Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác xóa đói giảm nghèo tại huyện Than Uyên - Lai Châu.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.4 KB, 68 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan ban chuyên đề tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
thực sự của cá nhân, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu
khỏa sát tình hình thực tiễn tại địa phương dưới sự hướng dẫn khoa học của cô
PGS.TS Vũ Hoàng Ngân.
Các số liệu và những kết quả trong chuyên đề là trung thực, các giải pháp
đưa ra suất phát từ thực tiễn và kinh nghiệm, chưa từng được công bố dưới bất cứ
hình thức nào.
Một lần nữa tôi xin khẳng định về sự trung thực của lời cam kết trên.
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2011
Sinh viên thực hiện
Hoàng Văn Hợp
SVTH: Hoàng Văn Hợp Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Hoàng Ngân đã tận tình hướng dẫn và
quý thầy cô trong khoa Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực đã truyền dạy những
kiến thức quý báu trong chương trình học Đại học và giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ bảo
tận tình cho chuyên đề được hoàn thành thuận lợi.
Cảm ơn Th.S Nguyễn Chung Thủy - Trưởng phòng NN&PTNT huyện Than
Uyên và các phòng ban trong huyện đã cung cấp thông tin, số liệu, nhiệt tình trao
đổi, góp ý kiến để tôi hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
SVTH: Hoàng Văn Hợp Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Biểu 1.1. Phân bố hộ đói nghèo theo vùng năm 2005 (theo chuẩn mới cho giai đoạn
2006-2010)
Biểu 2.1. Tổng hợp diện tích tự nhiên toàn huyện
Biểu 2.2. Tổng hợp lao động của huyện Than Uyên


Biểu 2.3. Danh sách tổng hợp hộ nghèo, cận nghèo huyện Than Uyên năm 2010
Biểu 2.4. Nguyên nhân đói nghèo huyện Than Uyên
Biểu 2.5. Tổng hợp kế hoạch xóa đói giảm nghèo qua các năm 2009 - 2010 - 2011
huyện Than Uyên
Biểu 2.6. Đánh giá kết quả thực hiện các chỉ tiêu của Chương trình 135 giai đoạn II
Biểu 3.1. Kế hoạch giảm nghèo huyện Than Uyên năm 2012
SVTH: Hoàng Văn Hợp Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
BẢNG LIỆT KÊ CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Giải nghĩa
XĐGN - Xoá đói giảm nghèo
KHCN - Khoa học công nghệ
UBND - Ủy ban nhân dân
HĐND - Hội đồng nhân dân
QĐ-TTg - Quyết định của Thủ tướng Chính Phủ
GDP - Tổng sản phẩm quốc nội
ASXH - An sinh xã hội
LĐ - TB&XH - Lao động thương binh & xã hội
CNH - HĐH - Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
BHYT - Bảo hiểm y tế
KHHGĐ - Kế hoạch hoá gia đình
NQ-CP - Nghị quyết – Chính Phủ
GDTHCS Giáo dục Trung học cơ sở
SVTH: Hoàng Văn Hợp Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Đói nghèo là một trong những vấn đề nan giải mà mọi quốc gia trên thế giới đều
gặp phải, ngay cả những nước phát triển cao vẫn còn một bộ phận dân cư sống ở mức
nghèo khổ đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam đều phải
quan tâm và tìm cách giải quyết. Việc tấn công vào nghèo đói là một nhiệm vụ không

kém phần quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Công tác
xóa đói giảm nghèo là một vấn đề xã hội ngày càng được Đảng Nhà nước đặc biệt
quan tâm và cụ thể hóa bằng các chương trình, chính sách giúp đỡ cụ thể như: Chương
trình 134, 135, 167, 159, Đặc biệt là Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008
của chính phủ về hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững tại các huyện nghèo nhằm tạo
bước chuyển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân những huyện
nghèo, thu hẹp dần mức sống giữa các vùng, miền và tiếp tục thực hiện công tác xóa
đói giảm nghèo bền vững.
Lai Châu là một tỉnh biên giới nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc với diện tích tự
nhiên 9.059,4km
2
, tổng dân số 370 135 người với hơn 20 dân tộc anh em cùng chung
sống. Lai Châu là một trong những tỉnh nghèo của cả nước, tỷ lệ đói nghèo cao 52%,
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, trình độ dân trí thấp, tốc độ tăng dân số cao, điều kiện
cở sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng còn thấp. Vì vậy, Tỉnh ủy, HĐND và UBND
tỉnh cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề xóa đói giảm nghèo. Tỉnh Lai Châu có 5/7
huyện nghèo, trong đó Than Uyên cũng là một trong 62 huyện nghèo của cả nước.
Than Uyên là huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh Lai Châu, với diện tích tự nhiên
là 79.687,6 ha, dân số có 56.537 người (mật độ dân số 57 người/km
2
) trong đó dân tộc
thiểu số chiếm 87% dân số. Gồm 10 dân tộc, trong đó dân tộc Thái chiếm 63%;
H'Mông 16%; Kinh 13%; Khơ Mú 3%; Dao 2,5%, còn lại là các dân tộc khác. Kinh tế
có xuất phát điểm thấp, chậm phát triển, tỷ lệ đói nghèo cao, điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt, trình độ dân trí thấp, việc chăm sóc sức khỏe nhân dân còn kém, điều kiện cơ sở
vật chất còn thiếu và yếu kém. Những yếu kém đó đã làm cho nền kinh tế của huyện
chậm phát triển, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chủ yếu là tự cung tự cấp. Khoảng cách
chênh lệch về mức sống giữa thị trấn và các xã, giữa các dân tộc trong huyện ngày
càng tăng. Do vậy, xóa đói giảm nghèo được coi là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong
công cuộc phát triển kinh tế xã hội của huyện là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của

