Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN Một số suy nghĩ về việc dạy học văn bản sự tích Thần Đền Bạch Mã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.68 KB, 18 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ VIỆC DẠY HỌC VĂN BẢN SỰ
TÍCH THẦN ĐỀN BẠCH MÃ"
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở tại Nghệ An hiện nay có dạy -
học một số tác phẩm thuộc văn học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại
của các tác giả quê ở Nghệ An. Việc giảng dạy những tác phẩm này nhằm góp phần
làm cho vốn văn học của học sinh được mở rộng, kiến thức về Nghệ An thêm phong
phú, từ đó học sinh biết thêm yêu mến quê hương mình.
Chương trình mới được biên soạn và đưa vào giảng dạy ở trường trung học cơ
sở hơn một năm nay. Tài liệu hướng dẫn và những tài liệu tham khảo liên quan đều
chưa có nên người dạy và người học đã gặp không ít khó khăn. Để phần nào giải
quyết khó khăn cho người dạy, bài viết này xin trình bày một số suy nghĩ về việc
dạy -học văn bản Sự tích thần đền Bạch Mã.
Văn bản Sự tích thần đền Bạch Mã được cuốn Ngữ văn Nghệ An (Sở Giáo dục
và Đào tạo Nghệ An) biên soạn và phân phối dạy ở chương trình văn học địa
phương lớp 6. Văn bản này cùng với văn bản Cây thiên hương được phân bố dạy
trong thời gian từ 3 - 3,5 tiết. Trong cuốn Ngữ văn Nghệ An, văn bản Sự tích thần
đền Bạch Mã cũng như các văn bản khác đều được biên soạn theo cấu trúc các
phần:
- Kết quả cần đạt
- Văn bản
- Hệ thống câu hỏi đọc - hiểu
- Ghi nhớ
Ngoài sự biên soạn này, tài liệu chưa có hướng dẫn gì thêm. Trong hoàn cảnh
như vậy, để đáp ứng yêu cầu dạy văn bản, giáo viên chủ yếu tự nghiên cứu, tìm tòi
và tiến hành dạy theo kinh nghiệm của bản thân. Điều này dẫn đến hiện tượng thiếu
sự thống nhất cơ bản về việc đọc - hiểu văn bản.
Theo chúng tôi, việc dạy những văn bản văn học địa phương nói chung và dạy
văn bản Sự tích thần đền Bạch Mã nói riêng, vừa phải tuân thủ những nguyên tắc và


phương pháp chung nhằm những mục tiêu chung, vừa có những giá trị đặc thù ở các
phương diện đó. Ở bài viết này, chúng tôi chủ yếu bàn về việc dạy văn bản Sự tích
thần đền Bạch Mã với những đặc điểm riêng biệt của một văn bản văn học địa
phương.
Phương pháp dạy được xác lập trên cơ sở đối tượng và mục đích.
II. NỘI DUNG:
Sự tích thần đền Bạch Mã là một truyện thuộc thể loại truyền thuyết. Đặc
điểm nổi bật của thể loại truyện dân gian này là gắn bó chặt chẽ với sự kiện lịch sử.
Thần được thờ ở đền Bạch Mã là Phan Đà. Phan Đà được sinh ra và hoá thân
trên cùng một quê hương Chi Linh (nay là xã Võ Liệt, thuộc huyện Thanh Chương,
Nghệ An).
Giảng dạy truyện này phải làm nổi bật màu sắc địa phương của truyện. Tính
chất địa phương bộc lộ rõ nhất qua địa danh: Thôn Chi Linh, thôn Niệu Ninh, sông
Lam, Phuống, đền Bạch Mã.
Tuy nhiên, tính chất địa phương không làm mờ nhạt đi đặc điểm thể loại
truyền thuyết. Đặc điểm của truyền thuyết là gắn với sự kiện lịch sử.
Sự kiện lịch sử bao trùm, gắn với phần lớn thời gian xảy ra câu chuyện là
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, với các diễn biến chính.
+ Cuộc khởi nghĩa phát triển về phía Nghệ An
+ Nghĩa quân Lam Sơn đóng thành trên núi Thiên Nhẫn trong 6 năm, do đó
thành được đặt tên là Lục Niên.
+ Cuộc khởi nghĩa thắng lợi từng bước và cuối cùng đi đến thắng lợi hoàn
toàn. Lý giải chiến công vang dội cuối cùng đó, tác giả dân gian cho rằng có sự hợp
lực giữa người và thần, trong đó có Phan Đà.
+ Khi công cuộc bình Ngô đại thắng, Lê Lợi định công ban thưởng, Phan Đà
được sắc phong phúc thần, được cúng tế trong cả nước. Lệ này chỉ chấm dứt khi
nhà Nguyễn lên thống trị.
Màu sắc của truyền thuyết còn thể hiện ở cách hình dung về các sự kiện lịch
sử: Lịch sử vừa được tái hiện theo cách của chính sử (khởi nghĩa Lam Sơn phát
triển về phía Nam, thành Lục Niên, thắng lợi cuối cùng để kết thúc chiến tranh),

