Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Đề cương 23 câu hỏi ôn tập môn ngân hàng phát triển và hướng dẫn trả lời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.53 KB, 59 trang )

MỤC LỤC
3.đặc điểm của dự án 3
4.Quy trình dự án 4
5. Khái niệm dự án phát triển 4
6.Đặc điểm dự án phát triển 4
7.Phân biệt dự án phát triển và dự án thương mại 4
8.Nguồn tài trợ cho dự án phát triển 4
9.Thực trạng huy động và sử dụng các nguồn tài trợ DAPT tại Việt Nam 24
11.Quan niệm và lý do ra đời của NHPT 27
12.Đặc điểm của NHPT 27
13.So sánh Ngân hàng phát triển và Ngân hàng thương mại 28
14.Liên hệ NHPT VN (VDB) 30
15. Đặc trưng huy động vốn của NHPT 33
16.Giải pháp gia tăng nguồn vốn của NHPT 34
17.Liên hệ hình thức huy động vốn của VDB và VBSP 35
18.Các bước trong quy trình tài trợ dự án của NHPT 39
19.So sánh quy trình tài trợ dự án của NHPT và NHTM 39
20.Tài trợ Dự án trồng rừng của NH Chính sách xã hội VN 45
21.So sánh quy trình tài trợ của NHCSXHVN và NHTM 48
22.các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của NHPT 54
23. Đánh giá hoạt động của ngân hàng phát triển trong giai đoạn 2006-2010 54
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
Nhóm 1: Quan niệm, phân loại, quy trình của 1 dự án. VD trong lĩnh vực chăn nuôi
1.Khái niệm dự án
Dự án là một tập hợp các hoạt động có liên quan đến nhau được thực hiện trong một khoảng thời gian có
hạn, với những nguồn lực đã được giới hạn; nhất là nguồn tài chính có giới hạn để đạt được những mục
tiêu cụ thể, rõ ràng, làm thỏa mãn nhu cầu của đối tượng mà dự án hướng đến. Thực chất, Dự án là tổng
thể những chính sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được thiết kế nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định trong một thời gian nhất định.
2.Phân loại dự án
a. Theo tính chất


Dự án bao gồm dự án đầu tư và dự án hỗ trợ kỹ thuật.
• Dự án đầu tư : là dự án tạo mới ,mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định ,nhằm đạt
mục tiêu về tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao về chất lượng sản phẩm hoặc
dịch vụ trên một địa bàn nhất định trong một khoảng thời gian nhất định .
• Dự án hỗ trợ kỹ thuật : là dự án có mục tiêu hỗ trợ phát triển năng lực và thể chế hoặc cung cấp
các yếu tố đầu vào kỹ thuật để chuẩn bị thực hiện các chương trình thực hiện dự án thông qua hoạt
động cung cấp chuyên gia , đào tạo hỗ trợ thiết bị ,tư liệu và tài liệu , hội thảo tham quan khảo
sát.
b. Theo quy mô & tính chất:
Dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội thông qua chủ trương và cho phép đầu tư; các dự án còn lại được
phân thành 3 nhóm A, B, C

Nhóm A Nhóm B Nhóm C
Bảo vệ an ninh, quốc phòng, thành lập và xây dựng hạ tầng
khu công nghiệp mới
X
Sản xuất chất độc hại, chất nổ X
Công nghiệp điện, khai thác chế biến dầu khí, hóa chất,
phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác, chế
biến khoáng sản; các dự án giao thông, xây dựng khu nhà
ở.
Trên 600 tỷ 30 – 600 tỷ Dưới 30 tỷ
Thuỷ lợi, giao thông, cấp thoát nước và công trình hạ tầng
kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử,
tin học, hoá dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản
xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông.
Trên 400 tỷ 20 – 400 tỷ Dưới 20 tỷ
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
Hạ tầng kỹ thuật của khu đô thị mới; công nghiệp nhẹ,
sành sứ, thủy tinh, in; vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên

nhiên, mua sắm thiết bị xây dựng; sản xuất nông. lâm, ngư
nghiệp, nuôi trồng thủy sản; chế biến nông, lâm sản
Trên 300 tỷ 15 – 300 tỷ Dưới 15 tỷ
Y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh, truyền hình, xây dựng
dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du lịch,
thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác.
Trên 200 tỷ 7 – 200 tỷ Dưới 7 tỷ
Các trường phổ thông nằm trong quy hoạch X
c. Theo nguồn vốn đầu tư:
• Dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
• Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
• Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
• Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp nhiều nguồn vốn.
3.đặc điểm của dự án
Mỗi dự án gồm các đặc điểm như sau :
a. Mỗi dự án phải có một hoặc một số mục tiêu rõ ràng. Thông thường người ta cố gắng lượng hoá mục
tiêu thành ra các chỉ tiêu cụ thể. Mỗi dự án là một quá trình tạo ra một kết quả cụ thể. Nếu chỉ có kết quả
cuối cùng mà kết quả đó không phải là kết quả của một tiến trình thì kết quả đó không được gọi là dự án.
b. Mỗi dự án đều có một thời hạn nhất định (thường < 3năm), nghĩa là phải có thời điểm bắt đầu và thời
điểm kết thúc. Dự án được xem là một chuỗi các hoạt động nhất thời. Tổ chức của dự án mang tính chất
tạm thời, được tạo dựng lên trong một thời hạn nhất định để đạt được mục tiêu đề ra, sau đó tổ chức này sẽ
giải tán hay thay đổi cơ cấu tổ chức cho phù hợp với mục tiêu mới.Nghĩa là mỗi dự án đều có một chu kỳ
hoạt động.
c. Mỗi dự án đều sử dụng nguồn lực và nguồn lực này bị hạn chế. Nguồn lực gồm: nhân lực, nguyên vật
liệu, ngân sách. Thế giới của dự án là thế giới của các mâu thuẫn. Bất kỳ một dự án nào cũng tồn tại trong
một thế giới đầy mâu thuẫn (The World of Conflicts)
+ Giữa các bộ phận trong dự án
+ Giữa các dự án trong tổ chức mẹ
+ Giữa dự án và khách hàng
d. Mỗi dự án đều mang tính độc đáo (Unique) đối với mục tiêu và việc phương thức thực hiện dự án.

Không có sự lặp lại hoàn toàn giữa các dự án.
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
4.Quy trình dự án
Vở ghi
Nhóm 2: quan niệm, đặc điểm về dự án phát triển.pb dự án phát triển và dự án thương mại
5. Khái niệm dự án phát triển
trang 5 giáo trình
6.Đặc điểm dự án phát triển
trang 6
7.Phân biệt dự án phát triển và dự án thương mại
*giống nhau:
-thời gian đầu tư kéo dài
-có độ rủi ro cao
-huy động tối đa các nguồn lực
-quy mô nguồn lực tương đối lơn
*khác nhau
-vai trò:
DAPT: Quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội quốc gia và doanh nghiệp
DATM: Quan trọng với sự phát triển kinh tế đối với chủ đầu tư và các nhà đầu tư
-mục tiêu:
DAPT: hiệu quả xã hội và tài chính
DATM: hiệu quả tài chính
Nhóm 3: trình bày dự án nhà máy thủy điện Sơn La
Nhóm 4: Trình bày dự án hầm Hải Vân
Nhóm 5: Phân tích ưu nhược điểm của các nguồn vốn có thể tài trợ cho dự án phát triển (trừ nguồn ngân
hàng phát triển)
8.Nguồn tài trợ cho dự án phát triển
NSNN NHTM CPNN &
TC TCQT
Nguồn khác

