng ở Việt Nam ở mức vừa phải. Như vậy, cách tiếp cận này
cho chúng ta một cái nhìn khá lạc quan về mức độ bình đẳng ở Việt Nam.
6
Tuy nhiên, dưới góc độ bất bình đẳng cơ hội, chúng ta lại có một cái nhìn khác
về khoảng cách giàu nghèo của Việt Nam. Căn cứ vào các chỉ số về bất bình đẳng cơ
hội (giữa nhóm giàu và nhóm nghèo, giữa nông thôn và đô thị, giữa nam và nữ)
trong những lĩnh vực (như thu nhập, tỉ lệ đói nghèo, chi tiêu công cộng cho y tế, tỉ lệ
tử vong ở trẻ sơ sinh) đều cho thấy có sự chênh lệch giữa các nhóm xã hội khác
nhau. Đặc biệt, khoảng cách giàu nghèo ngày càng mở rộng: chênh lệch về tỉ lệ
nghèo giữa nông thôn và đô thị ngày càng doãng ra từ 2,65 lần (1993) lên 4,95 lần
(1998), 5,4 lần (2002) và lên đến 6,94 lần (2004). Đặt trong sự so sánh với các nước
trong khu vực và trên thế giới, bất bình đẳng về cơ hội của Việt Nam không ở mức
vừa phải, mà thuộc loại cao hơn. Sự khác biệt này được thể hiện rõ trong sự so sánh
giữa nông thôn – đô thị, giữa nhóm người Kinh/Hoa và các dân tộc thiểu số. Trong
đó, khoảng cách chênh lệch tuyệt đối về mức sống giữa người dân tộc thiểu số với
người Kinh/Hoa ngày càng mở rộng hơn so với khoảng cách chênh lệch tuyệt đối về
mức sống giữa nông thôn và đô thị.
Như vậy, ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra xu hướng dịch chuyển từ sự bất bình
đẳng giữa nông thôn và đô thị (1993-1998) sang sự bất bình đẳng giữa người dân tộc
thiểu số và người Kinh/Hoa (2004). Tức là vấn đề nghèo đói ở Việt Nam trong
tương lai gần là vấn đề nghèo đói ở nông thôn miền núi và là nghèo đói của người
dân tộc thiểu số. Có thể thấy, hai cách tiếp cận đã cho chúng ta hai bức tranh tương
phản về bất bình đẳng tại Việt Nam. Nên chăng chúng ta nên có cái nhìn mới về bất
bình đẳng? Vì khi bất bình đẳng tăng lên, nó sẽ làm cho sự gắn kết xã hội yếu đi và
chứa đựng những yếu tố “tiềm ẩn” của xung đột xã hội. Các chính sách cần hướng
tới phát triển các vùng nông thôn và vùng dân tộc thiểu số để giữ sự chện lệch giữa
các nhóm xã hội ở mức độ có thể chấp nhận được.
1.2. Các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1.2.1 Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế:
7
Để đánh giá mức độ tăng trưởng kinh tế chúng ta thường sử dụng một số chỉ tiêu,
bao gồm:
• Tổng sản phẩm quốc nội (GDP):
Tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross
Domestic Product) là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất
định (thường là một năm).
Trong định nghĩa về GDP chúng ta cần phân biệt 2 định nghĩa là GDP danh nghĩa và
GDP thực tế.
GDP danh nghĩa là tổng sản phẩm nội địa theo giá trị sản lượng hàng hoá và dịch
vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành. Sản phẩm sản xuất ra trong thời kỳ nào thì lấy
giá của thời kỳ đó. Do vậy còn gọi là GDP theo giá hiện hành
GDP
i
n
=∑Q
i
t
P
i
t
Sự gia tăng của GDP danh nghĩa hàng năm có thể do lạm phát.
Trong đó:
i: loại sản phẩm thứ i với i =1,2,3 ,n
t: thời kỳ tính toán
Q: số lượng sản phẩm ; Qi: số lượng sản phẩm loại i
P: giá của từng mặt hàng; Pi: giá của mặt hàng thứ i.