vừa được hình dung với màu sắc huyễn hoặc: đứng trong hàng ngũ của nghĩa quân
có cả các nhân vật phi thường; thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn do được những
thế lực thiêng liêng ủng hộ.
Đặc điểm của truyền thuyết còn được thể hiện ở phương thức xây dựng nhân
vật.
+ Nhân vật có hành trạng cụ thể (là con của một đôi vợ chồng luống tuổi ở
thôn Chi Linh).
+ Nhân vật đồng thời có những phẩm chất phi thường (sự ra đời của Phan Đà
do cha mẹ tích đức, do được thế lực thiêng liêng phù trợ, Phan Đà có trí tuệ và sức
lực khác thường, cái chết cũng khác thường). Đó là biểu hiện của nghệ thuật trần
tục hoá và kỳ vĩ hoá.
Thông qua giảng dạy tác phẩm Sự tích thần đền Bạch Mã có thể hình thành
cho học sinh nhận thức về sự gắn bó giữa lịch sử quê hương với lịch sử dân tộc.
Từ việc giảng dạy tác phẩm văn học địa phương này có thể hình thành cho
học sinh những tri thức khái quát về thể loại truyền thuyết. Ở thể loại này, các giá
trị chính sử và dã sử (sử liệu lưu truyền trong dân gian), sự thực và hư cấu, văn
chương và tín ngưỡng hoà quyện, làm nên giá trị độc đáo.
Sau đây là phần đề xuất soạn giáo án văn bản Sự tích thần đền Bạch Mã.
Văn bản: SỰ TÍCH THẦN ĐỀN BẠCH MÃ
A. Mục tiêu cần đạt: Giúp học sinh
- Hiểu được nội dung, ý nghĩa, đặc sắc nghệ thuật, màu sắc địa phương của
truyện.
- Nhận thức được sự gắn bó giữa lịch sử quê hương với lịch sử dân tộc.
- Qua tìm hiểu truyện, thêm tự hào, yêu quý quê hương.
- Kể lại được truyện.
B. Chuẩn bị:
- Tranh ảnh về vùng Võ Liệt, Thanh Chương, về đền thờ Bạch Mã.
- Một số tư liệu truyền thống về địa danh này.
C. Tiến trình tổ chức các hoạt động
* Bài cũ: Giáo viên yêu cầu 1 học sinh kể tên một số truyện dân gian có ý