Hình thức tài
trợ
- thặng dư
NSNN
- Phát hành
TPCP
- Cho vay trung – dài
hạn
- các chương trình
hỗ trợ phát triển
- Vốn đầu tư trực
tiếp hoặc gián tiếp
Người hưởng lợi
đóng góp
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
DA ưu tiên
DA sinh lời
thấp, rủi ro cao
hoặc DA k có
khả năng hoàn
trả
DA có hiệu quả kinh
tế, RR thấp
DAPT CSHT, môi
trường, CBXH tại
các quốc gia đang
phát triển,
Qui mô vốn
tài trợ
Hạn chế trong kế

hoạch thu – chi
NS của NN
Nhỏ, 1 phần của DA,
tùy thuộc khả năng
chịu rr của NH
Lớn, qui đổi theo
tỷ giá.
Tùy thuộc vào
chính sách tài trợ
của TCQT.
Lãi suất
0% Tinh theo thị trường Không tính ls hoặc
lãi suất ưu đãi
Thời gian
hoàn vốn
Dài Không dài Dài, được ân hạn
8.1.Nguồn Ngân sách nhà nước (NSNN)
Theo Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội Việt Nam thông qua 16/12/2002 định nghĩa:
NSNN là toàn bộ các khoản thu chi của NN trong dự toán đã được cơ quan NN có thẩm quyền quyết định
và được thực hiện trong một năm để đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ của NN.
*Vai trò
- Vai trò huy động các nguồn Tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước .
- Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát.
- Ngân sách Nhà nước là công cụ định huớng phát triển sản xuất.
- Ngân sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư .
*Đặc điểm của ngân sách nhà nước
• Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của nhà
nước, và việc thực hiện các chức năng của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở những
luật lệ nhất định;
• Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại các nguồn tài chính, nó thể hiện ở hai

lãnh vực thu và chi của nhà nước;
• Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi
ích công cộng;
• Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét khác biệt của ngân
sách nhà nước với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, nó được chia thành nhiều
quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau đó mới được chi dùng cho những mục đích đã định;
• Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực
tiếp là chủ yếu.
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
*Vốn NSNN tài trợ cho DAPT
Vốn Ngân sách cho đầu tư sẽ được ưu tiên cho những dự án không có khả năng hoàn trả (giao
thông miền núi, thủy lợi, trồng rừng phòng hộ…) hoặc có khả năng hoàn trả song mức sinh lời thấp, rủi ro
cao, thời gian hoàn vốn dài.
Nguồn ngân sách cho Dự án phát triển gồm:
- Thặng dư NS (Thu Ngân sách > chi)
- Trái phiếu chính phủ: sử dụng trong trường hợp khả năng tài trợ của NSNN bị hạn chế.
 Thặng dư NS (Thu NS > Chi):
• Thu ngân sách nhà nước: Thu Ngân sách nhà nước phản ảnh các quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để phân phối các nguồn tài chính của xã hội dưới
hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước. Như vậy, thu ngân sách nhà nước
bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào tay nhà nước để hình thành quỹ ngân sách nhà nước
đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Thu ngân sách nhà nước bao gồm:
- Thu trong cân đối ngân sách : bao gồm các khoản thu mang tính chất Thuế (Thuế,
Phí, Lệ phí)và thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước
- Thu bù đắp thiếu hụt của ngân sách: Trong quá trình điều hành ngân sách, các
chính phủ thường có nhu cầu chi nhiều hơn số tiền thu được và việc cắt giảm các khoản chi rất là
khó khăn vì liên quan đến các hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội Do đó, bắt buộc chính
phủ phải tính tới các giải pháp để bù đắp sự thâm hụt của ngân sách nhà nước. Giải pháp thường
được chính phủ sử dụng là vay thêm tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu, bao gồm vay trong nước và

vay nước ngoài:
• Chi ngân sách nhà nước: Chi ngân sách là một công cụ của chính sách tài chính quốc gia có
tác động rất lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đó là việc phân phối, sử dụng nguồn Thu ngân sách
vào các khoản chi tiêu khác nhau nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu của Nhà nước.
- Chi đầu tư phát triển: là những khoản chi mang tính chất tích lũy phục vụ cho quá trình tái sản
xuất mở rộng gắn với việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc
bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết, phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế. (như
chi mua sắm máy móc, thiết bị và dụng cụ, chi cho xây dựng mới và tu bổ đường, trường, công sở, kiến
thiết đô thị, chi cho thành lập các DNNN )
- Chi thường xuyên: Bao gồm các khoản chi cho tiêu dùng xã hội gắn liền với chức năng quản lý
xã hội của nhà nước, khoản chi này được phân thành hai bộ phận: một bộ phận vốn được sử dụng để đáp
ứng nhu cầu của dân cư về phát triển văn hóa xã hội, nó có mối quan hệ trực tiếp đến thu nhập và nâng
cao mức sống của dân cư và một bộ phận phục vụ cho nhu cầu quản lý kinh tế xã hội chung của nhà nước.
Chi tiêu dùng thường xuyên bao gồm các khoản chi sau đây:
o Chi quản lý hành chính
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
o Chi văn hóa, giáo dục, y tế
o Chi quốc phòng
o Chi trợ cấp

Nhu cầu chi thường xuyên thường rất cấp bách tại các nước nghèo.Do vậy Khoản
thặng dư (được hiểu là chi cho đầu tư phát triển) sẽ được ưu tiên dành cho các dự án không có
khả năng hoàn trả
- Chi khác: là những khoản chi như chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do chính phủ vay, chi viện trợ
của ngân sách trung ương cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài, chi cho vay của Ngân sách trung
ương,…
 Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu chính phủ là loại trái phiếu do bộ tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho NSNN
hoặc huy động vốn cho chương trình, dự án đầu tư cụ thể thuộc phạm vi đầu tư của nhà nước. Chính phủ
phải trả gôc và lãi trong thời gian xác định.

Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại trái phiếu có
tính thanh khoản cao. (Do có nguồn ngân sách Nhà nước đảm bảo). Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu
chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ
hạn.
Để mở rộng chi đầu tư phát triển, các loại trái phiếu được phát hành chủ yếu là trung và dài hạn,
gồm có:
+ Trái phiếu kho bạc: Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ một (01) năm
trở lên và đồng tiền phát hành là đồng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi.
+ Công trái xây dựng tổ quốc: Công trái xây dựng Tổ quốc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn
từ một (01) năm trở lên, đồng tiền phát hành là đồng Việt Nam và được phát hành nhằm huy động nguồn
vốn để đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ
sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước.
2.1.4. Ưu – Nhược điểm nguồn NSNN
 Đối với nguồn thặng dư ngân sách
A.Ưu điểm:
Đối với nguồn vốn do ngân sách cấp, ưu điểm của nó là vốn ngân sách được sử dụng lâu dài,
không phải trả lãi hoặc có nhưng rất thấp (Các DN sẽ không phải chịu áp lưc trả lãi)
Việc sử dụng nguồn từ NSNN tránh được các điều kiện ràng buộc đối với Nhà nước so với trường
hợp sử dụng nguồn vốn vay.
Vốn ngân sách được ưu tiên cho đầu tư vào những dự án không có khả năng hoàn trả hoặc có khả
năng hoàn trả nhưng mức sinh lời thấp, rủi ro cao, thời gian hoàn vốn dài hay các dự án chú trọng vào việc
mang lại các ích lợi cho xã hội hơn là lợi nhuận của nhà đầu tư. Với đặc điểm như vậy của dự án, sẽ rất
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
khó để chủ dự án có thể huy động được các nguồn vốn khác từ bên ngoài, do nhà đầu tư thường quan tâm
tới lợi ích cá nhân thu được từ dự án hơn là các lợi ích mang lại cho toàn xã hội.
B.Nhược điểm:
1, Nguồn tài trợ ngân sách có hạn
Đối với các nước đang phát triển, thu ngân sách nhỏ mà nhu cầu chi tiêu lớn, do đó tình trạng phổ biến
thường là bội chi ngân sách .
Bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém phát triển mà xảy ra

ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển nhất (nhóm OECD). Đối với các nước
đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như:
Giao thông, điện, nước Nhiều nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á
cũng vẫn bội chi ngân sách.
Ví dụ: Theo thống kê bộ tài chính tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 520.100 tỷ đồng, tăng
12,7% so với dự toán (chủ yếu do tăng thu nội địa và tăng thu từ xuất nhập khẩu). Tổng chi cân đối ngân
sách Nhà nước năm 2010 ước đạt khoảng 637.200 tỷ đồng, tăng 9,4% so với dự toán năm, trong đó chi
đầu tư phát triển khoảng 145.000 tỷ đồng (không bao gồm phần thực hiện từ chuyển nguồn năm trước
sang và ứng trước ngân sách Nhà nước các năm sau), tăng 15,5% so với kế hoạch năm. Bội chi ngân sách
Nhà nước: dự kiến sử dụng một phần tăng thu ngân sách Trung ương để giảm bội chi ngân sách Nhà nước
năm 2010, mức bội chi ước đạt khoảng 5,95% GDP, giảm 0,25% GDP so với kế hoạch đã đề ra. Dư nợ
Chính phủ đến ngày 31/12/2010 bằng 44,5% GDP, dư nợ công bằng 56,7% GDP, dư nợ nước ngoài của
quốc gia bằng 42,2% GDP, nằm trong giới hạn an toàn cho phép.
2, Hiệu quả sử dụng vốn thấp
-Chất lượng nhiều công trình từ nguồn ngân sách Nhà nước không đảm bảo chất lượng, nhanh
chóng xuống cấp.
Ví dụ: 31/3/2010: Dự án Sửa chữa mặt cầu Thăng Long (Hà Nội) do Ban Quản lý dự án 2, Cục
Đường bộ Việt Nam làm chủ đầu tư, với tổng kinh phí gần 100 tỷ đồng. Nhưng chỉ sau một tháng đưa vào
sử dụng, mặt cầu đã xuất hiện nhiều vết nứt, lún.
Dự án Sửa chữa mặt cầu Thăng Long do Ban Quản lý dự án 2, thuộc Cục Đường bộ Việt Nam
làm chủ đầu tư. Đơn vị thiết kế, và giám sát thi công là Viện Khoa học công nghệ (Bộ Giao thông Vận
tải). Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng Bảo Quân là đơn vị thi công. Công trình này đã sử dụng loại bê
tông nhựa SMA, là loại vật liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế và được nhiều nước trên thế giới sử dụng cho các
công trình mặt cầu thép có tuổi thọ công trình nhiều năm. Nhưng với dự án sửa chữa mặt cầu Thăng Long,
mới chỉ sau hơn một tháng đưa vào sử dụng đã phát hiện các vết nứt có chiều rộng từ 3- 5cm, chiều dài từ
2- 4 mét.
Không chỉ riêng dự án này, trong thời gian gần đây không ít các công trình cầu, đường mới hoàn
thành đã xuống cấp nghiêm trọng. Xin lấy ví dụ: Cầu Khe Dầu ở huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình được
bàn giao đưa vào sử dụng vào cuối năm 2008. Thế nhưng, hiện nay mố cầu bị sạt lở. Nghiêm trọng hơn,
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com

