Tải bản đầy đủ (.doc) (162 trang)

Ngữ âm tiếng sán dìu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 162 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ KIM THOA
NGỮ ÂM TIẾNG SÁN DÌU Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số Việt Nam
Mã số : 62 22 01 25
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Trí Dõi
Hà Nội 2011
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận án là trung thực, minh bạch và chưa được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 14 tháng 11 năm 2011
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Kim Thoa
2
MỤC LỤC
3
MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 0.1: Dân số người Sán Dìu tại các tỉnh, thành trong cả nước 11
Bảng 1.1: Thành phần cấu tạo âm tiết 27
Bảng 1.2: Tổng hợp về vị trí cấu âm 28
Bảng 1.3: Tổng hợp về phương thức cấu âm 30
Bảng 2.1: Khả năng kết hợp giữa âm chính âm cuối 64
Bảng 2.2 : Khác biệt về âm đầu 67
Bảng 2.3 : Khác biệt về âm chính 70
Bảng 2.4: Sự phân bố thanh điệu của tiếng SD 83


Bảng 2.5: Hệ thống phụ âm tiếng SD 84
Bảng 3.1: Hệ thống ghi âm thanh điệu tiếng SD 95
Bảng 3.2: Hệ thống ghi âm âm đầu tiếng SD 99
Bảng 3.3: Hệ thống ghi âm nguyên âm tiếng SD 102
Bảng 3.4: Hệ thống ghi âm âm cuối tiếng SD 103
Bảng 3.5: Tổng hợp hệ thống chữ viết ghi âm tiếng SD 108
Bảng 4.1: Tương ứng phụ âm đầu 111
Bảng 4.2 : Tương ứng âm chính và phần vần 113
Bảng 4.3 : Tương ứng âm đầu và phần vần 114
Bảng 4.4 : Tương ứng thanh điệu 116
Bảng 4.5: Tương ứng hoàn toàn 117
Bảng 4.6: So sánh từ chỉ bộ phận cơ thể trong tiếng SD và tiếng Hán 119
Bảng 4.7: So sánh số đếm cơ bản trong tiếng SD và tiếng Hán hiện đại 120
Bảng 4.8: So sánh số đếm 123
Bảng 4.9: So sánh các từ chỉ bộ phận cơ thể người (Bảng 4.9) 124
Bảng 4.10: So sánh các từ chỉ hoạt động cơ bản của con người (Bảng 4.10)
125
4
Bảng 4.11: So sánh các từ chỉ hiện tượng, sự vật khách quan (Bảng 4.11) 126
Bảng 4.12: So sánh một số tính từ cơ bản (Bảng 4.12) 127
Bảng 4.13: So sánh các từ chỉ sự vật, hiện tượng (Bảng 4.13) 129
Bảng 4.14: So sánh về các từ chỉ động vật (Bảng 4.14) 130
Bảng 4.15: So sánh các từ chỉ thực vật, đồ ăn (Bảng 4.15) 131
Bảng 4.16: So sánh các từ thân tộc (Bảng 4.16) 132
Bảng 4.17: So sánh các từ chỉ thời gian (Bảng 4.17) 133
Bảng 4.18: So sánh các từ chỉ màu sắc (Bảng 4.18) 133
Bảng 4.19: So sánh một số từ khác (Bảng 4.19) 133
Bảng 4.20: Quy ước phiên âm phương ngữ Khách Gia 135
Bảng 4.21: Tương ứng hoàn toàn giữa tiếng SD và phương ngữ Khách Gia
136

Bảng 4.22: Tương ứng âm đầu giữa tiếng SD và phương ngữ Khách Gia 138
Bảng 4.23: Tương ứng phần vần giữa tiếng SD và phương ngữ Khách Gia 144
Bảng 4.24: Tương ứng âm chính giữa tiếng SD và phương ngữ Khách Gia 145
Bảng 4.25: Tương ứng âm chính và phần vần giữa tiếng SD và phương ngữ
Khách Gia 147
Bảng 4.26: Tương ứng âm tiết giữa tiếng SD và phương ngữ Khách Gia 148
5
MỤC LỤC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1: Không gian nguyên âm 39
Sơ đồ 1.2: Nguyên âm chuẩn 39
Sơ đồ 1.3: Nguyên âm chuẩn hạng thứ 39
Sơ đồ 2.1: Thanh 1 74
Sơ đồ 2.2: Thanh 2 75
Sơ đồ 2.3: Thanh 3 76
Sơ đồ 2.4: Thanh 4 77
Sơ đồ 2.5: Thanh 5 78
Sơ đồ 2.6: Thanh 6 79
Sơ đồ 2.7: Thanh 7 80
Sơ đồ 2.8: Thanh điệu được biểu diễn bằng phương pháp quan sát 82
Sơ đồ 2.9: Thanh điệu được biểu diễn bằng phương phân tích ngữ âm 82
Sơ đồ 2.10: Nguyên âm tiếng SD 84
6
MỤC LỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 1.1: Hình minh họa formant 43
Hình 1.2: Ngữ liệu trên màn hình Praat 2000 46
Hình 1.3: Diễn tiến của tần số cơ bản Fo 47
Hình 2.1: Mô tả thanh 1 75
Hình 2.2: Mô tả thanh 2 76