nghĩa giải thích nguồn gốc địa danh (tên núi, tên sông, tên hồ…). Ví dụ: Sự tích hồ
Gươm.
* Bài mới:
- Giới thiệu bài (từ nội dung trả lời bài cũ của học sinh, giáo viên dẫn dắt, giới
thiệu bài mới).
Bên cạnh những truyện dân gian quen thuộc trong kho tàng truyện cổ dân gian
Việt Nam có ý nghĩa giải thích nguồn gốc địa danh, có những truyện dân gian địa
phương cũng mang ý nghĩa tương tự. Hôm nay chúng ta sẽ được biết đến một câu
chuyện có nội dung ý nghĩa gắn liền với địa danh quê hương Nghệ An ta - Đền
Bạch Mã, vùng Võ Liệt, Thanh Chương.
- Giáo viên cho học sinh trình bày những hiểu biết về đền Bạch Mã, về vùng
đất Võ Liệt (Thanh Chương).
- Giáo viên, cho học sinh xem một số hình ảnh về các địa danh này và thuyết
minh thêm: Võ Liệt là địa danh vang lừng cả nước vì là một địa chỉ đỏ của phong
trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Nơi đây, từ hơn năm thế kỷ trước đã có đền thờ một vị
tướng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đó chính là Phan Đà trong câu chuyện Sự tích
thần đền Bạch Mã.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành các hoạt động.
I. Đọc, chú thích, kể tóm tắt, tìm hiểu chung
- Giáo viên cho học sinh xác
định cách đọc, đọc thể nghiệm. Sau
đó giáo viên điều chỉnh, định hướng
cách đọc văn bản.
- Giáo viên lưu ý học sinh một
số chú thích - nếu học sinh đề xuất
thêm, giáo viên giúp các em chú
thích.
1. Đọc, chú thích, kể tóm tắt
- Đọc: rõ ràng, trôi chảy, nhịp
vừa phải. Chú ý nhấn mạnh các chi

tiết hoang đường.
- Chú thích:
+ Tả ngạn: bên trái bờ sông (tả:
bên trái; ngạn: bờ).
+ Hữu ngạn: bên phải bờ sông
+ Phúc thần: vị thần tốt hay giúp
đỡ người khác.
+ Quốc tế: cúng (giỗ) trong cả
nước (quốc: nước; tế: cúng, giỗ).
+ Bạch Mã: ngựa trắng (bạch:
trắng; mã: ngựa)
- Kể tóm tắt
- Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt
các sự việc chính của truyện (học
sinh làm việc theo nhóm).
- Yêu cầu học sinh, từ 1-2 em kể
diễn cảm một sự việc. Các học sinh
khác theo dõi nhận xét.
- Qua việc đọc, kể, em thấy
truyện này có cùng khuôn mẫu với
truyện nào em đã học.
Các sự việc chính:
+ Phan Đà ra đời
+ Phan Đà lớn lên và gia nhập
đội quân khởi nghĩa của Lê Lợi.
+ Cái chết của Phan Đà.
+ Phan Đà được được lập đền thờ
và sắc phong phúc thần
→ truyện có cùng khuôn mẫu với
truyện Thánh Gióng.

- Trên cơ sở nhớ lại khái niệm
các thể loại truyện dân gian, em hãy
xác định thể loại của truyện này?
2. Tìm hiểu chung
+ Thể loại: truyền thuyết
- Nhân vật chính của truyện là
ai? Nhân vật đó liên quan đến lịch sử
thời nào? Ở địa phương nào?
+ Nhân vật chính: Phan Đà →
liên quan đến lịch sử thời kỳ kháng
chiến chống giặc Minh, thế kỷ XV:
gắn với địa phương xã Võ Liệt,
huyện Thanh Chương, Nghệ An.
II. Tìm hiểu chi tiết
- Hãy trình bày tóm tắt sự ra đời
của Phan Đà
1. Phan Đà ra đời
- Hai ông bà ở thôn Chi Linh, xã
Võ Liệt, huyện Thanh Chương đã
luống tuổi mà chưa có con.
- Người chồng ra sông Lam tắm,
được một cái chĩnh đầy vàng.
- Hai vợ chồng trả lại cái chĩnh
cho người khách lạ, và được người
khách lạ trả ơn.
- Người vợ có thai sinh một cậu
con trai gọi tên là Phan Đà.
- Nhận xét về các chi tiết kể sự
ra đời của Phan Đà. Những chi tiết
nào là yếu tố kỳ ảo? Những chi tiết