lớp bê tông phía trong mặt cầu không được sử dụng vật liệu xi măng cốt thép mà được bên thi công thay
thế bằng cốt tre và cót ép. Như vậy sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an toàn đi lại của nhân dân. Cũng
bằng hình thức thi công gian dối này, trước đó là vụ Ban Quản lý dự án PMU 18 mà chủ đầu tư là Bộ Giao
thông Vận tải lại sử dụng bê tông cốt tre để làm cọc tiêu trên quốc lộ 18.v.v…
-Các công trình, dự án có nguồn vốn NS thường lãng phí và thất thoát lớn vì tình trạng “cha
chung không ai khóc”.  Điều này thể hiện trên nhiều bình diện: lãng phí vì đầu tư sai mục đích, không
đạt mục tiêu, bố trí vốn dàn trải, phân tán, thiếu tập trung
,…
Có thể nói, những hạn chế trong việc lập,
thẩm định và phê duyệt dự án chính là thủ phạm gây thất thoát của công.
Ví dụ :
Có những dự án phải thay đổi tổng mức đầu tư, tổng dự toán nhiều lần và có dự án quyết
định đầu tư nhưng không có tiền để triển khai, quá thời gian quy định lại phải lập lại dự án; rồi lựa chọn
địa điểm xây dựng không phù hợp, phải dừng cả dự án.
Chẳng hạn, Dự án xử lý nước thải KCN Vĩnh Niệm - Hải Phòng vốn đã cấp phát 3 tỷ đồng và Dự
án xử lý nước thải khu du lịch Vịnh Tùng Dinh - Cát Bà - Hải Phòng 23,52 tỷ đồng, hoàn thành rồi không
hoạt động. Hay hạng mục vườn ươm Thanh Táo, Công trình tuyến tránh Hà Nội - Cầu Giẽ đầu tư 1,2 tỷ
đồng đến nay bỏ hoang
Ngoài ra, tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún chậm được khắc phục, dẫn đến nhu cầu vốn cho
các dự án vượt quá khả năng ngân sách. Điều này dẫn đến tình trạng có dự án phải kéo dài gần 20 năm.
Điển hình là Dự án đầu tư xây dựng trường Đại học Hàng Hải triển khai từ năm 1981 đến nay chưa xong
do không bố trí đủ vốn.
-Nợ đọng XDCB ở nhiều dự án đầu tư thuộc nguồn NSNN còn lớn.
-Tình trạng tài trợ vốn không đúng chỗ
Kế hoạch xây dựng đài tưởng niệm Mẹ Việt Nam anh hùng gây bức xúc công luận khi kinh phí
loan báo hôm nay tăng cao gấp 5 lần so với mức dự tính ban đầu, theo tin hãng thông tấn Đức DPA ngày
22/9. Dự án gồm việc xây dựng một công viên làm nơi tọa lạc cho tượng đài vinh danh các bà mẹ Việt
Nam đã hy sinh chồng, con trong các cuộc chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tượng được xây tại khu vực
núi Cấm, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam, trên khuôn viên có tổng diện tích hơn 15 hecta. Việt Nam cho
biết đây sẽ là tượng đài lớn nhất nước và lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Khi dự án khởi công hồi năm

2007, kinh phí được nói là 3,9 triệu đô la. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam hôm nay cho hay số tiền này dự
trù lên tới 19,7 triệu Mỹ kim vì giá nguyên vật liệu tăng cao. Những người chỉ trích dự án cho rằng đáng
xấu hổ khi xây dựng một công trình vinh danh tốn kém hàng chục triệu đô la trong lúc nhiều bà mẹ anh
hùng đang chịu cảnh neo đơn, nghèo túng, dù đã có nhiều cống hiến hy sinh cho đất nước. Thay vào đó,
họ đề nghị nên dùng khoản tiền đó để chăm sóc, hỗ trợ cho chính các bà mẹ anh hùng đang còn sống.
Hiện có khoảng 44.000 người được tôn vinh là mẹ Việt Nam anh hùng, đa số đều già yếu và nghèo khó.
3,Tình trạng giải ngân các dự án có nguồn vốn NS còn chậm
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
Hàng năm, nhà nước dành một nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Tổng nguồn vốn này của nhà
nước chiếm khoảng 50% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, trong đó vốn từ NSNN và trái phiếu
Chính phủ khoảng 23%. Tuy nhiên, công tác giải ngân rất đáng phải bàn.
Có một nghịch lý hiện nay trong lĩnh vực đầu tư DAPT thuộc nguồn vốn nhà nước: Một mặt,
nhiều dự án không có vốn thanh toán, vẫn triển khai thực hiện, dẫn đến nợ lớn; mặt khác, có nhiều dự án
đã được bố trí vốn, nhưng lại giải ngân chậm, thậm chí rất chậm, dẫn đến ứ đọng vốn. Giải ngân chậm gây
lãng phí lớn về nhiều mặt, không chỉ cho NSNN, mà còn cho cả nền kinh tế-xã hội và trực tiếp là ảnh
hưởng đến tình hình tài chính của các nhà thầu.
Nguyên nhân của tình trạng giải ngân chậm đã được đề cập nhiều và nằm ở tất cả các khâu của
quy trình đầu tư, song theo chúng tôi, có mấy nguyên nhân cơ bản sau đây:
• Một là do công tác chuẩn bị đầu tư chậm. Tình trạng chung hiện nay là vốn chờ thủ tục. Các cơ
quan không chủ động chuẩn bị sẵn sàng thủ tục đầu tư cho dự án để khi có vốn là triển khai được ngay,
ngược lại, chỉ chờ đợi đến khi đã chắc chắn được bố trí vốn mới vội vã đi làm thủ tục. Trong khi đó, thủ
tục đầu tư XDCB là rất phức tạp, tốn rất nhiều thời gian. Do làm gấp nên các thủ tục thường gặp nhiều
sai sót, dẫn đến phải làm lại hoặc điều chỉnh lại, vừa tốn thời gian, vừa làm tăng dự toán lên cao, thậm
chí rất cao (có dự án do khảo sát không kỹ, khi thi công mới phát hiện sai sót, phải khảo sát lại, lập
phương án xử lý sự cố và điều chỉnh tăng dự toán).
• Hai là do giải phóng mặt bằng chậm
Tình trạng dự án không triển khai được do không giải phóng được mặt bằng đang trở nên phổ
biến, tồn tại đã nhiều năm, gây thiệt hại rất lớn cho cả nhà nước, nhà đầu tư và người dân. Nguyên nhân
của tình trạng này rất đa dạng, nhiều khi mang tính đặc thù của từng dự án. Tuy nhiên, nguyên nhân
thường gặp nhất là chính sách đền bù chưa phù hợp; người dân đòi hỏi quá cao; công tác tuyên truyền giáo

