Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

luận văn thạc sĩ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở TIỀN GIANG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.9 KB, 114 trang )

minh
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
***
NGUYỄN VĂN ÚT
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG Ở TIỀN GIANG
TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
Chuyên ngành: Công tác tư tưởng
Mã số: 60 31 25
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Ngêi híng dÉn khoa häc: TS. Nguyễn Văn Long
HÀ NỘI - 2011
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công tác tư tưởng (CTTT) là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng
trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền
tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân
thực hiện các nhiệm vụ cách mạng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: Lý luận là gốc,
tư tưởng dẫn đầu, Người viết: “Giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc
quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng”, “Tư
tưởng không đúng thì công tác ắt sai lầm”, “Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ
tình hình mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới
thống nhất; Ngay từ khi thành lập, Đảng ta cũng đã xác định: công tác tư tưởng là
một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: "Xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ".
Đây là một trong những nhân tố quan trọng đảm bảo cho thành công của sự nghiệp
cách mạng nước ta trong suốt quá trình lãnh đạo của Đảng ta.
Nhiệm vụ lịch sử này chỉ được hoàn thành thắng lợi khi toàn Đảng nhất trí


cao, toàn xã hội đồng thuận, tự giác, tích cực thực hiện. Đảng ta thông qua công
tác tư tưởng đưa nhân tố tự giác đến từng người, cổ vũ, động viên nhân dân vượt
qua mọi thách thức, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Thông qua công tác tư
tưởng, tạo nên động lực tinh thần to lớn, mạnh mẽ hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ
lịch sử trong thời kỳ mới – thời kỳ hội nhập quốc tế
CTTT đã có những cống hiến xuất sắc vào những thắng lợi vĩ đại của Cách
mạng trong hơn 80 năm qua. Đặc biệt là thời kỳ đổi mới, công tác tư tưởng đã góp
phần bảo đảm sự thống nhất trong Đảng, xây dựng và củng cố niềm tin của toàn
dân vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
2
quốc; tạo cơ sở để tập hợp lực lượng, đoàn kết dân tộc, hình thành sức mạnh to lớn
giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội; tạo tiền đề cho sự phát triển
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước.
Đặc biệt là thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, do đòi hỏi của tình hình và
nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Chúng ta phải coi
trọng nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng.
Hiện Việt Nam là thành viên thứ 150 Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
với những thời cơ, thách thức lớn đan xen đã và đang tác động rất lớn đến hoạt
động tư tưởng đó là: Sự phát triển mạnh xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, tác động
sâu rộng đến giao lưu hợp tác văn hóa, sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ, nhất là sự phát triển nhảy vọt của công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ thông tin, công nghệ giải trí Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, nhất là sự cạnh tranh gay gắt thị
trường kinh tế, cũng như cuộc đấu tranh giải quyết những vấn đề toàn cầu: chạy
đua vũ trang, cuộc chiến chống đói nghèo, tật bệnh và vấn đề biến đổi khí hậu
Với Việt Nam, còn phải đối mặt với âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ
của các thế lực phản động vv
Tình hình thế giới và trong nước tác động rất lớn đến nhận thức, tư tưởng và
tâm lý con người. Công tác tư tưởng phải thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực chất của công tác tư tưởng là tạo nên

định hướng đúng trong nhận thức và trong hành vi của mỗi con người trước thực
tiễn đầy biến động, qua đó, tạo được sự đồng thuận, sự ổn định xã hội. Công tác tư
tưởng trong bối cảnh thế giới, trong nước ngày nay là hết sức khó khăn và phức tạp
hơn bất cứ thời kỳ cách mạng nào của Đảng ta. Thế giới đã thay đổi rất nhiều, xã
hội Việt Nam đang chứng kiến sự đổi mới mạnh mẽ, con người Việt Nam đã thay
đổi về mọi mặt: dân trí, nhận thức, quan điểm, lối sống, mức sống Điều đó đòi
hỏi bức thiết phải tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng, bản thân công tác tư tưởng
phải được nâng lên, phải được đổi mới, phù hợp với thời đại mới. Từ phạm vi cả
3
nước, đề cập đến tỉnh Tiền Giang, công tác tư tưởng luôn được xác định là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của Đảng bộ tỉnh, nhằm xác lập, phát triển hệ tư tưởng xã
hội chủ nghĩa, hình thành niềm tin, định hướng giá trị xã hội đúng đắn, góp phần
xây dựng thế giới quan khoa học, đạo đức, lối sống, tri thức, bảo đảm cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân có những hành động tích cực, sáng tạo, để góp phần thực
hiện thắng lợi lý tưởng, mục tiêu của Đảng, của dân tộc.
Trong quá trình hội nhập quốc tế những năm qua, tình hình kinh tế, văn hóa,
chính trị, an ninh quốc tế trong nước nói chung và Tiền Giang nói riêng, có nhiều
diễn biến cả mặt tích cực và tiêu cực, đã tác động đến tư tưởng, tình cảm và đời
sống của cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân. Thực hiện Nghị quyết 08 –
NQ/TW ngày 5/2/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về một số chủ
trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam
là thành viên của WTO, Tỉnh ủy Tiền Giang đã ban hành chương trình hành động
số 07-CTr/TU cho toàn thể cán bộ, đảng viên trong toàn tỉnh để quán triệt các mục
tiêu, quan điểm chỉ đạo của Đảng và một số nhiệm vụ cụ thể về hội nhập kinh tế
quốc tế. Qua đó, công tác tuyên truyền về hội nhập kinh tế quốc tế đã được các
cấp, các ngành trong tỉnh nghiêm túc thực hiện qua nhiều hình thức như thông qua:
website, báo chí, đài phát thanh truyền hình, hội thảo chuyên đề góp phần nâng
cao nhận thức về chính trị, củng cố tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân,
tăng thêm lòng tin vào Đảng, khẳng định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận của xã hội. Công