nào có yếu tố hiện thực?
→ Chi tiết vừa có yếu tố kỳ ảo,
vừa có yếu tố hiện thực.
- Chi tiết có yếu tố kỳ ảo: vợ
chồng người nông dân chuyển ngôi
nhà sang đất “lưu huyết vạn đại”
được một năm thì người vợ sinh một
cậu con trai.
- Chi tiết có yếu tố hiện thực: là
các chi tiết về địa danh (thôn Chi
Linh xã Võ Liệt, huyện Thanh
Chương; sông Lam), chi tiết lịch sử
(cuối đời Trần).
- Từ các chi tiết đó, em có cảm
nhận gì về sự ra đời của Phan Đà?
- Sự kết hợp yếu tố kỳ ảo và yếu
tố hiện thực có tác dụng gì?
→ Sự ra đời của Phan Đà rất
khác thường. Chứng tỏ Phan Đà
không phải là một con người bình
thường.
Gắn yếu tố kỳ ảo với yếu tố hiện
thực có tác dụng tăng sức hấp dẫn
cho truyện, làm cho người đọc cảm
thấy nhân vật và sự việc được kể vừa
gần gũi, lại vừa kỳ lạ.
Hãy theo dõi những chi tiết kể
việc Phan Đà lớn lên. Những chi tiết
đó nói với em điều gì về Phan Đà?
2. Phan Đà lớn lên và tham gia

cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
- Phan Đà lớn lên:
+ Khôi ngô tuấn tú, có chí khí
thông minh, giỏi cả văn lẫn võ.
+ Được người khách lạ tặng con
ngựa trắng (bạch mã).
→ Phan Đà vừa có những tố chất
bẩm sinh (khôi ngô, tuấn tú, chí khí
thông minh…) vừa được các lực
lượng khác phù trợ (được tặng ngựa
quý)
→ Phan Đà hội tụ đủ các yếu tố
để trở thành một tráng sĩ toàn vẹn.
- Phan Đà tham gia cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn.
* Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê
Lợi đứng đầu phát triển về phía
Nghệ An.
- Giáo viên nói thêm cho học
sinh rõ về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
giai đoạn phát triển vào Nghệ An -
chú ý nhấn mạnh tính chất địa
phương trong địa danh: núi Thiên
Nhẫn, thành Lục Niên.
Lam Sơn động chủ (hiệu của Lê
Lợi) cho đóng thành trên núi Thiên
Nhẫn.
Thành được gọi là Lục Niên để
ghi nhớ quân sĩ Lam Sơn đã đóng ở

đây 6 năm. Đây là một di tích có
thực.
- Hãy tưởng tượng hình ảnh
Phan Đà cưỡi Bạch Mã ra mắt Lê
Lợi và nhận xét hình ảnh này.
Hình ảnh đó làm em liên tưởng
đến hình ảnh nào trong truyện Thánh
Gióng?
Giáo viên nói thêm →
* Phan Đà
- Cưỡi bạch mã ra mắt Lê Lợi.
→ Hình ảnh đẹp, lãng mạn, gần
gũi với hình ảnh Thánh Gióng cưỡi
ngựa sắt trong truyện Thánh Gióng.
Hình ảnh đó còn chứng tỏ cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi làm
thủ lĩnh được sự đồng tình ủng hộ
của nhiều lực lượng; không chỉ có
manh lệ (người làm nghề cày cấy, đi
ở) mà còn có cả những thần nhân.
- Phan Đà xông pha trận mạc
được cử làm tham mưu cho Lê Lợi.
- Phan Đà được cử làm tướng
trấn giữ thành Bình Ngô - ở phuống
- Các chi tiết kể Phan Đà xông
pha trận mạc, rồi được cử làm
tướng… có vai trò gì trong việc khắc
họa hình ảnh nhân vật này?
bên hữu ngạn sông Lam
→ Khẳng định phẩm chất, tài

năng và công lao to lớn của Phan Đà
trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Khơi dậy niềm khâm phục và tự
hào ở người đọc, người nghe.
- Hãy cho biết nguyên nhân dẫn
đến cái chết của Phan Đà?
3. Truyền thuyết về cái chết của
Phan Đà
- Nguyên nhân của cái chết:
Phan Đà thích hát tuồng, cải dạng
sang sông xem hát và bị giặc Minh
giết.
- Cái chết của Phan Đà được kể
qua các chi tiết nào? Nhận xét các
chi tiết được kể?
- Cái chết của Phan Đà
- Phan Đà chết nhưng vẫn ngồi
trên lưng ngựa, đầu không rơi, máu
không chảy.
- Đến thôn Chi Linh, Phan Đà
mới hộc ra một vũng máu và đến
thôn Niệu Ninh mới ngã ngựa.
- Trong các chi tiết đó, em có ấn
tượng nhất với chi tiết nào? Vì sao?
→ Các chi tiết hoang đường kết
hợp với các chi tiết hiện thực.
(Học sinh tự chọn chi tiết. Giáo
viên tôn trọng sự lựa chọn của các
em miễn là ý kiến của các em hợp
lý)

