Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt tại Chi nhánh Hà Nội - Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA giai đoạn 2008 – 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.78 KB, 76 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức Chi nhánh Hà Nội - Công ty cổ phần bảo hiểm AAA 30
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Hà Nội - Công ty cổ phần bảo
hiểm AAA giai đoạn 2008 – 2012 31
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
I. BẢNG
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức Chi nhánh Hà Nội - Công ty cổ phần bảo hiểm AAA 30
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Hà Nội - Công ty cổ phần bảo
hiểm AAA giai đoạn 2008 – 2012 31
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BH : Bảo hiểm
BHTS : Bảo hiểm tài sản
TS : Tài sản
GTBH : Giá trị bảo hiểm
STBH : Số tiền bảo hiểm
STBT : Số tiền bồi thường
PCCC : Phòng cháy chữa cháy
ĐPHCTT : Đề phòng hạn chế tổn thất
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
MỞ ĐẦU


Trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập với kinh tế quốc tế, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Việt Nam, nhất là sau khi nước ta chính thức
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đã ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt
của đời sống kinh tế xã hội. Đặc biệt, nó giúp kinh tế có những bước phát triển
mạnh mẽ. Bảo hiểm là một trong những ngành dịch vụ phát triển khá toàn diện và
có những bước nhảy vọt cả về quy mô, tốc độ và phạm vi hoạt động và nó cũng là
một trong những ngành kinh tế được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nghiệp
vụ Bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc biệt là một trong những nghiệp vụ Bảo hiểm ra
đời đầu tiên từ những năm giữa thế kỉ XVII, nhưng chỉ được triển khai ở Việt Nam
từ năm 1989. Đặc biệt kể từ sau khi Chính phủ ban hành nghị định 130/2006/NĐ - CP
ngày 8/11/2006 quy định chế độ Bảo hiểm cháy nổ bắt buộc thì đối tượng tham gia bảo
hiểm ngày càng được mở rộng, tạo tiền đề cho các doanh nghiệp khai thác tiềm năng
này. Từ đó đến nay nghiệp vụ Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt đã và đang
không ngừng phát triển mạnh mẽ, nó càng thể hiện một vai trò không thể thiếu
trong ngành bảo hiểm nói riêng cũng như trong nền kinh tế góp phần bảo vệ các cá
nhân, tổ chức giảm thiểu rủi ro do cháy nổ gây ra. Đồng thời, đóng góp đáng kể vào
doanh thu của các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như GDP cho đất nước. Tuy nhiên,
do những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới liên tiếp diễn ra trong những năm gần
đây không những ảnh hưởng đến kinh tế thế giới mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến
kinh tế Việt Nam, trong đó có ngành bảo hiểm và nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ và
các rủi ro đặc biệt khác nói riêng.
Trong quá trình thực tập tại Chi nhánh Hà Nội - Công ty Cổ phần Bảo hiểm
AAA, được sự giúp đỡ, định hướng của các thầy, cô trong Bộ môn và các anh, chị
trong Công ty, đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của cháy và các rủi ro đặc
biệt cũng như nghiệp vụ Bảo hiểm cháy ở Chi nhánh Hà nội - Công ty bảo hiểm
AAA, em quyết định chọn đề tài: “Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy
và các rủi ro đặc biệt tại Chi nhánh Hà Nội - Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA giai
đoạn 2008 – 2012” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình nhằm trình bày một
số nét cơ bản nhất về nghiệp vụ bảo hiểm cháy và thực tế kinh doanh nghiệp vụ trên
tại công ty những năm gần đây. Bên cạnh đó, em cũng xin mạnh dạn đưa ra một số

kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
cháy tại công ty trong giai đoạn mới đầy khó khăn thử thách nhưng cũng rất nhiều
cơ hội này.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do còn hạn chế về nguồn tài liệu và kiến thức
có hạn nên trong bài phân tích chưa được sâu sắc và chắc chắn còn nhiều thiếu sót,
rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô và các anh chị để bài viết của
em hoàn chỉnh hơn đề tài này. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô
trong Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm; các anh, chị tại cơ sở thực tập và đặc biệt cảm ơn
TS. Nguyễn Thị Chính đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này
Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên thực hiện
Nguyễn Duy Thực
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM CHÁY VÀ
CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
Trong cuộc sống, cũng như sinh hoạt hàng ngày, xảy ra rủi ro nào đó là điều
khó tránh khỏi. Rủi ro đó có thể do những nguyên nhân chủ quan hay khách quan,
có thể to hay nhỏ. Nhưng nó cũng làm cho cuộc sống bị xáo trộn, nhất là những
rủi ro lớn nó có thể gây ra những hậu quả khôn lường, và việc giải quyết hậu quả
đó vô cùng khó khăn và tốn kém. Như vậy, Bảo hiểm ra đời như là một tất yếu
khách quan giúp san sẻ con người với con người, tạo ra sự ổn định cuộc sống của
con người trong xã hội khi rủi ro nào đó ập đến với họ. Có thể nói, cùng với

nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải, nghiệp vụ bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt khác
là một trong những nghiệp vụ bảo hiểm ra đời đầu tiên trên thế giới. Có thể nói
như vậy là bởi: Từ thế kỉ XVII về trước, tại các thành phố đông đúc trên thế giới,
nhà cửa hầu hết đều xây dựng từ gỗ và các hoạt động sinh hoạt hàng ngày như:
đun nấu, sửa ấm, thắp sáng hầu hết sử dụng lửa. Hơn nữa, hệ thống phòng cháy
chữa cháy vẫn vô cùng thô sơ và lạc hậu. Theo lịch sử, từ thời Trung đại rồi Phục
Hưng, ở Châu Âu vẫn chưa có một hệ thống phòng cháy hữu hiệu nào hơn hệ
thống sử dụng từ thời các hoàng đế La mã. Tuy nhiên, nó cũng rất thô sơ và thủ
công: các gia đình phải trang bị các xô nước lớn, hàng đêm có các đội đi tuần tra
để phát hiện sớm những dấu hiệu của cháy và việc xảy ra cháy là tất yếu. Nhưng
cũng chính trong hoàn cảnh khó khăn đó, mầm mống đầu tiên của nghiệp vụ bảo
hiểm cháy đã xuất hiện. Nếu cháy xảy ra thì thiệt hại mà nó gây ra có thể được
phường hội giúp nhưng chỉ khi họ là hội viên. Khoản trợ giúp này chỉ mang tính
chất động viên, khuyến khích mà chưa thể coi là một khoản bồi thường thực sự.
Phường hội đầu tiên này ra đời năm 1374 tại Pháp bời các nhà buôn thành phố
Rowen. Hiệp hội BH cháy đầu tiên ra đời ở Đức năm 1591 mang tên là
FeuerCasse. Tiếp đến là sự xuất hiện của một vài tổ chức nữa song không để lại
dấu ấn gì lớn. Cho đến năm 1666, đánh dấu sự xuất hiện của bảo hiểm cháy khi vụ
cháy kinh hoàng ở Luân Đôn xảy ra vào ngày 2/9. Vụ cháy đã thiêu chịu hơn
13.000 căn nhà, gần 100 nhà thờ và rất nhiều tài sản khác. Lúc này người Anh
mới nhận thức được tầm quan trọng của việc cần phải có hệ thống phòng cháy,
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
chữa cháy và bồi thường, hỗ trợ thiệt hại do cháy gây ra. Do vậy năm 1667 ở Anh
đã xuất hiện một số văn phòng cung cấp dịch vụ PCCC. Trong thời gian thành
phố được kiến thiết lại, một nhà vật lý người Anh tên là Nicolas Bavbon đã bắt
đầu nhận BH cháy cho những ngôi nhà xây dựng lại. Ban đầu công ty của ông
hoạt động theo hình thức tư nhân, nhưng sau đó năm 1684 đã bắt đầu chuyển đổi
thành công ty cổ phần với tên gọi là “Friendly Society Fire Office”. Công ty này