SVTH: Hoàng Văn Hợp 1 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
các cấp ủy, chính quyền cấp xã, huyện. Phấn đấu sớm đưa huyện Than Uyên ra khỏi
tình trạng kém phát triển.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo huyện
Than Uyên còn gặp phải những khó khăn cần tháo gỡ như: Hiệu quả của các dự án
không cao, tỷ lệ hộ đói nghèo còn lớn, tỷ lệ tái nghèo cao, tỷ lệ lao động chưa qua đào
tạo còn lớn chiếm hơn 93% tổng số lao động của huyện. Do vậy, việc xóa đói giảm
nghèo nhanh nhưng đảm bảo bền vững đang được đặt ra và còn nhiều việc phải làm.
Là người dân tộc thiểu số, được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Than Uyên, với kiến
thức đã được nhà trường trang bị cùng với thực tiễn công tác tại phòng Nông nghiệp &
PTNT huyện Than Uyên. Em mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện công tác xóa đói giảm nghèo tại huyện Than Uyên - Lai Châu" làm chuyên đề
thực tập tốt nghiệp của mình.
Chắc chắn chuyên đề thực tập của em sẽ còn những khiếm khuyết cần bổ
xung, chỉnh lý. Em kính mong được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo và
đồng nghiệp cũng như các cấp ủy chính quyền địa phương huyện Than Uyên để
chuyên đề của em được hoàn chỉnh, đưa vào áp dụng tại huyện Than Uyên, góp phần
cùng cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân các dân tộc trong huyện làm tốt
công tác xóa đói giảm nghèo. Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 2 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Đói nghèo và xóa đói giảm nghèo
Đói nghèo được hiểu là sự thiệt hại những điều kiện tối thiểu để đảm bảo mức
sống tối thiểu của một cá nhân hay một cộng đồng dân cư. Đói nghèo có hai khái niệm
cơ bản:
* Nghèo tuyệt đối: là tình trạng thiếu hụt những điều kiện tối thiểu để duy trì

cuộc sống, tiếp cận những nhu cầu, các vấn đề về dinh dưỡng, giáo dục và các dịch vụ
y tế, việc xác định một đối tượng là nghèo hay không, phải dựa trên chuẩn nghèo của
quốc gia và của thế giới.
* Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư, một cá nhân có thu nhập
thấp hơn mức thu nhập, mức sống trung bình của xã hội, do đó họ thiếu cơ hội để tạo
thu nhập, thiếu tài sản để tiêu dùng và dễ bị tổn thương khi gặp rủi ro.
1.1.1. Những quan niệm chung về xóa đói, giảm nghèo
* Quan niệm về nghèo đói: Mỗi quốc gia, từng vùng, từng nhóm dân cư nhìn
chung không có sự khác biệt đáng kể, tiêu chí để xác định đều dựa trên khả năng thu
nhập hoặc mức chi tiêu để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người về ăn, mặc,
ở, đi lại, chăm sóc sức khỏe, học hành giao tiếp xã hội. Sự khác biệt rõ nhất là mức độ
thỏa mãn những nhu cầu đó cao hay thấp, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã
hội cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Ở nước ta quan niệm về đói nghèo thường trực diện hơn, đơn giản hơn như:
nghèo đói không đủ ăn, thiếu ăn, nhà cửa dột nát, thường xuyên ốm đau nhưng không
có tiền chữa bệnh, con cái không được đến trường.
Nhìn chung có 3 đặc trưng cơ bản của đói nghèo là:
- Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho
con người.
- Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cồng đồng dân cư.
- Thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 3 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
Biểu hiện và đặc điểm của người nghèo:
- Thiếu cơ hội và khả năng lựa chọn cơ hội, ẩn mình trong giao tiếp, ngại tiếp
xúc ở chỗ đông người, tự ti trong quan hệ.
- Không giám đưa ra ý kiến đóng góp vì thấy ý kiến của mình có vẻ như thiếu
trọng lượng, không được người khác coi trọng.
Khái niệm xóa đói - giảm nghèo: Xóa đói giảm nghèo là tổng thể các biện
pháp, chính sách của nhà nước và xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc diện

nghèo đói, nhằm tạo điều kiện để họ có thể tăng thu nhập, thoát khỏi tình trạng thu
nhập thấp, không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn nghèo được
quy định theo từng địa phương, khu vực và quốc gia.
1.1.2. Khái niệm về đói nghèo ở Việt Nam
Ở nước ta, căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của nhân dân
trong những năm qua thì đói nghèo được xác định như sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thỏa mãn những
nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống
của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Nghèo còn được hiểu là một bộ phận dân cư
có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc
đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển
kinh tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
- Khái niệm về hộ đói: Hộ đói là một bộ phân dân cư có mức sống dưới mức tối
thiểu, không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống hay nói cách khác đó
là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa, thường xuyên phải vay nợ và thiếu
khả năng trả nợ.
- Khái niệm về hộ nghèo: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ
thỏa mãn một phần nhu cầu tối thiểu và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình
của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Ngoài ra còn có khái niệm xã nghèo và vùng nghèo.
Xã nghèo là xã có những đặc trưng sau:
- Tỷ lệ hộ nghèo cao hơn 60% số hộ của xã
SVTH: Hoàng Văn Hợp 4 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
- Không có hoặc thiếu những công trình cơ sở hạ tầng như: điện sinh hoạt,
đường giao thông, trường học, trạm y tế và nước sinh hoạt.
- Đội ngũ cán bộ cấp xã còn thiếu và yếu về chuyên môn.
- Trình độ dân trí thấp; tỷ lệ mù chữ cao.
* Vùng nghèo là chỉ một địa bàn tương đối rộng có thể là một số xã liền kề nhau
hoặc một vùng dân cư nằm ở một vị trí rất khó khăn hiểm trở, giao thông không thuận