GDP thực tế là tổng sản phẩm nội địa tính theo sản lượng hàng hoá và dịch vụ cuối
cùng của năm nghiên cứu còn giá cả tính theo năm gốc do đó còn gọi là GDP theo
giá so sánh.
GDP thực tế được đưa ra nhằm điều chỉnh lại của những sai lệch như sự mất giá của
đồng tiền trong việc tính toán GDP danh nghĩa để có thể ước lượng chuẩn hơn số
8
lượng thực sự của hàng hóa và dịch vụ tạo thành GDP. GDP thứ nhất đôi khi được
gọi là "GDP tiền tệ" trong khi GDP thứ hai được gọi là GDP "giá cố định" hay GDP
"điều chỉnh lạm phát" hoặc "GDP theo giá năm gốc" (Năm gốc được chọn theo luật
định).
Sau khi đã loại trừ ảnh hưởng của biến đổi giá các nhà kinh tế tính tốc độ trưởng của
nền kinh tế, đó là tỷ lệ phần trăm thay đổi của GDP thực tế từ thời kỳ/năm này so
với thời kỳ/năm trước.
g
t
=
Trong đó: A là GDP thực tế năm t
B là GDP thực tế năm t-1.
• Tổng sản phẩm quốc dân(GNP):
GNP (viết tắt cho Gross National Product bằng tiếng Anh) tức Tổng sản lượng
quốc gia hay Tổng sản phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển
kinh tế của một đất nước nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối
cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một khoảng thời gian nào
đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra ở đâu (trong hay ngoài
nước).
Đây là một chỉ tiêu khác để đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế, cách tính toán về tốc
độ tăng trưởng hằng năm có công thức giống với GDP.
• Sản phẩm quốc dân ròng(NNP):
NNP là từ viết tắt trong tiếng Anh của Net National Product tức Tổng sản phẩm
ròng quốc gia, là tổng giá trị thị trường của tất cả sản phẩm cuối cùng và các dịch
vụ được sản xuất hay cung ứng bởi công dân của một quốc gia (GNP) trong một
9
khoảng thời gian nào đó trừ đi khấu hao. Khấu hao được đo bằng giá trị của một
phần GNP mà cần phải chi tiêu vào các sản phẩm vốn nhằm duy trì luồng vốn hiện
tại.
Công thức: NNP = GNP - Khấu hao.
• Thu nhập quốc dân(NI):
Thu nhập quốc dân(National Income) bằng NNP trừ thuế gián thu ròng. Đó là:
NI = NNP – Te.
1.2.2 Các chỉ tiêu đo lường công bằng xã hội:
Để đánh giá mức độ bất bình đẳng trong tăng trưởng kinh tế chúng ta thường sử
dụng một số chỉ tiêu, bao gồm:
• Khoảng cách giàu nghèo:
Hệ số chênh lệch thu nhập bình quân đầu người của nhóm 20% cao nhất so với
nhóm 20% thấp nhất. Hệ càng cao thì càng thể hiện rõ sự phân hóa giàu nghèo càng
sâu sắc.
• Hệ số Gini:
- Hệ số Gini thường được sử dụng để biểu thị mức độ bất bình đẳng trong phân
phối thu nhập giữa các tầng lớp cư dân. Số 0 tượng trưng cho sự bình đẳng thu
nhập tuyệt đối (mọi người đều có cùng một mức thu nhập), số 1 tượng trưng
cho sự bất bình đẳng thu nhập tuyệt đối (một người có toàn bộ thu nhập, trong
khi tất cả mọi người khác không có thu nhập).
- Hệ số Gini cũng được dùng để biểu thị mức độ chênh lệch về giàu nghèo. Khi
sử dụng hệ số Gini trong trường hợp này, điều kiện yêu cầu phải thỏa mãn
không tồn tại cá nhân nào có thu nhập ròng âm. Hệ số Gini còn được sử dụng
10
để đo lường sự sai biệt của hệ thống xếp loại trong lĩnh vực quản lý rủi ro tín
dụng.