dục chưa được coi trọng…
• Ba là tổ chức thi công chậm
Tình trạng chung nổi lên gần đây là do tốc độ tăng vốn đầu tư nhanh, nên lực lượng thi công
không đáp ứng kịp, nhất là lực lượng công nhân có tay nghề cao. Bên cạnh đó, đã xuất hiện tình trạng nhà
thầu không đủ năng lực, hoặc tuy có năng lực nhất định, nhưng lại nhận quá nhiều công trình, phải rải lực
lượng để giữ chân công trình, nên không thể tập trung thi công dứt điểm.
• Bốn là do nghiêm thu, thanh toán chậm
• Năm là do công tác chỉ đạo, điều hành của cơ quan chủ quan đầu tư (các bộ, địa phương) chưa sát
sao, kiên quyết
Điều này thể hiện ngay từ khâu phân bổ và giao kế hoạch vốn: Luật NSNN quy định khâu này
phải xong trước 31/12 năm trước, nhưng có bộ ngành đến hết quý II, cá biệt đến hết năm kế hoạch vẫn
chưa phân bổ xong. Do chưa được phân bổ vốn, nên các chủ đầu tư và các nhà thầu không dám triển khai
thi công, sợ không có nguồn thanh toán. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, nhiều cơ quan chủ quản đầu
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
tư còn có tư tưởng khoán trắng cho chủ đầu tư, không có sự kiểm tra thường xuyên nhằm đôn đốc hoặc
phát hiện vướng mắc để có giải pháp tháo gỡ kịp thời.
• Sáu là do cơ chế quản lý vốn đầu tư
Việc quản lý vốn đầu tư hiện nay vẫn mang nặng tính chất của cơ chế cũ, không phù hợp với điều
kiện của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện đã liên tục xuất hiện những vướng
mắc cần phải xử lý, và do đó, cơ chế quản lý vốn đầu tư cũng phải thay đổi liên tục. Song, sự thay đổi này
luôn trong tình trạng không đồng bộ, thậm chí không nhất quán, không kịp thời, nên khó thực hiện, gây ra
tình trạng chờ đợi, mất nhiều thời gian, từ đó làm chậm tiến độ giải ngân.
4,
Quản lý tài chính trong dự án đầu tư còn lỏng lẻo gây thất thoát vốn NS.
Bệnh thành tích.
Chỉ coi trọng tăng trưởng về số lượng, tốc độ tăng trưởng mà không coi trọng chất lượng tăng trưởng
kinh tế
 Đối với nguồn trái phiếu chính phủ (TPCP)
A. Ưu điểm:
- Thông qua phát hành trái phiếu, chính phủ có thể huy động được khối lượng vốn lớn, với thời

gian sử dụng lâu dài
Ví dụ: Năm 2005, Chính phủ phát hành Công trái xây dựng Tổ quốc mang tên Công trái giáo dục
để tiếp tục huy động vốn hỗ trợ cho các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, các tỉnh có nhiều khó khăn thực hiện
mục tiêu xoá phòng học 3 ca, phòng học tranh tre, nứa lá và kiên cố hoá trường học theo Nghị quyết số
09/2002/QH11 ngày 28/11/2002 của Quốc hội. Công trái giáo dục phát hành và thanh toán bằng đồng Việt
Nam. Tổng mức phát hành năm 2005 là 1.500 tỷ đồng. Công trái giáo dục có thời hạn 5 năm, được bắt đầu
phát hành từ ngày 19 tháng 5 năm 2005.
Ngày 26/01/2010: Việt Nam đã phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu Chính Phủ thời hạn 10
năm trên thị trường quốc tế với lợi tức 6,95%. Số tiền thu được từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc
tế này được tập trung vào các mục tiêu: (i) hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nước, (ii) giao Bộ Kế hoạch&Đầu
tư phối hợp Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự kiến cho các Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Hàng
hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng Công ty lắp máy Việt Nam đầu tư bổ sung các dự án lọc
hóa dầu Dung Quất, dự án xây dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy thủy điện Hủa Na và mua tàu vận
tải biển).
Kế hoạch đầu tư phát triển giai đoạn 2011-2015: Tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trong kế hoạch 5
năm 2011-2015 theo giá thực tế dự kiến khoảng 5.745-6.140 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 250-266 tỷ
USD… Trong đó, đáng chú ý là nguồn vốn ngân sách nhà nước dự kiến khoảng 1.020-1.090 nghìn tỷ
đồng, chiếm 18%; đầu tư từ trái phiếu Chính phủ dự kiến khoảng 225 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,9-
4,1% Năm 2011, đã phát hành 45 nghìn tỷ đồng trái phiếu sử dụng cho đầu tư phát triển.
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
- Huy động vốn từ phát hành trái phiếu khắc phục được một số nhược điểm của nguồn huy động
khác. Không bị phụ thuộc nước ngoài như trong trường hợp nhận viện trợ. Lãi suất phải trả cũng không
cao như đi vay NHTM.
B.Nhược điểm:
1, Khả năng gia tăng của nguồn vốn từ phát hành trái phiếu có giới hạn
+ Đối với phát hành trái phiếu trong nước:
Từ phía người mua trái phiếu: Trên thị trường có rất nhiều kênh đầu tư khác nhau, nếu lãi suất của
trái phiếu không đủ hấp dấn thì sẽ không có người mua trái phiếu.
Từ phía chính phủ: chính phủ không thể huy động quá nhiều vốn từ phát hành trái phiếu trong
nước vì sẽ ảnh hưởng tới nguồn cung vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của dân cư, do đó có thể

kìm hãm hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Đối với phát hành trái phiếu ra nước ngoài:
Lượng vốn huy động được phụ thuộc vào hệ số tín nhiệm của quốc gia, vào lãi suất đưa ra. Mặt
khác còn ảnh hưởng tới chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia.
Từ các nguyên nhân trên, khả năng gia tăng của nguồn vốn này bị hạn chế.
2, Đây là nguồn vốn có chi phí đắt đỏ
Để có thể huy động được vốn từ nguồn này, chính phủ phải đưa ra mức lãi suất hấp dẫn các nhà
đầu tư. Bên cạnh đó còn có chi phí phát hành và chi phí tổ chức đấu thầu trái phiếu.
Từ hai nhược điểm trên, khả năng cung cấp của nguồn vốn này cho dự án đầu tư phát triển là có hạn.
3,Tài trợ bằng nguồn vốn này có thể gây ra tình trạng thất thoát và lãng phí vốn
+ Phát hành trái phiếu trong nước chủ yếu tài trợ cho dự án phúc lợi hoặc có khả năng sinh lời
thấp dưới hình thức cấp 100% vốn ngân sách. Đây không phải là vốn do người thực hiện bỏ ra nên có thể
họ sẽ không quan tâm tới hiệu quả của vốn đầu tư, bên cạnh đó có thể xảy ra hiện tượng rút lõi công
trình
+ Phát hành trái phiếu nước ngoài chủ yếu để cho vay lại các dự án lớn của các doanh nghiệp theo
mục tiêu phát triển của nhà nước. Tuy nhiên, người trực tiếp đi vay là chính phủ, do đó, doanh nghiệp
được vay lại có thể sẽ sử dụng vốn không hiệu quả so với việc tự đi vay.Việc không trả được nợ của
doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng tới khả năng trả nợ, và tăng thêm gánh nặng nợ nước ngoài của quốc gia.
VD: Năm 2005, Chính phủ đã phát hành thành công 750 triệu USD trái phiếu quốc tế. Chính phủ
đã dành toàn bộ cho Tập đoàn Vinashin vay lại. Vinashin là Doanh Nghiệp chủ lực của ngành công nghiệp
đóng tàu đang phát triển rất nhanh tại Việt Nam. Chính phủ cũng đặt kỳ vọng với nguồn vốn này sẽ đưa
Vinashin và ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên khoản vay 750 triệu
USD đã bị sử dụng vào mục đích khác không theo đúng dự án và kế hoach.

Điển hình là khoản 42,8 tỉ đồng cho Công ty Hoàng Anh – Vinashin thực hiện giao dịch
mua thép. Tuy nhiên chỉ lập hồ sơ khống mua bán 4.500 tấn thép với Công ty cổ phần đầu tư
thương mại Cửu Long nhưng thực chất không có giao dịch nào. Số tiền 42,8 tỉ được sử dụng để
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
nhập hai nhà máy nhiệt điện cũ (thực chất là rác thải công nghiệp độc hại) cho dự án Nhà máy
nhiệt điện Sông Hồng - Nam Định.


Cố ý làm trái trong việc cho Công ty Vận tải Viễn Dương vay 106 tỉ đồng từ nguồn vốn
trái phiếu quốc tế để thực hiện dự án hoán cải tàu Bạch Đằng Giang gây thất thoát lớn vốn đầu tư
của dự án này.

