Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

D:điện biên phủ-huyền thoại trận đánh.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.32 KB, 11 trang )

ĐIỆN BIÊN PHỦ - HUYỀN THOẠI MỘT TRẬN ĐÁNH
56 năm đã trôi qua kể từ ngày quân, dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", nhưng ý nghĩa và tầm vóc của
sự kiện lịch sử trọng đại này không hề phai mờ, mà trái lại, những bài học lịch
sử vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.

Kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác Hồ đã viết: “Điện Biên Phủ
như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa
thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc
khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”. “Đó là thắng lợi vĩ đại
của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức
trên thế giới.”

Ý nghĩa to lớn của chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ

Trong bài viết đăng trên tạp chí Cộng sản số ra ngày 7/5/2009, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã viết: Điện Biên Phủ là trận đánh tiêu diệt và bắt sống quân
viễn chinh xâm lược lớn nhất, gọn nhất của quân đội ta, dân tộc ta và của
phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược
Đông - Xuân 1953 - 1954 là chiến công lớn nhất, chói lọi nhất của toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-
1954). Chiến thắng này góp phần quyết định đập tan hoàn toàn dã tâm xâm
lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, kết thúc
chiến tranh ở Đông Dương, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam,
Lào và Cam-pu-chia, góp phần quan trọng đối với phong trào giải phóng dân
tộc, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là sự kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó


quan trọng nhất là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu; của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng, sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, của ý chí quyết chiến, quyết
thắng và sức mạnh của Quân đội nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đồng thời là chiến thắng của tình đoàn kết
chiến đấu bền chặt, thủy chung, son sắt giữa quân đội, nhân dân 3 nước
Đông Dương và sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em và bạn
bè quốc tế.

Chiến công đó tô thắm thêm truyền thống vẻ vang: "Trung với Đảng, hiếu với
dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ý nghĩa to lớn của chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đối với dân tộc ta là như
vậy.
Một chiến dịch lừng danh địa cầu

Ngày 20/11/1953, dưới sự chỉ huy của thiếu tướng Gin (Gilles), Pháp mở cuộc
hành quân Hải Ly) nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ. Lực lượng huy động gồm
hơn 60 máy bay Đa-kô-ta chở sáu tiểu đoàn dù với quân số 4.545 tên cùng
với 190 tấn vũ khí đạn được và các thiết bị chiến tranh. Tướng Cô-nhi, chỉ huy
quân đội Pháp ở Bắc Bộ coi đây là “khởi đầu của một cuộc chiến tranh đại
quy mô…”

Trong kế hoạch Na-va đông xuân 1953-1954, Bộ Tổng tham mưu Pháp muốn
giăng một cái bẫy dụ đối phương vào tròng. Cái bẫy đó, theo họ, phải được
chuẩn bị chu đáo tới mức khi quân Việt Minh nhảy vào sẽ gặp một sự kháng
cự, một hoả lực mạnh không thể lường trước. Cái bẫy đó là Điện Biên Phủ.


Ngày 5/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Bộ Chỉ huy tiền phương của
Bộ Tổng tư lệnh rời căn cứ địa Việt Bắc lên đường đi chiến dịch Điện Biên
Phủ. Mười hai ngày sau, ông đến khu rừng nguyên sinh thuộc xã Mường
Phăng, nơi đặt Sở chỉ huy và cũng là nơi ông làm việc suốt thời gian diễn ra
chiến dịch. Đất Điện Biên, rừng Điện Biên chở che cho ông, người Điện Biên
dành cho ông những tình cảm thân thương nhất. Cũng kể từ đấy tên tuổi của
ông đã gắn liền với vùng đất huyền thoại này.

Tại đây, ngày 26/1/1954, chỉ mấy tiếng đồng hồ trước khi nổ súng mở màn
chiến dịch, ông đã có “quyết định khó khăn nhất” trong đời binh nghiệp:
chuyển từ phương châm “Đánh nhanh thắng nhanh” như kế hoạch ban đầu
sang “đánh chắc, tiến chắc” bảo đảm cho chiến dịch toàn thắng, làm nên vinh
quang cho dân tộc.
Ngày 13/3/1954, quân đội Việt Nam mở cuộc tiến công lớn đầu tiên vào tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Về sau này, Đại tá Lăng-gle, tư lệnh lục quân,
viết lại: “Thời điểm chúng tôi dự kiến cuộc tiến công của tướng Giáp là 5 giờ
chiều ngày 13/3. Nhưng đúng 5 giờ chiều chẳng có gì xảy ra như dự kiến.
Vậy cho nên tôi cho tiến hành một trận pháo kích… Đúng lúc đó, 200 trái đạn
của tướng Giáp dội vào sân bay và khu trung tâm trên một mặt phẳng theo
hình tam giác. Hàng rào đạn kéo dài một giờ đồng hồ. Nó kéo dài như vô tận.”