Hình 2.3: Mô tả thanh 3 77
Hình 2.4: Mô tả thanh 4 78
Hình 2.5: Mô tả thanh 5 79
Hình 2.6: Mô tả thanh 6 80
Hình 2.7: Mô tả thanh 7 81
MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, tiếng Sán Dìu (SD) mới chỉ được bắt đầu nghiên cứu ở
cấp độ ngữ âm dựa vào tư liệu của một vùng địa phương nào đó chứ chưa
mang tính tổng thể, khái quát. Vì vậy, luận án là công trình đầu tiên mô tả về
ngữ âm tiếng SD đồng thời chỉ ra sự khác biệt giữa các vùng địa phương và
cho thấy một bức tranh chung về ngữ âm của ngôn ngữ này. Trên cơ sở ngữ
âm chúng ta còn có thể tiếp tục nghiên cứu tiếng SD ở các bình diện khác như
từ vựng, ngữ pháp, ngôn ngữ và văn hóa…
7
Nghiên cứu ngữ âm tiếng SD cũng cho chúng ta thấy được vị trí của nó
trong gia đình các ngôn ngữ dân tộc thiểu số và đó cũng là cầu nối để tìm hiểu
về các ngôn ngữ dân tộc thiểu số thuộc họ Hán Tạng có mặt ở VN hay các
nước trong khu vực. Ngoài ra, nghiên cứu ngữ âm tiếng SD còn là cơ sở cho
việc biên soạn các sách công cụ, sách dạy tiếng cũng như việc đặt chữ viết để
ghi lại tiếng nói cũng như vốn văn hóa dân gian của tộc người này.
Với những lý do như trên, nghiên cứu ngữ âm tiếng SD là thiết thực
góp phần vào việc bảo tồn, lưu giữ ngôn ngữ, văn hóa của người SD nói riêng
và dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung.
0.2. Lịch sử nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có một số tài liệu viết về dân tộc SD nhưng đều
viết dưới góc độ Dân tộc học. Có thể kể đến một số tài liệu điển hình như sau:
- Ma Khánh Bằng. Người Sán Dìu ở Việt Nam. NXBKHXH.HN.1993.
- Nguyễn Khắc Tụng. Mấy ghi chép về người Sán Dìu. TC Dân tộc học
số 37 năm 1959.

- Ma Khánh Bằng. Nương, đồi, soi , bãi của người Sán Dìu. TC Dân
tộc học số 03 năm 1972
- Ma Khánh Bằng. Vài nét về dân tộc Sán Dìu. Thông báo Dân tộc học
số đặc biệt xác định thành phần các dân tộc miền Bắc, tháng 3 năm 1973
Tất cả các tài liệu này chủ yếu đề cập tới các khía cạnh như xã hội, văn
hóa, phong tục tập quán của người SD. Tuy nhiên, trong cuốn “Người Sán
Dìu ở Việt Nam” Ma Khánh Bằng đã giới thiệu một bảng từ vựng bao gồm 23
từ tiếng Sán Dìu so sánh với tiếng Dao, tiếng Hoa, tiếng Sán Chỉ và tiếng Tày.
Sau khi so sánh, ông kết luận, có 18/23 từ tiếng SD tương ứng với tiếng Hoa,
05/23 từ tương ứng với tiếng Dao và ông cho rằng “tiếng Sán Dìu đã xa dần
với cái gốc xưa và các nhóm đồng tộc của mình. Họ đã tiếp thu tiếng Hán
trước khi di cư vào Việt Nam” [ 5;16].
8
Còn về các tài liệu nghiên cứu tiếng SD một cách chính thức thì có thể
nói đến một bài báo đầu tiên là của Nguyễn Văn Ái “Vài nét về hệ thống ngữ
âm tiếng Sán Dìu” đăng trên cuốn “Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc” (1971).
Trong bài viết này, tác giả đưa ra danh sách các phụ âm đầu, nguyên âm, âm
cuối, thanh điệu của tiếng SD dựa trên 1000 từ được điều tra tại xã Vĩnh
Thực, huyện Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ giới
thiệu một cách ngắn gọn chứ chưa có những lý giải một cách chi tiết về kết
quả nghiên cứu ấy.
Trong những năm gần đây, có một số bài viết của tác giả luận án
nghiên cứu về tiếng SD như:
- Hệ thống âm đầu tiếng Sán Dìu ở Việt Nam. Ngữ học trẻ 2005. Hội
Ngôn ngữ học Việt Nam. NXB Đại học Sư phạm .
- Bước đầu mô tả hệ thống ngữ âm tiếng Sán Dìu ở Việt Nam. Tạp chí
Ngôn ngữ số 11 tháng 11 năm 2005.
- Phương thức ghép trong cấu tạo từ tiếng Sán Dìu. Ngữ học trẻ 2006.
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam. NXB Đại học Sư phạm.
- Một vài đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa thể hiện qua lời chào hỏi của