tiện, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, không có điều kiện phát triển sản xuất đảm bảo cuộc
sống và là vùng có số hộ nghèo và xã nghèo cao.
1.2. Chuẩn mực về đói nghèo ở Việt Nam và trên thế giới
Ngưỡng nghèo hay mức nghèo là mức chi dùng tối thiểu, được xác định như
tổng số tiền chi cho giỏ hàng tiêu dùng trong thời hạn nhất định, bao gồm một lượng
tối thiểu lương thực thực phẩm và đồ dùng cá nhân, cần thiết để bảo đảm cuộc sống và
sức khỏe một người ở tuổi trưởng thành, và các khoản chi bắt buộc khác.
Người ở ngưỡng nghèo là người có tổng thu nhập tương đương với tổng chi
dùng tối thiểu đó.
1.2.1. Chuẩn mực đói nghèo ở một số nước trên thế giới
Nhiều nước trên thế giới ấn định ngưỡng nghèo thành một điều luật. Ở các nước
phát triển ngưỡng nghèo cao hơn đáng kể so với các nước đang phát triển. Hầu như
mọi xã hội đều có công dân đang sống nghèo khổ.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), từ những năm 80 cho đến nay chuẩn mực để
xác định danh giới giữa người giàu với người nghèo ở các nước đang phát triển và các
nước thuộc khu vực ASEAN được xác định bằng mức chi phí lương thực thực phẩm
cần thiết để duy trì cuộc sống với mức tiều dùng nhiệt lượng từ 2100 - 2300
calo/ngày/người hoặc mức thu nhập bình quân tính ra tiền là 370USD/người/năm.
- Ấn Độ: lấy chuẩn nghèo là 2250 calo/người/ngày.
- Băng la đét: lấy tiêu chuẩn là 2100 calo/người/ngày.
- In đô nê xi a: vào đầu những năm 80 lấy mức tiêu dùng nhiệt lượng là 2100
calo/người/ngày làm mức chuẩn để xác định danh giới giữa giàu với nghèo.
- Ở Trung Quốc: năm 1990 lấy mức tiêu dùng là 2150 calo/người/ngày.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 5 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
- Các nước công nghiệp phát triển Châu Âu: 2570 calo/người/ngày.
1.2.2. Chuẩn mực về đói nghèo ở Việt Nam
Ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế đều có chuẩn
mực đói nghèo riêng, để xác định mức đói nghèo cho phù hợp với thu nhập bình quân
của dân chúng. Chuẩn mực đói nghèo là khái niệm động, nó biến đổi theo không gian

và thời gian, nó biến đổi theo trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng hay từng
quốc gia, ở Việt Nam chuẩn nghèo biến động theo 3 vùng địa lý khác nhau đó là vùng
thành thị, vùng đồng bằng và vùng miền núi. Về thời gian, chuẩn nghèo cũng có sự
biến động lớn và nó biến đổi theo trình tự phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu của con
người theo từng giai đoạn lịch sử. Để xác định chuẩn mực đói nghèo người ta thường
dùng chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người, hoặc mức chi phí lương thực thực phẩm
thiết yếu để duy trì cuộc sống.
Tại Việt Nam ngưỡng nghèo được đánh giá thông qua chuẩn nghèo, dựa trên
các tính toán của các cơ quan chức năng như Tổng cục Thống kê hay Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội.
Chuẩn nghèo theo Tổng cục Thống Kê được xác định dựa trên cách tiếp cận của
Ngân hàng Thế giới (WB), gồm 2 mức:
*Nghèo lương thực thực phẩm: tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần lương
thực thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối thiểu cho một người là
2100kcal/ngày đêm;
* Nghèo chung: tổng chi dùng cho cả giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu, được xác
định bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành cho lương thực thực phẩm, 30%
cho các khoản còn lại.
Theo cách xách định trên, năm 1998 chuẩn nghèo lương thực thực phẩm của
Việt Nam bằng 107.234 VNĐ/tháng; chuẩn nghèo chung bằng 149.156VNĐ/ tháng.
Năm 2006 các mức chuẩn nghèo này đã được xác định lại. Để đánh giá chính xác
ngưỡng nghèo cho các thời điểm, các mức chuẩn cần điều chỉnh lại theo chỉ số giá
tiêu dùng.
- Chuẩn nghèo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được xác định một
cách tương đối bằng cách làm tròn số và áp dụng cho từng khu vực và vùng miền khác
nhau (nông thôn miền núi, hải đảo, nông thôn đồng bằng, thành thị)
SVTH: Hoàng Văn Hợp 6 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ lệ nghèo của xã hội: ngưỡng nghèo là công cụ để đo tỷ lệ nghèo trong xã hội
- một chỉ số quan trọng phản ánh mức sống của xã hội về mặt thu nhập cá nhân. Tỷ lệ

nghèo là tỷ lệ số hộ có thu nhập dưới hoặc bằng chuẩn nghèo đối với toàn bộ số hộ
trong quốc gia. Các cải cách kinh tế - xã hội như phúc lợi xã hội và bảo hiểm thất
nghiệp được tiến hành dựa trên những phản ánh của các chỉ số như ngưỡng nghèo và tỷ
lệ nghèo.
Các yếu tố của ngưỡng nghèo: Việc xác định ngưỡng nghèo thường được
thực hiện bằng cách tìm ra tổng chi phí cho tất cả các sản phẩm thiết yếu mà một
người lớn tiêu thụ trong một năm. Phương pháp tiếp cận này dựa trên cơ sở rằng cần
một mức chi tiêu tối thiểu để đảm bảo duy trì cuộc sống. Đây đã là cơ sở ngưỡng
nghèo ở Hoa Kỳ, mức chuẩn này đã được nâng lên theo lạm phát. Trong các nước
đang phát triển, loại chi dùng đắt nhất trong các khoản là trả cho thuê nhà (giá thuê
căn hộ). Do đó, các nhà kinh tế đặc biệt chú ý đến thị trường bất động sản và giá
thuê nhà vì ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng đến ngưỡng nghèo. Các yếu tố cá nhân
thường được nghiên cứu như vị trí trong gia đình: người đó có phải là bố mẹ, người
già, trẻ con, kết hôn hay không, v.v.
Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong thời gian từ năm
1993 đến năm 2005.
Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng
9 năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai
đoạn 2001 - 2005, thì những hộ có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn
miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống
là hộ nghèo, ở khu vực nông thôn bằng những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ
100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu
vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng
(1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là thuộc hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8 tháng
7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 thì ở
nông thôn những hộ có thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng (2.400.000
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập
bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.180.000 đồng/người/năm) trở xuống là
hộ nghèo.

