Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

tiểu luận Phong tục tạp quán lễ hội Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.03 KB, 35 trang )

- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
MỞ ĐẦU
Mùa xuân - mùa khởi đầu cho một năm, mùa sinh sôi nảy nở của vạn
vật, cỏ cây, Giữa tiết trời ấm áp ấy, lòng người phơi phới rủ nhau đi hội,
hành hương về cội nguồn, vui chơi và cầu mong cho mùa màng tốt tươi, con
người hạnh phúc.
Mỗi lễ hội mang một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng
hướng tới một một đối tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh
hùng chống ngoại xâm, những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên
tai, diệt trừ ác thú, giàu lòng cứu nhân độ thế, Với tư tưởng uống nước nhớ
nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự
tích, công trạng, là cầu nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm
nay hiểu được công lao tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất
nước của mình. Đặc biệt, lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng
đất như một thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân
dân.
Lễ hội Quán Thế Âm - Đà Nẵng là lễ hội mang sắc thái tôn giáo kết
hợp với văn hoá dân tộc, là một trong 15 lễ hội lớn cấp quốc gia, được tổ chức
khá quy mô và thu hút đông đảo lượng tín đồ phật tử hành hương và du khách
tới tham quan. Chúng ta sẽ tìm hiểu đôi nét về lễ hội Quán Thế Âm - Đà
Nẵng qua bài viết này.
SVTH: Nhóm 4 Trang 1
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
NỘI DUNG
I. Khái quát về lễ hội
Lễ hội ở nước ta thật đa dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ
trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Phần lớn các lễ
hội ở Việt Nam thường gắn với sự kiện lịch sử, tưởng nhớ người có công với


nước trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm nên các trò vui chơi ở lễ hội
thường mang nhiều tính mạnh mẽ của tinh thần thượng võ như: Thi bắn nỏ,
đấu vật (hội Cổ Loa) đấu vật, đấu võ, chạy thi (hội hoa Vị Khê, Nam Định),
thi bắn nỏ, ném còn (ở vùng đồng bào dân tộc phía Bắc), ở các lễ hội của bà
con dân tộc Tây Nguyên, lễ hội đâm trâu được coi như tiêu biểu nhất. Trong
lễ hội này, ngoài nghi lễ đâm trâu hiến tế hấp dẫn, ly kỳ còn có trò múa khiên,
ném lao, đấu gậy.
Các trò vui chơi giải trí ở lễ hội còn bao gồm những hoạt động văn hoá,
xã hội khác như thi hát Quan họ, thi thổi cơm, chọi gà, dệt vải, đấu vật, đánh
đu, và đặc biệt nhất là thi đánh đu. Đánh đu không chỉ xuất hiện trong dịp lễ
hội lớn mà còn là một trò vui chơi dân dã trong những ngày Tết ở khắp các
làng xã.
Ngày xuân, người ta thường đi chơi đông hơn bình thường. Kẻ đi xa,
người đi gần, trang phục lộng lẫy, hân hoan phấn khởi làm cho không khí đầu
xuân càng thêm rạo rực. Có lẽ ai cũng muốn dành ít thời gian để vãn cảnh
thiên nhiên đất trời, tận hưởng bầu không khí trong lành với mùa xuân tươi
đẹp. Họ đến với các di tích lịch sử, danh thắng, đền, chùa để tham dự các lễ
hội truyền thống. Chỉ tính riêng tháng Giêng cũng đã có biết bao nhiêu lễ hội
tưởng nhớ các vị anh hùng dân tộc, những người có công chống giặc ngoại
xâm như: Hội Đống Đa, kỷ niệm chiến thắng của vị anh hùng dân tộc Nguyễn
SVTH: Nhóm 4 Trang 2
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
Huệ và tưởng niệm các chiến sĩ vong trận trong đại chiến thắng Đống Đa vào
ngày 5/1. Hội đền An Dương Vương (Cổ Loa Hà Nội) ngày 6/1 tưởng niệm
Thục Phán người có công dựng nước Âu Lạc, xây thành Cổ Loa; Hội đền Cửa
Suốt (Quảng Ninh) tưởng niệm Trần Quốc Toản có công đánh đuổi giặc
Nguyên, hội đền Hạ Lôi (Mê Linh) tưởng niệm Hai Bà Trưng, hội “Cơm
hòm” ở Phổ Yên, Thái Nguyên ngày 6 tháng Giêng kỷ niệm người đàn bà vô
danh thời Hậu Lê có công bày mưu đánh giặc Minh,

Cũng vào thời điểm này, du khách bốn phương về hội Hoa Vị Khê
(Nam Định) từ ngày 20 đến ngày 30 tháng Giêng để chiêm ngưỡng hoa, cây
cảnh của làng nghề truyền thống Vị Khê, hội du xuân lễ bái cầu mong một
năm mới thịnh vượng ở núi Bà Đen (Tây Ninh). Đặc biệt vào mùa này, du
khách đổ lên núi Yên Tử dự lễ hội chùa, vãn cảnh hùng vĩ của đất nước và
thử thách lòng thành của mình. Đến Hòa Bình để được xem hội Chơi hang,
hội Xên bản, Xên mường của người Thái; lên Sơn La cùng thả hồn vào những
cánh rừng ban trắng trong ngày hội hoa ban, đi chơi núi, du thuyền độc mộc
trên thắng cảnh hồ Ba Bể. Ngoài ra, người Tày, Nùng Tây Bắc còn có hội
Lồng Tồng, người Dao có hội Tết Nhảy, người Mông có hội Sắc bùa, hội chơi
núi chơi xuân, người Khơ me Nam Bộ có hội mừng năm mới, Sự phong phú
của lễ hội ở Việt Nam vừa là nét đẹp văn hóa dân tộc nhưng cũng vừa là một
trong những sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Nằm trong xu thế chung của cả nước, Đà Nẵng - thành phố xinh đẹp
bên sông Hàn cũng là vùng đất có nhiều lễ hội được diễn ra hàng năm. Du
khách đến đây rất thích tham gia các lễ hội truyền thống, và là dịp để mỗi
người gặp gỡ, gần gũi nhau, cùng cầu mong mưa thuận gió hoà, tổ tiên phù hộ
và mong ước người thân gặp nhiều may mắn.
SVTH: Nhóm 4 Trang 3
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
Lễ hội ở Đà Nẵng có nhiều điểm giống các vùng duyên hải Miền
Trung, song cũng mang rất nhiều nét đặc trưng tạo nên vẻ đẹp rất riêng của
miền đất này. Trong những ngày lễ hội, cả một vùng rực rỡ màu sắc, và rộn
ràng những khúc hát cầu an, nhịp điệu bài chòi tha thiết. Các lễ hội của Đà
Nẵng có từ rất xưa, được lưu truyền từ đời này sang đời khác, như Lễ hội Cầu
Ngư, Lễ hội Quán Thế Âm, Lễ hội đình làng Hoà Mỹ, Lễ hội đình làng An
Hải, Qua thời gian, cũng có những lễ hội không còn nữa như Lễ rước Mục
đồng, là lễ hội rất đặc biệt dành riêng cho trẻ chăn trâu, những đứa trẻ chân
lấm đầu trần tinh nghịch. Không chỉ giữ gìn những lễ hội truyền thống, người