người Sán Dìu. Ngữ học trẻ 2007. Hội Ngôn ngữ học Việt Nam. NXB Đại
học Sư phạm.
- Những tương ứng ngữ âm giữa tiếng Sán Dìu ở Việt Nam và tiếng
Hán hiện đại. Tạp chí Ngôn ngữ số 02 tháng 8 năm 2008.
- Phương thức cấu tạo từ tiếng Sán Dìu ở Việt Nam. Ngữ học trẻ 2009.
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam
- So sánh cách cấu tạo từ chỉ ngày trong tiếng Sán Dìu và tiếng Hán.
Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam – Trung Quốc tháng 11 năm 2009.
9
- Từ mượn Việt trong tiếng Sán Dìu. Hội thảo khoa học toàn quốc tháng
11 năm 2009. Viện Ngôn ngữ học.
Tại Trung Quốc thì dân tộc này chỉ là một nhóm nhỏ nằm trong dân tộc
Dao được gọi là Sơn Dao [80;325], có ở huyện Vân Sơn tỉnh Vân Nam,
huyện Ninh Minh tỉnh Quảng Tây [82],[87].Nhóm người này rất ít được các
nhà khoa học chú ý đến và cũng chưa có ai nghiên cứu về ngôn ngữ của họ.
Như vậy, có thể nói, ở Việt Nam, tiếng SD mới chỉ bắt đầu được quan
tâm đến chứ chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện. Còn ở các
nước khác, tiếng SD vẫn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm đến. Vì thế,
trong Luận án này, chúng tôi sẽ đi vào nghiên cứu ngữ âm của tiếng SD một
cách có hệ thống, trên một phạm vi rộng, để từ đó làm cơ sở cho những
nghiên cứu tiếp theo. Đây cũng là một bước đi tất yếu cho việc nghiên cứu
một ngôn ngữ dân tộc thiểu số ít được biết đến ở nước ta.
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ở đây là ngữ âm của tiếng SD ở VN. Tiếng SD
được xác định là ngôn ngữ thuộc nhóm Hán phía Nam, nhánh Hán, họ Hán –
Tạng [15]. Cụ thể, đối tượng nghiên cứu được xác định là hệ thống ngữ âm
của tiếng Sán Dìu ở Vĩnh Phúc và một số địa phương khác ở Việt Nam là
Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi chọn địa
bàn khảo sát là 4 tỉnh miền Bắc VN là: Vĩnh Phúc (xã Đạo Trù, xã Hợp Châu

huyện Tam Đảo), Quảng Ninh (xã Bình Dân huyện Vân Đồn), Tuyên Quang
(xã Ninh Lai huyện Sơn Dương), Thái Nguyên (xã Nam Hòa huyện Đồng
Hỷ).
0.4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
10
Mục đích quan trọng nhất của luận án là mô tả hệ thống ngữ âm của
tiếng SD ở Việt Nam. Vì thế, luận án sẽ có nhiệm vụ chính là mô tả hệ thống
ngữ âm của tiếng SD và chỉ ra được sự khác biệt về mặt ngữ âm của ngôn ngữ
này giữa các vùng địa phương Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Tuyên
Quang. Bên cạnh đó, dựa vào kết quả mô tả ngữ âm, luận án sẽ đề xuất một
phương án chữ viết với mục đích ghi lại tiếng nói của dân tộc này.
Ngoài ra, dựa vào vốn từ tiếng SD đã thu thập được, chúng tôi bước
đầu so sánh tiếng SD với tiếng Hán và một số phương ngữ tiếng Hán ở Quảng
Đông, Trung Quốc để tìm hiểu về mức độ tương đồng giữa tiếng SD với
những ngôn ngữ này.
0.5. Phương pháp nghiên cứu
Trong Ngữ âm học, người ta có thể sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau như phương pháp quan sát, miêu tả…Với phương pháp quan sát, người
ta có thể quan sát bằng các khí cụ, máy móc như trong ngữ âm học thực
nghiệm (phương pháp khách quan) hoặc quan sát trực tiếp như phương pháp
truyền thống (phương pháp chủ quan). Với nhiều phương tiện làm việc phong
phú, đa dạng, phương pháp khách quan sẽ đem đến cho chúng ta những cứ
liệu chính xác. Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng ta không cần dùng đến
phương pháp chủ quan. Với một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ, người nghiên cứu
không thể sử dụng các khí cụ, máy móc nếu chưa xác định trước được thành
phần âm vị cũng như đặc tính cơ bản của các âm vị đó. Lúc này, phương pháp
khách quan phải dựa vào phương pháp chủ quan. Hay nói một cách khác,
phương pháp quan sát trực tiếp sẽ tạo cơ sở, đưa ra phương hướng để thực
hiện các phương pháp trong ngữ âm học thực nghiệm. Trên thực tế, có rất
nhiều hệ thống ngữ âm của nhiều ngôn ngữ đã được nhận diện trước khi ngữ

âm học thực nghiệm ra đời và ngữ âm học thực nghiệm chỉ làm vai trò kiểm
chứng lại những kết quả của phương pháp quan sát trực tiếp mà thôi. Điều
11
này chứng tỏ mặc dù đã có rất nhiều phương pháp hiện đại nhưng phương
pháp quan sát truyền thống vẫn có vị trí quan trọng của nó.
Với tiếng Sán Dìu, một ngôn ngữ mới bắt đầu được tiếp cận ở khía
cạnh ngữ âm thì theo chúng tôi, sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp
(quan sát bằng thính giác) để nhận diện hệ thống ngữ âm là phù hợp hơn cả.
Sau khi hệ thống âm vị của ngôn ngữ này ở các vùng địa phương được nhận
diện một cách chi tiết, nếu có điều kiện thì kết quả đó sẽ được kiểm chứng
bằng các phương pháp của ngữ âm học thực nghiệm trong các nghiên cứu tiếp
theo của chúng tôi. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của LA, chúng tôi cũng bước
đầu sử dụng phần mềm phân tích ngữ âm Praat để mô tả hệ thống thanh điệu
của tiếng SD.
Phương pháp chính được sử dụng trong luận án là phương pháp miêu
tả của Ngôn ngữ học nhằm miêu tả trạng thái hiện tại của ngữ âm tiếng SD
hay nói một cách khác là mô tả ngữ âm của ngôn ngữ này theo hướng đồng
đại. Một phương pháp quan trọng khác cũng được sử dụng trong luận án là
phương pháp điều tra điền dã. Người nghiên cứu đến các vùng có người SD
sinh sống, dùng bảng từ bằng tiếng Việt đã được chuẩn bị trước để thu thập
các đơn vị ngôn ngữ tương ứng trong tiếng SD bằnh cách hỏi, phỏng vấn. Sau
khi các tư liệu ngôn ngữ được thu thập và ghi âm lại, chúng tôi sẽ tiến hành
xử lý tư liệu bằng cách nghe lại nhiều lần và dùng các ký hiệu phiên âm quốc
tế (IPA) để ghi lại. Bước cuối cùng là kiểm tra bằng cách nhìn vào các ký
hiệu phiên âm đó để đọc lại dưới sự kiểm chứng của người bản ngữ.
Cộng tác viên của đề tài là những người dân tộc SD sống tại các địa
bàn mà chúng tôi đến khảo sát. Họ đều là những người minh mẫn, có bộ phận
cấu âm hoàn chỉnh. Do vốn từ của tiếng SD đã bị mai một nhiều, những người
trẻ mặc dù vẫn nói được tiếng mẹ đẻ nhưng họ lại dùng một số lượng lớn từ
mượn Việt thay cho các từ đã quên. Vì thế, cộng tác viên mà chúng tôi lựa