hoạt động trên nguyên tắc tương hỗ, hệ thống phí cố định và người BH phải chịu
một phần thiệt hại xảy ra. Tiếp theo đó một số công ty BH khác cũng theo đó ra
đời: Hand in hand (1696), Sun Fire office (1710), Union (1714). Khi ra đời, các
công ty này chỉ đảm bảo cho những rủi ro “ cháy” đơn thuần, tức Bảo hiểm cháy
đơn thuần. Nhưng trước nhu cầu của khách hàng, cần bảo hiểm các rủi ro khác
như: đa rủi ro nhà ở, đa rủi ro doanh nghiệp. Vì vậy trong hợp đồng của các công
ty này đã phối hợp bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt khác. Cũng từ đây, nghiệp
vụ bảo hiểm này ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của xã hội và mức
sống ngày càng cao của người dân. Nó lan sang hầu hết các nước trên thế giới và
đóng góp nguồn doanh thu lớn cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
Ở Việt Nam, ngay trước năm 1945 đã có một doanh nghiệp bảo hiểm triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy. Đến năm 1964, công ty bảo hiểm đầu tiên của Việt
Nam xuất hiện, đó là Bảo Hiểm Việt Nam. Bảo Hiểm Việt Nam đã độc quyền trong
lĩnh vực bảo hiểm suốt một thời gian dài. Tuy nhiên, với nền kinh tế bao cấp mà cơ
chế hoạt động chủ yếu là cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Theo đó, nhà nước bù đắp
mọi thiệt hại cho doanh nghiệp. Chính điều này đã ngăn cản sự phát triển của ngành
bảo hiểm, cũng như nghiệp vụ bảo hiểm cháy ở Việt Nam trong giai đoạn này.
Bước vào năm 1986, khi đất nước tiến hành cải cách nền kinh tế và quyết định đưa
đất nước đi theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế mới đòi
hỏi các doanh nghiệp phải tự hoạch toán tài chính, phải chịu trách nhiệm về những
thiệt hại kinh doanh, cùng với quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/11/1989 của bộ
trưởng Bộ Tài chính kèm theo quy tắc và biểu phí BH cháy thì nghiệp vụ này mới
chính thức được công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) triển khai và phát triển.
Đến ngày 02/05/1991 Quyết định này được thay thế bằng Quyết định 142/TCQĐ
của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về việc ban hành Quy tắc và biểu phí bảo hiểm cháy và
các rủi ro đặc biệt. Kể từ sau khi Nghị định số 100/1993/NĐ-CP được ban hành thì
bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt bắt đầu được triển khai rộng khắp và ngày càng
phát triển trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Bởi vì đây là văn bản pháp lý đầu tiên
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
4

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
quy định có nhiều loại hình doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm
(Nhà nước, cổ phần, tương hỗ, liên doanh, 100% vốn nước ngoài). Cùng góp mặt
với Bảo Việt trên thị trường lúc này là sự ra đời của Bảo Minh (1994); PJICO, Bảo
Long (1995); VIA, PVI (1996); UIC(1997)v.v
Đến năm 2006, bảo hiểm cháy nổ được Nhà Nước đưa vào thực hiện bắt buộc
sau Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 quy định về chế độ bảo hiểm
cháy nổ bắt buộc. Sự hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc là
một tín hiệu tốt thúc đẩy thị trường bảo hiểm cháy nổ tiếp tục phát triển.
1.2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
1.2.1. Sự cần thiết của bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
Cháy là một trong những rủi ro mang tính chất thảm hoạ và khi xảy ra hậu
quả để lại rất nặng nề. Việc khắc phục nó đòi hỏi phải có nguồn tài chính khổng lồ.
Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn nhỏ
gây thiệt hại hàng trăm tỷ đô la. Các vụ cháy không chỉ xảy ra ở các nước có nền
kinh tế phát triển như Anh, Pháp, Mỹ…nơi mà có nền khoa học, công nghệ đã đạt
đến đỉnh cao của sự hiện đại và an toàn thì cháy vẫn xảy ra và ngày càng tăng về số
lượng và mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và hoạt động
sản xuất kinh doanh của con người.
Ở Việt Nam, các vụ cháy xảy ra nhiều, gây thiệt hại lớn đặc biệt tại các khu
vực kinh tế phát triển như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…Trong vòng 30 năm,
kể từ ngày chủ tịch Hồ Chí Minh ký sác lệnh PCCC ngày 4/10/1961 đến ngày
4/10/1991 đã xảy ra 566.036 vụ cháy lớn nhỏ, gây thiệt hại về vật chất ước tính 948
tỷ đồng, làm chết 2.574 người, bị thương 4.479 người.
Từ năm 1992-1993 cả nước có khoảng 1.710 vụ cháy, làm chết 213 người, bị
thương 348 người, ước tính thiệt hại 114,746 tỷ đồng.
Giai đoạn 1996-2003, xảy ra 8.015 vụ cháy, gây thiệt hại trên 1.000 tỷ đồng.
Tỷ lệ các vụ cháy lớn là 2,47%, thiệt hại lên tới 67,25% tổng thiệt hại. Năm 97 cả
nước có 58 vụ cháy chợ trong đó có 4 vụ cháy lớn xảy ra ở Hà Nội, Nam Định,
Thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang.

Còn trong 10 năm qua, cả nước xảy ra khoảng 20.000 vụ cháy ở các nhà máy,
xí nghiệp, kho tàng, cơ quan và nhà dân (trung bình mỗi năm 2000 vụ).
Trong năm 2011, trên toàn quốc xảy ra 1.764 vụ cháy, làm chết 75 người, bị
thương 215 người; thiệt hại về tài sản, trị giá gần 600 tỷ đồng và 2.000 ha rừng các
loại. Đồng thời xảy ra 25 vụ nổ, làm chết 9 người, bị thương 30 người; gây thiệt hại
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
về tài sản ước tính trị giá 325 tỷ đồng. So với năm 2010, tuy số vụ cháy giảm 16%,
thiệt hại về tài sản giảm được trên 7% nhưng số người chết và bị thương tăng trên, dưới
20%. Số vụ cháy lớn tuy chiếm 1,6% tổng số vụ nhưng thiệt hại về tài sản chiếm trên
50% tổng thiệt hại do cháy gây ra. Các vụ cháy điển hình có thể nói đến là:
+Vụ cháy kinh hoàng xảy ra tại xưởng may gia công giầy da của vợ chồng chị
Bùi Thị Hiền tại thôn Đại Hoàng 2, xã Tân Dân, huyện An Lão, Hải Phòng ngày
29.7 khiến 13 người chết, 25 người bị thương đến bây giờ vẫn khiến người dân nơi
đây kinh hãi.
+Vào sáng sớm 3.11 tại một căn nhà trong ngõ 22 Tạ Quang Bửu, Hà Nội đã
xảy ra vụ nổ gas, sập nhà làm hai con chết thảm, bố mẹ bị bỏng nặng. Thảm họa bắt
đầu sau tiếng nổ kinh hoàng, toàn bộ ngôi nhà hai tầng bị đổ sập. Chủ nhân của ngôi
nhà này anh Trần Nhật Minh, 41 tuổi, và vợ là Nguyễn Thu Ngân, 37 tuổi, được
cứu thoát, đưa đi cấp cứu trong tình trạng bị bỏng nặng. Hai con của anh chị Minh -
Ngân là Trần Ngọc Tâm, 15 tuổi và Trần Duy Anh, 6 tuổi, bị chôn vùi dưới những
khối bê tông.
Gần nhất là năm 2012 vừa qua, trên toàn quốc đã xảy ra 1.751 vụ cháy tại cơ
sở, nhà dân, phương tiện giao thông và 155 vụ cháy rừng; làm chết 73 người, bị
thương 136 người. Thiệt hại về tài sản do các vụ cháy nổ gây nên đã lên tới 1.100 tỷ
đồng và 652 ha rừng. Số vụ cháy lớn xảy ra là 32 vụ. Các vụ cháy lớn tuy chỉ chiếm
1.03% tổng số vụ cháy nhưng đã gây thiệt hại tài sản chiếm tới 81% tổng thiệt hại
cháy gây ra. Số vụ nổ gây chết người là 29 vụ, làm chết 11 người, bị thương 50
người, gây thiệt hại tài sản ước tính trị giá 307 tỷ đồng. Điển hình là vụ nổ khí gas