Đà Nẵng đã tạo cho mình một lễ hội mới dựa trên nền truyền thống là Lễ hội
đua thuyền. Lễ hội này được tổ chức nào ngày quốc khánh 2/9 hằng năm trên
dòng sông Hàn với hàng chục đội đua của các địa phương trong và ngoài
thành phố. Đó thật sự là những ngày hội của non sông và cũng là ngày hội của
lòng người.
Lễ hội đã hiện diện trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân loại từ
bao đời nay, lễ hội đã ăn sâu trong tâm thức người dân Việt Nam nói chung,
người dân Đà Nẵng nói riêng. Lễ hội ở Đà Nẵng có thể được phân chia theo
các dạng thức sau: Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với tự
nhiên, lễ hội liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường xã
hội, lễ hội tôn giáo và văn hóa. Đặc biệt, Lễ hội tôn giáo là hệ thống lễ kỷ
niệm ngày sinh của các đấng giáo chủ sáng lập ra tôn giáo như đức Chúa
Jesus với lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh; đức Phật Thích Ca với lễ Phật Đản, đức
Bồ Tát với lễ hội Quán Thế Âm, ngày tưởng nhớ mẹ với lễ Vu Lan,
những lễ này được diễn ra hết sức long trọng, phần lễ được chú trọng hơn
phần hội với những nghi thức truyền thống nghiêm túc.
Hiện nay, các hoạt động trong quá trình diễn ra lễ hội ngày càng được
tổ chức phong phú hơn, đối tượng tham dự rộng rãi hơn, không chỉ hạn hẹp
SVTH: Nhóm 4 Trang 4
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
trong phạm vi những người có đạo mà còn dành cho cả những người ngoại
đạo, nhất là lễ hội mang tính quốc gia như Lễ hội Quán Thế Âm (được ghi
vào danh mục những ngày lễ hội lớn của cả nước, gắn với khu di tích lịch sử -
văn hoá và danh thắng). Trong những năm gần đây, lễ hội Quán Thế Âm đã
thu hút hàng vạn người từ các vùng miền về tham dự. Hội trong các lễ hội tôn
giáo có các hình thức sinh hoạt cộng đồng sinh động như các trò chơi dân
gian, biểu diễn nghệ thuật, tái hiện các sự tích - truyền thuyết tôn giáo, rước
cộ, xe hoa, thuyền hoa, phóng sinh, hoa đăng, thả diều, triển lãm thư pháp,
trưng bày tranh ảnh nghệ thuật, cắm trại, ẩm thực dân gian, Đặc biệt, được

sự quan tâm của lãnh đạo thành phố, các lễ hội tôn giáo khởi sắc hơn, phong
phú đa dạng hơn, thu hút rất đông đảo du khách nội địa và nước ngoài.
II. Lễ hội Quán Thế Âm Đà Nẵng
2.1. Khái quát về Quán Thế Âm bồ tát và Chùa Quán Thế Âm Đà Nẵng
2.1.1. Quán Thế Âm bồ tát
Quán Thế Âm, tiếng Phạn là Avalokitesvara. Đó là vị bồ tát trong Phật
giáo Bắc tông, mang hạnh nguyện cao cả: Đại từ đại bi, linh cảm ứng, tầm
thinh cứu khổ. Do đại nguyện lớn lao này mà khi phiên âm tên Ngài là Quán
Thế Âm, hàm nghĩa “lắng nghe âm thanh kêu cứu khổ nạn mà giúp đỡ”. Ngài
còn được gọi dưới danh hiệu bồ tát Quán tự tại. Thế nào là Quán tự tại? Là ở
nơi không hai lập cái thế. Không hai, tức không có ta và vật, không đây và đó,
không khoảng cách, không chướng ngại, hoàn toàn tự do nên không gì là
không biết, không gì là không thấy, không đâu là không đến được, đó là tự
tại. Sự hóa hiện mầu nhiệm cùng với những đức năng được nhiều bản kinh
Bắc truyền mô tả, Ngài được biểu trưng bằng những hình ảnh khác nhau như:
Cửu diện Quán Âm, Thập nhất diện Quán Âm, Tống tử Quán Âm, Quán Âm
thiên thủ thiên nhãn, Nam Hải Quán Âm, Bạch y Quán Âm…
SVTH: Nhóm 4 Trang 5
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
Ngày nay, Quán Thế Âm bồ tát được thờ phụng tại nhiều quốc gia dưới
nhiều tên gọi khác nhau như Kannon, Kanzeon (Nhật Bản), Guan Yin, Guan
Shiyin (Trung Quốc), Spyanrasgzigs (Tây Tạng), Nidubarusheckchi (Mông
Cổ), Quan Âm (Việt Nam). Người Champa và Khmer gọi là Lokesvara. Quán
Thế Âm bồ tát thể hiện tính “Bi” nên còn được gọi là Phật Quan Âm, là bậc
Đại Bi, cùng với Bát Nhã là hai dạng của Phật tính. Quán Thế Âm bồ tát cũng
thể hiện nguyện lực của Phật A Di Đà và với lòng từ bi vô lượng, thể hiện sức
mạnh huyền diệu, cứu giúp mọi chúng sinh quán tưởng đến người khi gặp
hiểm nguy.
Theo các nhà nghiên cứu, tín ngưỡng Quán Thế Âm phổ biến ở các