SVTH: Hoàng Văn Hợp 7 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
Năm 2010, Bộ lao động - Thương binh và Xã hội, đã đề xuất phương án điều
chỉnh chuẩn nghèo áp dụng cho năm 2010 như sau: Khu vực nông thôn là những hộ có
mức thu nhập bình quân từ 300.000 đồng/người/tháng (dưới 3.600.000
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo; khu vực thành thị là những hộ có mức thu
nhập bình quân từ 390.000 đồng/người/tháng (dưới 4.680.000 đồng/người/năm) trở
xuống là hộ nghèo. Dự kiến, theo điều chỉnh chuẩn nghèo này, tỷ lệ hộ nghèo cả nước
sẽ là khoảng 16 - 17%, tương ứng với 3,2 - 3,4 triệu hộ nghèo.
1.3. Nguyên nhân đói nghèo
1.3.1. Trên thế giới
Những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo được liệt kê chủ yếu là do chiến tranh,
cơ cấu chính trị (Chế độ độc tài và các quy định thương mại quốc tế không công bằng),
cơ cấu kinh tế (phân bố thu nhập không công bằng, tham nhũng, nợ quá nhiều, nền
kinh tế không có hiệu quả và thiếu những nguồn lực có thể trả nợ được) và đặc biệt là
thất bại quốc gia, tụt hậu về công nghệ, tụt hậu về giáo dục, dịch bệnh, thiên tai thường
xuyên xảy ra, sự gia tăng quá nhanh về dân số, bất bình đẳng nam nữ.
Yếu tố nguy hiểm cho sự nghèo đói chính là thất nghiệp và thiếu việc làm, ngoài
ra những yếu tố nguy hiểm khác là phân bố thu nhập quá mất cân bằng, thêm vào đó
thiếu giáo dục và bệnh tật mãn tính.
1.3.2. Tình hình và nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
* Tình hình nghèo đói ở Việt Nam
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, đất nước ta xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, nền
kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến rõ nét. Tốc độ tăng trưởng GDP cao và
tăng đều qua các năm, bình quân khoảng 8.5%/năm, nhờ đó đời sống nhân dân
được cải thiện. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn xếp trong nhóm 40 nước có thu nhập
bình quân đầu người thấp nhất thế giới. Trong 10 nước ASEAN, Việt Nam vẫn
đứng thứ 7. Tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao, cụ thể từ đầu những năm 1990 tỷ lệ
các hộ ở mức rất cao, bình quân khoảng 30-35%, năm 2000 còn 25%, năm

2005 là 26%, 2006 là 19%.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 8 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo chuẩn giai đoạn 2006-2010, cuối năm 2005, cả nước có khoảng 4,6 triệu
hộ nghèo. Dưới đây là bảng phân bố hộ nghèo theo các vùng trong cả nước năm 2005.
Biểu 1.1. Phân bố hộ đói nghèo theo vùng năm 2005 (theo chuẩn mới cho giai
đoạn 2006-2010)
TT Các vùng Tỷ lệ so với vùng (%)
1
Đông Bắc
36.1
2
Tây Bắc
62.3
3
Đồng bằng sông Hồng
19.8
4
Bắc Trung Bộ
39.7
5
Duyên Hải miền Trung
23.3
6
Tây Nguyên
52.2
7
Đông Nam Bộ
10.2
8

ĐB sông Cửu Long
20.8
Cả nước
26.7
(Nguồn: Bộ Lao động Thương binh và xã hội)
* Nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
Ở Việt Nam những nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có thể phân theo các
nhóm như sau :
* Nhóm nguyên nhân chủ quan bao gồm :
- Đông con, ít lao động.
- Không có kinh nghiệm làm ăn, không biết cách sản xuất kinh doanh.
- Thiếu hoặc không có vốn.
- Rủi ro, ốm đau.
- Ăn tiêu lãng phí, lười biếng lao động.
* Nhóm nguyên nhân khách quan:
- Sản xuất phẩm phẩm thiếu nơi tiêu thụ.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 9 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
- Sự tác động của điều kiện tự nhiên : khí hậu khắc nghiệt, thiên tai bão lụt, hạn
hán, sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp giao thông khó khăn.
- Ngoài hai nhóm nguyên nhân trên có những nguyên nhân thuộc về cơ chế chính
sách như : thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho các khu
vực khó khăn, chính sách về khuyến khích sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm
ăn khuyến lâm - khuyến ngư, thiếu sự đồng bộ về chính sách giáo dục đào tạo, y tế,
chính sách giải quyết đất đai, định canh định cư, nguồn lực đầu tiên của nhà nước cho
các vùng khó khăn còn hạn chế…
- Đây chính là một trong những nguyên nhân khách quan đã gây nên đói nghèo
là một vấn đề mà xã hội cần phải quan tâm và giải quyết.
1.3.3. Sự cần thiết của công tác xóa đói giảm nghèo
Vòng luẩn quẩn của nghèo đói

Nghèo đói
Bệnh tật Gia tăng dân số
Môi trường sống Suy dinh dưỡng
Tệ nạn xã hội Thất học
Nghèo đói dẫn đến

SVTH: Hoàng Văn Hợp 10 Lớp: QTNL – KV19
- Cản trở tăng trưởng kinh tế
- Kìm hãm sự phát triển con người
- Nguy cơ mất ổn định và phát triển bền
vững
- Bất bình đẳng xã hội
- Phá hủy môi trường
Chuyên đề tốt nghiệp
Vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói kéo theo các vấn đề phát sinh tiêu cực khác của sự
phát triển của mỗi quốc gia, của một vùng, mỗi dân tộc. Vì vậy, muốn cho đất nước phát triển
chúng ta phải phá vỡ các mắt xích cơ bản như: hạn chế gia tăng dân số; nâng cao sức khoẻ và
dinh dưỡng cho người dân; nâng cao trình độ dân trí, hạn chế sự thất học. Để đảm bảo phá vỡ
được vòng luẩn quẩn trên thì chúng ta phải tháo gỡ từng mắt xích cụ thể.
Từ thực tế hiện nay, khi nước ta đang thực hiện chính sách nền kinh tế nhiều
thành phần, đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện thì sự phân hóa giàu
nghèo diễn ra rất nhanh. Do vậy, nếu chúng ta không tích cực xóa đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm và giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thì chúng ta khó có thể đạt được
mục tiêu xây dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy
được truyền thống tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu được yếu tố lành mạnh và tiến bộ
của thời đại.
Do đó, trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã xây
dựng các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó có chương trình xóa đói giảm nghèo
quốc gia. Xóa đói giảm nghèo là một vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng, cần có sự chỉ
đạo thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.