- Vì sao khi Phan Đà bị quân
Minh hạ sát, Phan Đà vẫn ngồi trên
lưng ngựa, đầu không rơi, máu
không chảy nhưng khi về đến đất
Chí Linh Phan Đà mới hộc ra một
vũng máu và đến thôn Niệu Ninh,
Phan Đà mới ngã ngựa?
- Vấn đề này khó - Giáo viên
giúp học sinh lý giải:
Tâm thế người Việt vẫn cho rằng
người ta chết rồi nhưng khi tiếp xúc
với người gần gũi huyết thống sẽ thổ
ra một chút máu tươi. Truyện này
cũng thể hiện quan niệm đó. Trong
giờ phút chàng hoá thân, cha mẹ già
không biết, nhưng đất Chi Linh là
ruột thịt của chàng, khiến tâm linh
chàng rung động, khiến máu chàng
thấm vào đất mẹ. Đến thôn Niệu
Ninh (nay cùng xã Võ Liệt) chàng
mới ngã ngựa.
- Những chi tiết đậm chất hoang
đường kể về cái chết của Phan Đà có
ý nghĩa gì?
→ Thể hiện một cái chết đậm
chất huyền thoại - làm nên một hình
ảnh nhân vật thần kỳ bi tráng.
Cắt nghĩa nguyên nhân cái chết
của Phan Đà từ một sở thích thanh
cao của chàng là cách nhân dân ta

bày tỏ thái độ, cách đánh giá của
mình đối với nhân vật này…
Cái chết của Phan Đà được kể
gắn với địa danh nào của quê
hương? Sự gắn kết đó có ý nghĩa gì?
(Học sinh thảo luận nhóm)
Cái chết của Phan Đà được kể
gắn với các địa danh của quê hương
(thôn Chi Linh, thôn Niệu Ninh…)
làm cho các địa danh ấy trở nên linh
thiêng hơn, và đậm giá trị lịch sử
hơn; giúp ta hiểu rõ vì sao ở Võ Liệt
(Thanh Chương) có đền Bạch Mã.
- Sự việc Phan đà bay về trời và
được Lê Lợi sắc phong phúc thần
giống sự việc nào trong truyện
Thánh Gióng?
Ý nghĩa của sự việc Phan Đà
bay về trời.
4. Phan Đà về trời và được sắc
phong phúc thần.
(Học sinh biết liên hệ với sự việc
Thánh Gióng bay về trời và được
vua sắc phong Phù Đổng thiên
vương).
- Phan Đà bay về trời
→ Ý nghĩa: Làm cho hình ảnh
Phan Đà trở nên đẹp, bất tử và
thiêng liêng.
Phan Đà ra đời phi thường thì ra

đi cũng phi thường. Nhân dân yêu
mến, trân trọng muốn giữ mãi hình
ảnh người anh hùng, nên đã để Phan
Đà trở về với cõi bất tử. Bay về trời,
hình ảnh Phan Đà là hình ảnh của
nước non, xứ sở, là biểu tượng của
- Việc Phan Đà được Lê Lợi sắc
phong phúc thần thể hiện điều gì?
con người quê hương. Phan Đà sống
mãi…
- Phan Đà được Lê Lợi sắc phong
phúc thần
→ Khẳng định công lao to lớn
của Phan Đà trong cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn; thể hiện lòng biết ơn của
quân khởi nghĩa đối với người anh
hùng này.
- Ý nghĩa của truyện?
* Ý nghĩa của truyện:
- Giải thích nguồn gốc tên gọi
đền Bạch Mã.
(Giáo viên nói thêm: Tên gọi đền
này cũng đặc biệt. Thông thường,
tên gọi đền là dựa theo nhân vật
được thờ, thí dụ đền An Dương
Vương… Ở đây đền được mang tên
linh vật đã gắn với chủ nhân - Bạch
Mã).
- Ca ngợi những tình cảm, hành
động yêu nước và nhân nghĩa của