tác tư tưởng còn góp phần ổn định tình hình chính trị, tư tưởng; giữ vững quốc
phòng, an ninh; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Những kết quả đạt được thể hiện rõ nét trong việc tăng cường đào tạo, bồi
dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng cốt cán, làm cho hệ tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh từng bước trở thành hệ tư tưởng chi phối trong xã hội; việc định hướng thông
tin, tuyên truyền được thực hiện thường xuyên đúng quy chế. Nâng cao chất lượng
4
thông tin trên báo chí, bảo đảm tính chân thật, tính giáo dục, tính chiến đấu; phát
hiện và giới thiệu kịp thời gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến, những nhân
tố mới, phát huy tốt vai trò và sức mạnh của văn hóa, văn nghệ trong công tác tư
tưởng, trong việc thúc đẩy xây dựng con người mới thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Qua đó, tạo ra sự thống nhất, tập trung trong công tác tuyên
truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Hơn nữa, lực lượng cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng của tỉnh
trong thời gian qua đã vươn lên không ngừng, có đóng góp xứng đáng vào những
thắng lợi của Cách mạng Việt Nam nói chung và Tiền Giang nói riêng. Tuy nhiên,
công tác tư tưởng trong tỉnh thời gian qua còn nhiều yếu kém, bất cập, làm hạn chế
đáng kể đến chất lượng và hiệu quả của nhiều hoạt động tư tưởng như: tình trạng
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và nhân dân, đòi hỏi Đảng ta phải thực sự đổi mới nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tư tưởng. Đó cũng là lý do tác giả chọn đề tài "Đổi mới công tác
tư tưởng ở Tiền Giang trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay".
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong quá trình hội nhập quốc
tế đã được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu. Đến nay có nhiều bài viết
của nhiều tác giả ở các góc độ khác nhau được đăng tải trên sách, báo, tạp chí. Một
số công trình có liên quan trực tiếp đến vấn đề này như: Đào Duy Tùng (1999),
một số vấn đề về công tác tư tưởng; Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ
biên), Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, 2001,
Hà Nội; Đào Duy Quát (2001), Một số vấn đề về công tác tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; TS. Hồ Văn Chiểu (2005) nâng
cao hiệu quả công tác tư tưởng trong quá trình chủ động hội nhập nền kinh tế thế
giớ; Lương Khắc Hiếu (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng tập 2, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Viện Xây dựng Đảng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
5
Minh, Giáo trình công tác tư tưởng của Đảng, Nxb Lý luận chính trị, 2004, Hà
Nội; Bùi Ngọc Thanh, Xây dựng Đảng và công tác cán bộ, Nxb Chính trị quốc gia,
2008, Hà Nội; Trần Thị Anh Đào (2008), Công tác tư tưởng và vấn đề đào tạo cán
bộ làm công tác tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Ban Tuyên giáo Trung
ương (2009), Tập bài giảng lớp bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo cấp tỉnh, cấp huyện
năm 2009
Các công trình trên cho thấy, các tác giả đi sâu phân tích ở góc độ lý luận
công tác tư tưởng trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề hội nhập quốc tế, vấn đề
công tác tư tưởng, khái quát về tình hình cán bộ làm công tác tư tưởng, hoặc đề cập
ở một khía cạnh nào đó về năng lực của đội ngũ làm công tác tư tưởng tại một địa
phương.
Có thể nói rằng đề tài luận văn "Đổi mới công tác tư tưởng ở Tiền Giang
trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay” là một đề tài mới, không bị trùng lặp
với bất cứ đề tài nghiên cứu nào đã có trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả của công
tác tư tưởng trong quá trình hội nhập của Tiền Giang, luận văn đề xuất các phương
hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng hiện nay.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao hiệu quả công tác tư
tưởng ở tỉnh Tiền Giang trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Đánh giá thực trạng công tác tư tưởng ở tỉnh Tiền Giang trong quá trình

hội nhập.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư
tưởng của tỉnh Tiền Giang trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
6
- Tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng của Đảng, nhất là sau khi Việt
Nam gia nhập WTO.
- Đội ngũ làm công tác tư tưởng và công tác tư tưởng ở tỉnh Tiền Giang
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu là công tác tư tưởng của Đảng ở Tiền Giang trong
giai đoạn Việt Nam hội nhập quốc tế từ 2007 đến nay
- Công tác tư tưởng của Đảng được nghiên cứu dưới gốc độ của Chính trị
học – Công tác tư tưởng là một trong những chức năng và là chức năng cơ bản của
Đảng cầm quyền trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Quan điểm và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về công tác
tư tưởng của Đảng.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng; quan điểm, chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta về công tác tư tưởng trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Đồng thời, tác giả kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên
cứu của các công trình khoa học có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp logic và phương pháp lịch sử kết hợp với điều
tra xã hội học.
6. Đóng góp khoa học của luận văn

- Hệ thống hóa những quan điểm, chủ trương của Đảng ta về công tác tư
tưởng trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Đánh giá khách quan thực trạng tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng ở
tỉnh Tiền Giang và tác động của quá trình hội nhập quốc tế , đặc biệt khi Việt Nam
7
trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới năm 2007. Trên cơ sở đó,
chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của công tác tư tưởng trong quá trình hội nhập quốc
tế, từ đó đề xuất các quan điểm, các dự báo khoa học, khuyến nghị một số giải
pháp, nhằm nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong tiến trình hội nhập quốc tế,
nhất là trong những năm tiếp theo.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho
việc nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng ở Tiền Giang trong quá trình hội nhập
quốc tế.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy những vấn đề liên quan đến công tác tư tưởng trong quá trình hội nhập
quốc tế.
8. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3
chương.
8
CHƯƠNG 1
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY
1.1. Những vấn đề lý luận chung về đổi mới công tác tư tưởng trong điều
kiện hội nhập quốc tế
1.1.1. Khái niệm tư tưởng và các yếu tố cấu thành công tác tư tưởng của
Đảng
Có thể nói, có khá nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về khái niệm
tư tưởng, nhưng đều có quan điểm chung là nói đền tư tưởng là nói đến sự phán