- Tuy hệ số Gini đã lượng hóa được mức độ bất bình đẳng về sự phân phối thu
nhập, nhưng các nhà kinh tế nhận thấy, hệ số Gini mới chỉ phản ánh được mặt
tổng quát nhất của sự phân phối thu nhập, trong một số trường hợp, chưa đánh
giá được các vấn đề cụ thể.
Cách tính:
Gọi diện tích giữa đường bình đẳng tuyệt đối và đường Lorenz là A, phần diện tích
bên dưới đường cong Lorenz là B, hệ số Gini là G.
Ta có:
G = A/(A+B)
Vì A+B = 0,5 (do đường bình đẳng tuyệt đối hợp với trục hoành một góc 45°), nên
hệ số Gini: G = A/(0,5) = 2A = 1-2B.
Nếu đường cong Lorenz được biểu diễn bằng hàm số Y=L(X), khi đó giá trị của B là
hàm tích phân:
Trong một số trường hợp, đẳng thức này có thể dùng để tính toán hệ số Gini trực
tiếp không cần đến đường cong Lorenz.
Vídụ:
- Gọi dân số là y
i
, với i = 1 đến n và y thỏa thứ tự không giảm
11
- Với hàm xác suất rời rạc f(y), i = 1 đến n, là các điểm có xác suất khác 0 và được
sắp theo thứ tự tăng dần , khi đó:
II: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG Ở
VIỆT NAM
2.1.Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam:
2.1.2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam những năm gần đây
Tại Hội thảo “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2001 - 2010 và định hướng
tới năm 2020” diễn ra 24/2/2011 tại Hà Nội, theo đánh giá, vấn đề chuyển dịch cơ
cấu kinh tế cho tới chưa đạt, khối dịch vụ mới chỉ chiếm 40% GDP so với kì vọng
42% được Quốc hội đề ra; GDP bình quân đầu người tuy có sự tiến bộ, nhưng so với
các nước cùng trình độ phát triển thì không đạt chỉ tiêu;
Đóng góp của TFP (năng suất các yếu tố tổng hợp) vào tăng trưởng vẫn còn thấp,
trong khi vẫn cần rất nhiều vốn.
a.Tỷ lệ đầu tư vẫn cao nhưng tăng trưởng kinh tế đã suy giảm
12
Tỷ lệ đầu tư vẫn cao và chất lượng tăng trưởng chưa được cải thiện. Cũng theo
Tổng cục Thống kê, tổng số vốn đầu tư toàn xã hội quý 1/2011 vào khoảng 171.5
nghìn tỷ đồng, tăng 14.7% so cùng kỳ và bằng 38.8% của GDP.
Trong đó, khu vực nhà nước đầu tư 76.4 nghìn tỷ đồng, chiếm 44.5% và tăng
15.2%; khu vực ngoài nhà nước 45.6 nghìn tỷ đồng và chiếm 26.6%, tăng 28.5%;
khu vực vốn đầu tư nước ngoài 49.5 nhìn tỷ đồng chiếm 28.9% và tăng 3.8% so với
cùng kỳ.
Số liệu trên cho thấy đầu tư của khu vực nhà nước vẫn chiếm một tỷ lệ rất cao
trong nền kinh tế. Trong khi đó, hiệu quả đầu tư vẫn ở mức rất thấp thể hiện qua hệ
số ICOR quý 1 đang ở mức 7.15 lần, cao hơn con số 6.2 lần của cả năm 2010.
13
Hệ số ICOR kém hiệu quả so với nhiều nước; hiệu quả kinh tế và năng suất lao động
cũng rất thấp; năng lực cạnh tranh còn nhiều yếu kém Tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam phần lớn phụ thuộc vào tăng vốn đầu tư và tăng số lượng lao động. Chất
lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn thấp và chưa đạt được độ bền vững.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm,
tính hiệu quả của kinh tế thấp, đồng thời, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.