Để xóa đói giảm nghèo đạt được hiệu quả cao, trước tiên cần quan tâm đến vấn
đề kinh tế rồi mới giải quyết các vấn đề về văn hóa và các vấn đề xã hội. Cần đặc biệt
quan tâm đối với người nghèo, hộ nghèo sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, hải
đảo, vùng đặc biệt khó khăn và vùng đồng bào dân tộc tiểu số, phá vỡ tập quán canh
tác nhỏ lẻ, manh mún, tự cung, tự cấp. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chú trọng phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ. Đây là con đường cỏ bản để
xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn miền núi nước ta.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa tăng
nhanh tỷ trọng giá trị trong ngành công nghiệp - xây dựng và thương nghiệp - dịch vụ,
đồng thời giảm tương đối tỷ trọng giá trị của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư
nghiệp. Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tất yếu sẽ dẫn đến những biến
đổi về kinh tế và xã hội theo hướng CNH - HĐH của cơ cấu các vùng kinh tế, các
thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, được xem như là một giải pháp
SVTH: Hoàng Văn Hợp 11 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
hữu hiệu, tạo bước ngoặt cho phát triển ở nông thôn nhằm xóa đói giảm nghèo hiệu
quả ở nông thôn.
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới nền kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở
nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Đó cũng chính là con đường để cho
mọi người vượt qua đói nghèo, từ đó nhà nước có thêm tiềm lực về kinh tế để chủ động
xóa đói gảm nghèo. Đây cũng chính là thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Giúp đỡ người vươn lên khá, ai khá vươn lên giàu, ai giàu thì vươn lên giàu thêm".
Thực hiện thành công chương trình xóa đói giảm nghèo không chỉ đem lại ý nghĩa về
mặt kinh tế như tạo thêm thu nhập chính đáng cho người nông dân, từ đó ổn định cuộc
sống lâu dài mà còn là cơ sở cho sự tăng trưởng và phát triển một nền kinh tế bền
vững, góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước, góp phần giữ vững và ổn định về mặt
chính trị, xã hội.
Xóa đói giảm nghèo nhằm nâng cao trình độ dân trí, ổn định cuộc sống, nhân
dân có điều kiện được chăm sóc sức khỏe tốt hơn, giúp người nghèo vươn lên ổn định

cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, xây dựng được mối quan hệ xã hội lành mạnh, giảm
được mức chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, giúp người nghèo tự khẳng định
mình, từ đó có lòng tin vào đường lối, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà
nước. Đồng thời hạn chế và tiến tới xóa bỏ được các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường
sinh thái.
Giải quyết thành công xóa đói, giảm nghèo thì mới giải quyết được xu hướng
phân hóa giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hóa giai cấp từ đó sẽ đe dọa tình hình ổn
định chính trị. Không giải quyết được xóa đói giảm nghèo thì sẽ không thể thực hiện
được công bằng xã hội. Vì vậy, chúng ta nên tập trung mọi nguồn lực để nhanh chóng
xóa đói giảm nghèo nhanh, đảm bảo tính bền vững. Tạo tiền đề để khai thác và phát
triển nguồn lực con người phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, đưa nước ta "sánh
ngang với các cường quốc năm châu" như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.
Cho đến nay, đói nghèo vẫn là nỗi ám ảnh thường trực đối với cả loài người.
Thế giới đã chứng kiến những thảm họa của chiến tranh, thảm họa của thiên tai, dịnh
bệnh với bao nỗi kinh hoàng. Thế nhưng hậu quả do những nạn đói gây ra cũng vô
cùng khủng khiếp. Điều đáng sợ hơn nữa là: nếu như các cuộc chiến tranh dù khốc liệt
vô cùng nhưng rồi trước sau cũng được giải quyết, nếu như những thảm họa do thiên
tai, dịch bệnh gây ra từng bước cũng sẽ được khắc phục thì vấn đề nghèo đói của nhân
SVTH: Hoàng Văn Hợp 12 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
loại lại là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp lại như một căn bệnh kinh niên khó
bề chạy chữa.
Đói nghèo là nỗi bất hạnh và là một phi lý lớn. Trong khi nền văn minh thế giới
đã đạt được những thành tựu hiển nhiên về tiến bộ khoa học - công nghệ làm tăng đáng
kể của cải vật chất xã hội, tăng thêm vượt bậc sự giàu có cho con người, thì thảm cảnh
đeo đẳng mãi trên lưng con người lại vẫn là sự nghèo đói. Hàng tỷ người thực tế là 1/3
dân số trên thế giới vẫn khốn cùng và đói khát. Thiệt thòi lớn nhất là trẻ em. Hàng
ngày, có gần 100 triệu trẻ em không có cái ăn, trên 100 triệu trẻ em vô gia cư chỉ sống
nhờ của bố thí hoặc sống dựa vào sự lao động quá sức, kể cả bằng các nghề đặc biệt là
móc túi, mại dâm; trên 50 triệu trẻ em làm việc trong những ngành có hại; hàng trăm