12
chọn đều nằm trong độ tuổi từ 30 – 60. Với độ tuổi này thì họ vẫn còn nhớ
tương đối nhiều tiếng mẹ đẻ. Những người được chọn làm cộng tác viên đều
có trình độ tiếng Kinh tốt, có thể hiểu đúng nghĩa của từ tiếng Việt để tìm từ
tương ứng trong tiếng SD. Ngoài ra, họ cũng là những người có hiểu biết nhất
định về văn hóa của dân tộc mình.
Cộng tác viên của chúng tôi có nhiệm vụ cung cấp (nói) các từ tiếng
SD tương ứng với bảng hỏi. Những từ họ cung cấp được chúng tôi ghi lại
dưới dạng phiên âm IPA và ghi âm vào băng từ, đĩa CD. Chính họ cũng là
những người kiểm tra lại độ chính xác của tư liệu bằng cách người thu thập tư
liệu nhìn vào phiên âm IPA để đọc lại các từ đó. Tất cả những điều này đảm
bảo cho sự chính xác, khách quan của tư liệu thu thập.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số thao tác như thao tác phân tích,
đối chiếu, so sánh, tổng hợp; điều tra xã hội học: tìm hiểu các yếu tố ngoài
ngôn ngữ như xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa… để hiểu rõ hơn cảnh huống
ngôn ngữ của địa bàn khảo sát
0.6. Đóng góp của LA
Chúng tôi không đặt ra nhiệm vụ đóng góp về mặt lý luận của luận án.
Phần lý thuyết được trình bày trong chương 1 chỉ là những cơ sở cho việc tiến
hành mô tả ngữ âm của một ngôn ngữ. Đóng góp chính của luận án là những
kết quả nghiên cứu có giá trị thực tiễn.
Đây là công trình đầu tiên áp dụng lý thuyết Ngữ âm học để nhận diện
hệ thống ngữ âm của tiếng SD một cách toàn diện trên phạm vi rộng. Luận án
sẽ tìm ra được những điểm khác biệt về mặt ngữ âm của tiếng SD ở bốn vùng
địa phương miền Bắc, những vùng có tỉ lệ người SD sống đông và tập trung
hơn cả. Qua đó, chúng tôi sẽ khái quát về ngữ âm của ngôn ngữ này và nhận
diện vị trí của tiếng SD trong bức tranh chung của các ngôn ngữ dân tộc thiểu
số Việt Nam về mặt ngữ âm. Ngoài ra, đề tài cũng sẽ đề xuất một phương án
13
chữ viết để ghi lại tiếng nói cũng như vốn văn hóa dân gian của dân tộc này.

Dựa trên cơ sở ngữ âm của tiếng SD đã được chỉ ra, chúng tôi bước đầu khảo
sát sự tương ứng về mặt ngữ âm giữa ngôn ngữ này với tiếng Hán và một vài
phương ngữ ở TQ để tìm hiểu về mối quan hệ của nó với tiếng Hán.
Bằng những việc làm cụ thể trên, luận án đã góp phần hiện thực hóa
nghị định 53/CP về việc gìn giữ, bảo tồn và phát triển ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam.
0.7. Bố cục của LA
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án sẽ được chia thành 4 chương
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Mô tả ngữ âm tiếng Sán Dìu
Chương 3: Vấn đề xây dựng hệ thống chữ viết cho dân tộc SD
Chương 4: Một vài nhận xét về mối quan hệ giữa tiếng SD với tiếng Hán
0.8. Một vài nét khái quát về dân tộc Sán Dìu và địa bàn khảo sát
0.8.1. Dân tộc SD
Tên gọi “Sán Dìu” được Tổng cục thống kê Trung ương công nhận vào
tháng 3 năm 1960. Ngoài ra, dân tộc SD còn có nhiều tên gọi khác như Sán
Déo, Trại, Trại Đất, Mán quần cộc…Ngày nay, đến các vùng dân tộc SD thì
có thể thấy tên “Trại” được dùng phổ biến hơn cả.
Trong các tài liệu nghiên cứu của Việt Nam thì nguồn gốc, lai lịch của
người SD được cho là đến từ Trung Quốc. Ma Khánh Bằng dựa vào “Kiến
văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn cho rằng một dân tộc có tên gọi là Sơn Man có
nghĩa là Sơn Dao (vì tất cả các nhóm Dao ở nước ta đều có tên gọi là Man hay
Mán nên ta có thể nghĩ Man là Dao), hay cũng chính là Sán Dìu. Nếu đúng
như vậy thì người SD đã có mặt ở Việt Nam vào khoảng trên dưới 300 năm
nay. “Đến Việt Nam, người SD đã qua Quảng Ninh vào Hà Bắc rồi ngược lên
14
Tuyên Quang và dừng tại đó” [5;9]. Ông cũng nhận định rằng nếu tên gọi Sán
Dìu có nghĩa là Sơn Dao thì người SD rất có thể có nguồn gốc từ người Dao.
Cũng có thể, từ xưa do bọn phong kiến phương Bắc thống trị nên khối người
Dao đã bị chia tách thành nhiều nhóm nhỏ và phân tán ở nhiều nơi khác nhau.