- Chất lượng tăng trưởng thấp còn thể hiện qua chỉ số ICOR cao cơ cấu trong nền kinh
tế thiếu tính bền vững. Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao so với
các nước trong khu vực. ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền
kinh tế càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát,
khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Chất lượng tăng trưởng thấp đang đe dọa đến tính
ổn định và sự bền vững phát triển kinh tế trong tương lai.
[
b,Lạm phát gia tăng gây áp lực cho bất ổn trong nền kinh tế
14
- Tăng trưởng GDP hàng năm chỉ đạt trung bình khoảng 7% nhưng tăng trưởng
tín dụng luôn duy trì quanh mức 30%, tăng trưởng cung tiền cũng ở mức tương ứng.
Do vậy, lạm phát do cung tiền như là một hệ quả tất yếu của việc mất cân đối giữa
tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng sản phẩm, dịch vụ sản xuất ra.
- Lạm phát tăng cao nhất thuộc về nhóm giao thông với mức tăng 6.69% do
chịu tác động mạnh của đợt điều chỉnh giá xăng dầu.Tiếp ngay sau mức tăng mạnh
trên thì CPI nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng thêm tới 3.67% do chịu ảnh
hưởng của tăng giá chất đốt, thép xây dựng, xi măng và nhiều loại vật liệu xây dựng
khác.Ngoài ra, CPI của hầu hết các nhóm hàng hóa khác cũng tăng khá mạnh do
việc chịu tác động của việc điều chỉnh tỷ giá, giá xăng và giá điện đã làm cho nhiều
mặt hàng bị kìm nén giá trước đó đồng loạt bung ra. Ngoài ra, cũng không ít mặt
hàng tăng giá do ”tát nước theo mưa”.
- Ngoài các nguyên nhân có tính ngắn hạn và có phần khách quan kể trên thì nguyên
nhân cơ bản làm cho lạm phát tăng mạnh vẫn do các yếu kém trong nội tại nền kinh
tế. Có thể dẫn chứng các yếu tố như hiệu quả đầu tư thấp khi hệ số ICOR liên tục ở
15
mức 6-8 lần trong mấy năm gần đây, và tăng trưởng tín dụng và cung tiền lại quá
cao.
c. Áp lực tỷ giá vẫn lớn dù Việt Nam dù dòng ngoại tệ vào vẫn dương
NHNN buộc phải giảm giá tiền đồng. Kể từ năm 2008 đến nay, tỷ giá luôn là một
vấn đề nóng của nền kinh tế. Chỉ trong vòng chưa đến 2 năm tiền đồng đã mất giá
hơn 20% so với đồng USD. Còn nếu tính từ ngày 18/8/2010 đến nay, Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) đã phải 2 lần điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng với tổng cộng tăng
11.58%.
Đặc biệt đợt điều chỉnh ngày 11/02/2011, tỷ giá liên ngân hàng tăng từ 18,932 lên
20,693 VND/USD, tăng 9.3%, đây là mức điều chỉnh 1 lần cao nhất kể từ năm 1994
đến nay. Cùng với quyết định này, NHNN quyết định giảm biên độ giao động từ +/-
3% xuống còn +/-1%, cho nên thực chất tỷ giá niêm yết chỉ tăng thêm 7.2%.
Một số nguyên nhân sâu xa của việc đồng nội tệ suy giảm. Tỷ giá trên thị trường
phản ánh cung cầu ngoại tệ và sức mua của đồng tiền trong một nền kinh tế. Do vậy,
những yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ như thâm hụt cán cân thanh toán, lòng
16
tin đồng nội tệ suy giảm, tình trạng đô la hóa tăng mạnh hoặc lạm phát quá cao đều
ảnh hưởng đến tỷ giá.
Tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn: Bản chất một nền kinh tế nhập siêu khiến cho
cán cân tài khoản vãng lai (current account) của Việt Nam liên tục bị thâm hụt
khoảng 10 - 12% GDP trong những năm gần đây.