triệu trẻ em tuổi từ 6 - 11 không được cắp sách đến trường.
Đói nghèo diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức độ khác nhau. Đặc
biệt ở các nước đang phát triển, sự đói nghèo của dân cư đang là một vấn đề nhức nhối
rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vô cùng khó khăn trong việc thực hiện xóa đói
giảm nghèo.
Sự đói nghèo thì ai cũng thấy và không nước nào thiếu những chương trình và
những chính sách để thực hiện việc xóa đói giảm nghèo. Có rất nhiều các tổ chức của
liên hiệp quốc và của cộng đồng quốc tế thực hiện sứ mệnh vẻ vang này trên phạm vi
hành tình. Người ta đã tổ chức những chiến dịch lớn với hàng vạn tấn lương thực, hàng
triệu USD để cứu giúp những người hoạn nạn ở các nước châu phi, châu á hoặc như ở
Haiti vừa qua. Sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần là rất đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, dù đây là một công viêc mà toàn cầu quan tâm nhưng rồi các nước đói vẫn hoàn
đói, sự giúp đỡ của cộng đồng đối với một bộ phận dân cư khốn khó cũng chỉ như
muối bỏ biển, chưa đủ độ, chưa triệt để.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn gắn bó và chịu ảnh hưởng của quan hệ giai cấp
và các chế độ xã hội khác nhau. Hiện tượng bị tha hóa và tự tha hóa con người dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa luôn là một lực cản lớn đối với công việc xóa đói giảm nghèo.
Chính xã hội, mà mục tiêu duy nhất và cuối cùng là lợi nhuận, tiền bạc đã làm phân
hóa xã hội, đẩy nhiều người vào cảnh nghèo nàn khốn khó. Khoảng cách chệnh lệch
mức sống giữa sự xa xỉ và sự bần hàn càng bị nặng nề hơn bởi chính sự thiếu trách
nhiệm của các nước tư bản phương Tây, của giai cấp những người giàu có. Chính vì
vậy, nhân loại cần đặc biệt quan tâm tới công cuộc xóa đói - giảm nghèo.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 13 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4.1. Tổng quan về công tác xóa đói, giảm nghèo
Quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xóa đói giảm nghèo: Đảng ta coi cơ sở
phương pháp luận quan trọng và cơ bản nhất để phân tích vấn đề đói nghèo và xóa đói
giảm nghèo là giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, thực hiện công bằng xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là quá trình kiến tạo hạnh phúc và cũng là quá trình đấu tranh vì sự
công bằng, đấu tranh để thủ tiêu nguồn gốc bất công xã hội.

Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một
trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ đã chỉ đạo là chống giặc đói. Vấn đề công
bằng xã hội - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối với việc xóa đói giảm
nghèo đã được Đảng ta luôn quan tâm chú ý. Những đại hội Đảng gần đây, từ đại hội
VI đến đại hội X, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, nhiều văn bản đề cập đến vấn đề
công bằng xã hội.
Chúng ta hiểu công bằng xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát triển xã
hội không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà liên quan tới tất cả các lĩnh vực chính trị -
pháp luật - văn hóa - xã hội. Công bằng xã hôi phải được giải quyết và chỉ có thể được
giải quyết gắn liền với sự pháp triển sản xuất, xây dựng xã hội thực sự dân chủ, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc. Công bằng xã hội đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực trong nhân
dân, xã hội hóa nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội trên cơ sở vừa tăng nhanh tốc độ phát triển, vừa giảm dần sự mất
cân đối giữa các vùng; giảm dần khoảng cách về thu nhập, mức sống, hưởng thụ giáo
dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe của các tầng lớp dân cư giữa các vùng khác nhau. Đặc
biệt công bằng xã hội đòi hỏi phải thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, an
sinh xã hội.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng cộng sản Việt Nam, vấn đề xóa đói
giảm nghèo được nhiều lần đề cập tới. Để bảo đảm và hướng tới công bằng xã hội,
Đảng ta khẳng định "khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi đôi
với chăm lo xóa đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về
mức sống giữa các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện
chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai
cũng có việc làm, có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh, từng bước
thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước".
SVTH: Hoàng Văn Hợp 14 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong quá trình thiết kế, chỉ đạo thi công việc xây dựng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nắm bắt những mặt mạnh và mặt yếu của

cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo: "Để phát triển sức sản
xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có
bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm,
bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm
giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã
hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều khá giả".
Chú trọng đúng mức vấn đề đói nghèo trong xã hội, với nhãn quan chính trị
nhạy bén và với trách nhiệm cao cả trước nhân dân, Đảng ta đã đưa ra những chương
trình rộng lớn để tập trung giải quyết là "Chương trình về xóa đói giảm nghèo". Trên
cơ sở đó nhà nước cũng có hàng chục chương trình cấp quốc gia và dự án đang được
thực thi có nội dung gắn với xóa đói, giảm nghèo.
* Một số luận điểm và chính sách cụ thể :
Một là, xóa đói giảm nghèo vừa là một nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm
vụ trọng tâm trước mắt.
Tính lâu dài của xóa đói giảm nghèo là do:
- Xóa đói giảm nghèo là nội dung, và nhiệm vụ cần thực hiện để bảo đảm công
bằng xã hội. Thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy sinh nghèo đói không phải
do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế - địa lý, mà do hoàn cảnh hoặc đặc
điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình. Những trường hợp này luôn có khả năng
xuất hiện và việc xóa đói, giảm nghèo mang tính thường trực.
- Chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là một định hướng
chiến lược. Nền kinh tế vận hành theo kinh tế thị trường luôn có xu hướng phân hóa
hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên và liên tục, lâu dài, thì nhiệm vụ xóa đói
giảm nghèo nhất là giảm nghèo, cũng là vấn đề liên tục và lâu dài mới giải quyết được.
- Dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện mục
tiêu này là một quá trình phấn đấu gian khổ, lâu dài. Xóa đói giảm nghèo vừa có tính
cơ bản và cần thực hiên liên tục, lâu dài, lại là một công việc cần kíp, trước mắt, bởi vì
sự nghiệp cách mạng và công cuộc đổi mới luôn đặt ra nhiệm vụ: Mỗi bước phát triển
SVTH: Hoàng Văn Hợp 15 Lớp: QTNL – KV19