nghiêm trọng xảy ra vào sáng 5/12, tại khu công nghiệp Khai Sơn, huyện Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh. Vụ cháy nổ đã làm hơn 30 người bị trọng thương, thiệt hại về
tài sản ước tính có thể lên đến 5 tỷ đồng.
Thiệt hại do cháy gây ra rất nghiêm trọng không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống
của một vài cá nhân mà còn tác động mạnh đến cả cộng đồng dân cư, môi trường
khí hậu. Để đối phó với cháy từ xa xưa con người dân sử dụng rất nhiều biện pháp
khác nhau như PCCC, đào tạo nâng cao trình độ kiến thức và ý thức thông tin tuyên
truyền về PCCC. Mặc dù khoa học công nghệ phát triển thì phương tiện PCCC
được đổi mới. Tuy nhiên sự phát triển của khoa học công nghệ về an toàn thường
chậm hơn so kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất và nguồn vốn đầu tư vào công tác
đảm bảo an toàn thường thấp hơn so nguồn vốn đầu tư phát triển. Vì thế ngày càng
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
có nhiều vụ cháy với thiệt hại lớn hơn, nguyên nhân xảy ra cũng khó lường hơn
trong đó cũng có cả nguyên nhân xuất phát từ mặt trái công nghệ.
Do vậy để đối phó hậu quả của cháy gây ra thì BH vẫn được coi là một trong
những biện pháp hữu hiệu nhất. Ngoài ra khi tham gia BH, người được BH còn có
thể nhận được các dịch vụ tư vấn về quản lý rủi ro, PCCC từ phía người BH. Mặt
khác, trong điều kiện kinh tế thị trường, các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân đều phải
tự chủ về tài chính. Hoạt động sản xuất, đầu tư, khai thác…ngày một gia tăng, khối
lượng hàng hoá, vật tư luân chuyển và tập trung rất lớn, công nghệ sản xuất đa dạng
phong phú. Nếu xảy ra cháy lớn, họ phải đương đầu với rất nhiều khó khăn về tài
chính, thậm chí có thể bị phá sản. Vì vậy bên cạnh việc tích cực PCCC thì BH cháy
thực sự là một giá đỡ cho các tổ chức cá nhân tham gia BH.
1.2.2. Tác dụng của bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
BH cháy là loại hình BHTS, trong đó đối tượng bảo hiểm thường có giá trị
BH rất lớn. Khi xảy ra rủi ro hậu quả để lại rất nặng nề không chỉ riêng đối với cá
nhân mà còn ảnh hưởng đến cả xã hội. Vì vậy nghiệp vụ BH cháy và rủi ro đặc biệt
ra đời có ý nghĩa tác dụng vô cùng to lớn.

* Đối với người tham gia Bảo hiểm:
Thứ nhất, BH cháy khắc phục tổn thất từ đó góp phần ổn định cuộc sống sản
xuất sinh hoạt của mỗi cá nhân trong cộng đồng:
Đối với các cá nhân, hộ gia đình giá trị tài sản đều nằm trong phạm vi ngôi
nhà của họ. Theo số liệu thống kê cho thấy trong những năm gần đây, tỷ lệ xảy ra
cháy ở các hộ dân cư khá cao chiếm 70,1% số vụ cháy. Do đó khi cháy xảy ra bản
thân mỗi người gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Trong các doanh nghiệp quy mô sản xuất càng rộng, giá trị TS càng lớn. Vì
vậy khi có tổn thất do cháy gây ra thì hậu quả thật khôn lường. Doanh nghiệp phải
đứng trước bờ vực cơ nguy cơ mất trắng những TS và ảnh hưởng lâu dài tới bản thân
doanh nghiệp và cá nhân đơn vị khác có liên quan TS có giá trị lớn và việc khôi phục
sản xuất trở lại là điều vô cùng khó khăn, trong trường hợp xấu nhất là phá sản.
BH ra đời giúp cho mỗi cá nhân doanh nghiệp ổn định được cuộc sống cũng
như hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc bồi thường một cách kịp thời
thoả đáng khi không may có tổn thất, từng bước khắc phục hậu quả của những thiệt
hại xảy ra đối với họ. Trên cơ sở người tham gia BH cháy đóng góp một khoản phí
với tỷ lệ nhỏ so với giá trị TS của mình, các cá nhân doanh nghiệp sẽ nhận được
cam kết bồi thường từ phía công ty BH khi co rủi ro xảy ra. Có thể nói BH là “lá
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
chắn kinh tế” hữu hiệu đảm bảo nguồn tài chính cho các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp khi không may xảy ra sự cố bảo hiểm, giúp họ yên tâm sản xuất kinh doanh,
tiến hành mở rộng đầu tư góp phần tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, Bảo hiểm cháy còn góp phần tích cực công tác ĐPHCTT, giúp cho
cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá
nhân, doanh nghiệp.
Rủi ro cháy có thể xảy ra bất cứ đâu bất cứ khi nào. Vì vậy để giảm thiểu xác
suất bồi thường cho khách hàng, các công ty BH hết sức quan tâm đến công tác
quản trị rủi ro mà trong đó công tác PCCC được đặt lên hàng đầu. Bằng một khoản

trích theo tỷ lệ nhất định từ phần phí thu được, các công ty BH sẽ thực hiện các
biện pháp ĐPHCTT một cách hiệu quả thông qua công tác thống kê tình hình tổn
thất hàng năm, xác định nguyên nhân tổn thất, tư vấn những khu vực có nguy hiểm
cao về cháy, thường xuyên phối hợp với khách hàng trong công tác tập huấn PCCC,
hỗ trợ khách hàng trang bị phương tiện PCCC …Để làm tốt công tác này, công ty
BH cần có những cán bộ chuyên môn giỏi về đánh giá và quản lý rủi ro, tích cực
hướng dẫn khách hàng các biện pháp đảm bảo an toàn.
Ngoài ra hàng năm các doanh nghiệp cũng thường xuyên đóng góp kinh phí
cho hoạt động PCCC theo quy định Nhà nước để đầu tư trang bị PCCC, hỗ trợ
tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật và kiến thức phổ thông về PCCC cho
toàn dân…Hoạt động này không chỉ có ý nghĩa đối với người tham gia trong công
tác hạn chế rủi ro mà có ý nghĩa đối với cả xã hội.
Thứ ba, BH cháy còn là chỗ dựa tinh thần cho mọi cá nhân, tổ chức, giúp họ
yên tâm trong cuộc sống và trong hoạt động sản xuất kinh doanh:
BH thể hiện tính cộng đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc, góp phần ổn định xã
hội. Hậu quả của rủi ro cháy sẽ gây khó khăn về tài chính, kinh doanh bị gián đoạn,
phá sản…dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng do nhà máy đóng cửa, đình công, bạo
loạn gây mất trật tự cho xã hội. Việc triển khai BH cháy giúp nhà đầu tư và nhà thầu
mạnh dạn đầu tư phát triển kinh tế vì đã có BH cháy bảo trợ. Từ đó ngày càng tạo công
ăn việc làm cho người lao động. Đồng thời tránh sự lo lắng, bất ổn của người dân sống
xung quanh khu vực thường xuyên có cháy và nguy cơ xảy ra cháy cao.
Bên cạnh đó BH cháy ra đời còn giúp các doanh nghiệp tham gia thuận tiện
hơn trong các hoạt động vay vốn của các tổ chức tài chính, ngân hàng. Vì khi tiến
hành cho các doanh nghiệp vay vốn để sản xuất kinh doanh thì các Ngân hàng, quỹ
tài chính bao giờ cũng đòi hỏi có thế chấp. Doanh nghiệp đã tham gia BH thì có thể
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
trình hợp đồng BH như một bằng chứng của sự đảm bảo để vay vốn, giúp các Ngân
hàng, tổ chức tài chính yên tâm đối với các khoản cho vay bởi vì nếu có rủi ro xảy ra