Khoản thâm hụt này được bù đắp bởi cán cân tài khoản vốn gồm vốn đầu tư trực tiếp
(FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FPI), vốn vay (ODA, vay thương mại của Chính phủ và
doanh nghiệp), các dòng kiều hối.
Những con số thống kê chính thức đều cho thấy dòng vốn ròng vào Việt Nam đang
thặng dư, tức là dòng ngoại tệ vào vẫn lớn hơn dòng ngoại tệ ra. Tuy nhiên, có một
thực tế thì đồng tiền lại liên tục mất giá, dự trữ ngoại hối của NHNN suy giảm.
Cụ thể, theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì dự trữ ngoại hối của Việt
Nam vào cuối năm 2008 là 24.2 tỷ USD. Cuối tháng 2/ 2011, theo số liệu của Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ còn khoảng 10
tỷ USD.
Theo ước tính của IMF, cán cân tổng thể năm 2009 của Việt Nam thâm hụt 8.2 tỷ
USD và năm 2010 là 3 tỷ USD.
Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là khoản mục Sai số bỏ sót trong bảng Cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam năm 2009 và 2010 đều lên đến 13.5 tỷ USD. Điều này
cho thấy một lượng ngoại tệ rất lớn trong nền kinh tế không thể thống kê được.
Lòng tin vào đồng nội tệ suy giảm và tình trạng đô la hóa nền kinh tế gia tăng:
Đây là nguyên nhân giải thích phần nào cho hiện tượng nghịch lý nói trên. Việc tiền
đồng liên tục bị mất giá đã kích hoạt nhu cầu nắm giữ USD của người dân và doanh
nghiệp. Việc người dân tăng cường nắm giữ USD khiến cho tình trạng đô la hóa nền
kinh tế gia tăng và cầu USD tăng, dẫn tới tiền đồng luôn chịu áp lực bị mất giá. Tình
17
trạng đô la hóa còn được thể hiện qua việc rất nhiều giao dịch trong nền kinh tế được
sử dụng bằng ngoại tệ này.
Tuy nhiên, cần lưu ý đây chỉ là hệ quả của những bất ổn vĩ mô khác trong nền kinh
tế; nhưng sau đó trở lại làm trầm trọng thêm các bất ổn vĩ mô.
Lạm phát cao gây sức ép lên tỷ giá hối đoái thực: Một trong những nguyên nhân
quan trọng làm mất giá của tiền đồng là do lạm phát ở Việt Nam luôn cao vượt trội
so với các nền kinh tế khác. Do vậy, theo nguyên lý sức mua tương đương thì đồng
nội tệ sẽ phải mất giá một tỷ lệ tương ứng với chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và
các quốc gia khác.
Năm 2010, VND mất giá hơn 10% so với đồng USD, con số này cũng tương ứng với
khoảng cách lạm phát của Việt Nam và Hoa Kỳ khoảng 10%.
d. Giảm tăng trưởng tín dụng để kiềm chế lạm phát
Tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức rất cao: Năm 2009, tín dụng tăng mạnh cùng với
gói hỗ trợ 4% lãi suất và chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN. Kết thúc năm 2009,
tín dụng trong nền kinh tế tăng tới 37% và đã gây áp lực mạnh lên lạm phát trong
rotng năm 2010. Tín dụng năm 2010 tăng 29.89%, trong đó tín dụng bằng ngoại tệ
tăng 37.7%, còn bằng nội tệ chỉ tăng 25.3%. Tăng cung tiền M2 lên tới 25.5%, vượt
mục tiêu đặt ra đầu năm. Điều này càng thể hiện tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
đang phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư.
18
Thăt chặt chính sách tiền tệ là cần thiết để kiềm chế lạm phát. Bước sang năm
2011 lãi suất tiếp tục lên ở mức rất cao, lãi suất cho vay tiêu dùng đã lên tới 25-30%,
còn lãi suất cho vay sản xuất cũng quanh mức 20%.