ánh hiện thực trong ý thức, là sự suy nghĩ, hay ý nghĩ của con người. Tuy nhiên
không phải sự phản ánh hay sự suy nghĩ nào cũng đều được coi là tư tưởng; chỉ khi
nào, sự phản ánh, sự suy nghĩ đó phát triển đến một trình độ khái quát nhất định,
nó trở thành kinh nghiệm và hiểu biết của con người về một vấn đề nhất định, về
thế giới tự nhiên, về xã hội và con người, thì sự khái quát đó của suy nghĩ mới
được coi là tư tưởng.
Là một phạm trù thuộc ý thức xã hội, tư tưởng vừa có sự thụ động nhất định
so với những thay đổi của tồi tại xã hội vừa có khả năng vượt trước, tức là tư tưởng
có khả năng dự báo và trên cơ sở dự báo đó, đề ra mục tiêu, chương trình, kế
hoạch, dự định nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo hiện thực khách quan đó. Như
vậy, chúng ta có thể hiểu rằng: Tư tưởng là một hình thức tồn tại (một bộ phận)
của ý thức xã hội, là kết quả của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, hình
thành nên những quan niệm, quan điểm của con người (của cá nhân, cộng đồng
người, giai cấp xã hội ) nhằm phản ánh hiện thực khách quan, biểu thị thái độ
của con người đối với hiện thực đó và nhằm phục vụ lợi ích của con người theo
một mục đích nhất định.
Trong cuộc sống có nhiều tư tưởng khác nhau. Các tư tưởng tương tác với
nhau, tập hợp lại với nhau một cách tự nhiên thành một chuỗi các nhận thức, được
9
thừa nhận và bị loại bỏ theo quy luật tự nhiên. Là công cụ của nhận thức, tư tưởng
thể hiện thông qua các hành vi, cả những hành vi của tư duy lẫn hành vi bản năng.
Tư tưởng được liên tục lựa chọn bởi các cá nhân cụ thể và có vai trò định hướng
hành động. Do đó, nhận thức về tư tưởng phải linh hoạt chứ không thể coi
Hệ tư tưởng là sản phẩm của xã hội phân chia thành giai cấp, là hệ thống
những quan niệm, quan điểm lý luận và tư tưởng của một giai cấp đại diện cho một
phương thức sản xuất nhất định về các vấn đề: chính trị, luật pháp, đạo đức, thẩm
mỹ, tôn giáo, triết học nhằm phản ánh và bảo vệ lợi ích của giai cấp đó, được các
nhà tư tưởng của giai cấp đó khái quát hóa thành lý luận để làm vũ khí trong đấu
tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng.
1.1.2 Khái niệm công tác tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam

CTTT là hoạt động có mục đích của một giai cấp một chính đảng nhằm hình
thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng
hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng. Như vậy, tính phổ biến của công tác
tư tưởng của các chính đảng, nhất là chính đảng cầm quyền thể hiện ở chỗ: dù
công công khai, tất cả các chính đảng đều thực hiện công tác tư tưởng với những
mục đích và hình thức khác nhau, đều coi công tác tư tưởng như là một phương
thức để thực thi quyền lực chính trị của giai cấp mình.
Theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng ghen, toàn bộ công tác tư tưởng của
đảng là nhằm giáo dục, huấn luyện quần chúng, làm cho quần chúng giác ngộ, có ý
chí quyết tâm thực hiện công việc lâu dài gian khó là phá bỏ tất cả những cản trở
của chế độ củ, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn, do đó công tác tư tưởng có
một vị trí, vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Xét
về bản chất, công tác tư tưởng của Đảng cộng sản là một phương thức lãnh đạo,
nhằm thực thi quyền lực chính trị của giai cấp vô sản; công tác tư tưởng là toàn bộ
hoạt động trên lĩnh vực ý thức của con người nhằm biến tư tưởng cách mạng, tiến
bộ và nhân văn thành lực lượng vật chất để cải tạo xã hội, xây dựng chế độ mới.
Mục tiêu cơ bản của công tác tư tưởng là làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai
10
cấp công nhân, những giá trị tốt đẹp trong văn hóa dân tộc và những tinh hoa văn
hóa thế giới trở thành hệ tư tưởng và các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ chiếm
vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Với ý nghĩa đó, công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan
trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng ta nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo của
mình đối với toàn xã hội và có vai trò hết sức to lớn trong cuộc sống xây dựng
CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Nó không chỉ góp phần tích cực trong việc ổn định
chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, xây dựng nhân tố con người, mà nó là một
động lực cơ bản của sự nghiệp đổi mới. Công tác tư tưởng giải quyết những vấn đề
lý luận do thực tiễn đặt ra, đồng thời hình thành ý chí, nhiệt tình cách mạng của
quần chúng, hiện thực hóa từng bước lý tưởng XHCN.
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu: Công tác tư tưởng của Đảng cộng sản Việt

Nam là một phương thức lãnh đạo, nhằm thực thi quyền lực chính trị của Đảng, là
những hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo của Đảng, theo hệ thống nhất định trên
lĩnh vực tư tưởng, nhằm truyền bá, phát triển hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, truyền
thống và bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, làm cho hệ tư tưởng đó giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, nhằm động viên, cổ vũ, thúc đẩy
toàn xã hội hành động thực hiện mục tiêu lý tưởng XHCN và phản ánh những
nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân.
1.1.3 Các yếu tố cấu thành công tác tư tưởng của Đảng
- Công tác tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam là một hoạt động xã hội đặc
thù, mang tính quyền lực và thực thi quyền lực chính trị, được đấu tranh bởi các
yếu tố sau: Chủ thể, khách thể của công tác tư tưởng và các chức năng của công tác
tư tưởng.
+ Chủ thể công tác tư tưởng: Bao gồm chủ thể của hệ tư tưởng (gắn liền với
giai cấp và chính đảng đại diện cho giai cấp đó); các cơ quan và thiết chế công tác
tư tưởng (thưởng gắn liền với hệ thống tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp
11
cầm quyền); các nhà tư tưởng của chủ thể đó và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm
công tác tư tưởng. Do công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích, có chủ định của
chính đảng của một giai cấp, nên vai trò và hoạt động của chủ thể công tác tư
tưởng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công tác tư tưởng.
Trong XHCN, khi Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyển thì chủ thể
CTTT là toàn Đảng (trước hết là tổ chức cơ sở Đảng, bí thư cấp ủy và toàn bộ
Đảng viên); cơ quan tuyên giáo các cấp, các ngành, các đoàn thể trong hệ thống tổ
chức là lực lượng tham mưu giúp cấp ủy chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra trong Đảng
và trong toàn xã hội. Cán bộ tuyên giáo và các cơ quan chức năng giáo dục tư
tưởng bao gồm cả các cơ quan thông tin đại chúng là lực lượng tham mưu giúp cấp
uỷ chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra CTTT trong Đảng và toàn xã hội, đồng thời là lực
lượng trực tiếp tiến hành CTTT trên phạm vi toàn xã hội nhằm biến hệ thư tưởng
của Đảng đóng vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.