Vẫn theo đại tá Lăng-gle, cho đến lúc đó, pháo binh Pháp vẫn chưa định
hướng nổi các cỗ pháo của tướng Giáp, ngay cả lúc nòng pháo họ phát hoả.
Tướng Na-va tại Hà Nội theo dõi chặt chẽ đã tỏ ra kinh ngạc. Mọi pháo thủ
Pháp hay Mỹ đã từng quan sát Điện Biên Phủ, ngay cả người Mỹ đang ở đây
đều nghĩ Việt Minh đang ở đằng sau các mỏm đồi nã pháo vào quân ta. Điều
kinh ngạc nữa là làm sao họ có thể mang nổi pháo lại gần hơn điều mà ta có
thể nghĩ ra. Cách giải thích đó nói lên sai lầm của pháo binh Pháp khi đánh
giá tình hình và tôi cũng phải chịu trách nhiệm vì tôi là người chỉ huy cao nhất.


Ngay giờ đầu tiên, 500 lính Pháp đã tử trận trên quả đồi. Vào xế chiều, Việt
Minh tung cả sư đoàn bộ binh đánh chiếm Bê-a-tri-xơ (Him Lam), điểm chốt
của trung tâm, đến nửa đêm thì Bê-a-tri-xơ chỉ còn là một nấm mồ. Chỉ có 200
binh sĩ trong số 700 quân đồn trú thoát chạy. Sau thảm hoạ đầu tiên này, Tư
lệnh pháo binh, đại tá Sác-lơ Pi-rốt đã tự sát.
Ngày 30/3/1954, đợt tiến công thứ hai của quân ta vào cứ điểm Điện Biên
Phủ bắt đầu. Ngày 1/4, tướng Na-va quyết định đưa thêm ba tiểu đoàn dù
tăng viện cho Điện Biên Phủ với mong muốn “Nếu Điện Biên Phủ giữ được ba
ngày nữa, Việt Minh sẽ phải bỏ cuộc”.

Ngày 1/5/1954, đợt tiến công thứ ba, cũng là đợt tiến công cuối cùng của
quân ta vào Điện Biên Phủ bắt đầu.

Ngày 6/5, quân đội Pháp tất cả đều đã kiệt sức, hoàn toàn rã rời. Hết cả đạn
dược. Quân số cũng cạn.

Ngày 7/5, khi quân Việt Minh tới, đại tá Lăng - gle kêu gọi sĩ quan nào còn
sống sót tới xung quanh để bắt đầu một cuộc thử sức cuối cùng, nhưng
không ai còn khả năng chống cự lâu được nữa. Đại tá Lăng - gle báo cáo lên
tướng Đờ Ca-xtơ-ri. Tướng Đờ Ca-xtơ-ri gọi cho Hà Nội và thông báo cuộc
chiến đấu đã chấm dứt rồi.

Đúng 5 giờ chiều ngày 7/5/1954, kể từ giờ phút mở màn đã là 55 ngày, những
anh bộ đội cụ Hồ đội mũ nan, lưỡi lê đầu súng bước vào chỉ nói: “Đứng dậy!”.
Tháng 5 năm 1954, Điện Biên Phủ vốn là một bản quê hẻo lánh ở vùng núi
rừng Tây Bắc Việt Nam bỗng trở thành một địa danh “lừng lẫy năm châu”. Với
nhân dân ta, chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những trang chói lọi nhất
trong lịch sử chống ngoại xâm. Với thế giới, Điện Biên Phủ được biết đến như
một đòn trí mạng giáng vào chủ nghĩa thực dân cũ và dẫn đến sự sụp đổ của
nó trên phạm vi nhiều châu lục. Với đối phương, đây là một thảm bại mà họ

buộc phải chấp nhận trong nỗi uất hận và đau buồn nhớ lại một Oa-téc-lo
thuở xưa, xen lẫn cả sự tâm phục khẩu phục một đối thủ mà chỉ trước đó ít
lâu, họ tưởng có thể bóp chết được bằng “cái bẫy Điện Biên Phủ”.

Chiến thắng Điện Biên Phủ dưới cái nhìn của thế giới

Trên phạm vi thế giới, với chiến thắng Điện Biên Phủ, lần đầu tiên trong lịch
sử nhân loại: một dân tộc vốn là thuộc địa nửa phong kiến, đất không rộng,
người không đông, kinh tế còn lạc hậu, vũ khí kém cỏi, đã đánh thắng quân
đội xâm lược của một cường quốc phương Tây có tiềm lực kinh tế và quân sự
lớn, trang bị vũ khí hiện đại.


Phương tiện vận chuyển thô sơ nhưng là sự kết tinh
của khối đoàn kết đại dân tộc đã làm nên trận chiến
lịch sử Điện Biên Phủ.