Sử dụng 1.000 tỉ đồng vay từ nguồn vốn trái phiếu quốc tế để mua lại khoản nợ của các
đơn vị thành viên và bản thân công ty mẹ, trong đó có nhiều khoản là nợ xấu tại ngân hàng.
Đáng chú ý việc mua lại này được thực hiện ngay trong ngày ký hợp đồng vay vốn trái phiếu
quốc tế. Theo TTCP thì việc mua nợ trên là trái với quy chế mua bán nợ; sử dụng không đúng
mục đích khoản vay trái phiếu quốc tế; có nhiều dấu hiệu cố ý làm trái quy định của pháp luật,
dùng thủ đoạn hoán đảo nợ đã mua để che giấu thiệt hại.
8.2.Nguồn tài trợ phát triển của các Chính phủ và tổ chức tài chính quốc tế
*Đặc điểm
Do xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, ngày nay, quan hệ kinh tế giữa quốc gia với quốc gia,
giữa 1 quốc gia với các tổ chức quốc tế trở nên phổ biến. Trên phương diện kinh tế, điều này mở rộng và
gia tăng nguồn vốn chảy vào trong nước. Đây chính là nguồn tài trợ rất tốt cho các DAPT.
Nguồn tài trợ này di chuyển thường từ những nước phát triển sang những nước đang phát triển và
kém phát triển. Đối với những nước phát triển, điều này giúp họ gia tăng hiệu quả sử dụng vốn. Còn đối
với các nước kém phát triển, thì đây là nguồn vốn giúp cải thiện và phát triển nền kinh tế trong nước còn
khó khăn.
Nguồn tài trợ này luôn đi kèm với màu sắc chính trị biểu hiện ra thành những điều kiện trao đổi
mà nước tài trợ đưa ra cho nước nhận tài trợ.
Nguồi tài trợ từ nước ngoài bao gồm:
- Nguồn tài trợ từ các Chính phủ nước ngoài qua hợp tác song phương hoặc đa phương.
- Nguồn tài trợ từ các Tổ chức tài chính quốc tế như: WB, ADB, IMF…
*Các hình thức tài trợ
a. Nguồn vốn ODA
Đặc điểm
Đây là hình thức tài trợ phổ biến nhất là thông qua hỗ trợ phát triển chính thức (ODA).Hỗ trợ phát
triển chính thức ODA là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà Nước hoặc Chính phủ một nước với các

Chính Phủ nước ngoài, các tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia.
- Lãi suất cho vay rất thấp khoảng từ 0.25-2%/năm, thời gian cho vay cũng như thời gian
ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả, ân hạn từ 8-10năm)
- Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại thấp nhất là 25% của
tổng số vốn ODA
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
- Mục tiêu chính là giúp các nước tiếp nhận phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội.
Các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: Xoá đói, giảm nghèo, nông nghiệp và phát
triển nông thôn; cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật như giao thông vận tải, thông tin liên lạc…
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ đề
ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra định hướng
chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên
cơ sở tham vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày 29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 290/2006/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ
2006-2010. 5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản kết
hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một số lĩnh
vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, nâng cao
năng lực nghiên cứu và triển khai.
Phân loại
 Căn cứ vào tính chất tài trợ:
ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA mà nước tiếp nhận không phải hoàn trả lại cho
nhà tài trợ.
ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): Là khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi
suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” đạt ít nhất 35% đối với các
khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.

ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các khoản vay ưu đãi được cung
cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại nhưng tính chung lại có “yếu tố không hoàn lại” đạt ít
nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc.
 Căn cứ vào mục đích sử dụng:
Hỗ trợ cơ bản: Là loại ODA dành cho việc thực hiện nhiệm vụ chính của các chương trình, dự án
đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội như đường sá, cầu, cảng,…. Loại ODA này thường là
các khoản vay ưu đãi.
Hỗ trợ kỹ thuật: Là loại ODA được thực hiện nhằm chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ,
phát triển năng lực, phát triển thể chế, nghiên cứu tiền đầu tư các chương trình dự án, phát triển nguồn
nhân lực,… Loại ODA này thường là ODA không hoàn lại.
 Căn cứ vào nhà tài trợ:
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
ODA song phương: Là loại ODA được Chính phủ một nước tài trợ trực tiếp cho Chính phủ nước
khác.
ODA đa phương: Là loại ODA do các tổ chức quốc tế, các tổ chức liên chính phủ tài trợ cho
Chính phủ của một nước.
ODA của các tổ chức phi chính phủ: Là loại ODA do các tổ chức phi chính phủ cung cấp.
Tính cho đến nay, Việt Nam có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài
trợ đa phương. Trong đó:
- Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-oét, Đan Mạch,
Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Lúc-xem-bua, Mỹ, Na-uy, Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia,
Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Xin-ga-po.
- Các nhà tài trợ đa phương gồm:
• Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển
Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế của các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ
OPEC), Quỹ Kuwait;
• Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên hợp quốc về
người tỵ nạn (UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA), Chương trình Phát triển công
nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình

phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS (UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của
Liên hợp quốc (UNODC), Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn
cầu (GEF), Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp (IFAD),
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO).
A.Ưu điểm
Nguồn vốn tài trợ từ nước ngoài này phù hợp với dự án phát triển do đây là nguồn vốn có lãi suất
thấp, thời gian sử dụng dài. Đặc biệt thích hợp cho các DAPT tại các nước đang phát triển như Việt Nam,
thiếu vốn đề phát triển kinh tế.
Ví dụ:
Dự án trồng rừng Việt Đức tại tỉnh quảng ninh. Mục tiêu của dự án là góp phần trồng rừng và bảo
vệ đất tại các tỉnh thông qua việc giúp người sử dụng đất đã được phân loại có hiệu quả kinh tế và bền
vững về sinh thái. Đồng thời tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho nhân dân địa phương.
Đây là một dự án viện trợ quốc tế có quy mô tương đối lớn.Thời gian thực hiện dự án được tiến
hành trong 5 năm từ năm 2000-2004. Tổng kinh phí đầu tư 22,8 tỷ đồng, trong đó kinh phí viện trợ của
chính phủ Đức là 19,3 tỷ đồng, kinh phí đối ứng của tỉnh 3,5 tỷ đồng. Với mục tiêu trồng, khoanh nuôi,
xúc tiến tái sinh rừng và quản lý bền vững 4.500 ha rừng. Quy mô dự án được triển khai tại 33 thôn, bản
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
của 8 xã thuộc 2 địa phương là Đông Triều và Móng Cái. Sau này, dự án đã được mở rộng thêm tại các
huyện gồm Tiên Yên, Bình Liêu và Ba Chẽ.
Bên cạnh đó còn có một số dự án như: Bảo tồn và Phát triển tài nguyên nông nghiệp (ARCD), Dự án
Giảm nghèo khu vực miền Trung, Phân cấp giảm nghèo đã đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn,
hỗ trợ sản xuất, an ninh lương thực, đào tạo cán bộ cấp xã, huyện trong vùng dự án, dự án 327 (PAM) đã
góp phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chống cát lấp, cát bay; Các dự án cấp nước và vệ sinh môi
trường đã đầu tư hệ thống cung cấp nước sinh hoạt cho người dân vùng nông thôn và thành thị.
B.Nhược điểm
- Chịu ảnh hưởng, sức ép từ nước viện trợ về mặt kinh tế-chính trị, quốc phòng…: Các
nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở
rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính
trị Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế

(những mục tiêu ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong
nước, khu vực và trên thế giới).
- Nước tiếp nhận đầu tư dễ rơi vào tình trạng nợ nước ngoài thậm chí không có khả năng trả
nợ nếu không có chính sách sử dụng và phân bổ hợp lý.
Ví dụ: Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng vốn
ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm trong quá trình tiếp nhận
cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn
vốn này còn thấp có thể đẩy nước tiếp nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
- Do các nguồn vốn tài trợ này đã được thiết kế cho những mục tiêu cụ thể do vậy chỉ sử
dụng cho những chương trình dự án theo thỏa thuận với bên tài trợ. Ngoài ra nước tiếp nhận ODA
tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải
có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham
gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên gia.
- Giải ngân vốn ODA tại Việt Nam còn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của thế giới và khu
vực đối với một số nhà tài trợ cụ thể. Theo Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ giải ngân trung bình của khu
vực là 20%, trong khi Việt Nam chỉ đạt 14%. Và tỷ lệ giải ngân thấp là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tổng chi ngân sách nhà nước năm 2009 lên đến trên 530.000 tỉ đồng, tăng 8,5% so với dự
toán, tương đương 31,7% GDP.
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
Theo Bộ KH-ĐT, năm 2009, một số đơn vị có mức giải ngân ODA thấp dưới 40% là Bộ GTVT
(38%), Bộ Y tế (27,9%), Thành phố Đà Nẵng (6,66%), Thành phố Cần Thơ (11,6%), Thành phố Hà Nội
(36%).
Bộ GTVT chủ trì 38 dự án ODA thì có tới 27 dự án mới giải ngân bằng 20% kế hoạch năm, 6 dự
án đạt mức giải ngân từ 20-40% kế hoạch năm.
Các dự án giải ngân ODA thấp là dự án hành lang ven biển phía Nam (0,03%), cầu Nhật Tân
(0,96%), cảng Cái Mép- Thị Vải (2,57%), quốc lộ 3 mới Hà Nội - Thái Nguyên (7,15%).
Thành phố Hà Nội đang quản lý 19 dự án ODA quan trọng. Năm 2009, Hà Nội sẽ phải thực hiện