+ Khách thể của CTTT: là lực lượng chịu sự tác động về mặt tư tưởng của chủ
thể ( bao gồm các nhân, tập thể, cộng đồng, giai cấp trong xã hội mà chủ thể tư
tưởng chọn để tác động). Khách thể của CTTT còn có các mối quan hệ xã hội,
quan hệ giữa người với trong xã hội; là ý thức, hành vi, thái độ của cá nhân, tập
thể, các tầng lớp xã hội; là các quá trình tư tưởng và các quan hệ xã hội trong đó
con người sống và hoạt động.
Vì khách thể của CTTT rất rộng, cho nên, xét trong mối quan hệ này, có thể
là chủ thể của CTTT nhưng mối quan hệ khác, có thể là đối tượng của CTTT (một
cá nhân, một tập thể có thể vừa chủ thể của CTTT, khi cá nhân, tổ chức đó sẽ trở
thành khách thể của CTTT khi chịu tác động của nó).
+ Chức năng của CTTT bao gồm: Chức năng phát triển lý luận, nghiên cứu đề
xuất lý luận, hình thành, phát triển và bảo vệ lý luận: Nội dung cơ bản là nghiên
cứu, bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với những tinh hoa trí tuệ của
thời đại và của dân tộc; tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận cách mạng;
nâng cao trình độ vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng phù
12
hợp với yêu cầu đòi hỏi tình hình; cung cấp những luận cứ khoa học cho việc đề ra
đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng; truyền bá lý luận cách mạng trong
Đảng và trong xã hội, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội; đấu tranh chống mọi sư xuyên tạc về chủ nghĩa Mác –
Lênin, chủ nghĩa cơ hội, giáo điều dưới mọi màu sắc.
+ Chức năng bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, đảng viên của Đảng: Tuyên
truyền, giáo dục hệ tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng, hiến pháp và pháp
luật của Nhà nước, để cán bộ, đảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ, thực sự là đội tiên
phong trong phong trào cách mạng của quần chúng.
+ Chức năng giáo dục tư tưởng cho quần chúng nhân dân lao động: Tuyền bá
cho mọi thành viên trong xã hội tri thức về lĩnh vực chính trị - xã hội; nâng cao
trình độ nhận thức, khơi dậy, cổ vũ tính tích cực nhận thức của các thành viên
trong xã hội trước các vấn đề thực tiễn đặt ra.
+ Chức năng tổ chức: Hướng dẫn tập hợp quần chúng tham gia xây dựng và

bảo vệ chế độ, tham gia giải quyết một nhiệm vụ cụ thể của xã hội.
+ Chức năng phê phán: Xây dựng hình thái ý thức xã hội XHCN đồng thời
phải loại bỏ, phê phán tàn dư, thói quen, hủ tục lạc hậu của hình thái ý thức xã hội
củ không còn phù hợp, đấu tranh với các quan điểm, tư tưởng thù địch đối lập với
hệ tư tưởng XHCN, những tư tưởng lạc hậu nảy sinh trong quá trình tổ chức, xây
dựng xã hội XHCN.
+ Chức năng dự báo: Dựa trên quy luật vận động của xã hội, nắm vững chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn, công tác tư tưởng dự
báo diễn biến nhu cầu, tâm tư, tình cảm, tâm lý của các thành viên trong xã hội,
cung cấp cơ sở khoa học cho việc đề ra các chủ trương biện pháp giải quyết chính
xác các diễn biến, nhu cầu ấy. CTTT còn dự báo xu hướng, khả năng chống phá tư
tưởng của địch để Đảng chủ động có biện pháp đề phòng, làm vô hiệu hoặc hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của các quan điểm, tư tưởng thù địch.
1.1.4 Nội dung và phương thức tiến hành công tác tư tưởng của Đảng.
13
Để giữ vai trò lãnh đạo toàn xã hội, Đảng phải tiến hành CTTT một cách có
hiệu quả, chủ thể làm CTTT trước hết phải chú trong nội dung của CTTT, coi đó là
vấn đề cơ bản để thực hiệc các nhiệm vụ tư tưởng đề ra.
- Nội dung của CTTT: là các hoạt động mà chủ thể xác định nhằm thực hiện
mục tiêu được xác định (cả mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài). Nội dung
CTTT bao gồm việc xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng XHCN, biến nó
thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội; giáo dục ý thức tự giác chính trị, hình
thành niềm tin. Bằng nội dung CTTT, chủ thể của CTTT có trách nhiệm truyền thụ
cho mọi thành viên trong xã hội một hệ thống kiến thức, tri thức về các lĩnh vực
chính trị - xã hội, tập trung giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hệ thống kiến thức
khoa học xã hội và nhân văn, kiến thức có liên quan đến nhiệm vụ mà mỗi cá nhân
đang sống và hoạt động, nhằm xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng trên mọi phương
diện.
+ Hình thức CTTT: Là cách sắp xếp nội dung, tổ chức các hoạt động giữa chủ