“Người Sán Dìu có thể là một trong những nhóm đó, nhưng đã sống lâu ngày
bên cạnh người Hán (phương Nam) nên dần dần mất đi tiếng mẹ đẻ (tiếng
Dao) và tiếp thu một thổ ngữ Quảng Đông” [5;15]. Còn Bùi Đình thì cho rằng
“Quần Cộc từ Quảng Đông di cư sang đất nước ta mới được độ ba bốn trăm
năm nay, còn có tên gọi là Sơn Dao; họ ở rải rác khắp chu vi đồng bằng trong
các vùng Đầm Hà, Hà Cối, Quảng Yên, Phủ Lạng Thương, Thái Nguyên,
Vĩnh Yên, Tuyên Quang” [5;9 ]. Như vậy, cả hai ý kiến này đều cho rằng
người SD ở Việt Nam là một nhóm của người Dao ở Trung Quốc và đã có
mặt ở Việt Nam khoảng hơn 300 năm.
Trong một số tài liệu của Trung Quốc thì có ghi rõ rằng người SD ở
Việt Nam là một bộ phận của dân tộc Dao ở Trung Quốc gọi là Sơn Dao ( 山
瑶 – Shan Yao ). Tên Sán Dìu (山由- Shan You) là do Sơn Dao biến âm mà
thành [80], [84]. Vì nhiều nguyên nhân mà dân tộc Dao ở Trung Quốc đã di
cư sang Việt Nam vào nhiều giai đoạn khác nhau. Sau khi sang Việt Nam,
nhóm Sơn Dao này trở thành một dân tộc riêng. Như vậy về mặt nguồn gốc
thì chắc chắn người SD ở Việt Nam là từ Trung Quốc đến. Tuy nhiên vẫn
chưa có tài liệu nào chứng minh được thời điểm có mặt ở Việt Nam của dân
tộc này. Người ta chỉ phỏng đoán rằng người SD đã có mặt ở nước ta khoảng
trên 300 năm nay [5].
Theo số liệu điều tra của Tổng cục điều tra dân số vào năm 1999 thì
dân tộc Sán Dìu có 126.237 người (64.023 nam và 62.214 nữ). Tình hình
phân bố cụ thể như sau:
STT Tỉnh Tổng số Nam Nữ
15
1 Hà Nội 182 114 68
2 Hải Phòng 35 23 12
3 Hà Tây 99 84 15
4 Hải Dương 1.516 809 707
5 Hưng Yên 12 08 04
6 Hà Nam 09 09 0

7 Nam Định 04 01 03
8 Thái Bình 0 0 0
9 Ninh Bình 0 0 0
10 Hà Giang 26 17 09
11 Cao Bằng 18 13 05
12 Lào Cai 28 20 08
13 Bắc Kạn 84 50 34
14 Lạng Sơn 112 75 37
15 Tuyên Quang 11.007 5.555 5.452
16 Yên Bái 37 27 10
17 Thái Nguyên 37.365 18.748 18.617
18 Phú Thọ 95 66 29
19 Vĩnh Phúc 32.495 16.119 16.376
20 Bắc Giang 23.779 12.004 11.775
21 Bắc Ninh 53 44 09
22 Quảng Ninh 17.216 9.045 8.171
23 Lai Châu 41 35 06
24 Sơn La 25 17 08
25 Hòa Bình 05 02 03
26 Thanh Hóa 08 05 03
16
27 Nghệ An 11 04 07
28 Hà Tĩnh 0 0 0
29 Quảng Bình 0 0 0
30 Quảng Trị 01 0 01
31 Thừa Thiên Huế 05 04 01
32 Đà Nẵng 03 03 0
33 Quảng Nam 23 16 07
34 Quảng Ngãi 0 0 0
35 Bình Định 07 07 0

36 Phú Yên 29 20 09
37 Khánh Hòa 02 02 0
38 Kon Tum 36 18 18
39 Gia Lai 34 22 12
40 Đắc Lắc 626 336 290
41 Hồ Chí Minh 39 28 11
42 Lâm Đồng 383 225 158
43 Ninh Thuận 12 06 06
44 Bình Phước 155 100 55
45 Tây Ninh 0 0 0
46 Bình Dương 11 06 05
47 Đồng Nai 541 289 252
48 Bình Thuận 30 22 08
49 Bà Rịa Vũng Tàu 25 15 10
50 Long An 05 04 01
51 Đồng Tháp 0 0 0
52 An Giang 03 01 02
53 Tiền Giang 03 03 0
54 Vĩnh Long 0 0 0
55 Bến Tre 0 0 0
56 Kiên Giang 0 0 0
57 Cần Thơ 0 0 0
58 Trà Vinh 01 01 0
59 Sóc Trăng 01 01 0
60 Bạc Liêu 0 0 0
61 Cà Mau 0 0 0
Bảng 0.1: Dân số người Sán Dìu tại các tỉnh, thành trong cả nước
Như vậy, người SD có mặt ở 50/61 tỉnh thành và tập trung chủ yếu ở
miền Bắc Việt Nam. Những tỉnh có số người SD đông hơn cả là Thái Nguyên
17