631 tỷ đồng nhưng 4 tháng đầu năm, mới giải ngân đuợc 36% kế hoạch năm.
Trong đó, điển hình chậm giải ngân vốn ODA là dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị Bắc Thăng
Long- Vân Trì mới đạt 5%, dự án phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, tiểu phần thành phố Hà
Nội mới đạt có 1%, dự án trường cao đẳng dạy nghề Hàn Quốc- Thành phố Hà Nội đạt 10%, dự án phát
triển giao thông đô thị Hà Nội mới đạt 12%.
Bộ KH-ĐT cho rằng, những nguyên nhân cơ bản dẫn tới giải ngân chậm ODA là do cơ chế, chính
sách trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng còn nhiều bất hợp lý, năng lực của cả cơ quan chủ quản và các nhà
thầu còn hạn chế, cơ chế bố trí vốn đối ứng chưa hợp lý.
- Do có nhiều ưu đãi nên hiệu quả sử dụng vốn thấp:
tình trạng này được phản ánh là sự thiếu quyền hạn, thụ động hoặc trách nhiệm chưa được quy định rõ
giữa các cấp các ngành thiếu trách nhiệm
b.Nguồn tài trợ từ WB, IMF
A. Nguồn tài trợ từ WB
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
Ngân hàng Thế giới, viết tắt là WB, là một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là
thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội ở các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao động ở
các nước này.
Nhóm Ngân hàng thế giới bao gồm năm tổ chức:
+ Ngân hàng quốc tế Về khôi phục và phát triển (IBRD)
+ Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA)
+ Nghiệp đoàn Tài chính quốc tế (IFC)
+ Cơ quan Bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA),
+ Trung tâm quốc tế Giải quyết tranh chấp đầu tư (ICSID),
- Những hoạt động chính: WB thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và xã hội ở các nước đang
phát triển thông qua trợ giúp kĩ thuật, cho vay vốn dự án đối với các chính phủ. WB huy động vốn từ
những thị trường tài chính quốc tế và sử dụng chúng trong các dự án phát triển ở các nước đang phát
triển. Tất cả các khoản vay của WB đều phải hoàn trả với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường.
- Các thể thức cho vay chủ yếu:
+ Vay vốn đầu tư: dựa trên những dự án của chính phủ các nước tiếp nhận. Khoản vốn này có lãi
suất cao hơn lãi suất thị trường với thời hạn 15 - 20 năm; thời gian ân hạn tới 5 năm.

+ Vay vốn điều chỉnh: trợ giúp chương trình cải cách kinh tế của các nước tiếp nhận nhằm khôi
phục tăng trưởng kinh tế và cán cân thanh toán của nước đi vay. Kể từ khi có suy thoái kinh tế toàn cầu
những năm 1980, WB mở rộng phạm vi hoạt động cho vay tới những khoản vay điều chỉnh ngành và cơ
cấu.
+ Đồng tài trợ: WB phối hợp với khu vực tư nhân, tổ chức song phương hoặc đa phương, và các
tổ chức chính phủ tài trợ cho một số chương trình của mình.
+ Quỹ tín thác: được đóng góp từ những quốc gia tài trợ, tổ chức đa phương, các tổ chức phi chính
phủ, quỹ và tổ chức tư nhân khác tập trung vào những dự án trợ giúp kĩ thuật ở các nước đang phát triển.
Hiện nay, IBRD có trên 850 quỹ tín thác.
+ Trợ giúp kĩ thuật: cung cấp nguồn lực và chuyên gia cho các nước đang phát triển để xây dựng
những thể chế cần thiết cho quá trình phát triển. Những chương trình này tập trung vào phát triển khu vực
tư nhân, bảo vệ môi trường và xoá đói giảm nghèo. Trợ giúp kĩ thuật chiếm khoảng 10% các khoản cho
vay. Chỉ cho vay đối với các nước thành viên; nếu là tư nhân vay thì phải được nhà nước bảo lãnh, vv.
Mục đích cho vay không chỉ nhằm thăng bằng cán cân thanh toán và phát triển kinh tế, mà còn nhằm thúc
đẩy hợp tác quốc tế về tiền tệ.
- Ưu điểm của các khoản vay từ ngân hàng thế giới
+ Đây là tổ chức cho vay với mục đích giúp đỡ các quốc gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới
rộng lớn hơn và thúc đẩy phát triển kinh tế dài hạn để giảm đói nghèo ở các quốc gia đang phát triển.
+ Hện nay WB cũng cung cấp các khoản vay để cải tiến tổng thể các chính sách kinh tế ngoài
những khoản vay cải tổ này chú trọng tới việc chuyển các nguồn tài nguyên có giới hạn vào các dự án đầu
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
tư ít tốn kém hơn để giảm thâm hụt ngân sách, ngăn chặn lạm phát hoặc củng cố các tổ chức chính phủ.
Bằng cách điều chỉnh những lệch lạc này, các khoản vay để điều chỉnh này có thể giúp nền kinh tế của các
quốc gia đang phát triển sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn và bảo đảm phát triển lâu dài.
+ Chính phủ của những nước đang phát triển nhưng có thu nhập quốc dân trên đầu người trên
1305 USD/năm được vay của IBRD. Các khoản vay này có lãi suất chỉ cao hơn lãi suất mà tổ chức này đã
đi vay một chút. Chính phủ của các nước nghèo, có thu nhập quốc dân trên đầu người dưới 1305
USD/năm (trong thực tế là dưới 805USD/năm) được vay của IDA. Các khoản vay sẽ không đòi lãi suất và
có thời hạn lên tới 35-40 năm.
+ IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường nhưng là vay dài

hạn hoặc cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự bảo đảm đối với các nhà đầu tư khác quan tâm
tới dự án và khuyến khích họ đầu tư vào dự án.
+ MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại) để các nhà đầu
tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển.
- Nhược điểm của những khoản vay từ WB
+ Ngân Hàng Thế Giới chỉ cho các quốc gia đang phát triển và đang trong giai đoạn chuyển tiếp
vay tiền.
- Các khoản vốn mà WB cho Việt Nam vay
Chương trình quốc gia của Ngân hàng Thế giới hoàn toàn phù hợp với Kế hoạch Phát triển Kinh
tế - Xã hội Năm năm của Chính phủ Việt Nam giai đoạn 2006 -2010, tập trung vào:
• cải thiện môi trường kinh doanh
• đẩy mạnh hòa nhập xã hội
• đẩy mạnh quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường
• nâng cao công tác quản trị
Theo đề nghị của Chính phủ, Ngân hàng đã nâng cao những khoản tài chính đầu tư vào hạ tầng
trong năm tài chính 2010 – 2011, với lượng cho vay lên tới 1,8 tỷ đôla Mỹ cho công tác phát triển năng
lượng, giao thông và đô thị, tăng 25% về khối lượng so với mức hỗ trợ trong ba năm tài chính trước cộng
lại. Đến cuối năm tài chính 2009, chương trình đã triển khai 45 hoạt động và tổng cam kết là 5,5 tỷ đôla
Mỹ
Trong số này, Ngân hàng Tái thiết và Phát triển cam kết hỗ trợ lên tới 750 triệu đôla Mỹ, bao gồm
hai khoản vay phát triển chính sách (DPL) nhằm hỗ trợ cải cách về đầu tư công và khu vực năng lượng.
Thúc đẩy khâu lựa chọn, chuẩn bị, thực hiện và giám sát các dự án đầu tư công là những việc làm cần thiết
để hiện đại hóa công tác quản trị. Khoản vay DPL thứ hai sẽ cơ cấu lại thị trường năng lượng, nâng cao
tính cạnh tranh của nó và cải thiện tính hiệu quả và bền vững trong sử dụng năng lượng. Ngoài ra, Ngân
hàng cũng làm chủ tọa cuộc họp Nhóm các nhà tài trợ (CG) với cam kết cao kỷ lục là 8 tỷ đô la hỗ trợ
phát triển
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
Ngày 30/12/2009 – Ngân hàng Nhà nước Việt nam và Ngân hàng Thế giới (NHTG) ký kết thỏa
thuận tín dụng cho khoản vay lớn nhất của NHTG cho Việt Nam từ trước đến nay và cũng là khoản vay
đầu tiên từ Ngân hàng Tái Thiết và Phát Triển Quốc Tế (IBRD) thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới. Khoản