nước theo Phật giáo Bắc tông. Người đầu tiên dịch kinh điển về tín ngưỡng
Quán Thế Âm là Chi Cương Lương Tiếp đã dịch kinh Pháp Hoa tam muội (6
quyển) năm 255 tại Giao Châu (Bắc Việt Nam) cùng với nhà sư Thích Đạo
Thanh. Ngài Trúc Pháp Hộ đời Tây Tấn dịch Quán Thế Âm Phổ môn trong
kinh Chính Pháp Hoa năm 286. Ngài Đàm Vô Kiệt dịch kinh Quán Thế Âm
bồ tát thọ ký. Ngoài ra, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Hoa Nghiêm, kinh Thập
nhất diện Quán Thế Âm thần chú,… cũng đề cập đến Quán Thế Âm. Chính
nhờ các bản kinh này đã làm cho tín ngưỡng Quán Thế Âm ngày càng phát
triển rộng rãi.
Theo kinh điển và truyền thuyết của Phật giáo Đại Thừa thì trong vô số
các vị bồ tát được ngưỡng vọng và thờ tự phổ biến nhất có 4 vị là Văn Thù
(Manjusri), Phổ Hiền (Samantabhadra), Địa Tạng (Ksitigarbha) và Quan Âm
(Avalokitesvara). Bốn vị này có liên hệ sâu xa với chúng sinh ở cõi Ta Bà và
khi truyền vào Trung Quốc, bốn vị bồ tát này cư ngụ nơi bốn đại danh sơn là
Ngũ Đài, Nga Mi, Phổ Đà và Cửu Hoa. Đạo trường của Văn Thù bồ tát là núi
Ngũ Đài ở tỉnh Sơn Tây; đạo trường của Phổ Hiền bồ tát là núi Nga Mi ở tỉnh
Tứ Xuyên; đạo trường của Địa Tạng Vương bồ tát là núi Cửu Hoa, thuộc tỉnh
SVTH: Nhóm 4 Trang 6
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
An Huy; còn đạo trường của Quan Thế Âm bồ tát là núi Nam Hải Phổ Đà của
tỉnh Triết Giang. Quán Thế Âm có bản nguyện và năng lực là quan sát và lắng
nghe những âm thanh kêu gọi cứu khổ của chúng sinh mà mở lòng cứu độ
chúng sinh trong mọi hoàn cảnh, tình huống khổ đau, hoạn nạn, hiểm nguy,…
và nhiều sự nhiệm mầu khác. Cũng vì đó mà hàng Phật tử tôn kính, thờ tự,
ngưỡng nguyện Ngài mọi lúc, mọi nơi trong sự độ trì của Ngài.
Tiểu sử Quan Thế Âm bồ tát có nhiều, trong chính sử cũng có mà dã sử
cũng có, tuy nhiên ở mỗi nơi một khác và được tạo dựng theo từng khung
cảnh và tập quán của từng khu vực. Mỗi quốc gia lại có những truyền thuyết
riêng, nhưng đều nhấn mạnh đến đức hy sinh và sự nhẫn nhục của Ngài trước

khi thành đạo. Có chuyện cho rằng, bồ tát nguyên là con trưởng của một vị
vua tại Ấn Độ, tên là Bất Tuân, cùng với cha và em theo Phật Thích Ca tu
hành, sau được cải danh, vua cha thành Phật A Di Đà, còn hai người con là
hai vị bồ tát, một người là Quán Thế Âm, một người là Đại Thế Chí, ba cha
con gọi là Tây Phương Tam Thánh. Ở Ấn Độ, nơi xuất phát đạo Phật, Quán
Thế Âm được biểu tượng qua hình ảnh một người nam. Về sau, khi du nhập
vào Trung Quốc và một số quốc gia ở Đông Nam Á, Quán Thế Âm bồ tát lại
mang hình tướng người nữ. Do đâu và vào thời kỳ nào mà Quán Thế Âm bồ
tát từ hình tượng một người nam biến thành người nữ? Có nhiều ý kiến cho
rằng, từ thế kỷ thứ V trở về trước, bồ tát được miêu tả như một người đàn ông
với hình dáng rất thanh tú.
Nhưng từ thế kỷ thứ VIII trở đi thì Quan Thế Âm bồ tát được miêu tả
như một người đàn bà. Theo nhà sử học Trung Hoa Lý Bách Dược chuyên
nghiên cứu về thời kỳ nhà Đường, viết trong Bắc Tề thư thì vào thời Nam Bắc
Triều, vua Tề Võ Thành bị bệnh, nằm mơ thấy Quán Thế Âm trong hình dáng
một người đàn bà đẹp. Việc nhà vua nằm mơ đó không biết thực hư thế nào
nhưng trước đời Đường, trong những bức họa của dân gian thì Quán Thế Âm
SVTH: Nhóm 4 Trang 7
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
bồ tát đã được vẽ thành hình một người đàn bà rồi. Từ giữa đến cuối thế kỷ
thứ IX trở về sau, tại Trung Quốc, Quán Thế Âm bồ tát hoàn toàn được miêu
tả dưới hình dáng một người phụ nữ cho tới ngày nay. Lý giải điều này, có
người cho rằng, đạo Phật truyền vào Trung Quốc đã bị biến dạng, không còn
như nguyên thủy, và ít nhiều pha trộn với những hình tượng tôn giáo bản xứ,
trong đó lý thuyết âm dương được thêm vào, và bên cạnh chư Phật trong nam
thân, có một vị Phật trong nữ thân đứng song song, nên Quán Thế Âm là nam
nhân ở Ấn Độ khi truyền sang Trung Quốc đã thành nữ giới.
Ở Việt Nam và một số quốc gia ở khu vực châu Á như Nhật Bản, Triều
Tiên, Trung Quốc là những quốc gia lấy nông nghiệp làm trọng, vì vậy cư dân

nông nghiệp lúa nước có khuynh hướng trọng yếu tố phồn thực, sự sinh sôi,
nảy nở, phát triển, và chỉ có người phụ nữ mới có khả năng làm được việc
này. Vì vậy, xu hướng thờ thần nữ và trọng yếu tố âm đã trở nên phổ biến.
Một nhà văn hóa học nổi tiếng đã cho rằng: Tính chất âm tính của văn hóa
nông nghiệp dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên
về tình cảm, trọng phụ nữ, và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tình trạng lan tràn
các nữ thần. Và vì cái đích mà người Việt Nam hướng tới là sự phồn thực,
cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ đẹp, mà là các Bà Mẹ,
các Mẫu.
Quán Thế Âm là biểu trưng cho vị bồ tát hóa độ xuyên suốt thời gian
và không gian kể từ khi Đức Phật Thích Ca thị hiện ở cõi Ta Bà cho đến lúc
Phật Di Lặc đản sinh và hơn thế nữa. Chí nguyện đó trở thành cơ sở cho niềm
tin bất diệt trong tâm thức người Phật tử, vì vậy Đức Quán Âm có ý nghĩa
như là toàn bộ giá trị thăng chứng trí tuệ, giác ngộ giải thoát, sự chứng đắc
quả vị Phật, luôn hiện hữu trong mọi chúng sinh. Trong những khổ đau, hoạn
nạn của cuộc sống, người ta thường cầu xin sự giúp đỡ và chở che nhiệm mầu
của Đức Quán Âm, bởi họ cảm nhận Ngài luôn dõi mắt và lắng nghe từng
SVTH: Nhóm 4 Trang 8
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
nhịp đập con tim của họ chẳng khác người mẹ trông con. Vì thế mà Ngài trở
thành mẹ hiền Quán Thế Âm, dân gian còn gọi là Phật Bà. Từ đó, nói đến
“Quán Âm” là nói đến hiện thân của lòng từ bi cao cả, tột cùng của chư Phật
và Bồ tát nhiều đời. Thậm chí, bất kỳ sự linh nghiệm nào mà người ta đón
nhận được từ trong khó khăn, nguy hiểm hay an vui, thuận lợi đều được xem
là có sự cứu độ của Ngài. Và đó là vị bồ tát cứu giúp cho người sống cũng
như cả cho người chết, nhưng trì niệm danh hiệu Ngài trong việc cầu an vẫn
là phổ biến hơn cả.
Niệm hồng danh của Ngài, tham gia vào việc tổ chức lễ hội nhân ngày
vía Quán Thế Âm đã trở thành một lễ hội lớn, mang tính khu vực, vùng, chứ