(37.365 người), Vĩnh Phúc (32.495 người), Bắc Giang (23.779 người), Quảng
Ninh (17.216 người), Tuyên Quang (11.007 người)…
Mặc dù họ sống rải rác trên cả nước nhưng tại những nơi đó thì người
SD lại sống tương đối tập trung. Họ thường tập trung thành từng xóm, làng
nhỏ dưới những chân núi thấp hoặc những đồi bằng. Nhà ở của họ không
khác gì mấy so với nhà của người người Việt ở vùng nông thôn. Quan niệm
của người SD về hôn nhân, gia đình vẫn còn mang nặng tư tưởng phong kiến,
trọng nam khinh nữ nhưng cộng động SD là một cộng đồng sống ổn định, có
tôn ti, trật tự.
Tuy có trang phục riêng của mình nhưng ngày nay hầu như họ không
mặc nữa. Chỉ còn một số cụ già là còn giữ được và mặc loại trang phục này.
Tuy ngày càng bị mai một nhưng người SD vẫn giữ được một số nét văn hóa
riêng đặc biệt là trong các lễ cưới hỏi, ma chay.
Do kinh tế ngày càng phát triển nên đời sống bà con cũng được cải
thiện hơn. Hình thức kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, cấy lúa, chăn nuôi.
Khu vực ở của người SD có rất đông người Kinh nên đa số người SD nói
tiếng phổ thông rất thành thạo. Nhưng đó cũng chính là nguyên nhân khiến
ngôn ngữ cũng như văn hóa của họ ngày càng bị mai một dần.
0.8.2. Địa bàn khảo sát
Từ bảng số liệu trên, ta có thể thấy người SD tập trung nhiều nhất tại
các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang.
Ma Khánh Bằng cho rằng, dân tộc SD khi đến Việt Nam thì “ban đầu
họ đến Quảng Ninh, sau đó mới tỏa đi các nơi như hiện nay” [5;75]. Vì vậy
chúng tôi chọn địa bàn nghiên cứu đầu tiên là tỉnh Quảng Ninh vì rất có thể
tiếng SD tại nơi đây sẽ lưu giữ được nhiều yếu tố gốc ban đầu. Ở tỉnh
Quảng Ninh thì thị xã Cẩm Phả có số người SD đông nhất nhưng lại chỉ
chiếm 3,94% còn ở huyện Vân Đồn thì tỉ lệ người SD là cao nhất
( 10,54% ) - theo Dư địa chí tỉnh Quảng Ninh năm 1990. Xã Bình Dân của
18
huyện Vân Đồn là xã có tỉ lệ người SD cao hơn cả, chiếm 90% còn lại 10%

là người Kinh, Hoa, Dao.
Mặc dù tỉnh Thái Nguyên có đông người SD nhất nhưng tỉ lệ chỉ chiếm
2,4% dân số toàn tỉnh và dân tộc Sán Dìu ở đây sống đan xen với nhiều dân
tộc khác như Kinh, Tày, Nùng, Sán Chay, Dao, Mông. Huyện Đồng Hỷ có số
người SD đông hơn cả, trong đó xã Nam Hòa có khoảng 73% là dân tộc SD
trong tổng số 7 dân tộc cùng sinh sống.
Với tỉnh Vĩnh Phúc, chúng tôi chọn địa bàn nghiên cứu là xã Đạo Trù
và xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo. Ở xã Đạo Trù, người SD chiếm 87,5%, còn
lại là người Kinh. Còn ở xã Hợp Châu thì có 48% là người SD và 52% là
người Kinh.
Ở tỉnh Tuyên Quang, chúng tôi chọn xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương. Đây
cũng là xã có tỉ lệ người SD đông nhất. Địa bàn xã có 4 dân tộc anh em cùng
sinh sống trong đó gần 75% là người SD, 10% dân tộc Kinh, còn lại 15% là
người Cao Lan và Dao.
Như vậy, với địa bàn khảo sát là năm xã thuộc bốn tỉnh mà chúng tôi
chọn trên thì đây đều là những nơi có tỉ lệ người SD cao và sống tập trung.
Đó cũng là những địa bàn mang tính “thuần Sán Dìu” hơn cả. Những điều này
đảm bảo cho tư liệu thu thập mang tính chính xác hơn vì tiếng SD sẽ ít bị ảnh
hưởng bởi các ngôn ngữ khác trong quá trình cộng cư lâu dài với các dân tộc
anh em.
0.8.2.1. Xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc
Là một xã thuộc khu vực I miền núi, phía Đông xã Đạo Trù giáp dãy
núi Tam Đảo, phía Nam giáp xã Đại Đình, phía Tây giáp xã Yên Dương, phía
Bắc giáp xã Ninh Lai của tỉnh Tuyên Quang. Tổng diện tích đất tự nhiên có
7.450,84 ha, trong đó đất ruộng và đất màu chỉ có 712,66 ha (chiếm 9,56%),
còn lại là đất lâm nghiệp 636 ha (8,53%), đất ở và đất vườn 135,31 ha
19
(1,81%), và các loại đất khác 5.966,87 ha (80,1%) chưa sử dụng đến. Như
vậy, diện tích đất có thể đem lại hoa màu, lợi nhuận cho người dân chiếm một
tỷ lệ rất nhỏ, cộng với điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi nên đời sống