người anh hùng quê hương.
- Thể hiện thái độ, tình cảm của
nhân dân đối với nhân vật anh hùng
Phan Đà.
- Việc Hội đền Bạch Mã được tổ
chức hàng năm vào ngày 9, 10 tháng
2 âm lịch ở xã Võ Liệt, Thanh
Chương nói thêm với em điều gì?
Việc Hội đền Bạch Mã được tổ
chức hàng năm vào ngày 9, 10 tháng
2 âm lịch ở xã Võ Liệt, Thanh
Chương đã khẳng định thêm thái độ,
tình cảm, của nhân dân ta đối với
Phan Đà)
- Giáo viên kết hợp cho học sinh
xem một số hình ảnh về lễ hội đền
Bạch Mã.
III. Ghi nhớ
(Tổng kết khái quát về đề tài, nghệ thuật và ý nghĩa của truyện)
- Giáo viên yêu cầu một học sinh đọc phần Ghi nhớ ở sách giáo khoa
cho cả lớp nghe.
- Yêu cầu học sinh học thuộc phần ghi nhớ này.
IV. Luyện tập
1. Yêu cầu học sinh kể một đoạn truyện mà học sinh thích nhất.
- Kể đúng cốt truyện, chi tiết cơ bản.
- Cố gắng dùng lời văn (nói) của cá nhân để kể.
- Kể diễn cảm.
2. Yêu cầu học sinh nhắc lại tính chất địa phương của truyện (yếu tố thể hiện
rõ nhất tính chất địa phương là yếu tố địa danh địa phương).
V. Hướng dẫn học bài, làm bài ở nhà.

- Học bài: nắm cốt truyện Sự tích thần đền Bạch Mã.
- Chuẩn bị bài: Cây thiên hương.
III. KẾT LUẬN
1. Đây là một truyền thuyết có cùng kiểu với truyện Thánh Gióng - một truyền
thuyết học sinh đã học. Vì vậy dạy - học văn bản này, một lần nữa các kiến thức cơ
bản về truyền thuyết được củng cố và mở rộng.
2. Bên cạnh củng cố, mở rộng kiến thức về thể loại truyền thuyết, dạy - học văn
bản này còn giúp học sinh có thêm những sự hiểu biết nhất định về vốn văn học dân
gian địa phương, thấy được điểm tương đồng và điểm khác biệt giữa những truyện dân
gian địa phương với truyện dân gian Việt Nam nói chung. Điểm khác biệt cơ bản
chính là tính chất địa phương thể hiện trong truyện. Tính chất địa phương ở đây chủ
yếu được bộc lộ rõ qua các địa danh địa phương.
3. Cũng qua dạy - học văn bản này khơi dậy được niềm hứng thú sưu tầm, tìm
hiểu vốn văn học dân gian địa phương nói riêng và vốn văn học địa phương nói chung
trong học sinh; bồi dưỡng thêm cho các em tình cảm gắn bó, yêu quý quê hương.
4. Qua thực tế một năm dạy - học văn bản theo định hướng trên, chúng tôi đã thu
nhận được những kết quả bước đầu:
Vốn văn học của học sinh được mở rộng thêm; các em đã biết liên hệ lịch sử quê
hương với lịch sử dân tộc để từ đó hiểu sâu sắc hơn lịch sử địa phương; các em cũng
biết rõ hơn một số địa danh mà trước đây các em còn mơ hồ (như đền Bạch Mã, núi
Thiên Nhẫn, vùng Võ Liệt…).
Sau khi học văn bản, nhiều em cảm thấy gần gũi hơn với tâm hồn, trí tuệ của
người dân lao động quê nhà. Bởi chính tâm hồn và trí tuệ của họ đã sáng tạo nên
những câu chuyện vô cùng thú vị như Sự tích đền Bạch Mã. Và các em thấy rằng mỗi
tên núi, tên sông của Tổ quốc đều mang những giá trị cao quý, thiêng liêng.
Những nội dung đề cập trong sáng kiến kinh nghiệm này mới chỉ là những suy
nghĩ bước đầu của người viết; chắc chắn còn có những điều cần chỉnh sửa, bổ sung.
Rất mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp.
Vinh, ngày 10 tháng 4 năm 2010

×