Mặc dù lãi suất cao như vậy nhưng dưới sức ép của lạm phát cao NHNN vẫn buộc
phải tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ. NHNN đã hạ mục tiêu tăng trưởng tín dụng
từ mức 23% xuống còn dưới 20%, tăng trưởng cung tiền cũng được điều chỉnh giảm
15-16%.
Để thực hiện mục tiêu trên ngày 08/03/2011, NHNH ban hành quyết định tăng lãi
suất tái chiết khấu, tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm lên 12%. Mức lãi suất tái
chiết khấu chỉ còn kém 1% so với mức đỉnh 13% của thời kỳ ”siêu lạm phát” năm
2009.
Bất chấp lãi suất cao và căng thẳng trên thị trường tiền tệ NHNN đang cân nhắc
quyết định tăng dự trữ bắt buộc. Hiện tại tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng nội tệ chỉ
là 1 và 3%, với mức kỳ hạn là trên và dưới 12 tháng, đây là mức rất thấp so với
khoảng thời gian trước đó. Đối với ngoại tệ, ngày 09/03/2011, NHNN vừa quyết
19
định nâng dự trữ bắt kỳ hạn dưới 12 tháng từ 4% lên 6% và kỳ hạn trên 12 tháng từ
2% lên 4%.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là với quy định Thông tư 13, các tổ chức tín dụng chỉ
được sử dụng không quá 80% số vốn huy động thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc thực tế cao
hơn rất nhiều so với con số chính thức trên.
Do vậy, nếu NHNN tiếp tục tăng dự trữ bắt buộc mà vẫn giữ nguyên quy định tại
Thông tư 13 thì hệ thống ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Nhận định: các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN là một bước đi đúng hướng
trong việc kiềm chế lạm phát. Trước mắt toàn bộ nền kinh tế sẽ phải chịu tác động
rất mạnh bởi lãi suất tăng cao và tín dụng khan hiếm. Tăng trưởng kinh tế có thể
chậm lại.
e. Thương mại phục hồi mạnh mẽ nhưng cơ cấu xuất khẩu chưa được cải thiện
20
Trước đó, năm 2008 thâm hụt thương mại lên tới đỉnh điểm 18 tỷ USD, bằng gần
20% GDP. Trong năm 2009 và năm 2010, thâm hụt thương mại giảm xuống còn
12.84 tỷ USD và 12.4 tỷ USD.
Tình trạng thâm hụt thương mại của Việt Nam đã kéo dài trong nhiều năm và vẫn
chưa có dấu hiệu được cải thiện. Năm 2011, Chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát
thương mại dưới 16% kim ngạch xuất khẩu, tương đương khoảng 13.5-14 tỷ USD.
Đây là con số rất cao so với rất nhiều quốc gia khác.
Nguyên nhân sâu xa của tình trạng nhập siêu của Việt Nam là do chúng ta phát triển
dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư nước ngoài (chênh lệch giữa tiết kiệm trong
nước và đầu tư quá lớn (thường trên 10% GDP)). Ngoài ra, mặt hàng xuất khẩu chủ
yếu là nguyên liệu thô, có giá trị gia tăng thấp, còn các mặt hàng chế biến chỉ chiếm
một tỷ lệ nhỏ. Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn các máy móc thiết bị và nguyên
vật liệu phục vụ sản xuất, gia công.
f. Dòng vốn đầu tư vào Việt Nam đang chậm lại
21
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tính từ đầu năm đến ngày 22/3/2011 đạt 2.37
tỷ USD, giảm 33.1% so với cùng kỳ năm 2010. Trong khi đó, vốn thực hiện ước tính
đạt 2.54 tỷ USD, tăng 1.6% so với cùng kỳ năm 2010.
Như vậy, vốn đăng ký giảm mạnh tuy không hẵn là một tín hiệu tiêu cực nhưng là
một hồi chuông cảnh tỉnh đối với những người quá kỳ vọng vào dòng vốn đầu tư
nước ngoài.