không còn nằm trong khuôn khổ của một ngôi chùa hay của một đạo Phật ở
Việt Nam nữa. Tính chất rộng mở của lễ hội cho thấy vị trí và tầm quan trọng
của vị bồ tát này trong đời sống tâm linh của từng cá nhân và của cả cộng
đồng.
2.1.2. Chùa Quán Thế Âm Đà Nẵng
Chùa Quán Thế Âm được thành lập vào năm 1957, tọa lạc tại chân núi
Kim Sơn, một trong năm ngọn Ngũ Hành Sơn - TP. Đà Nẵng, là nơi danh lam
thắng cảnh của đất nước. Đặc biệt, nơi đây được gọi là Thánh Địa Phật Giáo,
vì hầu hết trên năm ngọn Ngũ Hành Sơn đều có chùa chiền cổ kính hoặc tân
tạo. Hệ thống hang động thiên nhiên kỳ vĩ, biển rộng sông dài, mái chùa hoặc
ẩn mình trong hang cốc hoặc cheo leo trên sườn vai của núi hoặc uy nghiêm
tọa lạc bên núi vững vàng, sương giáng mây vờn, tàng cây tươi mát, chim hót
lừng vang. Phía Đông biển xa vời vợi, bãi cát trải dài, phía Tây Trường Giang
lượn khúc, sông sen thơm lừng, đồng quê yên ả.
Chùa do cố Hòa thượng Thích Pháp Nhãn trong một giấc thần mộng về
Ngài Quán Thế Âm ứng hiện nơi động thiêng, pháp đàn của Ngài. Theo đó,
SVTH: Nhóm 4 Trang 9
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
Hòa thượng đã tìm thấy ngôi thạch động có tôn tượng Quan Âm hoàn toàn do
thiên nhiên tạo nên thật là ứng nghiệm, từ đó Hòa thượng đã thành lập ngôi
chùa Quán Thế Âm, vì có sự nhiệm mầu của Phật Pháp như vậy khiến lòng
người phải ngưỡng mộ kính tin.
Chùa nằm nép mình dưới ngọn núi Kim Sơn, soi bóng bên dòng sông
Cổ Cò, một nhánh của sông Trường giang. Kim Sơn có dáng hình quả chuông
nên còn có tên dân dã là ngọn núi Chuông Úp. Vào năm 1956, cố hoà thượng
Thích Pháp Nhãn có cơ duyên phát hiện ra một hang động nằm sâu trong lòng
núi hướng ra dòng sông. Đường vào động là những bậc đá tự nhiên. Động có
chiều dài hơn năm chục mét, chiều ngang gần mười mét và trần động nhấp
nhô cao thấp khoảng mười đến mười lăm mét, thuộc vào dạng hang động lớn

của Ngũ Hành Sơn. Điều đặc biệt độc đáo trong hang động này là vô số các
thạch nhũ đầy màu sắc, hình thể phong phú da dạng, trong đó có những tượng
hình rất giống hình dáng thật, do thiên nhiên khắc hoạ với những hình khối
đường nét rõ ràng sắc sảo, chẳng khác nào do những nghệ nhân tài hoa chạm
trổ công phu. Bước vào động phía trước mặt ngước nhìn trên vách đá, nổi bật
lên pho tượng Quan Thế Âm, là một vị Thánh trong Phật giáo. Pho tượng cao
bằng hình người (1,75m), cân phân, thanh tú, một giải kim tuyến lấp lánh, rực
sáng, bề ngang hơn gang tay phủ từ bờ vai chảy dài đến hết thân tượng, làm
cho bức tượng hết sức sống động huyền ảo, bàn tay phải bưng bình nước cam
lồ, chân tượng đứng trên lưng rồng đang cuộn mình giữa tầng sóng gợn. Phía
sau, hình một đứa bé tượng trưng Thiện Tài đồng tử. Phía trên, bên trái, hình
con chim khổng tước hai cánh toả rộng trần động, bên phải là khóm trúc, sau
lưng là một dải mây đá ngũ sắc lung linh. Nhìn tổng thể, đây là một bức
tượng phù điêu kết hợp hài hoà rất tài tình, gồm ba sự tích về Quán Thế Âm
là Quan Âm Nam Hải tức Quan Âm ở biển phương Nam, Quan Âm Tống Tử
SVTH: Nhóm 4 Trang 10
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
là Quan Âm Thị Kính, Quan Âm hàng phục độc long (tức con rồng dữ) gây
sóng gió ngoài biển khơi trong kinh Pháp Hoa.
Điều đáng kinh ngạc và thán phục là chỉ với sự xâm thực nước gió
cộng với thời tiết thiên nhiên đã tạo thành một tác phẩm phù điêu hoàn hảo,
tuyệt mỹ đến từng chi tiết như đã mô tả. Đó là cái kỳ diệu vô giá của hang
động Quan Âm. Ở giữa tiếng như chuông ngân, đây là cái chuông đá lớn hiếm
có và duy nhất tại di tích này, các chỗ trong hang động động từ trên vòm
động, một khối thạch nhũ bằng cây cột lớn, dài hơn năm mét thòng xuống sát
đất, gõ vào phát ra còn có trống, mõ, khánh âm thanh khá chuẩn, tạo thành
một bộ nhạc khí trong nghi lễ của chùa Phật giáo, tất cả cũng chỉ từ đá sinh ra.
Ở gần cuối hang động, là một hang động nhỏ, hơi cúi thấp người để đi
qua một đường hang hơi hẹp sẽ gặp một hồ nước mát, trong vắt quanh năm