thể và đối tượng của CTTT. Hình thức của CTTT rất phong phú, đa dạng như:
Hoạt động huấn luyện, giáo dục, hoạt động tuyên truyền, cổ động, công tác văn
hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản; tuyên truyền miệng vv Tùy thuộc vào nội dung,
đối tượng (khách thể), nhiệm vụ, hoàn cảnh mà chủ thể lựa chọn hình thức của
CTTT cho phù hợp.
+ Phương pháp CTTT: Là con đường, cách thức, biện pháp để chủ thể truyền
đạt mục đích, nội dung CTTT tới khách thể của CTTT, nhằm làm chuyên biến tư
tưởng của khách thể theo mục tiêu đã xác định; là con đường, cách thức, biện pháp
để đối tượng CTTT lĩnh hội, tiếp nhận được mục đích, nội dung của CTTT. Tiến
hành CTTT bằng cả hệ thống phương pháp phân tích, giải thích, chứng minh, so
sánh, nêu gương, giáo dục, thuyết phục, hành chính Phương pháp CTTT do nội
dung và đối tượng CTTT quy định.
+ Nguyên tắc của CTTT: Là những quy định cơ bản có tính bắc buộc do chủ
14
thể của CTTT xác định để trên cơ sở đó lựa chọn nội dung, cách thức tổ chức và
phương pháp tác động đến khách thể, nhằm đạt được mục đích đề ra.
Nguyên tắc của CTTT cũng là cơ sở phương pháp luận để xem xét phương
hướng tư tưởng chính trị của nội dung giáo dục và đánh giá chính xác hiệu quả
CTTT. Những nguyên tắc cơ bản nhất trong CTTT là: nguyên tắc tính Đảng; tính
khoa học; tính chiến đấu; tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn các nguyên tắc
này là một thể thống nhất không tách rời.
+ Phương tiện CTTT: Là các tài liệu, văn kiện Đảng, các ấn phẩm sách, báo,
các phương tiện thông tin đại chúng: phát thanh, truyền hình, internet, văn hóa –
văn nghệ; các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ cho CTTT
+ Hiệu quả của CTTT: Là sự so sánh giữa kết quả đạt được do hoạt động của
CTTT mang lại so với mục đích CTTT được đặt ra từ trước, sau một chu trình tác
động tư tưởng, trong một điều kiện nhất định và với một chi phí nhất định. Trong
CTTT, hiệu quả được đánh giá bằng sự cố gắng của chủ thể CTTT và những
chuyển biến của nhận thức, tư tưởng mỗi giai cấp, tầng lớp và toàn xã hội, thể hiện
trong những kết quả kinh tế, chính trị, xã hội, phong trào. Để đánh giá hiệu quả của

CTTT, phải đưa ra các tiêu chí mang tính định tính, hoặc thông qua kết quả các
mặt công tác khác để đánh giá hiệu quả.
+ Hình thái của CTTT: Việc tiến hành CTTT là một quá trình từ sáng tạo ra
hệ tư tưởng, đến vận dụng hệ tư tưởng đề ra đường lối của một giai cấp, một chính
đảng và truyền bá hệ tư tưởng, đương lối đó trong xã hội, nhằm đưa hệ tư tưởng,
đường lối đó đi vào thực tiễn cuộc sống, tất yếu phải thông qua các hình thái
CTTT. CTTT có ba hình thái, bao gồm công tác lý luận, công tác tuyên truyền và
công tác cổ động.
Các yếu tố trên của CTTT tác động, quy định lẫn nhau hình thành nên hệ
thống CTTT vận hành theo những quy luật của lĩnh vực tư tưởng và yếu tố đó đều
có quan hệ qua lại tác động lẫn nhau, có vị trí, vai trò riêng chi phối đến toàn bộ
hoạt động của CTTT. Mục đích CTTT quy định, nội dung hình thức, phương pháp,
15
phương tiện CTTT. Nếu nội dung CTTT phản ánh được dùng đúng mục đích
CTTT, sự lựa chọn hình thức, phương thức, phương pháp, phương tiện CTTT phù
hợp với mục đích và đối tượng của CTTT, thì sẽ đảm bảo cho CTTT đạt hiệu quả.
Ngược lại, nếu mục đích CTTT xác định đúng, nhưng nội dung, hình thức, hoặc
phương pháp, phương tiện CTTT lựa chọn không phù hợp cũng sẽ làm cho CTTT
đạt hiệu quả thấp, thậm chí không đạt được hiệu quả, thì chủ thể CTTT phải xác
định đúng, đẩy đủ, coi vị trí vai trò của các yếu tố đó và duy trì sự tác động qua lại,
trong tương quan giữa chúng không được coi nhẹ, bỏ sót bất cứ yếu tố nào.
1.1.5 CTTT trong bối cảnh quốc tế và hiện nay
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế và quốc tế có
những biến đổi to lớn và sâu sắc, đời sống tư tưởng thế giới ngày càng phức tạp và
trước sự hiện diện, cạnh tranh giữa nhiều khuynh hướng tư tưởng khác nhau;
CTTT của Đảng càng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự thống nhất về tư
tưởng và hành động trong Đảng và trong xã hội.
Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ của mình, CTTT luôn luôn vận động và
phát triển, phù hợp với những hoàn cảnh và điều kiện mà nó được thực hiện. Thực
tiễn của bối cảnh quốc tế trong những năm đầu của thế kỷ XXI tác động trực tiếp

tới nhận thức tư tưởng của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội, đặt ra nhiều vấn
đề đổi mới CTTT. Cụ thể là:
Một là; CTTT trong thời đại cách mạng khoa học, công nghệ, bùng nổ thông
tin và kinh tế trí thức.
Cách mạng khoa học công nghệ đã khai sinh ra một thời đại kinh tế mới – thời
đại kinh tế tri thức, những thành tựu vĩ đại mang tính đột phá làm thay đổi sâu sắc
nền sản xuất vật chất, tác động mạnh mẽ đến cơ cấu xã hội, làm đảo lộn nhiều lĩnh
vực truyền thống của xã hội; làm biến động các giá trị văn hóa, tinh thần và tư
tưởng đặt tiến trình vận động của các quốc gia, dân tộc vào bối cảnh chứa đựng
cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức.
Công nghệ thông tin đem lại những nguồn thông tin không lồ, khả năng tích
16
lũy kiến thức và giao lưu văn hóa sâu rộng. Nhiều khoảng trống trong nhận thức
dần dần được sáng tỏ, tạo động lực mới cho khuynh hướng dân chủ, tự do ở mỗi
quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Công nghệ thông tin còn làm thay đổi nhiều mặt
của cơ cấu xã hội, làm cho các quan hệ xã hội thay đổi. Trên một hướng khác,
những thành tựu sinh học gen và tế bào đã và đang làm thay đổi những phương
thức tư tưởng tư duy vốn có của xã hội. Những vấn đề toàn cầu đang là thách thức
và đặt trách nhiệm trước toàn nhân loại
Tất cả những điều đó đang hàng ngày tác động trực tiếp và nhận thức của mỗi
người và đang đặt ra yêu cầu nghiên cứu phát triển lý luận, chỉ ra tính khách quan,
khoa học của những quy luật vận động chung của dời sống xã hội, từ đó phát triển,
hoàn thiện và bảo vệ hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Thực tiễn đang đòi hỏi phải
đổi mới CTTT để đủ sức giải đáp thuyết phục những vấn đề của thực tiễn, phục vụ
cho quá trình tư tưởng và quan hệ tư tưởng ngày càng phong phú và đang diễn ra
với tốc độ rất nhanh trong xã hội.
Hai là; CTTT trong điều kiện toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế khách quan, tao ra thời cơ để phát triển
nhanh chóng lực lượng sản xuất của toàn nhân loại. Toàn cầu hóa đặt ra yêu cầu
phải giải quyết những vấn đề toàn cầu: vấn đề môi trường, an ninh kinh tế toàn