Chuyên đề tốt nghiệp
kinh tế - xã hội là một bước cải thiện đời sống của nhân dân; bởi vì đây cũng chỉ là
việc thực hiện truyền thống, đạo lý của dân tộc "thương người như thể thương thân",
mà còn là nhiệm vụ để đảm bảo ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Hai là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc xóa đói giảm nghèo,
nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đói và không phải là một.
Có người cho rằng, muốn xóa đói giảm nghèo thì trước hết phải đầu tư phát
triển sản xuất để tăng trưởng kinh tế. Chỉ khi kinh tế đã phát triển đến một giai đoạn
nhất định sẽ hết đói nghèo, vì thế không nên đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo là nhiệm
vụ lâu dài và trọng yếu. Thực ra tăng trưởng kinh tế có ảnh đến việc giải quyết vấn đề
đói nghèo bởi vì nguyên nhân chính yếu của đói nghèo là do kinh tế chưa phát triển.
Tuy nhiên, đói nghèo lại do nhiều nguyên nhân khác mang tính đặc thù. Vả lại, trong
điều kiện kinh tế như nước ta hiện nay, chúng ta chấp nhận kinh tế nhiều thành phần
cùng vận động, phát triển cũng là phải chấp nhận tình trạng phân hóa giàu nghèo tương
đối. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo không những là vấn đề cần thiết và là nhiệm vụ cấp
bách và quan trọng. Chúng ta xác định sự phân hóa giàu nghèo không thể tránh khỏi,
nên cũng quyết tâm không để xảy ra tình trạng làm giàu vô tội vạ trên lưng người khác,
cũng như tình trạng "kẻ ăn không hết, người lần không ra", không thể để người nghèo
bị bỏ rơi trước con mắt của cộng đồng.
Ba là, xóa đói giảm nghèo thực hiện công bằng xã hội không có nghĩa là kìm
hãm sự phát triển kinh tế, không có nghĩa là cào bằng.
Bốn là, xóa đói giảm nghèo là công việc của toàn xã hội.
Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không dừng lại ở
việc thực hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành lao đông - xã hội
hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, là nhiệm vụ chung
của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả
mọi cán bộ, đảng viên, chính quyền đều phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện các
giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự tham gia của toàn thể cồng đồng.
1.4.1. Chương trình quốc gia
* Khái niệm về chương trình mục tiêu quốc gia

- Chương trình mục tiêu:
SVTH: Hoàng Văn Hợp 16 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
+ Được xây dựng nhằm xác định các mục tiêu cần đạt tới, các chính sách hiện
hành, các bước phải tiến hành, các nguồn lực hiện có để thực hiên một ý đồ, một mục
đích nhất định nào đó của Nhà nước. Chương trình thường phải gắn với một ngân sách
cụ thể.
+ Chương trình quốc gia: Bao gồm một tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và các
giải pháp đồng bộ về kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, môi trường, cơ chế chính
sách và tổ chức thực hiện một hoặc một vài mục tiêu đã được xác định trước trong phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian đa định sẵn.
Chương trình quốc gia bao gồm nhiều dự án khác nhau để thực hiện các mục tiêu
của chương trình. Đối tượng quản lý và kế hoạch hóa được xác định theo chương trình
đề ra, đầu tư được thực hiện theo dự toán.
+ Dự án của một quốc gia: Bao gồm tập hợp các hoạt động để tiến hành một công
việc nhất định nhằm đạt một hay nhiều mục tiêu cụ thể đã được định sẵn trong chương
trình với một khoản ngân sách và thời gian thực hiện đã được xác định cụ thể.
+ Chương trình xóa đói giảm nghèo là một hệ thống các giải pháp mà ở đó đã
được xác định rõ vai trò của Nhà nước, của các tổ chức xã hôi, trong việc phân phối
hợp lý các hành động của mình để nâng cao mức sống cho người nghèo, hộ nghèo, tạo
điều kiện cho họ có cơ hội phát triển trong đời sống cộng đồng bằng chính sức lao
động và mồ hôi của bản thân họ.
* Tiêu chuẩn để lựa chọn chương trình quốc gia
Các vấn đề được lựa chọn để giải quyết bằng chương trình quốc gia và phải thuộc
vào những vấn đề cấp bách, liên ngành, liên vùng và có tầm quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần phải tập trung chỉ đạo giải quyết.
- Mục tiêu của Chương trình quốc gia phải rõ ràng, lượng hóa được và nằm trong
mục tiêu chung của quốc gia.
- Thời gian thực hiện chương trình phải được quy định giới hạn về thời gian,
thường là 5 năm hoặc phân kì thực hiện trong 5 năm.

* Nội dung của chương trình quốc gia
- Đánh giá thực trạng tình hình của lĩnh vực mà chương trình sẽ thực hiện, luận
chứng những vấn đề cấp bách phải giải quyết bằng chương trình quốc gia.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 17 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
- Xác định phạm vi quy mô và mục tiêu của chương trình, các chỉ tiêu cụ thể cơ
bản phải đạt được trong từng thời gian cụ thể.
- Xác định tổng mức vốn của chương trình, phân luồng nguồn vốn theo từng năm
và phương thức huy động các nguồn vốn.
- Xác định hiệu quả kinh tế - xã hội chung của chương trình và của các dự án đầu tư.
- Đề xuất khả năng lồng ghép với các chương trình sẵn có.
- Kế hoạch, tiến độ thực hiện dự án.
- Sự hợp tác quốc tế (nếu có).
1.4.2. Mục tiêu, phương hướng, thời gian, phạm vi và đối tượng của chương
trình xóa đói giảm nghèo quốc gia
1.4.2.1. Quan điểm
- Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước là sự
nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của nhà nước, của xã hội và của người
dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, nhất là sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp để xóa đói giảm nghèo, phát triển Kinh tế - xã hội bền vững.
Cùng với sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ lực phấn đấu vươn
lê thoát nghèo của chính những người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định sự thành
công của công cuộc xóa đói giảm nghèo.
- Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền vững đói với các huyện nghèo là nhiệm vụ
chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy Đảng, sự chỉ
đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các cấp chính quyền, sự phối hợp tích cực của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đồng thời, phải phát huy vai trò làm chủ của
người dân từ khâu xây dựng kế hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh hiệu quả
của Chương trình.
- Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chính sách giảm nghèo chung cho cả nước,