gọi là nước Cam lồ. Hồ nước này có một khoảng không gian riêng, như một
cái động nhỏ kế tiếp hang động chính vậy.
Một điều khác nữa của hang động này, là không khí hang động vừa linh
thiêng vừa huyền bí vừa trang nghiêm vừa thân thuộc, vừa như cái bên ngoài
đời và cái bên trong cõi lòng. Một không khí của đạo, của đời hoà lẫn trong
hơi thở, trong cảm xúc sống của con người. Là nhân tố hình thành nên ngôi
chùa Quán Thế Âm và một Lễ hội văn hoá.
Chùa Quán Thế Âm tọa lạc tại địa chỉ 48 Sư Vạn Hạnh, quận Ngũ
Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, trụ trì chùa hiện nay là Đại đức Thích Huệ
Vinh, cảnh quan chùa rộng rãi, nhiều công trình được xây dựng như tượng
đồng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm rất đặc sắc, hội trường, tăng xá,
thuận lợi cho việc tu tập và sinh hoạt, số tăng chúng tu học tại chùa gồm 40
vị, có các đạo tràng tu học - tương tế - từ thiện - văn nghệ, thư họa, Ngôi
chùa hiền hoà cổ kính, hang động thâm sâu huyền bí, là sự hổ tương cộng
SVTH: Nhóm 4 Trang 11
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
hưởng, tạo cho Ngũ Hành Sơn một sắc thái thiêng liêng sâu lắng, thanh thoát
cao thượng cho tâm hồn, đó cũng là một bản sắc văn hoá đặc trưng. Sự thẩm
thấu toả rộng theo dòng thời gian và hội tụ lòng ngưỡng mộ của con người
trong tinh thần cộng đồng truyền thống dân tộc, từ đó hình thành nên một lễ
hội văn hóa kết hợp giữa đời và đạo, là nhịp cầu giao hoà cảm thông giữa con
người và thiên nhiên một quan hệ mật thiết muôn thuở.
2.2. Lễ hội Quán Thế Âm Đà Nẵng
2.2.1. Xuất xứ của lễ hội
Chùa Quán Thế Âm có một phúc duyên lành lớn, diệu kỳ, đó là Đức
Bồ Tát Quán Thế Âm đã thị hiện tôn tượng của Ngài một cách rất thiêng liêng
mầu nhiệm tại thạch động chùa Quán Thế Âm, tượng hoàn toàn do thiên tạo
ứng linh, vì lẽ đó, người có tín tâm thường đến nơi đây để cầu nguyện, nhất là
ngày Đản sanh của Ngài 19/2 âm lịch hằng năm có đến hàng ngàn thập

phương - thiện tín về đây chiêm bái, nguyện cầu. Chư tôn túc trong thành phố
và chùa Quán Thế Âm đã tổ chức thành ngày Lễ hội Quán Thế Âm 19/2 hàng
năm nhằm mục đích làm cho sự sinh họat này có ý nghĩa và thăng hoa hơn, để
hoằng dương Phật Pháp. Đây thật sự là lễ hội mang tính đặc thù của Phật giáo
- dân tộc, tổ chức hoạt động biểu diễn nghệ thuật, thể hiện văn hóa Phật giáo
hòa quyện với văn hóa dân tộc tự nghìn xưa văn hiến, làm cho tính cách hữu
ích thiện lợi của Phật giáo được thể hiện rõ nét trong xã hội, trong lòng người.
Lễ hội này còn là dịp để thiện tín tỏ lòng kính ngưỡng tri ân Đức Từ Bi cứu
độ vô lượng của Ngài đối với chúng sanh, với tất cả chúng ta, học theo hạnh
nguyện của Ngài làm những việc từ thiện, công đức.
Lễ hội Quán Thế Âm trải qua nhiều giai đoạn, hoàn cảnh thăng trầm
của đất nước, cũng như hội tụ đầy đủ những nhân tố phù hợp và có ý nghĩa về
SVTH: Nhóm 4 Trang 12
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
văn hoá lễ hội. Tại ngọn núi Thuỷ Sơn, có ngôi chùa Tam Thai - Linh ứng,
nơi động Hoa Nghiêm vào năm 1957, tôn trí pho tượng bồ tát Quán Thế Âm
bằng vật liệu xi măng. Năm 1960, nơi đây được giáo hội tổ chức lễ hội Quan
Âm với nghi lễ thuần tuý tôn giáo và chỉ tổ chức một lần đó mà thôi.
Lễ hội Quán Thế Âm đã đi vào lòng người, sự ngưỡng mộ của phật tử,
người dân đối với đức Quán Thế Âm rất sâu rộng. Vào thập kỷ 90, cố Thượng
toạ Thích Huệ Hướng, vị kế tục ngôi chùa Quán Thế Âm có ý nguyện khôi
phục lại lễ hội. Vào thời điểm mà Unesco phát động thập kỷ văn hoá về
nguồn, khuyến khích các dân tộc trên thế giới bảo vệ và phát huy gia tài văn
hoá cổ truyền, để khi nhân loại bước vào thế kỷ 21, xu thế toàn cầu hoá sẽ
không mai một hay mất đi cái giá trị bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Cùng
lúc trong nước các lễ hội đang phục hồi và phát triển mạnh mẽ rộng khắp.
Vào năm 1991, chùa Quán Thế Âm quyết định phục hồi và tổ chức lễ
hội tại địa điểm ngọn núi Kim Sơn của danh lam thắng cảnh Ngũ Hành Sơn,
Một lễ hội thể hiện đúng tiêu chuẩn của lễ hội văn hoá, đó là phần Lễ và phần

Hội. Đến năm 2000, Lễ hội Quán Thế Âm là một trong 15 Lễ hội của chương
trình “Chào đón và điểm đến Thiên niên kỷ mới của Quốc gia”. Vì vậy, để
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của Lễ hội ngày càng đông đảo Thập phương thiện
tín về hành hương tham dự và tương xứng với tầm vóc của một Lễ hội tầm cỡ
Quốc gia, chùa Quán Thế Âm phát nguyện kiến tạo xây dựng công trình công
viên thánh tích Lễ hội Quán Thế Âm 19/2 Ngũ Hành Sơn - TP. Đà Nẵng. Đặc
biệt, sẽ kiến tạo một tôn tượng Quán Thế Âm lộ thiên được thực hiện theo
công nghệ bằng chất liệu pha lê có chiều cao từ 12m đến 25m.
2.2.2. Diễn biến lễ hội
Lễ hội Quán Thế Âm diễn ra trong 3 ngày từ ngày 17 đến ngày 19
tháng 2 âm lịch hàng năm. Cũng như bao lễ hội khác, lễ hội gồm có hai phần:
SVTH: Nhóm 4 Trang 13
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
Lễ và Hội. Phần lễ mang đậm màu sắc lễ nghi Phật giáo hoà quyện với phần
hội là những sinh hoạt văn hoá cổ truyền đậm tính nhân văn và bản sắc văn
hoá dân tộc.
a. Phần lễ
Trong các ngày lễ hội, phần nghi lễ tín ngưỡng được chư tăng, phật tử,
tổ chức những khoá lễ nguyện cầu cho sự an lành đến với mọi người, nghi lễ
thuần tuý trong sáng về tâm linh, hài hoà với phần văn hoá hội, thể hiện sự kết
hợp nhịp nhàng giữa Lễ và Hội, một nét đẹp văn hoá đặc trưng của lễ hội
Quán Thế Âm.
Ngày 19/2 âm lịch, là ngày lễ chính thức Lễ Hội Quán Thế Âm, Từ
sáng tinh mơ từng đoàn người từ khắp ngả đường đổ dồn về Ngũ Hành Sơn,
mọi người hân hoan, náo nức về dự hội. Suốt một năm đợi chờ, vào mùa xuân
lễ hội, là dịp về tham quan danh lam thắng cảnh, chiêm bái thánh tích,
ngưỡng mộ Bồ Tát Quán Thế Âm, một không khí rộn rã nhộn nhịp, dâng tràn
niềm tin và sâu lắng thiêng liêng, ngày hội Quán Thế Âm có một sức thu hút
kỳ lạ, một nhu cầu tinh thần cần thiết đối với bà con Đà Nẵng cũng như có tín