cầu, công bằng xã hội, quyền phát triển, hạn chế các tệ nạn xã hội Toàn cầu hóa
cũng dẫn đến sự hình thành các thế toàn cầu: tăng cường các vai trò của các tổ
chức kinh tế, LHQ, tòa án quốc tế, các thỏa thuận pháp lý quốc tế
Ngày nay, toàn cầu hóa tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức
biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, tạo ra cơ hội và thách thức đan
xen rất phức tạp. Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các
nước càng trở thành phổ biến. Do đó đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ CTTT để có thể
tham gia giải quyết được về mặt lý luận những vấn đề kinh tế hiện đại, toàn cầu
hóa góp phần xây dựng, phát triển đường lối, chính sách, giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc, chủ quyền và lợi ích quốc gia, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một
17
yêu cầu bức thiết hiện nay.
Ba là; CTTT với những vấn đề của CNTB hiện đại.
Sau mấy trăm năm phát triển, CNTB đã có những điều chỉnh nhất định và
ngày nay đang chuyển sang giai đoạn mới. Hàng loạt vấn đề kinh tế vĩ mô đang
được nhận thức lại, hoặc tái khẳng định vai trò, vị trí trong chiến lược kinh tế của
nhiều quốc gia, trong đó nổi bật là vấn đề phát triển bền vững. Quyền lực kinh tế
thế giới sẽ được phân bổ lại, trong đó không thể bỏ qua vai trò, vị trí của các nền
kinh tế mới nổi lên (BRIC). Trong các nước tư bản phát triển, mối quan hệ về sở
hữu, đồng sở hữu trở nên vô cùng phức tạp. Mặt khác, cũng từ sự biến động của
giai cấp và giai tầng trong xã hội tư bản, những vấn đề xã hội trở nên cực kỳ căng
thẳng, sự tha hóa bản thân con người, của nền văn hóa và những tệ nạn xã hội đang
là những vấn đề thách thức của xã hội tư bản.
Những biểu hiện của CNTB hiện đại qua giao lưu quốc tế và thông tin toàn
cầu đang trực tiếp tác động và nhận thức, tư tưởng của mỗi người, cả chiều thuận
và chiều nghịch yêu cầu phải được giải đáp về mặt lý luận và thực tiễn bản chất
của CNTB, dù nó thể hiện ở dưới hình thức nào, bản chất của những biểu hiện mới
cũng như sự diệt vong tất yếu của CNTB.
Bốn là; CTTT trong điều kiện XHCN thế giới tạm thời thoái trào.
Sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ phong trào cách mạng thế giới

tạm thời lâm vào thoái trào. Sự sụp đổ của CNXH ở một bộ phận quan trọng của
CNXH thế giới có tác động lớn tư tưởng, nhận thức của mỗi người. Trong hoàn
cảnh đó, xung quan những vấn đề lý luận cơ bản về CNXH lại rộ lên những trường
phái khác nhau trên nhiều mức độ. Chủ nghĩa đề quốc tranh thủ thời cơ, tấn công
trực tiếp vào nền tảng lý luận của CNXH và các nước XHCN còn lại, cố chứng
minh chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, giương chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền"
nhằm phá hoại về mặt tư tưởng, tạo ra lực lượng đối lập, hạ thấp vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, hòng xóa bỏ các nước XHCN còn lại trên thế giơi nhằm thiết
lập một trật tự thế giới mới do Mỹ độc tôn lãnh đạo.
18
CTTT trong điều kiện đó cần được đổi mới và tăng cường hoạt động về lý
luận, khẳng định tính tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội của thời đại ngày nay dù phải
trải qua những bước quan co; làm rõ những thành tựu của CNXH chỉ ra bản chất
nguy hiểm và phản động của những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù; kiên định
những quan điểm cớ bản có tính nguyên tắc của hệ tư tưởng XHCN, phát triển lý
luận Mác – Lênin trong điều kiện thực tiễn mới; tăng thêm tính khoa học và sự
thuyết phục trong hoạt động thực tiễn của CTTT.
Năm là, CTTT trong bối cảnh đất nước ta hiện nay
Những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, diện mạo của đất
nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng
cường, độc lập chủ quyền và chế độ XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát
triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới. "Những thành tựu đạt được trong 20 năm
thực hiện Cương lĩnh là to lớn và đầy ý nghĩa". Bên cạnh đó, việc thực hiện các
nghị quyết của Đảng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm. cụ thể là:
Kinh tế phát triển chưa thật sự bền vững, chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh
của nền kinh tế thấp; phân hóa giàu nghèo tăng. Một số hạn chế, yếu kém trong
lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi
trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ nạn
xã hội, suy thoái đạo đức lối sống chưa được ngăn chặn, đẩy lùi Nền dân chủ