đối với doanh nghiệp đó thì doanh nghiệp sẽ nhận được bồi thường từ phía công ty
BH, đảm bảo khả năng trả nợ cao hơn các doanh nghiệp không tham gia BH.
Thứ tư, BH cháy góp phần nâng cao ý thức cộng đồng về công tác PCCC và
tham gia BH:
Đối với các nghiệp vụ BH, đặc biệt BH cháy, công tác thống kê đóng vai trò
hết sức quan trọng. Có làm tốt công tác này thì việc tính toán tỷ lệ phí, tỷ lệ tổn
thất, tỷ lệ bồi thường mới chính xác được. Thông qua thống kê BH số liệu về các vụ
cháy xảy ra trong quá khứ cũng như xác suất xảy ra cháy được thu thập đầy đủ và
khoa học. Những tài liệu này có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao nhận
thức của người dân về rủi ro cháy. Hơn nữa bằng việc tham gia BH cháy, người
tham gia sẽ có ý thức hơn về việc tự bảo vệ TS của mình cũng như cộng đồng thông
qua sự tuyên truyền rộng rãi, phổ biến kiến thức PCCC của các nhà BH về nguy cơ,
hậu quả của rủi ro cháy.
* Đối với Nhà nước và nền kinh tế
BH cháy mang lại lợi ích kinh tế xã hội cho cả doanh nghiệp BH và Nhà nước.
Khi nghiệp vụ BH cháy ngày càng được mở rộng, đặc biệt với sự chấp hành
nghiêm chỉnh của đối tượng tham gia BH cháy bắt buộc, khoản phí thu được từ
khách hàng ngày càng gia tăng, từ đó quỹ BH cháy được hình thành tương đối lớn.
Các công ty BH chỉ giữ lại một khoản tiền nhất định trong quỹ để đảm bảo khả
năng thanh toán, số còn lại sẽ được mang đi đầu tư sinh lời. Với nguồn vốn tạm
thời nhàn rỗi không nhỏ các công ty BH có thể cho vay, mua trái phiếu, đầu tư bất
động sản…Do vậy nền kinh tế chắc chắn luôn nhận được một lượng vốn đầu tư
đáng kể từ quỹ của các doanh nghiệp BH khiến cho các hoạt động kinh tế trở nên
sôi động, hiệu quả hơn. Với tư cách là trung gian tài chính lớn của nền kinh tế, BH
góp phần tạo nguồn quỹ đầu tư dồi dào kích thích thị trường vốn phát triển. Các
doanh nghiệp BH đã tạo ra “bàn tay vô hình” thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hậu quả của cháy để lại thường rất nằng nề, số tiền để khắc phục hậu quả thường
rất lớn, không có một tổ chức cá nhân nào có thể gánh chịu được mà phải viện tới sự
giúp đỡ của Ngân sách Nhà nước. BH cháy ra đời góp phần giảm bớt gánh nặng cho
Ngân sách quốc gia trong việc chi khắc phục hậu quả, tránh nhiều biến động chi tiêu

ảnh hưởng đến kế hoạch ngân sách Nhà nước.
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Ngoài ra BH cháy còn góp phần tăng thu ngoại tệ cho Nhà nước thông qua hoạt
động tái bảo hiểm. Đây là nghiệp vụ có giá trị lớn, để đảm bảo khả năng thanh toán bồi
thường, các doanh nghiệp bảo hiểm phải tiến hành nhượng tái đồng thời nhận tái từ
những hợp đồng lớn. Thị trường BH cháy ngày càng phát triển thì ngày càng có nhiều
đơn tái bảo hiểm và mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Ngày nay khi nền kinh tế đang mở cửa, có rất nhiều doanh nghiệp đã và đang
đầu tư vào nước ta. Các nhà đầu tư nước ngoài rất yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam
vì những lĩnh vực mà họ hoạt động đều được các công ty BH đứng ra bảo trợ khi
không may xảy ra rủi ro tổn thất. Điều này tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá
trình mở rộng phát triển kinh té đối ngoại trong công cuộc xây dựng đất nước.
Như vậy với những tác dụng to lớn mà BH nói chung và BH cháy nói riêng
mang lại cho cá nhân người tham gia cũng như cho Nhà nước, nhiều quốc gia đã
quy định chế độ BH cháy bắt buộc đối với những cơ sở có nguy cơ cháy cao. Ở
Việt Nam điều 8 luật kinh doanh BH và điều 9 luật PCCC cũng quy định bắt buộc
nghiệp vụ này.
1.3. Đặc điểm của bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
Cháy là một trong số những loại rủi ro gây hậu quả lớn nhất và nặng nề nhất.
Bởi vậy trên thế giới hầu hết các công ty BH phi nhân thọ đều triển khai nghiệp vụ
này. Ngoài những đặc điểm chung của loại hình BHTS, BH cháy và các rủi ro đặc
biệt còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất: Những tài sản tham gia BH cháy rất đa dạng và phong phú từ máy
móc thiết bị vật tư đến hàng hoá thành phẩm, mỗi loại có khả năng gặp cháy rất
khác nhau. Ngay bản thân một loại TS được làm bằng nguyên vật liệu khác nhau thì
khả năng xảy ra cháy cũng khác nhau. Phạm vi BH hay rủi ro rất dễ xảy ra trong
cuộc sống hàng ngày, do sự vô tình hay hữu ý của con người hay do sự biến động
của thiên nhiên gây ra. Chính vì vậy nhà BH rất khó phân loại, kiểm soát và đánh

giá rủi ro trước khi ký hợp đồng, và khó có thể đưa ra được những biện pháp
ĐPHCTT một cách có hiệu quả cho những TS tham gia BH. Để tránh phải bồi
thường nhiều cho đối tượng BH và hạn chế tối thiểu được hiện tượng trục lợi BH
cũng như để người tham gia nhận thức chính xác về thực trạng TS của mình, các
công ty BH cần có những cán bộ chuyên môn giỏi trong việc đánh giá rủi ro và
ĐPHCTT góp phần tạo lòng tin cho khách hàng và tăng doanh thu cho nghiệp vụ
BH cháy.
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Thứ hai: Hoạt động của nghiệp vụ BH cháy mang tính chất kỹ thuật rất phức
tạp. Vì đối tượng tham gia BH thường là các TS như: máy móc, nguyên vật liệu,
hàng hoá…nên quá trình triển khai sẽ liên quan đến nhiều yếu tố kỹ thuật. Đặc
điểm này thể hiện rõ trong từng khâu của nghiệp vụ: xác định giá trị BH, phân chia
đơn vị rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro, ĐPHCTT, xác định nguyên nhân cháy, giá trị
thiệt hại.
Thứ ba: Phí BH cháy phụ thuộc vào nhiều yếu tố tăng giảm rủi ro. Đây là loại
hình BH cho đối tượng là TS, và rủi ro cơ bản được BH là rủi ro cháy, do vậy các yếu
tố như: kết cấu của loại TS (vật liệu xây dựng, bao bì), chất lượng TS, cách thức hay
khu vực bố trí TS, các phương tiện PCCC…ảnh hưởng rất lớn đến phí BH. Bởi vì các
yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến việc gia tăng hay giảm thiểu rủi ro cháy. Nếu khả
năng xảy ra rủi ro cháy càng ít thì cả người được BH, nhà BH và xã hội đều có lợi.
Người được BH giảm được phí, nhà BH giảm được khả năng phải bồi thường, xã hội
không ngưng trệ bởi tổn thất.
Thứ tư: Đối tượng của BH cháy thường là các công trình xây dựng, vật kiến
trúc đã đưa vào sử dụng, xí nghiệp giá trị TS của các đối tượng này rất lớn nên số
tiền BH rất lớn. Mức độ thiệt hại do cháy gây ra đôi khi mang tính thảm hoạ. Do
vậy khi triển khai nghiệp vụ BH này các công ty BH đồng thời phải nghĩ ngay đến
việc thực hiện tái bảo hiểm để phân tán rủi ro và các nghiệp vụ bổ sung như: BH
gián đoạn kinh doanh, BH trách nhiệm đối với thiệt hại người thứ ba…