vay mới được thông qua này là khoản vay chính sách phát triển với tổng giá trị là 500 triệu đô la Mỹ để hỗ
trợ chương trình cải cách đầu tư công tại Việt Nam
Mục tiêu chính của chương trình vay vốn này, bao gồm hai khoản vay mà
đây là khoản vay thứ nhất, là để hỗ trợ một loạt các giải pháp chính sách hứa hẹn sẽ củng cố hoạt động
đầu tư công ở Việt Nam. Tạo ra một nền tảng cho một khuôn khổ pháp lý hoạt động tốt giúp quản lý đầu
tư công hiệu quả, củng cố chu trình của dự án, cải thiện tính minh bạch, giám sát và đánh giá dự án và hỗ
trợ đối tác công-tư cũng là mục tiêu các dự án này đề ra.
Các lĩnh vực dự kiến được cải thiện trong khuôn khổ chương trình cải cách cũng được thảo luận
rộng rãi với nhiều đối tác phát triển, bao gồm rà soát về môi trường cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng từ
nguồn vốn công, quản lý môi trường, chuẩn bị và thẩm định dự án, đấu thầu, quản lý tài chính công,
khuôn khổ pháp luật cho khối tư nhân tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng, và giám sát và đánh giá dự án
• Tổng số tiền: 500 triệu đô la Mỹ
• Thời gian ân hạn: 10 năm
• Thời hạn vay: 25 năm
• Phí quản lý : 0,25% tổng số tiền vay.
• Lãi suất: LIBOR (6 tháng) theo đơn vị tiền vay cộng biên độ vay dao động
(0,17%).
B. Nguồn tài trợ từ IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế (tiếng Anh: International Monetary Fund, viết tắt IMF) là một tổ chức quốc
tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ
trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính khi có yêu cầu.
IMF chịu trách nhiệm đảm bảo ổn định cho hệ thống tài chính và tiền tệ quốc tế, hệ thống thanh
toán quốc tế và tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền tạo điều kiện giao thương giữa các nước. IMF tìm cách
duy trì ổn định và phòng ngừa khủng hoảng kinh tế; hỗ trợ giải quyết khủng hoảng một khi xảy ra; thúc
đẩy phát triển và giảm đói nghèo
- Các hình thức cho vay của IMF
+ Các khoản cho vay ưu đãi: Từ thập niên 80 đối với các nước hội viên nghèo Quỹ đặt ra loại
cho vay dành riêng gọi là ESAF – FASR nhưng sau này
Từ năm 1999 Các nước nghèo có thể vay với lãi suất ưu đãi hỗ trợ phát triển và xoá đói nghèo
PRGF (Poverty Reduction and Growth Facility) và sáng kiến hỗ trợ các nước nghèo đang mắc nợ nặng nề

HIPC (Heavily Indebted Poor Countries Initiative) dựa trên các nghiên cứu về chiến lược giảm đói nghèo
PRSP (Poverty Reduction Strategy Papers) do nước sở tại tiến hành dưới sự cố vấn của các tổ chức xã hội
và các đối tác phát triển bên ngoài nhằm đưa ra một cơ cấu chính sách kinh tế xã hội toàn diện phục vụ
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
cho việc thức đẩy phát triển và giảm đói nghèo. Khả năng vay của các nước thành viên phụ thuộc vào
quota mà nước đó đóng góp cho IMF. Trong những năm gần đây, các khoản vay lớn nhất của IMF được
thực hiện qua PRGF với lãi suất chỉ 0,5% và thời hạn từ 5,5 đến 10 năm.
+ Các khoản cho vay không ưu đãi : Ngoại trừ PRGF, các công cụ cho vay khác của IMF đều sử
dụng lãi suất thị trường, gọi là 'rate of charge', dựa trên lãi suất SDR (Special Drawing Rights). SDR được
tạo ra từ hệ thống ngân hàng quốc tế nhằm giải quyết sự dao động quá lớn giữa các đồng tiền. Các khoản
cho vay không ưu đãi được cung cấp thông qua 4 công cụ: Stand-By Arrangements (SBA), Extended
Fund Facility (EFF), Supplemental Reserve Facility (SRF) và Compensatory Financing Facility (CFF).
Ngày nay, người ta phân ra thành các loại tín dụng sau:
+ Tín dụng thông thường: nước được vay phải có chương trình điều chỉnh kinh tế ngắn hạn; mức
tối đa được vay là 100% cổ phần của nước đó tại quỹ; thời hạn 3 - 5 năm; ân hạn 3 năm với lãi suất
khoảng 5 - 7,5%.
+ Vốn vay bổ sung: mức vay có thể từ 100% đến 350% cổ phần của nước đó, tuỳ theo mức độ
thiếu hụt; thời hạn 3 - 5 năm; ân hạn 3,5 năm; lãi suất theo lãi suất thị trường.
+ Vay dự phòng: tối đa được 62,5% cổ phần; thời hạn 5 năm; ân hạn 3,5 năm; lãi suất thị trường.
+ Vay dài hạn: nước đi vay phải có chương trình điều chỉnh kinh tế trung hạn và mọi khoản vay
phải theo sát với việc thực hiện chương trình theo từng quý, từng năm. Mức vay bằng 140% cổ phần; thời
hạn 10 năm; ân hạn 4 năm; lãi suất 6 - 7,5% năm.
+ Vay bù đắp thất thu xuất khẩu: cho các nước đang phát triển có đột biến thiếu hụt cán cân
thương mại trong năm. Mức vay tối đa bằng 100% cổ phần; thời hạn và lãi suất như tín dụng thông
thường.
+ Vay chuyển tiếp nền kinh tế: loại tín dụng mới xuất hiện để hỗ trợ cho các nước chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường; thời hạn vay 5 năm; ân hạn 3,25 năm; lãi suất thị trường.
Ngoài ra, còn một số loại tín dụng khác như vay để duy trì dự trữ điều hoà, vay để điều chỉnh cơ
cấu,vv.
Những khoản vay của Việt Nam từ IMF

Chính quyền Sài gòn gia nhập IMF năm 1956. Năm 1976, CHXHCN Việt nam chính thức kế tục
chân hội viên của Việt nam tại IMF và được quyền hưởng các khoản vay từ IMF. Trong giai đoạn 1976-
1981, IMF đã cho Việt nam vay khoảng 200 triệu USD nhằm giải quyết những khó khăn trong cán cân
thanh toán. Trong suốt thời gian từ 1985 đến tháng 10/1993, quan hệ giữa VN - IMF được duy trì thông
qua đối thoại chính sách chủ yếu dưới hình thức tham khảo thường niên về kinh tế vĩ mô.
Tháng 10/1993, Việt nam đã nối lại quan hệ tài chính với IMF. Trong giai đoạn 1993-2004, IMF
đã cung cấp cho Việt nam 4 khoản vay với tổng vốn cam kết 1.094 triệu USD, trong đó, chương trình vay
cuối cùng là Tăng trưởng và Giảm nghèo PRGF kết thúc vào tháng 4/2004.
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
Từ tháng 4/2004 đến nay, quan hệ Việt nam - IMF tiếp tục được duy trì tốt đẹp mặc dù giữa hai
bên không còn chương trình vay vốn. Hai bên vẫn thường xuyên tiến hành trao đổi các đoàn cấp cao. Bên
cạnh đó, IMF vẫn rất tích cực tiến hành các hoạt động tư vấn chính sách và hỗ trợ kỹ thuật cho Việt nam.
Năm 2009, IMF đã tiến hành hai đợt phân bổ SDR tổng thể và đặc biệt vào các tháng 8 và 9
nhằm giúp các nước hội viên tăng dự trữ ngoại hối, chống đỡ trước tác động của khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu. Qua hai đợt phân bổ này, Việt Nam được phân bổ tổng cộng hơn 267 triệu
SDR, trong đó, phân bổ thông thường gần 244 triệu SDR và phân bổ đặc biệt hơn 23 triệu SDR.