XHCN và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Một số
mặt của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, đổi mới,
nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân
chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị xã hội.
Từ nhận định trên cho thấy nguy cơ, thách thức mà Đảng ta đã từng chỉ ra đến
nay vần còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể
xem nhẹ nguy cơ, thách thức nào. Đáng chú ý là tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
19
trước hết là một số cán bộ chủ chốt các cấp chậm được khắc phục, đang cản trở
việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Mặt khác, trong Đảng đã xuất hiện
không ít các ý kiến khác nhau, thậm chí trái chiều nhau về một số vấn đề cơ bản
liên quan đến đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, ảnh hưởng
tới sự thống nhất tư tưởng, gây bất bình, làm giảm lòng tin trong nhân dân, làm
giảm một số vấn đề tư tưởng, tâm trạng bức xúc đáng lo ngại, ảnh hưởng tới tính
đồng thuận xã hội.
Xu hướng mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, bên cạnh những thuận lợi mới
trong phát triển kinh tế, tiếp thu các thành tựu khoa học, công nghệ và kinh nghiệm
quản lý của các nước trên thế giới, hàng ngày, hàng giờ chúng ta phải đối mặt với
những hoạt động phá hoại tinh vi, sự xâm nhập của những tư tưởng, quan điểm
phản động, lối sống thực dụng, đồi trụy từ bên ngoài Điều đó đã tác động sâu sắc
đến tâm lý, tư tưởng của mỗi người, nảy sinh những phức tạp trong tư tưởng, nhận
thức. Phản ánh hiện thực của thời kỳ quá độ rất đa dạng, phức tạp trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, tình hình tư tưởng xã hội cũng hết sức phong phú, phức
hợp, nhiều vẻ và nhiều mâu thuẫn.
Trước thực tế đó, vai trò của CTTT càng vô cùng quan trọng. Đòi hỏi CTTT
phải không ngừng đổi mới đặc biệt là trong thời kỳ nước ta gia nhập kinh tế quốc
tế, tiến hành CTTT một cách thuyết phục nhằm góp phần tăng cường đồng thuận
xã hội để thực hiện mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh", lấy đó làm cở sở của đoàn kết trong Đảng, trong xã hội, là ngọn cờ tập hợp

sức mạnh của toàn dân tộc trong bối cảnh mới.
1.1.6 Những khái niệm về Hội nhập quốc tế của Đảng ta.
Toàn cầu hoá là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh hưởng,
tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân
tộc trên thế giới, làm nổi bật hàng loạt biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó
chúng có thể phát sinh một loạt điều kiện mới.
Toàn cầu hoá về kinh tế có thể xem như sự liên kết của nhiều nước cùng
20
trong chiều hướng phát triển chung, cùng tham gia hoạt động trong một thị trường
chung, hay nói cách khác, toàn cầu hoá kinh tế mang ý nghĩa của một sự hội nhập
vào hệ thống kinh tế thế giới, một sự hùn vốn, đưa sản phẩm từ quốc gia này sang
quốc gia khác.
Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy nhanh chóng quan hệ kinh tế thương mại trên
phạm vi quốc tế, tạo ra sự ra đời của các tổ chức kinh tế quốc tế, thương mại, tài
chính quốc tế và khu vực: WTO, IMF, WB, ADB, EU, NAFTA, APEC dẫn đến
sự hình thành các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội rất lớn như UNDP,
UNFPA, UNESCO, UNICEF, UNTAD, FAO Các tổ chức này đang tác động
mạnh đến tất cả các nước trên phạm vi toàn cầu.
Hội nhập quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công
nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu; là quá trình tham gia giải quyết các vấn
đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu hoá như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ môi trường sống ; là quá trình loại bỏ dần các hàng rào trong thương mại
quốc tế, thanh toán quốc tế và việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
1.2 Quan điểm và yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng của Đảng ta hiện
nay.
Lý luận và thực tiễn cho thấy, CTTT luôn sáng tạo, luôn nhận thức rõ các yêu
cầu đổi mới để đạt chất lượng, hiệu quả.
1.2.1 Quan điểm về đổi mới CTTT của Đảng.
Đổi mới là vấn đề có tính quy luật trong quá trình vận động, phát triển của tất
cả các sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội. Đổi mới là yêu cầu khách quan của

sự nghiệp cách mạng nói chung, đổi mới không phải là phủ nhận thành tựu và cách
làm trước đây, mà là tiếp tục khẳng định những tư duy và hành động đúng, loại bỏ
những suy nghĩ và hành động sai; hoặc những gì trước kia đúng nhưng nay không
phù hợp, bổ sung nhận thức và cách làm mới, đáp ứng nhu cầu của tình hình mới.
Bản thân lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối quan điểm của Đảng đòi hỏi phải không ngừng được nghiên cứu, bổ sung, phát
21
triển cho phù hợp với sự vận động, phát triển của đời sống hiện thực, đủ sức lý giải
một cách khoa học những vấn đề của thực tiễn đặt ra, để không rơi vào giáo điều.
CTTT của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị. Tuy
nhiên đặc điểm của nội dung, phương pháp và hình thức, CTTT cần thiết phải có
lực lượng chuyên môn, chuyên nghiệp, tức đội ngũ những người chuyên làm
CTTT. Đổi mới và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của những người
chuyên làm CTTT là nhiệm vụ khó khăn phức tạp, cần phải làm thường xuyên, liên
tục và lâu dài. Việc tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ thực hiện CTTT chuyên
nghiệp hợp lý, tạo điều kiện để đội ngũ này đáp ứng yêu cầu của CTTT trong từng
giai đoạn có ý nghĩa rất quan trọng, đôi khi có tác động quyết định đến nâng cao
hiệu quả CTTT.
Đổi mới tổ chức, bộ máy, phương thức đào tạo, bồi dưỡng, cơ chế chính sách
sử dụng làm nhiệm vụ thường xuyên đặt ra cho việc đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả CTTT. Đổi mới CTTT phải đặt dưới sự lãnh đạo chặc chẽ của cấp ủy, tổ
chức Đảng các cấp, sự chỉ đạo hướng dẫn, định hướng của Đảng và của cơ quan
chức năng cấp trên, sự đồng tình, tích cực tham gia, hưởng ứng của đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Vì vậy, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình
thức và cách làm phù hợp, phải có lãnh đạo, chỉ đạo chặc chẽ thống nhất mới mang
lại hiệu quả thiết thực.
Tóm lại, đổi mới CTTT của Đảng là quá trình đổi mới tư duy, phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo, hoàn thiện nội dung, cải tiến, đa dạng hóa hình thức, phương
pháp tổ chức hoạt động và phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng và
phương tiện tiến hành CTTT nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, nhiệm vụ