Trong suốt những năm vừa qua vốn đăng ký vào Việt Nam khá lớn. Tuy nhiên, con
số thực tế giải ngân quanh mức 10 đến 12 tỷ USD và tốc độ tăng đang chững lại.
Gần đây, một số dự án có mức đầu tư hàng tỷ USD bị rút chứng nhận đầu tư do chủ
đầu tư thiếu năng lực tài chính. Bên cạnh đó, có nhiều cảnh báo của các nhà kinh tế
về việc các nhà đầu tư nước ngoài đang chuyển công nghệ lạc hậu, ô nhiễm và tốn
năng lượng vào Việt Nam hay tình trạng chiếm đất và ”kinh doanh dự án” của một
số nhà đầu tư nước ngoài.
Do vậy, đã đến lúc cần quan tâm đến chất lượng hơn là số lượng vốn đầu tư nước
ngoài.
Nhận định: Dòng vốn đầu tư nước ngoài đang chững lại. Nguyên nhân ngoài những
bất ổn vĩ mô trong nước thì sâu xa hơi khả năng hấp thụ vốn của Việt Nam chưa
thực sự tốt.
2.1.2. Tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế
• Tăng trưởng gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu nhóm ngành kinh tế
Có thể thấy rõ, tỷ trọng nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản trong
GDP Việt Nam giảm dần theo thời gian, từ 40,49% xuống 22,1% trong thời kì 1991-
2008, trong khi công nghiệp và xây dựng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong
nền kinh tế, từ 23,7% tăng lên 39,7%trong cùng thời kì. Khu vực dịch vụ vẫn chiếm
22
tỉ trọng lớn nhất trong ba khối ngành nhưng lại có xu thế đi xướng, chi ở mức 38,1%
trong hai năm trở lại đây.
Cơ cấu thành phần kinh tế
Cơ cấu thành phần kinh tế cũng có sự chuyển biến khá rõ rệt, thể hiện sự lớn
mạnh và tham gia ngày càng sâu rộng của khu vực ngoài quốc doanh,đặc biệt là khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài,vào các hoạt động kinh tế. Theo xu hướng này,tỉ trọng
của khu vực quốc doanh trong một số lĩnh vực kinh tế giảm dần, còn tỉ trọng của khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên tương ứng, đánh dấu những bước chuyển cơ
bản trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thi trường ở nước ta.
• Tăng trưởng kinh tế gắn với xóa đói giảm nghèo
Tỉ lệ người nghèo chung đã giảm xuống 9,45% năm 2010 từ mức 22% từ năm
2005 có nghĩa là Việt Nam đã hoàn thành sớm kế hoạch toàn cầu “giảm một nửa tỉ lệ
nghèo vào năm 2015” mà Liên hợp quốc đề ra. Tuy nhiên, năm 2010 Bộ LĐ –
TBXH đề xuất ra chuẩn nghèo mới là thu nhập bình quân của người dân khu vực
nông thông là dưới 400.000 đồng/người/tháng và khu vực thành thị là 500.000
đồng/người/tháng, vì vậy năm 2011, tỉ lệ hộ nghèo lại là 12%, dự tính năm 2012, tỉ
lệ hộ nghèo là 10%. Tuy các chuẩn nghèo khác nhau sẽ đưa ra những tỷ lệ khác nhau
về nghèo đói, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, tình trạng đói nghèo của nước ta
cũng vẫn duy tri được chiều hướng ngày một giảm xuống. Đây là một thành tựu
được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là so với một số nước trong khu vực và
trên thế giới.
Bên cạnh đó, thành công của Việt Nam xét về mức giảm nghèo tương ứng với
mỗi phần trăm tăng trưởng kinh tế cũng đáng được ghi nhận. Trong giai đoạn 1993-
1998, 1% tăng trưởng trong GDP/ người tương ứng với 1,3% giảm nghèo, trong khi
đó ở giai đoạn 1998- 2002 là 1,2%. Cả 2 tỷ lệ này cao hơn so với mức trung bình
quan sát được giữa các nước. Lợi ích tăng trưởng kinh tế được phân phối rộng khắp.