ngưỡng hướng về Đức Từ Bi Quán Thế Âm, một tình cảm như bà mẹ hiền
bảo hộ chúng sanh.
Trước lễ đài cờ hoa rực rỡ, tràn ngập người về dự lễ hội, nghiêm trang
tề chỉnh, thành kính hướng về lễ đài, nơi tôn trí tôn tượng Bồ Tát Quán Thế
SVTH: Nhóm 4 Trang 14
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
Âm, Chư vị giáo phẩm Phật giáo, trong lễ phục màu vàng trang nghiêm, cùng
quý vị đại biểu quan khách, theo sau đội lễ nhạc rước kiệu tiến lên lễ đài để
trang trọng cử hành trọng thể nghi lễ chính thức lễ hội, tiếng kinh cầu nguyện
của hàng vạn người, tưởng niệm ân đức của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm,
nguyện cầu quốc thái dân an, chúng sanh an lạc. Tiếng kinh cầu trầm bổng
hoà âm vào khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ của sông núi, một nguồn cảm xúc
vô biên tạo nên một giai điệu cộng hưởng của hàng vạn tâm hồn cùng nhau
chan hoà vào không gian ngày hội và như thấm vào các ngọn núi của chất vị
thiêng liêng, những ngọn núi này có chùa, có phật và có cả hồn thiêng sông
núi.
Chương trình được tiếp nối với hoá trang Phúc Lộc Thọ hát chúc mừng
lễ hội, chúc mừng chư vị Tăng Ni, quan khách, đồng bào, bà con phật tử về
dự hội. Từng đoàn hoá trang các chủ đề văn hoá của các đoàn thể, đơn vị diễn
qua lễ đài trong điệu nhạc và bài hát của lễ hội ca. Rồi từng đoàn người lần
lượt lên lễ đài chiêm bái hình ảnh đức Quán Thế Âm, một điều mong ước tốt
đẹp, hạnh phúc cho mình, trong giờ khắc linh thiêng nhiệm màu của không
khí ngày lễ hội.
Nhìn chung, phần lễ mang màu sắc lễ nghi Phật Giáo với các nội dung
cụ thể như sau:
- Lễ Khai kinh, Thượng kỳ, Thượng phan: Tổ chức vào sáng ngày 17/2
âm lịch, do chùa Quán Thế Âm và trại sinh trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn
thực hiện.
- Lễ tế xuân, cúng Sơn thần, Thổ thần: Lễ này cầu cho quốc thái dân an,

được tổ chức vào lúc 17h30 ngày 17/2 âm lịch, do Hội Người cao tuổi
phường Hòa Hải thực hiện. Trong ngày lễ, các bô lão khăn áo chỉnh tề, tay
cầm cờ lọng, đuốc, lồng đèn, có đội nhạc cổ và chiêng trống đi theo. Sau khi
SVTH: Nhóm 4 Trang 15
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
làm lễ và đọc văn tế, đoàn bô lão sẽ dẫn đầu đoàn rước cộ xuống bờ sông Cầu
Biện, một nhánh của sông Cổ Cò, để mở hội Hoa đăng, rồi từ chùa Quán Thế
Âm đi quanh các khu phố, qua các làng đá mỹ nghệ Non Nước, xuống khu du
lịch Non Nước và trở về lại lễ đài, với lộ trình dài hơn 2km.
- Lễ rước ánh sáng: Nghi lễ rước ánh sáng thường tổ chức vào tối ngày
18/2 âm lịch. Ánh sáng tượng trưng cho trí tuệ. Theo đạo phật, từ bi tức là
tình thương, từ bi mà không được trí tuệ soi sáng thì từ bi sẽ lầm lạc, mê mờ.
Vì thế, lễ hội Quán Thế Âm có chương trình rước ánh sáng: Từng đoàn, từng
đơn vị rước kiệu, trống chiêng, múa lân. Ánh đuốc bập bùng diễn hành qua
các con đường hướng về ngọn núi Thuỷ Sơn, hàng hàng lớp lớp người hoà
nhập cùng đoàn rước kiệu, ánh đuốc lung linh, tiếng trông rền vang như làm
chuyển động cảnh vật núi non ý nghĩa đem rước ánh sáng hết sức tuyệt vời.
Sau phần nghi lễ là các hoạt động: Rước đuốc, rước kiệu, múa lân - sư -
rồng để cầu mong ánh sáng soi đường cho chúng sinh, mà trong phật giáo ánh
sáng đồng nghĩa với trí tuệ, trí tuệ sáng thì tấm lòng, đạo đức trong sáng, sẽ
làm nhiều việc thiện.
- Lễ trai đàn chẩn tế: Được tổ chức vào sáng ngày 19/2 để cầu siêu,
cúng thập loại chúng sinh, thường trước đó đồng bào phật tử gởi danh sách
những người thân của mình đã mất đến chùa để làm lễ cầu siêu. Trong lễ này
phải mời người có giới phẩm đứng ra làm lễ.
- Lễ thuyết giảng về Đức bồ tát Quán Thế Âm và dân tộc: Lễ này cũng
được tổ chức vào sáng ngày 19/2, nhằm ngợi ca lòng từ bi bác ái của bồ tát
Quán Thế Âm và cầu nguyện cho dân tộc an bình, thịnh vượng.
- Lễ rước Tôn tượng bồ tát Quán Thế Âm: Lễ này tổ chức vào khoảng

10 giờ sáng ngày 19/2 Âm lịch. Sau các nghi lễ trên, bốn người khiêng kiệu,
trên có tượng Phật Bà, đi trước, và đồng bào Phật tử đi sau. Kiệu được khiêng
SVTH: Nhóm 4 Trang 16
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
từ trên chùa và đi xuống chiếc thuyền đậu trên sông Cầu Biện, sau đó cho
thuyền chạy vòng quanh sông Cổ Cò. Lễ này nhằm cầu nguyện cho đồng bào,
chúng sinh làm nghề đi biển, làm ăn trên sông nước được thuận lợi bình an.
- Lễ vía Đức bồ tát Quán Thế Âm: Đây là lễ chính của lễ hội. Lễ vía
được tổ chức vào ngày 19/2 âm lịch do Ban tổ chức lễ hội, Ban Trị sự Phật
giáo thành phố Đà Nẵng và Ban đại diện Phật giáo quận Ngũ Hành Sơn tổ
chức.
Hình ảnh phần lễ

SVTH: Nhóm 4 Trang 17
Quang cảnh lễ cầu nguyện thế giới hòa
bình tại Lễ hội Quán Thế Âm
Hoa tương và kiệu rước rất long trọng
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng


SVTH: Nhóm 4 Trang 18
Đức pháp vương thuyết giảng Lễ cầu quốc thái dân an
Lễ rước Quán Thế Âm Hoá trang Quán Thế Âm
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
b. Phần hội
Phần hội diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hoá - thể thao mang
đậm bản sắc dân tộc xen lẫn với hiện đại như hội hoá trang, hát bội (tuồng),

thi các môn: Thi pháp, tranh thuỷ mặc, thả đèn trên sông Cổ Cò (hoa đăng),
đua thuyền, lắc thúng chai, kéo co, bơi chải, thi nấu ăn chay, trang trí cổng
trại, hát bài chòi, thiền trà, triển lãm tượng đá và hội thi điêu khắc đá của làng
đá mỹ nghệ Non Nước,… kéo dài trong suốt 3 ngày, 3 đêm trong khuôn viên
chùa Quán Thế Âm, núi Kim Sơn và bên bờ sông Cổ Cò.
Đối với hoạt động du lịch, lễ hội Quán Thế Âm nằm trong chương trình
hành động quốc gia về du lịch và các sự kiện du lịch. Lễ hội đã được Bộ Văn
- Thông tin (nay là Bộ Văn hoá - Thể Thao và Du lịch) đưa vào danh mục 15
lễ hội lớn của cả nước là cơ hội để quảng bá về khu di tích danh thắng Ngũ
Hành Sơn một cách sâu rộng, góp phần thu hút khách du lịch đến với Ngũ
hành Sơn nói riêng, thành phố Đà Nẵng nói chung ngày càng đông hơn.
- Lễ Khai Hội: Tiếng chuông trống khai hội hùng tráng vang dội lan xa
báo hiệu cho mọi người biết ngày hội lại về. Hàng đoàn người nhộn nhịp, các
đơn vị, đoàn thể rước kiệu về dự lễ khai hội. Kiệu rước “Bằng Di Tích Lịch
Sử văn hoá Ngũ Hành Sơn” cấp quốc gia được nhà nước công nhận, do ban
quản lý khu thắng cảnh du lịch Ngũ Hành Sơn rước, kiệu rước bài vị và tượng
ông Tổ nghề đá Non Nước, do các nghệ nhân phụ trách, và các kiệu rước với
các chủ đề văn hoá nhiều mầu sắc đa dạng phong phú của nhiều đoàn thể,
phật tử cùng tham gia. Hàng trăm các vị bô lão tại địa phương trang trọng
trong bộ lễ phục cổ truyền, trang nghiêm thành kính hướng về giờ phút thiêng
liêng của sông núi. Từng lời, từng lời văn tế được xướng lên để bố cáo trời
đất, thần hoàng bổn xứ, nguyện cầu quốc thái dân an. một bầu không khí hết
sức tín thành lắng đọng, lung linh huyền ảo giữa khói hương trầm nghi ngút,
SVTH: Nhóm 4 Trang 19
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
lan toả vào tâm hồn của mọi người về dự khai hội. Hát mừng khai hội, đoàn
tuồng văn nghệ với những tiết mục vũ điệu được dàn dựng công phu thể hiện
nghệ thuật dân tộc sâu đậm, chào mừng ngày hội lại về trong mùa xuân.
Có năm trong buổi lễ khai hội, hoá trang diễn lại sự tích vua Minh

Mạng 3 lần ngự đến tham quan thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, và thuyền vua cập
bến tại bến Ngự ở phía trước chùa Quán Thế âm, Minh Mạng là vị vua triều
Nguyễn có công lớn bảo vệ và tôn tạo thắng cảnh này. Lễ hoá trang rước vua
với phong cách nghệ thuật cổ xưa, ôn diễn lại một khoảnh khắc của lịch sử.
Lễ khai hội biểu hiện một tinh thần văn hoá đậm đà truyền thống dân tộc, nối
kết quá khứ, hiện tại và hướng đến tương lai.
- Sinh hoạt trại: Lễ hội Quán Thế Âm có những đặc điểm là có chương
trình cắm trại suốt 3 ngày lễ. Rất nhiều trại của các vị đạo hữu, phật tử trong
các chúng nhóm, đạo tràng tu học của chùa Quán Thế Âm, trong các chúng
này phần nhiều là các vị trung niên và lớn tuổi. Mỗi trại đều được trang trí rất
đẹp và có cổng chào, có chương trình sinh hoạt và giao lưu với nhau, tạo nên
một nét đẹp dặc trưng, điểm xuyết tuyệt vời trong các ngày lễ hội.
Ngoài ra còn có khu vực trại khá quy mô đa dạng phong phú của gia
đình phật tử, một tổ chức thành đoàn thể thuộc lứa tuổi thanh thiếu nhi phật
giáo. Hàng ngàn trại sinh trên 50 đơn vị của tổ chức gia đình phật tử tại thành
phố Đà Nẵng với đồng phục màu lam, hàng năm về cắm trại để tham gia lễ
hội và đã trở thành một sinh hoạt truyền thống của gia đình phật tử với nhiều
tiết mục và bộ môn nghệ thuật của tuổi trẻ, góp phần vào ngày hội hết sức
sinh động tươi vui.
- Các sinh hoạt văn hóa: Triển lãm phòng tranh thư pháp, cắm hoa,
thuyết trình các đề tài văn hoá liên quan về lễ hội, thi nấu cơm chay. Trò chơi
kéo co, nhảy lò cò. đẩy cây của các đoàn thể thanh niên tại địa phương quận
SVTH: Nhóm 4 Trang 20
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
Ngũ Hành Sơn, các trò chơi lớn của gia đình phật tử, được diễn ra tại các
ngọn núi. Các trò chơi sáng tạo là niềm vui của tuổi trẻ và những kinh nghiệm
học hỏi, mỗi khi có dịp về dự hội tại thắng cảnh thiên nhiên và di tích văn
hoá.
- Đua ghe: Nơi đây có dòng sông ở phía trước chùa và khu vực lễ hội,

nên mỗi mùa lễ hội đều có tổ chức đua ghe là một sinh hoạt văn hoá thể thao
rất hào hứng, đông đảo đồng bào hưởng ứng cổ vũ. Đua ghe là một bộ môn
nghệ thuật rất được người Việt nam ưa thích, vì thế đua ghe là một bộ phận
gắn bó với lễ hội.
- Văn nghệ: Văn nghệ lửa trại của các gia đình đơn vị gia đình phật tử,
ánh lửa bập bùng nối vòng tay lớn, làm ấm áp không gian sông núi, rộn ràng
niềm vui tuổi trẻ. Các đoàn tuồng văn nghệ diễn các sự tích liên quan đến Bồ
tát Quán Thế Âm, hát mừng lễ hội.
- Hoa đăng: Lễ hội Quán Thế Âm là lễ hội thấm đượm chất triết lý và
nhân sinh, hài hoà vào cảnh vật thiên nhiên, hội tụ những nhân tố thuận lợi
thể hiện những màu sắc văn hoá nghệ thuật. Những ngọn đèn hình hoa sen
được thả xuống dòng sông, ánh sáng hoa đăng huyền ảo bập bềnh trôi theo
dòng nước rực rỡ sắc màu, thắp sáng dòng đời trong màn đêm u tối, ánh sáng
kỳ ảo sẽ là ước vọng tươi sáng của cuộc đời.
Lễ hội ở mỗi năm có những nét mới, đặc trưng riêng, năm sau có nhiều
nét độc đáo hơn năm trước. Có thể lấy ví dụ từ năm 2007 đến nay như:
Năm 2007, đưa ra quyển tranh về bồ tát quán thế âm lớn nhất Việt
Nam, bức phướn nhà phật dài nhất Việt Nam và bức thư pháp cầu quốc thái
dân an lớn nhất Việt Nam. Quyển tranh mô tả hình tướng của đức Bồ tát
Quán Thế Âm hoá thân, có kích thước cao 2,551m (gợi ý Phật lịch 2551) và
chiều ngang 2,07m (gợi ý dương lịch 2007). Quyển tranh gồm 19 trang với 84
SVTH: Nhóm 4 Trang 21
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
hình vẽ về các hiện thân đức Bồ tát Quán Thế Âm và ý nghĩa của các hình
tướng ngài hóa thân. Quyển tranh có diện tích 100m
2
in trên nhựa hiflex dầy,
dựng bằng khung sắt, có chiều dài khoảng 40m.
Từ năm 1992 trở lại đây, chùa Quán Thế Âm cứ 5 năm một lần trong