BẢNG SỐ LIỆU CÁC KHOẢN CHO VAY CỦA IMF GIAI ĐOẠN 1993 - 2004
(Đơn vị: Triệu USD)
TÊN KHOẢN VAY NGÀY KÝ
KẾT
SỐ CAM
KẾT
1. Chuyển đổi hệ thống (STF) 06/10/1993 34
2 Dự phòng (SBA) 06/10/1993 157
3. Điều chỉnh cơ cấu mở rộng (ESAF) 11/11/1994 535
4. Tăng trưởng và Xóa đói Giảm nghèo (PRGF) 13/04/2001 368
Tổng cộng 1.094
Loại mượn Ngày chấp nhận Hạn cuối Mượn được nhận Mượn thực sự
ESAF 11/11/1994 10/11/1997 362 242

Stand-by 06/10/1993 11/11/1994 145 109
Kỳ hạn phải trả 2000 2001 2002 2003 2004
Tiền mượn 8 34 52 52 49
Tiền lời 1.4 4 3.6 3 3
BẢNG SỐ LIỆU PHÂN BỔ SDR

TT Đợt phân bổ Giá trị Đơn vị Thời gian
1 Phân bổ tổng thể 243.965.055 SDR 28/8/2009
2 Phân bổ đặc biệt 23.168.946 SDR 9/9/2009
Tổng cộng 267.134.001 SDR
Đặc biệt ngoại việc hỗ trợ về vốn thì IMF còn có nhiều dự án Hỗ trợ kỹ thuật của IMF cho Việt nam.
Trước khi nối lại quan hệ tín dụng, IMF đã cử nhiều đoàn chuyên gia kinh tế vào giúp Việt nam xây dựng
các chương trình kinh tế, trong đó có các biện pháp chống lạm phát. IMF cũng đã nhận đào tạo một số cán
bộ của các ngành kinh tế tổng hợp về kiến thức kinh tế thị trường và cùng với UNDP thực hiện trợ giúp kỹ
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
thuật cho NHNN và Bộ tài chính trị giá 1,9 triệu Đôla Mỹ dưới hình thức cử các chuyên gia tư vấn ngắn,
trung và dài hạn về nghiệp vụ chính sách đồng thời tổ chức các khoá tập huấn, hội thảo trong nước cũng
như các khảo sát tại các nước có những kinh nghiệm về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ tương tự
như Việt nam.
Dự án VIE/93/007 về “Tăng cường thể chế và chính sách tài chính” được hỗ trợ của IMF/UNDP đã đem
lại những kết quả đáng khích lệ trong các lĩnh vực điều hành và quản lý tiền tệ, xây dựng các thị trường
vốn, quản lý ngoại hối, hệ thống thanh toán, thanh tra ngân hàng trung ương, chế độ báo cáo, thống kê tiền
tệ
- Ưu điểm của những khoản vay từ IMF
+ Tất cả các quốc gia thành viên (giàu và nghèo) đều có thể kêu gọi các dịch vụ và nguồn tài trợ
của IMF. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia nghèo khó và các quốc gia đang trong quá
trình phát triển có thể vay vốn với những ưu đãi nhất định về lãi suất từ đó có thể đầu tư phát triển kinh tế,
các nước phát triển tìm tới IMF chủ yếu là để có được sự tư vấn chính xác và hiệu quả cho các hoạt động
tài chính ngân hàng của mình, đảm bảo tính linh hoạt trong hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính tiền
tệ của toàn cầu.

- Nhược điểm của những khoản vay từ IMF
+IMF chỉ đóng vai trò giám sát hệ thống tiền tệ thế giới bằng cách giúp duy trì một hệ thống thanh
toán có trật tự giữa tất cả các quốc gia, và cung cấp các khoản vay cho các thành viên đang gặp phải vấn
đề thiếu hụt nghiêm trọng về cán cân thanh toán
+ Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế chỉ quan tâm đến những vấn đề về chính sách. Do vậy Quỹ cung cấp các
khoản vay cho các quốc gia thành viên đang có vấn đề ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán nước
ngoài của họ và cố gắng đạt được khả năng chuyển đổi đầy đủ tiền tệ của các thành viên trong hệ thống tỷ
giá hối đoái linh hoạt.
8.3.Vay Ngân hàng thương mại (NHTM)
*Đặc điểm
Khác với NHPT, các NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận bằng cách huy động vốn trong dân
chúng. Do đó, việc tài trợ cho các dự án nằm trong hoạt động tín dụng của các NHTM. Nguồn tín dụng
này lại được tài trợ từ nguồn huy động vốn trung và dài hạn của chính các NHTM có được. Như vậy rủi ro
cho việc tài trợ DA đối với NHTM là khá lớn. Vì thế chính bản thân các NHTM cũng phải cân nhắc rất kỹ
khi đầu tư vào những DAPT căn cứ vào tiềm lực của mình. Vốn của NHTM vì thế có chi phí vốn lớn, nó
tham gia 1 phần nhỏ vào tổng kinh phí đầu tư cho DAPT. Những DAPT đặt tính xã hội lên trên thường
không thu hút được sự chú ý của nguồn tài trợ này.
*Ưu điểm
+ Nguồn vốn của NHTM kết hợp với các nguồn vốn khác là biện pháp hiệu quả đối với dự án
phát triển có tính sinh lời và hiệu quả cao thông qua việc tạo áp lực trả lãi.
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com
+ Tài trợ của NHTM sẽ hạn chế bao cấp của Nhà nước, hạn chế gánh nặng nợ nần của quốc gia,
hạn chế tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác thường gắn liền với tài trợ của Nhà nước.
*Nhược điểm
+ Thời gian sử dụng vốn ngắn, lãi suất cao.
+ So với các nguồn vốn khác, nguồn vốn vay từ NHTM thường kèm theo điều kiện vay vốn có tài
sản đảm bảo
*Ví dụ
Công trình thủy điện Sơn La là công trình thủy điện lớn nhất ở VN. Công suất đạt khoảng 10 ty
Kwh/ năm góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong giai đoạn huy động vốn cho

dự án vào năm 2007, tập đoàn điện lực VN (EVN) và 4 NHTM Việt Nam (Agribank, VCB,
BIDB,Vietinbank) đã ký hợp đồng vay vốn thương mại với tổng giá trị 17500 tỷ đồng. Thời hạn vay là 15
năm, thời gian ân hạn là 5 năm, lãi suất vay bằng lãi suất huy động tiết kiệm 12 tháng ( trả lãi sau) bình
quân của các NH cho vay cộng với phí 2.5%/ năm. Dự án thủy điện Sơn La có công suất = 2400 MW do
EVN làm chủ đầu tư, tổng đầu tư 43083 tỷ đồng. Bên cạnh vay vốn thương mại trong nước, nguồn vốn để
thực hiện DA còn được thu xếp từ vay ngân sách 5000 tỷ đồng để đền bù di dân, vay NHPT 4000 tỷ đồng,
vốn tự tích lũy và vốn trái phiếu 9823 tỷ đồng, vay thương mại nước ngoài để mua sắm thiết bị 6760 tỷ
đồng.
8.4.Nguồn khác
Dự án phát triển mang lại lợi ích to lớn cho người hưởng lợi, ví dụ đường giao thông nông thôn,
nhà máy chế biến nông sản, Vì vậy người hưởng lợi sẽ đóng góp cho dự án. Nguồn tài trợ này có ý nghĩa
quan trọng đối với thành công của dự án phát triển, bởi vì nó gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của người
hưởng lợi, của chính quyền địa phương với dự án.
9.Thực trạng huy động và sử dụng các nguồn tài trợ DAPT tại Việt Nam
Thực tế cho thấy, Việt nam cho đến nay vẫn là 1 quốc gia đang phát triển. Nhu cầu đầu tư cho
phát triển kinh tế luôn là ưu tiên hàng đầu của quốc gia. Tổng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế chiếm đến
45% GDP cả nước ( khoảng 90 000 tỷ VND). Trong khi đó, DAPT tại Việt Nam lại rất lớn cả về số lượng
và qui mô. Vì thế mà một đặc điểm dễ nhận thấy là, nguồn tài trợ cho các DAPT tại Việt Nam bao gồm
nhiều loại nguồn đến từ nhiều tổ chức khác nhau. Điều này vừa giúp đa dạng hóa cơ cấu nguồn vốn thỏa
mãn cung vốn cho DA vừa làm tăng tính hiệu quả hoạt động cho các DAPT.
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com

cấu nguồn tài trợ cho DAPT tại Việt Nam chủ yếu gồm:
+ Nguồn từ NSNN được xem xét đến đầu tiên. Nhà nước chủ động thiết lập DAPT và phân bổ
kinh phí ngân sách cho các dự án dựa trên mức độ quan trọng đối với nền kinh tế.
Nhìn vào hình vẽ trên, ta thấy, các DAPT tập trung chủ yếu cho những chương trình mục tiêu
quốc gia như chương trình giáo dục đào tạo( 43.63 tỷ VND), phòng chống bệnh XH (15.82 tỷ VND),
chương trình nước sạch (10,2 tỷ VND)
Đăng lại trên Diễn đàn SV KTQD – www.svktqd.com

×