23
Ở khu vực thành thị, tỷ lệ nghèo giảm từ 25% dán số đo thị năm 1993 xuống một
mức tương đói thấp so với nhiều nước khác trong năm 2006. Đồng thời, tỷ lệ này ở
nông thôn cũng giảm nhah chóng: năm 1993 khoảng 2/3 dân số nông thôn được coi
là nghèo, nay con số này giảm xuống còn 1%.
• Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ về y tế và phát triển con người.
Năm 2006 cả nước có khoảng 93 nghìn lớp mẫu giáo với 112,8 nghìn giáo
viên, có 299 trường ĐH&CĐ với 53,4 nghìn giảng viên, 1666,2 nghìn sinh viên, có
269 trường trung cấp với 14,5 nghìn giáo viên, 468,8 nghìn học sinh, số sinh viên tốt
nghiệp ĐH&CĐ là 230 nghìn người, tốt nghiệp các trường trung cấp là 149,3 nghìn
người.
Tổng số người đi học lên tới 23,2 triệu người, bình quân 1 vạndân có 2841
người đi học, tỷ lệ trẻ em đi học mẫu giáo khoảng 50%, tỷ lệ người biết chữ tăng từ
88% năm 1993 lên 90,3% năm 2003 và 94% năm 2006. Bên cạnh hệ công lập hệ
ngoài cũng có những bước phát triển mạnh để khai thác nguồn lực xã hội, chia sẻ với
nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Chi ngân sách nhà nước cho
giáo dục đạt khoảng 18,25% tổng chi ngấn sách giai đoạn 2001- 2006. Tỷ lệ chi phí
cho giáo dục/GDP là 8,3% nhưng do tổng GDP của nước ta rất thấp nên chi phí cho
một học sinh ở Việt Nam vẫn thấp xa so với các nước. Tuy nhiên xét về mặt nào đó
thì đó là một cố gắng lớn của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp phát triển
GD&ĐT.
2. Thực trạng bất bình đẳng ở Việt Nam những năm gần đây.
Kể từ cú sốc tăng giá năm 2008 và liên tục cho đến nay, người nghèo dường
như nhanh chóng nghèo hơn so với chính mình vài năm về trước, và khoảng cách về
chi tiêu, chất lượng cuộc sống so với những nhóm người thu nhập cao ngày càng lớn
hơn.
24
Qua số liệu từ khảo sát mức sống hộ dân cư năm 2010 của Tổng cục Thống kê,
tình trạng phân hóa giàu nghèo thể hiện qua hệ số Gini ở Việt Nam ở mức trung bình
so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên mức độ đó đã tăng dần theo các năm (hệ
số Gini hiện là 0,46, còn hồi năm 1996 là 0,37).
Đáng lưu ý là hệ số Ghini của Việt Nam chưa tính tới bất bình đẳng bắt nguồn
từ chênh lệch về tài sản và thu nhập, từ thừa kế, đầu cơ đất đai, chứng khoán, tham
nhũng… “Do vậy trên thực tế tình trạng bất bình đẳng của Việt Nam có thể cao hơn
mức phản ánh của hệ số Ghini” - GS.TS Kenichi Ohno, Giám đốc Diễn đàn VDF
bình luận.
Tình trạng bất bình đẳng cũng thường được xem xét thông qua các khảo sát về
mức thu nhập và chi tiêu hộ gia đình qua từng thời kỳ, theo năm nhóm thu nhập.
Nếu năm 2002, hệ số cách biệt thu nhập một nhân khẩu/tháng giữa nhóm 1 (nhóm
20% thu nhập thấp nhất) so với nhóm 5 (nhóm 20% thu nhập cao nhất) là 8,1 lần, và
không thay đổi bao nhiêu đến năm 2006 (8,3) thì năm 2010 tỷ lệ này đã tăng lên 9,2.
25