dịp lễ đức Bồ tát Quán Thế Âm lại tổ chức viết một bức phướn dài 100m thả
từ đỉnh Kim Sơn (Ngũ Hành Sơn) xuống đến chân núi. Những dòng chữ Hán
trên bức phướn do Sư cụ Thích Định Quang (năm nay 86 tuổi - tu tại chùa
Pháp Lâm - Tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng) khai bút. Có trên 300 chữ Hán viết
trên giấy ngũ sắc dán lên trên bức phướn, có nội dung phụng thỉnh chư Phật,
Bồ tát, thần thánh, thập loại cô hồn chúng sinh về dự lễ hội Quán Thế Âm.
Bức phướn được xem như một loại giấy mời dự hội của nhà Phật.
Bức thư pháp bằng vải màu vàng đất dài 38m, rộng 1,8m (diện tích
68,4m
2
), trên có 14 đại tự (mỗi đại tự có kích thước 1,6m x 1,4m) viết theo
kiểu thư pháp mực tàu màu đen, đóng dấu triện đỏ (dòng chữ “Lễ hội Quán
Thế Âm 2007”). Mười bốn đại tự có nội dung: “Nguyện cầu quốc thái dân an
- thế giới hòa bình - chúng sanh an lạc”. Bức thư pháp được thể hiện bởi 14
nhà thư pháp, như: Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Nguyệt Đình (Huế), Hồ Công
Khanh, Ái Diệp, Phước Quang, Ngọc Thạch, Hoàng Phú, Thế Mẫn (Đà
Nẵng), Nguyễn Thanh Sơn, Đào Diễm, Tuấn Hải, Thiện Dũng, Bùi Hiến,
Phạm Tiến (thành phố Hồ Chí Minh). Sau khi viết xong và đóng triện đỏ, bức
thư pháp được thả bay lên trời ở độ cao 50m nhờ một hệ thống 6 đến 8 quả
khinh khí cầu (có đường kính 2,8m) có tên gọi “Cam Lồ Pháp Vũ”.
Năm 2008, đã giới thiệu với du khách hai tác phẩm đó là Bức tranh
Ngũ Cốc có kích thước 14x2,8m thực hiện bằng 200kg ngũ cốc các loại với ý
nguyện cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, đất nước phồn vinh
SVTH: Nhóm 4 Trang 22
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
và tấm thiệp chúc mừng Tết Mậu Tý 2008, hai mặt lớn nhất từ trước đến nay
(8mx5m).
Năm 2009, lễ hội có nhiều hoạt động văn hóa đặc sắc như triễn lãm bức
tranh kỷ lục Việt Nam làm bằng vỏ lon bia về đề tài Đà Nẵng - thành phố môi

trường và triển lãm Tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Điểm nhấn mới lạ
và hấp dẫn nhất trong lễ hội là Triển lãm tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng
ngọc bích trong suốt, có tên gọi “Phật Ngọc cho hòa bình thế giới”, tính cả
tháp tòa và đài sen cao gần 4m, nặng 4.650kg. Bức tượng do ông IaGreen,
Giám đốc Công trình tòa bảo tháp Australia chế tác và đã được triển lãm tại
các thành phố của châu Á, châu Úc,…
Ngoài ra, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những sản phẩm đá của các
nghệ nhân làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước chế tác và chứng kiến cuộc so tài
viết thư pháp. Bên cạnh đó, Hội thi cờ tướng (cờ người) cũng được tổ chức
cùng với Hội thi hát hò khoan đối đáp trên sông Cổ Cò, Hội hoa đăng với quy
mô lớn. Năm nay (2010), ngoài các chương trình truyền thống lễ hội có sự
xuất hiện của Đức Pháp vương Gylwang Drukpa đời thứ XII (người đứng
đầu, đồng thời nắm giữ dòng truyền thừa Drukpa ở Ấn Độ và nhiều quốc gia
khác) cùng tăng đoàn về thuyết pháp, cầu nguyện quốc thái dân an.
Khách thập phương còn được dịp chiêm ngưỡng ba báu vật của lễ hội:
Hồng danh bảo tượng “Ngọc Quan Âm cho tình thương nhân loại” (được tạc
bằng chính khối ngọc thiêng liêng Polar Pride, một phần của khối ngọc tạo
nên “Ngọc Phật cho hòa bình thế giới”); bức tranh “Thiên Long Việt đồ” do
nghệ nhân Ngọc Minh (Nam Phước, Duy Xuyên, Quảng Nam) chế tác từ ý
tưởng 999 con rồng mạ vàng, ghép thành bản đồ Việt Nam; bức tranh chùa
Một Cột - bức tranh kỷ lục bằng bột đá ngọc này là phiên bản tái hiện bức
tranh “Chùa Một Cột” bằng lối ghép theo bộ kinh Kim Cang hơn 7.000 chữ,
SVTH: Nhóm 4 Trang 23
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng
được xây dựng theo thần mộng của vua Lý Thái Tổ. Cũng tại đây, sáng ngày
3/4 đã diễn ra lễ động thổ xây dựng chùa Quán Thế Âm bằng đá ngọc với
diện tích 4.200m
2
. Chùa được xây dựng theo lối cấu trúc tòa sen năm cánh

tượng trưng cho ngũ trí - ngũ nhãn của Phật và Bồ tát, tượng trưng cho thuyết
Ngũ Hành của dịch lý Đông phương ứng với danh thắng Ngũ Hành Sơn.
Hình ảnh phần hội

SVTH: Nhóm 4 Trang 24
Hội đua thuyền trên sông Cổ Cò Thả hoa đăng
- Phong tục tập quán lễ hội Việt Nam - GVHD: ThS. Nguyễn Mạnh
Hồng

SVTH: Nhóm 4 Trang 25
Múa thiên thủ thiên nhãn

×