mới của cách mạng, kịp thời phát hiện, giải quyết những mâu thuẩn và khắc phục
những bất hợp lý, yếu kém, trì trệ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTT, đáp
ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong điều kiện mới đặc
biệt là nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.2 Yêu cầu phải đổi mới CTTT của Đảng trong tình hình mới.
22
Trong giai đoạn mới, mục tiêu chung của cách mạng nước ta là phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH – HĐH, tăng cường hội nhập
quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đổi mới CTTT trong quá
trình hội nhập quốc tế là nhầm góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân hoàn thành sự
nghiệp cách mạng vẻ vang đó.
Hiện nay, CTTT đang diễn ra trong bối cảnh tình hình tư tưởng trong Đảng và
trong xã hội có nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định
chính trị, xã hội. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng ngày càng phức tạp, với
những tác động của kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhấp quốc tế và toàn cầu
hóa; tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và cuộc
sống, tư tưởng đang có nhiều thay đổi. Những nhân tố đó ảnh hưởng đến tâm lý, tư
tưởng và tình cảm của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân theo những
chiều hướng khác nhau và ngày càng phức tạp hơn.
Từ những nhận định trên, Đảng ta đã đề ra mục đích của việc đổi mới CTTT
hiện nay là: mọi hoạt động của chủ thể, các lực lượng tham gia đổi mới đều hướng
tới nâng cao chất lượng, hiệu quả CTTT. Đổi mới CTTT là nhầm góp phần cùng
toàn Đảng, toàn dân hoàn thành sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng trong giai
đoạn mới, trong đó nhiệm vụ trong tâm trong những năm tới 2011 – 2015 là toàn
Đảng, toàn dân phấn đầu hoàn thành xuất sắc các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị
quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng đề ra.
Yêu cầu đổi mới CTTT của Đảng thể hiện ở những nội dung cụ thể sau:
- Một là; CTTT phải gắn chặt hơn với việc thực hiện nhiệm vụ chính với
phong trào cách mạng của quần chúng, với từng đối tượng.
- Hai là; Đổi mới CTTT cần kết hợp chặc chẽ các nội dung giáo dục: Chủ

nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức khoa học, phẩm chất và đạo đức
cách mạng; kết hợp nghiên cứu và giáo dục lý luận, quan điểm cơ bản với giáo dục
tình hình và nhiệm vụ trước mắt.
23
- Ba là; Đổi mới CTTT cần kết hợp hài hòa CTTT với công tác tổ chức và
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
- Bốn là; Đổi mới CTTT cần kết hợp giáo dục tư tưởng với việc rèn luyện
trong thực tiển cách mạng.
- Năm là; Đổi mới CTTT cần kết hợp giáo dục tư tưởng trong sinh hoạt của
tất cả các tổ chức, kết hợp CTTT trong Đảng với CTTT trong xã hội.
- Sáu là; Đổi mới CTTT cần kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng
với phê phán triệt để những biểu hiện tư tưởng phi vô sản; biểu dương những ưu
điểm với phê bình nghiêm khắc khuyết điểm.
1.3 Vai trò của CTTT trong tiến trình hội nhập quốc tế
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ hội
nhập quốc tế thì CTTT trở nên vô cùng quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu của
thực tiễn đất nước, góp phần hoàn chỉnh những vấn đề lý luận đã được các Đại hội
của Đảng từ VI đến XI và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời ký quá độ lên
CNXH đặt ra. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao trí tuệ của toàn Đảng, toàn
dân lên một bước mới, đặc biệt quan trọng là cổ vũ, khơi dậy lòng nhiệt tình cách
mạng của quần chúng, hiện thực hóa thắng lợi mục tiêu đổi mới đất nước trong quá
trình hội nhập quốc tế.
Công tác lý luận cần hướng vào nhiệm vụ tiếp tục triển khai những thành quả
của tư duy lý luận đã đạt được trong thời gian qua, đi sâu tổng kết thực tiển và phát
triển lý luận một cách sáng tạo. Để thực hiện nhiệm vụ đó trước hết đòi hỏi phải
khái quát hóa những kinh nghiệm cơ bản trong những năm đổi mới vừa qua, nhằm
luận chứng tính đúng đắn và ngày càng sáng tỏ con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam.
Song song đó, trong hội nhập quốc tế phải kiên quyết làm cho chủ nghĩa Mác

– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng giữ vai trò, vị trí chủ đạo trong đời
sống tinh thần xã hội. CTTT phải giữ định hướng giá trị XHCN ngay trong thời kỳ
quá độ như: ý thức tập thể - cộng đồng, tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa, ý chí
24
làm giàu dựa trên lao động chính đáng, giúp người khác cùng làm giàu, chấp nhận
canh tranh lành mạnh, vừa tự lực tự cường vừa chủ động hội nhập vào đời sống
kinh tế thế giới
Việc hình thành con người mới với những phẩm chất tốt đẹp vừa là mục tiêu
của CTTT, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới thắng lợi trong
quá trình đất nước hội nhập quốc tế.
Hiện nay, các thế lực thù địch đã công khai thực hiện âm mưu "Diễn biến hòa
bình", thực chất là cuộc chiến trang không tiếng súng nhầm lật đổ chế độ XHCN,
xóa bỏ nền độc lập của đất nước ta. CTTT hiện nay cần hướng vào nhiệm vụ đấu
trang chống lại âm mưu, lật đỗ đó. Các thế lực phản động luôn coi công tác lý luận
tư tưởng là trận địa trọng yếu; sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng như:
báo chí, tạp chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, các diễn đàn khoa học làm
khâu đột phá để tấn công vào chế độ XHCN. CTTT cần phải vạch trần các thủ
đoạn mà chúng thường sử dụng như: Xuyên tạc và bôi đen lịch sử - lịch sử cách
mạng, lịch sử các lãnh tụ của Đảng và Nhà nước; đồng nhất những sai lầm khuyết
điểm của chủ nghĩa xã hội hiện thực với bản chất chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ
nghĩa xã hội hiện thực
Thêm nữa, nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thực chất là một nền kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường,
vừa chịu sự chi phối bởi các luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố đảm
bảo tính định hướng XHCN. Do đó, CTTT phải tạo ra và hướng xã hội đi vào kinh
tế thị trường một cách chủ động, tích cực.
Công tác tuyên truyền, công tác cổ động cần xây dựng niềm tin trong nhân
dân về chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Điều đó sẽ làm cho nhân dân trong nước, kiều bào ở
nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư, mở rộng sản xuất kinh

doanh. Công tác tư tưởng, luận cần tiếp tục nghiên cứu, khái quát từ thực tiễn quan
điểm cơ bản của Đảng về phát triển kinh tế gắn liền với việc thực hiện từng bước
25

×