Trung ương tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư, hỗ trợ giảm nghèo nhanh và
bền vững đối với 62 huyện nghèo. Căn cứ vào tinh thần của Nghị quyết này, các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chọn thêm một số huyện nghèo khác trên địa bàn,
nhất là các huyện có đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung để huy động nguồn lực
của địa phương đầu tư hỗ trợ các huyện này giảm nghèo nhanh và phát triển bền vững.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 18 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4.2.2. Mục tiêu
* Mục tiêu tổng quát: Tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vất chất, tinh
thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, bảo đảm đến
năm 2020 ngang bằng với các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ phát triển sản xuất
nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hóa, khai thác tốt các thế mạnh
của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp với đặc điểm của
từng huyện, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả
theo quy hoạch; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân
trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh -
quốc phòng.
* Mục tiêu cụ thể đến năm 2015
Giảm tỷ lệ hộ nghèo, xuống mức ngang bằng mức trung bình của tỉnh. Tăng
cường năng lực cho người dân và cộng đồng để phát huy hiệu quả các công trình cơ sở
hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng bước phát huy lợi thế về địa lý, khai thác hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên; bước đầu phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa quy
mô nhỏ và vừa, người dân tiếp cận được các dịch vụ sản xuất và thị trường tiêu thụ sản
phẩm một cách thuận lợi; lao động nông nghiệp còn dưới 60% lao động xã hội; tỷ lệ
lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt trên 40%.
* Mục tiêu cụ thể đến năm 2020
Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức ngang bằng với mức trung bình của khu vực.
Giải quyết cơ bản vấn đề sản xuất, việc làm, thu nhập để nâng cao đời sống của dân cư
ở các huyện nghèo gấp 5 - 6 lần so với hiện nay. Lao động nông nghiệp còn khoảng
50% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo, tập huấn, huấn luyện đạt

trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50% . Phát triển đồng bộ kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ thống thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ
động cho toàn bộ diện tích đất lúa có thể trồng 2 vụ, mở rộng diện tích tưới cho rau
màu, cây công nghiệp; bảo đảm giao thông thông suốt bốn mùa tới hầu hết các xã và
cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản đã được quy hoạch; cung cấp điện sinh hoạt cho
hầu hết dân cư; bảo đảm cơ bản điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, tinh
thần, giữ gìn bản sắc văn hóa văn hóa dân tộc.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 19 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4.2.3. Phương hướng
- Xóa đói giảm nghèo phải gắn với tăng trưởng kinh tế.
- Phát huy nguồn lực tại chỗ để từ đó người nghèo, xã nghèo, vươn lên tự xóa
đói giảm nghèo.
- Xóa đói giảm nghèo phải gắn với công bằng xã hội, ưu tiên giải quyết cho các
xã ĐBKK, xã nghèo vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc ít người, vùng căn cứ cách
mạng.
- Thực hiện xã hội hóa công tác xóa đói giảm nghèo.
1.4.2.4. Phạm vi
Chương trình được thực hiện trong phạm vi cả nước, trong những năm đầu tập
trung ưu tiên các xã nghèo, các vùng ĐBKK, vùng cao, vùng sâu vùng xa, hải đảo.
1.4.2.5. Đối tượng của công tác xóa đói giảm nghèo quốc gia
Đối tượng tác động của Chương trình xóa đói giảm nghèo là người nghèo, hộ
nghèo, xã nghèo. Việc xác định được đối tượng xóa đói, giảm nghèo là hết sức quan
trọng, để từ đó đề ra các chính sách, cơ chế và đầu tư nguồn lực hỗ trợ đúng mục tiêu,
đúng đối tượng.
1.4.2.6. Nhiệm vụ
- Làm chuyển biến trong toàn Đảng, toàn dân về chủ chương xóa đói giảm
nghèo của Đảng và Nhà nước.
- Phát huy tổng hợp toàn bộ nguồn nhân lực.
- Thực hiện những ưu tiên về xã hội, cần thiết cho việc xóa đói giảm nghèo ở

những xã nghèo, những vùng đặc biệt khó khăn, với các đối tượng đặc biệt.
- Đi đôi với các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, Nhà nước cần tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế khuyến khích các hộ nghèo làm giàu
hợp pháp.
- Thực hiện lồng ghép chương trình xóa đói giảm nghèo với các chương trình
kinh tế xã hội khác.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 20 Lớp: QTNL – KV19
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác xóa đói giảm nghèo
* Do hạn chế của chính người nghèo và gia đình họ
- Người nghèo thường là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội
kiếm được việc làm tốt nên mức thu nhập chỉ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, họ
không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai nhằm giúp cho họ
thoát nghèo. Học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định về giáo dục, sinh đẻ, nuôi
dưỡng con cái…Điều đó không những ảnh hưởng đến thế hệ hiện tại mà còn ảnh
hưởng đến thế hệ tương lai.
- Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, bị rơi vào vòng luẩn quẩn của
nghèo đói và không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực, chính vì vậy mà họ không thể
thoát khỏi đói nghèo. Người nghèo thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng do
không có tài sản thế chấp để vay. Đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ
thể hoặc sử dụng nguồn vốn vay không đúng mục đích. Nguồn thu nhập bấp bênh, tích
luỹ kém nên họ khó có khả năng chống chọi với các biến cố xảy ra trong cuộc sống.
- Gia đình đông con ít lao động: Quy mô hộ gia đình là “mẫu số” quan trọng có
ảnh hưởng đến thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ, đông con vừa là
nguyên nhân vừa là hệ quả của đói nghèo.
- Người nghèo không có khả năng tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ
quyển lợi hợp pháp: Người nghèo thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả
năng giải quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp
luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ
pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bổ không đều, phí dịch vụ tư vấn

pháp luật còn cao.
- Do bệnh tật sức khoẻ yếu kém và bất bình đẳng giới…
- Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác.
* Do lịch sử và điều kiện tự nhiên:
- Chiến tranh lâu dài, gian khổ, cơ sở vật chất bị tàn phá và nguồn lực bị giảm
sút do mất mát trong chiến tranh.
SVTH: Hoàng Văn Hợp 21 Lớp: QTNL – KV19

×