Bên cạnh đó trong nghiệp vụ này các công ty cũng phải đặc biệt quan tâm đến
nguồn tài chính dự trữ dự phòng. Mặc dù có thể xác định khá chính xác phí BH nhưng
do các vụ cháy xảy ra không đúng quy luật nên biên độ dao động tổn thất của nghiệp
vụ là khá lớn, hậu quả không lường trước được. Do vậy việc duy trì và đảm bảo an
toàn cho quỹ dự phòng dao động lớn là rất quan trọng.
Như vậy trong quá trình triển khai nghiệp vụ BH cháy và các rủi ro đặc biệt,
doanh nghiệp BH cần chú ý những đặc điểm trên để xây dựng những phương án
phòng tránh hữu hiệu, phối hợp với lực lượng cảnh sát PCCC để kịp thời xử lý
trong mọi tình huống, giải quyết nhanh chóng khiếu nại bồi thường. Điều này mang
lại lợi ích cho các doanh nghiệp BH, giúp tiết kiệm được thời gian tiền bạc trong
suốt quá trình BH.
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
1.4. Nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
1.4.1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
1.4.1.1. Đối tượng bảo hiểm
BH cháy là loại hình BHTS vì vậy đối tượng BH có giá trị rất lớn, đa dạng,
phức tạp. Các đối tượng đó bao gồm là các TS bất động sản, động sản (trừ phương
tiện giao thông, vật nuôi, cây trồng và tài sản đang trong quá trình xây dựng, lắp đặt
thuộc loại hình BH khác) thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị,
tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Tuy nhiên để giúp cho
việc tính phí BH chính xác, giúp công tác giải quyết bồi thường nhanh chóng, đồng
thời giúp cho người tham gia BH nhận biết một cách dễ dàng TS tham gia, các công
ty BH thống nhất chia đối tượng BH thành năm nhóm cơ bản:
+ Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai).
+ Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
+ Sản phẩm vật tư, hàng hoá dự trữ trong kho.
+ Nguyên vật liệu, sản phẩm làm dở, thành phẩm trên dây truyền sản xuất.
+ Các loại tài sản khác như: kho, bãi, chợ, cửa hàng, khách sạn…

1.4.1.2. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi BH là giới hạn các rủi ro được BH và giới hạn trách nhiệm của các
công ty BH. Trong BH cháy và các rủi ro đặc biệt, nhà BH có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại và chi phí sau:
+ Những thiệt hại do những rủi ro được BH gây ra cho TS.
+ Những chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất TS được BH trong
và sau khi cháy.
+ Những chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi cháy.
a, Rủi ro được Bảo hiểm: bao gồm rủi ro chính và rủi ro đặc biệt ( rủi ro phụ)
* Rủi ro chính ( rủi ro nhóm A): Cháy
Rủi ro này thực chất bao gồm ba phần: cháy, sét, nổ
- Cháy: Trong đơn BH cháy tiêu chuẩn không định nghĩa rõ như thế nào là cháy
vì người ta hiểu nó theo nghĩa thông dụng. Tuy nhiên Cháy được BH phải hội tụ
đầy đủ ba yếu tố:
+ Phải thực sự phát lửa.
+ Lửa đó không phải lửa chuyên dùng.
+ Về bản chất đám lửa đó phải là bất ngờ hay ngẫu nhên đối với người được BH
chứ không phải cố ý, có chủ định của họ hoặc có sự đồng loã của họ. Tuy nhiên
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
cháy xảy ra do sự bất cẩn của người được BH vẫn thuộc phạm vi trách nhiệm bồi
thường.
Khi có đủ ba điều kiện đó và có những thiệt hại vật chất do những nguyên
nhân được cho là hợp lý gây ra, những thiệt hại đó vẫn được bồi thường cho dù đó
là vì cháy hay do nhiệt hoặc khói.
Mặc dù không được nêu rõ trong đơn BH nhưng thiệt hại do cháy ở đây
gồm cả:
+ Thiệt hại do khói mà nguồn lửa gây ra thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
+ Thiệt hại do nước dùng để chữa cháy.

+ Thiệt hại do phá vỡ để ngăn chặn cháy lan.
+ Thiệt hại do việc thực hiện nhiệm vụ chữa cháy
+ Thiệt hại mà người được BH phải gánh chịu do việc bảo vệ TS và kiểm soát
sự phát triển của ngọn lửa.
Tuy vậy, cháy ở đây loại trừ:
+ Động đất, núi lửa phun hay biến động khác của thiên nhiên
+ Tài sản bị phá huỷ hay hư hỏng do:
• Tự lên men hoặc tự toả nhiệt.
• Chịu tác động của một quá trình xử lý có dùng nhiệt.
+ Bất kỳ thiệt hại nào gây nên bởi hoặc do cháy rừng, bụi cây, đồng cỏ, hoang
mạc, rừng nhiệt đới dù là ngẫu nhiên hay không và đốt cháy với mục đích làm sạch
đất đai.
Việc loại trừ chỉ nhằm mục đích thống nhất khái niệm cháy được dùng trong
toàn bộ đơn BH. Nếu người BH yêu cầu, TS vẫn có thể được BH bằng những rủi ro
phụ riêng biệt.
- Sét: Người BH sẽ bồi thường khi TS bị phá huỷ trực tiếp do sét hoặc do sét đánh gây
ra cháy. Như vậy khi sét đánh mà không làm biến dạng hoặc gây cháy cho TS được
BH thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của BH.
Cần lưu ý, khi tia sét phá huỷ trực tiếp hoặc làm phát lửa gây cháy đối với các
thiết bị điện thì được bồi thường. Nếu tia sét chỉ làm thay đổi dòng điện, mà không gây
cháy, dẫn đến thiệt hại do thiết bị điện thì không được bồi thường (sét gián tiếp).
- Nổ: Theo rủi ro nhóm A, phạm vi BH chỉ bao gồm:
+ Nổ nồi hơi phục vụ sinh hoạt.
+ Nổ các lò sưởi trong gia đình, công xưởng có sử dụng hơi đốt.
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Các trường hợp nổ gây ra cháy nghiễm nhiên được BH. Như vậy ở đây còn
lại là những thiệt hại do nổ mà không gây cháy:
+ Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ nhưng không gây cháy thì không được bồi