Trong lần đến thăm Việt Nam, Chủ tịch Phi-đen Ca-xtơ-rô đã nói: “Từ trước
đến nay chưa từng có một cuộc chiến tranh nào mà một nước nhỏ, kinh tế lạc
hậu như Việt Nam mà vẫn đánh thắng Pháp và Mỹ. Đó là vô song. Trên thế
giới chưa từng có. Trong lịch sử chưa từng thấy”.

Trong dịp sang thăm Việt Nam năm 1960, trưởng đoàn đại biểu quân đội
Angiêri Ô man - Uxêđích nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm cho các dân
tộc thuộc địa ngửng cao đầu”. Gần hai thập kỷ sau Điện Biên Phủ, hàng loạt
nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La-tinh đã lần lượt giành độc lập
với hình thức và mức độ khác nhau. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc
lập, dân chủ và tiến bộ xã hội phát triển sâu rộng.

Báo Nước Pháp người quan sát (France Observateur) ngày 13/5/1954 đã

viết: “Trước hết bản kết toán về cuộc chiến đấu ở Điện Biên Phủ đã rõ ràng.
Đó là chiến thắng quyết định và hoàn toàn đối với tướng Võ Nguyên Giáp,
một sự thất bại hoàn toàn đối với tướng Na-va, Bi-đô, Plê-ven, La-ni-en,…
Nếu người ta nói đến sự “thất bại” của Điện Biên Phủ thì phải gọi đúng tên
của nó. Đó là một sự đầu hàng”.
Trong cuốn sách “Thời điểm của những sự thật” xuất bản sau này, tướng Na-
va, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, đã viết: “… Về
phương diện chính trị, Việt Minh là một quốc gia thật sự. Thật vậy uy quyền
trực tiếp của họ lan rộng quá nửa nước Việt Nam… Nhưng than ôi, tình hình
bên ta thì hoàn toàn trái ngược lại. Chưa bao giờ chúng ta có được một
người cầm quyền từ đầu đến cuối. Trong khi đối phương chỉ có một lãnh tụ
chính trị duy nhất - Hồ Chí Minh - và một lãnh tụ quân sự duy nhất - Võ
Nguyên Giáp…”

Cuộc sống mới nơi chiến trường xưa

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng năm 1954, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp đã nhiều lần trở lại vùng đất này. Và hầu như lần nào trở về, Đại tướng
cũng dành thời gian tới nghĩa trang liệt sĩ dưới chân đồi A1 thắp nén hương
tưởng niệm những người đồng đội, thăm lại một số di tích của chiến trường
Điện Biên Phủ năm xưa, đi thăm đồng bào các dân tộc… Còn người dân Điện
Biên đón vị Tổng tư lệnh tài ba bằng những tình cảm hết sức nồng hậu, ấm
tình quân dân và một lòng biết ơn vô hạn đối với Đại tướng, người làm vẻ
vang, rạng rỡ vùng đất này.
Điện Biên giờ đây đã thay da đổi thịt nhiều lắm. Sân ga, nhà ga hiện đại,
đường băng mở rộng, đường bộ nhiều đoạn tráng nhựa phẳng lỳ. Từ chủ
trương của tỉnh Điện Biên phát triển du lịch kết hợp bảo tồn bản sắc, giá trị
văn hóa các dân tộc, bản Him Lam II trở thành một trong 8 bản được tỉnh
chọn làm thí điểm xây dựng bản văn hóa người Thái quần cư quanh thành
phố Điện Biên Phủ.


Trong xu hướng phát triển kinh tế hiện nay, tỉnh Điện Biên và đặc biệt là thành
phố Điện Biên Phủ tiếp tục chuyển mình, tiếp tục khẳng định là “trái tim” của
vùng Tây Bắc. Điện Biên đang đồng lòng, chung sức làm nên một diện mạo
mới, một chiến thắng Điện Biên mới trên mặt trận kinh tế, góp phần vào công
cuộc đổi mới của đất nước hôm nay.



Năm 2004, kỷ niệm 50 năm ngày Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ,
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở về thăm Điện Biên trong sự chào đón
nồng hậu của người dân nơi đây đối với vị Tổng tư lệnh Quân đội
nhân dân Việt Nam.

Chiều ngày 7/5/1954, lá cờ Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng
Đờ Ca-xtơ-ri đánh dấu mốc son chói lọi của con người, đất nước
Việt Nam.




Chiến sĩ Điện Biên - những người lính Cụ Hồ anh hùng.


Trận địa pháo ngay trong ngày đầu tiên của Chiến dịch khiến tướng lĩnh,
quân sĩ Pháp ngạc nhiên trước sức mạnh của tinh thần đoàn kết Việt Nam.








Ngày 6/12/1953, tại Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí
lãnh đạo Đảng quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.

×