của bà con còn rất khó khăn, đặc biệt là đa phần họ đều sống bằng nghề nông.
Xã Đạo Trù có tổng số dân là 12.224 người trong đó có 87,5% là người
Sán Dìu (10.696 người), còn lại là người Kinh. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên là
1,44% hàng năm. Vấn đề phát triển kinh tế cũng như phát triển giáo dục của
xã còn rất nhiều hạn chế. Công tác y tế, dân số, văn hóa cũng đang từng bước
được quan tâm và cải thiện.
Tuy là một xã miền núi nhưng được hưởng chính sách 135 nên xã có
đường giao thông đi lại khá thuận tiện. Cơ sở hạ tầng cũng được Nhà nước
đầu tư như xây dựng cụm chợ miền núi, trường Phổ thông, trường cấp I hai
tầng, trường mầm non mẫu giáo, 02 trạm biến áp điện, trụ sở làm việc của Uỷ
ban Nhân dân xã, trung tâm y tế đa khoa Đặc biệt là xã đã được xây dựng
hệ thống thủy lợi kênh mương khu vòng Chốc Cóc bằng bê tông dài 1.338 m,
các trục đường chính trong xã cũng đã được đổ bê tông.
Như vậy, có thể nói, tuy đã được Nhà nước đầu tư và quan tâm nhưng
xã Đạo Trù vẫn là một xã nghèo, trình độ dân trí thấp. Chính vì thế đối với địa
phương này cần phải có một thời gian tương đối dài nữa mới có thể rút ngắn
được khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi.
0.8.2.2. Xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc
Nằm trên trục đường lên thị trấn Tam Đảo, xã Hợp Châu là một xã nhỏ
có tổng diện tích đất tự nhiên là 1.012,28 ha (chỉ bằng khoảng 1/7 diện tích
đất của xã Đạo Trù) với diện tích đất nông nghiệp chiếm 52,16%. Xã có 1.543
hộ cư trú tại 14 thôn với 6.797 nhân khẩu, trong đó người SD chiếm 48% dân
số của xã (3.262 người). Người dân ở đây 89,2% là làm nghề nông, chỉ có
10,8% là làm nghề buôn bán và các dịch vụ khác.
20
Trong quá trình phát triển, xã Hợp Châu có được một số thuận lợi như
mạng lưới giao thông, thủy lợi phát triển khá tốt và có tính ổn định cao. Cơ sở
hạ tầng ngày càng được Nhà nước đầu tư, xây dựng mới. Công tác an ninh
trật tự luôn được bảo đảm tạo sự ổn định trong cuộc sống của người dân. Cư
dân SD cũng như người Kinh ở khá tập trung và trình độ nắm bắt cũng như

khả năng vận dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất ngày càng cao.
Trên địa bàn của xã có hai dân tộc, SD và Kinh. Mặc dù ngôn ngữ sử
dụng khác nhau nhưng đây chỉ là một khó khăn nhỏ bởi hầu hết người SD
đều biết tiếng Kinh, trình độ song ngữ khá tốt. Một khó khăn chung đối với
các xã miền núi cũng như đối với xã Hợp Châu là trình độ dân trí của
người dân chưa cao cho nên công tác quản lý, giáo dục của Nhà nước và
các đoàn thể chưa có hiệu quả như mong muốn. Ví dụ như các phong tục
về cưới xin, ma chay, lễ hội tuy đã được giản tiện đi nhiều nhưng vẫn còn
rườm rà và rất tốn kém.
Huyện Tam Đảo thuộc tỉnh Vĩnh Phúc là một huyện có tiềm năng về du
lịch bởi trên địa bàn của huyện có hai khu du lịch sinh thái là Tây Thiên và
Tam Đảo nhưng có lẽ huyện vẫn chưa khai thác được hết tiềm năng này nên
đời sống của bà con ở các xã thuộc huyện vẫn không có nhiều thay đổi.
0.8.2.3. Xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh
Có thể nói đây là một xã có địa hình khá đặc biệt trong số các địa bàn
mà chúng tôi đến khảo sát. Huyện đảo Vân Đồn nằm ở phía Đông Nam tỉnh
Quảng Ninh, có nhiều đảo và nhiều bãi biển nên có tiềm năng du lịch lớn.
Cách trung tâm thành phố Hạ Long khoảng 60 km, xã Bình Dân có phía đông
giáp huyện Vạn Yên, phía Bắc giáp huyện Tiên Yên, phía Tây giáp thị xã
Cẩm Phả và phía Nam giáp xã Đoàn Kết huyện Vân Đồn. Là một xã thuộc
huyện đảo Vân Đồn nhưng Bình Dân lại được bao bọc xung quanh là núi và
đi khoảng 10 km là đến biển. Diện tích của toàn xã là 2965,86 ha trong đó 3/4
21
là đồi núi. Địa hình tương đối đa dạng có sự đan xen của đồng bằng, đồi núi,
thung lũng và biển. Đặc điểm này cũng tạo ra nhiều khó khăn cho cuộc sống
của người dân nơi đây.
Xã Bình Dân có 5 thôn: Đầm Tròn, Vòong Tre, Đồng Cống, Đồng Đá
và Đầm Giọong với 1.188 người trong đó 90% là người SD, còn lại là người
Kinh, Hoa, Dao. Dân cư sống thưa thớt, rải rác.
Cơ sở hạ tầng của xã tương đối tốt. Các công trình công cộng như ủy