thường, trừ trường hợp nổ nồi hơi hoặc khí phục vụ sinh hoạt, với điều kiện là sự
nổ đó không phải là do các nguyên nhân bị loại trừ.
+ Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ cháy: thiệt hại ban đầu do cháy
được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ, ngoài nồi hơi và hơi đốt
phục vụ sinh hoạt thi không được bồi thường.
Nổ trong rủi ro A chỉ bồi thường những thiệt hại do cháy phát sinh từ nổ.
Những thiệt hại từ các mảnh vỡ hoặc do sức ép từ nổ không được bồi thường.
- Rủi ro nhóm B: Nổ
Nổ trong rủi ro phụ BH cho cả những thiệt hại từ các mảnh vỡ hoặc do sức ép
từ nổ. Tuy nhiên loại trừ:
+ Thiệt hại xảy ra đối với nồi hơi, bình tiết kiệm, bình chứa, máy móc hoặc thiết bị
có sử dụng áp lực hoặc đối với các chất liệu chứa trong các máy móc thiết bị đó do
chúng bị nổ. Mục đích của loại trừ này để tránh trùng lặp đơn BH kỹ thuật khác (đổ vỡ
máy móc), thiệt hại đối với các TS khác vẫn thuộc phạm vi trách nhiệm BH.
+ Thiệt hại gây nên bởi hoặc do hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp của những
hành động khủng bố.
- Rủi ro nhóm C: Máy bay và các phương tiện hàng không khác hoặc các thiết bị
trên các phương tiện đó rơi vào.
- Rủi ro nhóm D: Gây rối, đình công, công nhân bế xưởng.
Những thiệt hại gây nên trực tiếp bởi:
+ Hành động của bất kỳ người nào cùng với những người khác tham gia vào
công việc làm mất trật tự xã hội (dù có liên quan đến đình công, bế xưởng bãi công
hay không).
+ Hành động của bất kỳ chính quyền hợp pháp nào trong việc trấn áp hoặc cố
găng trấn áp các hành động gây rối hoặc việc hạn chế hậu quả của những hành động
gây rối đó.
+ Hành động cố ý của bất kỳ người đình công hay người bế xưởng bãi công
nào nhằm ủng hộ bãi công hoặc chống lại bế xưởng bãi công.
+ Hành động của bất kỳ chính quyền hợp pháp nào nhằm ngăn chặn hoặc cố
gắng ngăn chặn những hành động như vậy hay hạn chế hậu quả của những hành

động đó.
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
Rủi ro nhóm D loại trừ:
+ Những thiệt hại gây nên bởi hay hậu quả gián tiếp hoặc trực tiếp của:
• Những hành động khủng bố.
• Phong trào quần chúng có quy mô hoặc có thể phát triển thành một cuộc
khởi nghĩa quần chúng.
• Hành động ác ý của bất kỳ người nào (cho dù hành động đó có được thực
hiện trong việc gây mất trật tự xã hội hay không) khác với hành động cố ý của
người tham gia đình công hoặc của công nhân bế xưởng bãi công nhằm ủng hộ bãi
công hoặc nhằm chống lại bế xưởng bãi công.
• Hành động ác ý xóa, làm mất mát sai lệch hay làm hư hỏng thông tin trên hệ
thống máy tính hay các hồ sơ chương trình phần mềm khác.
+ Thiệt hại do mất thu nhập, do chậm trễ, do mất thị trường hay bất kỳ tổn
thất nào mang tính chất hậu quả hay mang tính chất gián tiếp khác dưới bất kỳ
phương tiện hay hình thức nào.
• Thiệt hại do ngừng toàn bộ hay một phần công việc hoặc do chậm trễ hoặc
do gián đoạn bất kỳ một quy trình hay hoạt động nào.
• Thiệt hại do bị tước quyền sở hữu vĩnh viễn hay tạm thời do tài sản bị tịch
biên, tịch thu, trưng dụng, phá hủy theo lệnh của nhà cầm quyền hợp pháp.
• Thiệt hại do bị tước quyền sở hữu vĩnh viễn hay tạm thời của bất kỳ ngôi nhà
nào do việc chiếm hữu bất hợp pháp các tòa nhà đó của bất kỳ người nào.
- Rủi ro nhóm E: Hành động ác ý:
Thiệt hại xảy ra đối với TS được BH mà nguyên nhân trực tiếp là hành động
ác ý của bất cứ người nào (dù co hành động này có xảy ra trong quá trình gây rối
trật tự hay không) nhưng loại trừ những thiệt hại do trộm cắp hoặc mưu toan thực
hiện trộm cắp. Rủi ro này chỉ được BH khi người tham gia đã mua BH cho rủi ro
nhóm D.

- Rủi ro nhóm F: Động đất, núi lửa phun: bao gồm cả lũ lụt và nước biển tràn vào
do hậu quả của động đất và núi lửa phun.
- Rủi ro nhóm G: Giông bão: Phạm vi bảo hiểm là những thiệt hại gây ra đối với tài
sản do ảnh hưởng của thiên nhiên như gió mạnh, mưa lớn kéo dài về mặt không
gian và thời gian. Tuy nhiên rủi ro nhóm G loại trừ:
+ Thiệt hại gây ra do:
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
• Nước thoát ra khỏi ranh giới bình thường của các nguồn nước tự nhiên hay nhân
tạo, các kênh hồ, đê, đập, các bể chứa nước, thiết bị chứa nước hay đường ống dẫn.
• Nước tràn từ biển dù là do giông bão hay các nguyên nhân khác.
+ Thiệt hại gây ra do sương muối, sụt lở đất.
+ Thiệt hại đối với bạt mái hiên che nắng, mành tre bảng biển hoặc các trang
thiết bị lắp đặt phía ngoài, hàng rào, cổng ngõ và các động sản khác để ngoài trời
+ Thiệt hại đối với các công trình đang trong quá trình xây dựng, cải tạo hay
sửa chữa trừ khi các cửa ra vào, cửa sổ và các lỗ thông thoáng khác đã được hình
thành và được bảo vệ chống giông bão.
+ Thiệt hại do nước mưa hoặc mưa, ngoại trừ nước mưa tràn vào tòa nhà
thông qua các của hoặc lỗ thông thoáng do tác động trực tiếp của giông bão.
- Rủi ro nhóm H: Nước thoát ra từ các bể chưa nước, thiết bị chứa nước hoặc đường
ống dẫn nước nhưng loại trừ:
+ Thiệt hại do nước thoát ra, rò rỉ từ hệ thống chữa cháy tự động sprinkler.
+ Thiệt hại tại những công trình, ngôi nhà bỏ trống hoặc không có người sử dụng.
- Rủi ro nhóm I:Va chạm bởi xe cơ giới hay động vật: thiệt hại trực tiếp phát sinh từ
việc va chạm với xe cơ giới hay động vật.
Các rủi ro phụ (rủi ro từ nhóm B đến rủi ro I) không được BH riêng mà chỉ có
thể được BH cùng với những rủi ro cơ bản (cháy, sét, nổ- Rủi ro nhóm A). Mỗi rủi
ro phụ này cũng không được BH một cách tự động mà chỉ được BH khi khác hàng
yêu cầu với điều kiện đóng thêm phí và được ghi rõ trong giấy yêu cầu và giấy

chứng nhận BH.
b, Các rủi ro loại trừ
Mỗi một rủi ro đều có những điểm loại trừ riêng biệt. Tuy nhiên những rủi ro loại
trừ sau được áp dụng chung cho tất cả các rủi ro trong đơn BH cháy:
- Các thiệt hại gây ra do:
+ Gây rối, nổi dậy quần chúng, bãi công, công nhân bế xưởng trừ khi rủi ro
nhóm D được ghi nhận là được BH thể hiện trong giấy chứng nhận bảo hiểm nhưng
chỉ với phạm vi BH đã quy định cho rủi ro đó.
+ Chiến tranh xâm lược, hành động thù định nước ngoài, hành động gây hấn hay
các hành động có tính chất chiến tranh (dù có tuyên chiến hay không), nội chiến.
+ Những hành động khủng bố.
+ Binh biến, dấy binh, bạo loạn, khởi nghĩa cách mạng, bạo động, đảo chính, lực
lượng quân sự tiếm quyền, thiết quân luật, phong tỏa, giới nghiêm hoặc những biến
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
cố và nguyên nhân dẫn đến việc tuyên bố hay duy trì tình trạng phong tỏa hoặc thiết
quân luật.
- Các thiệt hại xảy ra đối với bất kỳ các TS nào, hoặc bất kỳ tổn thất hay chi phí
nào bắt nguồn từ hay phát sinh từ những nguyên nhân sau đây hoặc bất kỳ những tổn
thất có tính chất hậu quả trực tiếp gây ra bởi hoặc phát sinh từ:
+ Nguyên vật liệu vũ khí hạt nhân.
+ Phóng xạ ion hóa hay nhiễm phóng xạ từ nhiên liệu hạt nhân hoặc từ chất thải
hạt nhân do bốc cháy nguyên liệu hạt nhân. Đối với điểm loại trừ này thuật ngữ “bốc
cháy” bao gồm cả quá trình phản ứng phân hủy hạt nhân tự phát.
- Các thiệt hại xảy ra đối với bất kỳ máy móc, dụng cụ điện nào hay bất kỳ bộ
phận nào của thiết bị điện cho chạy quá tải, quá áp lực, đoản mạch, tự đốt nóng, hồ
quang điện hay rò điện do bất kỳ nguyên nhân nào (kể cả sét).
- Các thiệt hại gây ra do sự ô nhiễm, nhiễm bẩn, ngoại trừ những thiệt hại đối với
TS được BH gây ra do:

+ Ô nhiễm, nhiễm bẩn từ những rủi ro được BH cháy.
+ Bất kỳ rủi ro được BH nào mà chính những rủi ro ấy lại phát sinh từ ô nhiễm
hay nhiễm bẩn.
- Hàng hóa nhận ủy thác hay nhận bảo quản: vàng bạc và đá quý, tiền (tiền giấy
hay kim loại), séc, thư bảo lãnh, tín phiếu, tem, tài liệu, bản thảo, sổ sách kinh
doanh, hệ thống dữ liệu máy tính, hàng mẫu, vật mẫu, khuôn mẫu, sơ đồ, bản vẽ
hay tài liệu thiết kế, chất nổ trừ khi được xác định cụ thể là chúng được BH theo
đơn BH này.
+ Thiệt hại xảy ra đối những TS mà vào thời điểm xảy ra tổn thất, được BH
hay lẽ ra được BH theo đơn BH hàng hải, nhưng không loại trừ thiệt hại vượt quá
số tiền lẽ ra có thể được bồi dưỡng theo đơn BH hàng hải nếu như đơn BH này
chưa có hiệu lực.
- Những mất mát hoặc tổn thất mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào, trừ
thiệt hại về tiền thuê nhà nếu tiền thuê nhà được xác nhận là được BH theo đơn BH và
có số tiền BH riêng cho thiệt hại này.
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
1.4.2. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm
1.4.2.1. Giá trị bảo hiểm
Trong các hợp đồng BHTS, giá trị Bảo hiểm (GTBH) là cơ sở để xác định
STBH của hợp đồng. GTBH ở đây là giá trị của tài sản được BH, được tính bằng
giá trị thực tế hoặc giá trị mua mới.
TS được BH cháy thường đa dạng về chủng loại và có giá trị rất lớn như: nhà
cửa, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, hàng hóa vật tư trong kho. Bởi vậy
GTBH trong đơn BH cháy và các rủi ro đặc biệt được xác định như sau:
- Đối với nhà cửa, vật kiến trúc GTBH được xác định theo giá trị mua mới
hoặc giá trị còn lại.
+ Giá trị mới là giá trị là giá trị ban đầu khi đưa những loại TS này vào sử
dụng (giá trị mới xây của ngôi nhà) bao gồm cả chi phí khảo sát thiết kế.

+ Giá trị còn lại là giá trị mua mới trừ đi hao mòn đã sử dụng theo thời gian
(đối với TS đã qua sử dụng).
- Đối với máy móc, thiết bị và các loại TS cố định khác: GTBH được xác định
trên cơ sở giá trị mua mới cộng chi phí chuyên chở lắp đặt (nếu có) hoặc giá trị còn lại.
- Đối với thành phẩm, bán thành phẩm, GTBH được xác định trên cơ sở giá
thành sản xuất.
- Đối với hàng hóa mua về để trong kho, để trong cửa hàng GTBH được xác
định theo giá trị bình quân hoặc giá trị tối đa của các loại hàng hoá có mặt trong
thời gian BH.
1.4.2.2. Số tiền bảo hiểm
Số tiền bảo hiểm (STBH) là giới hạn bồi thường tối đa của người được BH
trong trường hợp TS được BH tổn thất toàn bộ. STBH còn là căn cứ để xác định phí
BH. Vì thế xác định chính xác STBH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Cơ sở xác
định STBH là GTBH.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng do
đó số lượng, giá trị TS cũng luôn luôn biến động theo xu hướng ngày càng tăng lên.
Thông thường người ta chỉ có thể xác định một cách chính xác giá trị TS tại một thời
điểm nào đó còn trong cả một năm, một quý, một tháng là rất khó. Bởi vậy trong BH
cháy thuật ngữ STBH được sử dụng rất phổ biến.
Đối với các TS cố định việc xác định STBH căn cứ vào GTBH của tài sản.
Đối với các TS lưu động, giá trị thường xuyên biến đổi. Vì vậy, STBH trong BH
cháy thường được xác định theo hai loại là giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa.
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
+ Loại 1: STBH tính theo giá trị trung bình: nghĩa là số tiền này được xác
định bình quân trong một thời kỳ tham gia BH. Giá trị trung bình này thường được
xác định căn cứ sổ sách kế toán của đơn vị tham gia BH và thường được tính theo
số bình quân thời điểm hoặc số bình quân gia quyền. Trong thời gian BH, giá trị
trung bình này được coi là STBH.

Căn cứ vào STBH trung bình này để nhà BH định phí được chính xác và nếu
tổn thất toàn bộ xảy ra thì số tiền bồi thường tối đa chỉ bằng STBH tính theo giá trị
trung bình đã khai báo.
+ Loại 2: STBH tính theo giá trị tối đa
Vì lượng hàng hóa, vật tư được luân chuyển liên tục, có những thời điểm có
giá trị rất lớn nhưng cũng có thời điểm giá trị rất nhỏ cho nên người tham gia BH
cháy có thể tham gia với STBH bằng giá trị tài sản đạt mức tối đa tại một thời điểm
nào đó.
Đầu mỗi tháng, mỗi quý (tùy theo sự thỏa thuận của hai bên), người được BH
thông báo cho công ty BH số hàng tối đa có thực trong tháng, quý trước đó. Cuối
thời hạn BH trên cơ sở giá trị được thông báo, công ty BH tính giá trị số hàng tối đa
bình quân của cả thời hạn BH và tính lại phí BH. Nếu phí BH tính được trên cơ sở
số giá trị tối đa bình quân nhiều hơn số phí BH đã nộp thì người được BH trả thêm
cho công ty BH số phí còn thiếu.
Trong thời gian tham gia BH, tổn thất thuộc phạm vi BH được người BH bồi
thường và số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân thì phí BH được tính
dựa vào STBH đã trả. Trong trường hợp này số tiền được bồi thường được coi là
STBH.
Nếu BH theo giá trị tối đa thì thông thường các công ty BH trên thế giới cũng như
Việt Nam khi xác định phí người ta chia thành hai trường hợp:
• Trường hợp thứ nhất: Chỉ yêu cầu người tham gia BH nộp 75% số phí. Nếu
tại thời điểm nào đó STBH đạt mức tối đa thì khi hết hạn hợp đồng BH cháy, người
tham gia phải nộp nốt 25% số phí còn lại. Ngược lại không có thời điểm nào đạt
mức STBH tối đa và thực tế cháy cũng không xảy ra nhà bảo hiểm không thu 25%
số phí còn lại này.
• Trường hợp thứ hai: Nếu trong suốt thời hạn bảo hiểm, STBH không bao giờ
đạt mức tối đa trung bình thì nhà BH cũng không thu nốt 25% số phí còn lại.
Như vậy, việc áp dụng BH theo giá trị tối đa rất phức tạp đòi hỏi người được BH
phải biết giá trị hàng hóa được BH và theo dõi chặt chẽ trong suốt thời gian tham gia
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B