ban, nhà văn hóa, trường học… được xây dựng khang trang. Giao thông thuận
tiện. Đường bê tông đều được trải ở các trục đường chính tới tận các thôn.
Hình thức kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp. Trong những năm gần đây,
thanh niên nơi đây có phong trào đi làm thuê ở các thành phố lớn. Đặc biệt,
xã Bình Dân mới được Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Quảng Ninh đầu tư xây
dựng một nhà trưng bày các nét văn hóa đặc sắc như trang phục, hát sọong
cô… nhằm bảo tồn văn hóa của dân tộc này.
0.8.2.4. Xã Ninh Lai, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
Ninh Lai là một xã nằm ở phía tây nam huyện Sơn Dương thuộc tỉnh
Tuyên Quang. Phía Bắc giáp xã Thiện Kế, phía Tây giáp xã Sơn nam, phía
Nam giáp với xã Đạo Trù của huyện Tam Đảo tỉnh Vĩnh Phúc và phía Nam là
dãy núi Tam Đảo. Diện tích đất tự nhiên là 2.468 ha. Toàn xã có 12 thôn với
1.450 hộ. Dân số là 7.230 người thuộc 4 dân tộc Kinh, SD, Cao Lan và Dao,
trong đó người SD chiếm gần 75%.
Địa hình của xã tương đối bằng phẳng, giao thông đi lại thuận tiện.
Kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người không cao
nhưng tình hình kinh tế của bà con cũng đã được cải thiện nhiều so với
trước đây.
0.8.2.5. Xã Nam Hòa, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
22
Xã Nam Hòa nằm ở phía Đông của huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên,
cách thành phố Thái Nguyên khoảng 15 km. Là một xã nằm ở vùng đồi núi
của huyện, với tổng diện tích là 247,7 ha, xã có nhiều điều kiện thuận lợi
trong việc trồng các cây công nghiệp, đặc biệt là chè. Ngoài ra, người dân ở
đây cũng trồng một số cây lương thực, thực phẩm khác. Khí hậu ở đây đặc
trưng cho khí hậu vùng trung du đông bắc. Xã Nam Hòa còn có một thế mạnh
về khoáng sản như than, đá vôi.
Ở tỉnh Thái Nguyên, Đồng Hỷ là huyện có người Sán Dìu sống đông
nhất và trong huyện thì dân tộc SD sống tập trung nhất là ở xã Nam Hòa. Xã
có 7 dân tộc anh em cùng sinh sống như Tày, Nùng, SD, Dao, Hà Nhì, Mông,

Kinh trong đó dân tộc SD chiếm khoảng 73% trong tổng số hơn 10.000
người. Kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, trồng lúa nước. Bên cạnh đó
còn có có một số ngành kinh tế khác như trồng cây công nghiệp, khai thác
khoáng sản. Nhìn chung đời sống kinh tế của bà con dân tộc nơi đây ngày
càng được cải thiện.
Với những nét khái quát về năm xã trên, chúng ta thấy những địa bàn
được chọn để khảo sát có một số điểm chung. Về địa hình thì đây đều là các
xã miền núi. Về dân số, những nơi này đều là các xã có tỉ lệ người SD tương
đối cao, sống tập trung. Chính những đặc điểm về dân số, nơi cư trú như vậy
sẽ giúp cho tư liệu chúng tôi thu thập có độ tin cậy cao vì mức độ ảnh hưởng
bởi các yếu tố ngoài ngôn ngữ là ít hơn cả.
23
24
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Vấn đề mô tả ngữ âm của một ngôn ngữ
Với một ngôn ngữ xa lạ, đặc biệt là những ngôn ngữ chưa được nghiên
cứu như một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam thì nhiệm vụ quan
trọng nhất của việc nghiên cứu ngữ âm là chỉ ra các tiêu chí khu biệt và từ đó
nêu lên được hệ thống âm vị của chúng. Muốn làm được công việc đó thì việc
đầu tiên phải nhận diện cho được đơn vị ngữ âm cơ bản nhất của ngôn ngữ,
đó là âm tiết. Về phương diện phát âm, âm tiết là đơn vị cuối cùng có thể tách
ra được, còn về phương diện thính giác thì âm tiết có thể chia thành các đơn
vị nhỏ hơn, đó là các âm tố.
Để nêu đặc điểm của một âm tố - âm vị ta có thể dựa vào những thuộc
tính cấu âm - âm học làm cho nó khác với các âm tố khác và cũng có thể dựa
vào việc nó được sử dụng như một âm tố khu biệt để phân biệt nghĩa. Âm tố
lại bao gồm nguyên âm và phụ âm. Đây chính là các thành phần cấu tạo nên
âm tiết . Ngoài các thành phần đoạn tính này ra, âm tiết còn bao gồm cả các
đơn vị siêu đoạn tính như trọng âm , ngữ điệu, thanh điệu…
Khi miêu tả một âm vị trong một ngôn ngữ bất kỳ thì phải sử dụng các

thao tác như đối chiếu, phân tích, so sánh để tìm ra đặc trưng cấu âm – âm
học của nó rồi miêu tả chúng thông qua chính các đặc trưng ấy. Miêu tả một
nguyên âm cần xác định ba nét đặc trưng cơ bản. Đó là: độ cao của lưỡi (cao
hay thấp; kèm theo là độ mở của miệng), vị trí của lưỡi (trước hay sau), độ
tròn của môi (tròn môi hay không tròn môi). Ngoài ba nét đặc trưng trên,
người miêu tả ngữ âm có thể dùng thêm các đặc trưng về độ căng/lơi, trường
độ ngắn/dài, tính chất mũi hóa…Người ta cũng có thể căn cứ vào lược đồ
nguyên âm chuẩn, phân tích, so sánh và định vị nguyên âm đó vào vị trí phù
hợp trong tương quan với các nguyên âm chuẩn. Với việc miêu tả một phụ âm
25

×