19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
BH. Do đó các doanh nghiệp BH ở Việt Nam hiện nay thường tư vấn cho người tham
gia BH với STBH trung bình thuận tiện trong việc theo dõi và tính toán tương đối
chính xác.
1.4.2.3. Phí bảo hiểm
Phí BH chính là giá cả của dịch vụ BH, bởi vậy trong điều kiện cạnh tranh
như ngày nay, nhà BH phải xác định chính xác và sát với thực tế, phù hợp với yêu
cầu của khách hàng. BH cháy có đối tượng là TS rất đa dạng về chủng loại, giá trị
và mức độ rủi ro khác nhau do đó BH cũng khác nhau. Mặc dù vậy công thức
chung để tính phí BH cháy như sau:
P= Sb x R
Trong đó P: phí bảo hiểm
Sb: số tiền bảo hiểm
R: tỷ lệ phí bảo hiểm
Tỷ lệ phí BH chia thành hai loại: + Tỷ lệ phí thuần R
1
+ Tỷ lệ phụ phí R
2
Tỷ lệ phụ phí R
2
thường được các công ty BH kế hoạch hóa một cách dễ dàng
bằng cách căn cứ vào tài liệu thống kê một số năm trước đó. Phụ phí thường bao gồm cá
loại: phí khai thác, phí quản lý, kể cả lãi dự kiến của nhà BH.
Tuy nhiên, tỷ lệ phí thuần R
1
được xác định tương đối phức tạp. Về mặt lý
thuyết không còn cách gì hơn là căn cứ vào xác suất rủi ro cháy có thể xảy ra cũng
như các thiệt hại do cháy gây ra.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến biểu phí vì đối tượng của BH cháy rất đa

dạng về chủng loại, mức độ rủi ro. Bởi vậy không thể áp dụng biểu phí cố định cho
tất cả các loại công trình, TS của những công ty có mức độ rủi ro khác nhau và việc
phòng cháy khác nhau. Thông thường các công ty BH áp dụng tỷ lệ phí khác nhau
cho tất cả các ngành sản xuất, dịch vụ sau đó điều chỉnh tỷ lệ phí theo các yếu tố
tăng giảm phí. Trên thực tế một số yếu tố cơ bản sau ảnh hưởng đến biểu phí:
- Vật liệu xây dựng: Là nhân tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến tỷ lệ phí thuần.
Tùy theo các yếu tố kết hợp vật liệu xây dựng có thể chịu đựng được lâu dài hay
không đối với sức nóng, người ta chia thành ba loại:
+ Loại 1: Vật liệu nặng khó bắt lửa và có khả năng chịu lửa tốt (loại D) như
bê tông, sắt thép.
+ Loại 2: Vật liệu trung gian (loại N): loại này chứa một số chất hóa học trộn
với vật liệu thiên nhiên nên khả năng chịu lửa không tốt.
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
+ Loại 3: Vật liệu nhẹ (loại L): dễ bắt lửa và không có sức chịu lửa.
- Ảnh hưởng của các tầng nhà cũng là yếu tố cơ bản thứ hai ảnh hưởng đến tỷ
lệ phí thuần. Khi xảy ra cháy, lửa hoặc hơi nóng sẽ được truyền lên các tầng nhà,
qua các cầu thang lên xuống, qua lỗ hổng hoặc qua cửa sổ làm cho các tòa nhà có
thể bị sập kéo theo các thiệt hại bên trong. Do đó sức chịu đựng của các tầng nhà
cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến phí BH.
- Phòng cháy chữa cháy: có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ xảy ra thiệt hại
cũng như khả năng xảy ra cháy, bởi vậy nó là yếu tố thứ ba ảnh hưởng đến việc tính
phí. Công tác PCCC, vị trí gần nguồn nước, đội cứu hỏa…đều là những yếu tố ảnh
hưởng đến phí BH.
- Cách phân chia đơn vị rủi ro: Theo như tài liệu thống kê của nhiều nước thì
cách phân chia rủi ro hoặc tường chống cháy có ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ phí. Các
đơn vị rủi ro càng gần nhau thì tỷ lệ phí càng cao và ngược lại.
- Bao bì đóng gói, chủng loại hàng hóa, cách thức sắp đặt cũng ảnh hưởng
đến việc xác định tỷ lệ phí.

Việc xác định những yếu tố cơ bản trên đòi hỏi doanh nghiệp BH đặc biệt lưu
ý khi đánh giá rủi ro lẫn khi ĐPHCTT, từ đó giúp cho việc tính phí BH được chính
xác, phù hợp với từng đối tượng BH. Hiện nay theo đơn BH của Cộng hòa liên
bang Đức, các doanh nghiệp BH Việt Nam khi triển khai loại hình BH này cũng
xác định hai phương pháp tính tỷ lệ phí thuần R
1
.
* Phương pháp 1: Xác định R
1
theo phân loại: Đây là cách xác định R
1
phổ biến
nhất đối với những loại TS tham gia BH cháy mang tính chất đồng nhất hoặc tương
đối đồng nhất (nhà xưởng, khách sạn cao tầng, những công trình kiến trúc…). Khi
xác định theo phương pháp này cần phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng tỷ lệ phí:
+ Vật liệu xây dựng bằng gì.
+ Khả năng PCCC.
+ Những vật liệu xung quanh công trình tham gia BH cháy.
+ Người sử dụng TS (chủ ở hay cho thuê).
* Phương pháp 2: Xác định R
1
theo danh mục: Đây là phương pháp xác định chi tiết
hơn, cụ thể hơn. Theo phương pháp này người ta chia ra các bước như sau:
+ Bước 1: Xét lại tất cả các danh mục TS tham gia BH cháy rồi phân loại chi
tiết từng loại TS theo danh mục khác nhau (bởi vì mỗi loại TS có khả năng cháy, nổ
khác nhau).
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TS. Nguyễn Thị Chính
+ Bước 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để lựa chọn một tỷ lệ

phí thích hợp trong bảng tỷ lệ phí tính sẵn.
+ Bước 3: Điều chỉnh các tỷ lệ phí đã chon theo các yếu tố tăng giảm phí.
Việc điều chỉnh này phải căn cứ vào 3 yếu tố:
• VLXD - Loại D: khó bắt lửa: giảm tối đa 10% trong biểu phí.
- Loại N: vật liệu trung gian: giữ nguyên tỷ lệ phí.
- Loại L: dễ bắt lửa: tăng tối đa 10% trong biểu phí.
• PCCC: Nếu doanh nghiệp, đơn vị nào có phương án PCCC và đã tập dượt sẽ
được giảm phí. Mức giảm tối đa mà các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng là 5%.
• Xác suất xảy ra cháy trong một số năm trước đó.
Thời gian đóng phí: Tùy theo sự thỏa thuận giữa công ty BH và người được
BH có thể thực hiện các hình thức đóng phí BH khác nhau như đóng một lần hoặc
đóng nhiều lần. Thông thường trong nghiệp vụ BH cháy áp dụng hình thức đóng
phí một lần.
1.4.2.4. Hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng BH là hợp đồng được ký kết giữa nhà BH và người được BH mà
theo đó nhà BH thu phí của người được BH và bồi thường cho người được BH các
tổn thất, thiệt hại của đối tượng BH theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng
BH. Tất cả các loại hợp đồng BH đều phải cấp bằng văn bản.
Nội dung của mỗi hợp đồng BH thường bao gồm những yếu tố sau:
- Tên, địa chỉ doanh nghiệp BH, bên mua BH.
- Điều kiện BH, phạm vi BH, điều khoản BH.
- Giá trị TS được BH cháy nổ.
- Quy tắc, biểu phí BH được áp dụng.
- Điều khoản loại trừ trách nhiệm BH.
- Thời gian BH.
- Mức phí, phương thức đóng phí.
- Cơ quan thẩm định thiệt hại khi cần.
- Thời hạn, phương thức trả tiền BH hoặc bồi thường.
- Trách nhiệm của bên mua và bên bán BH.
- Các quy định giải quyết tranh chấp.

- Trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng.
- Ngày tháng giao kết hợp đồng.
SVTH: Nguyễn Duy Thực Lớp: Bảo Hiểm 50B
22

×