Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Lịch sử của quan niệm duy vật lịch sử đặc biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.65 KB, 97 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để đáp ứng yêu cầu của việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy di sản của
chủ nghĩa Mác thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải nhận thức
lại cơ sở khoa học trực tiếp của nó là chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ở đây vấn
đề đặt ra là muốn hiểu đúng hơn, sâu sắc và toàn diện hơn quan niệm duy
vật về lịch sử thì nhất định phải nghiên cứu kỹ hơn lịch sử của nó.
Trong triết học Mác- Lênin, chủ nghĩa duy vật lịch sử có quá trình
hình thành, phát triển tương đối độc lập, vì thế có thể nghiên cứu riêng
quá trình này. Giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành, phát triển quan
niệm duy vật về lịch sử có thời gian khoảng từ năm 1842 đến 1845. So
với toàn bộ lịch sử của quan niệm duy vật về lịch sử, thì đây chính là giai
đoạn hình thành những tư tưởng triết học khoa học về lịch sử. Trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã từng mắc phải những thiếu
sót, hạn chế là thường chỉ chú ý đến giai đoạn trưởng thành của triết học
Mác, còn quan tâm chưa đúng mức lịch sử của chúng, nhất là giai đoạn
đầu tiên của nó, có nghĩa là chưa thấy rõ nội dung và ý nghĩa của những
tư tưởng triết học mang tính chất khởi nguồn của triết học Mác. Điều này
dẫn đến chỗ làm ta khó phân biệt được đâu là những tư tưởng, những luận
điểm đã thành thục và đâu là những luận điểm, nguyên lý gốc đang được
thực tiễn chứng minh là đúng cần phải bảo vệ, phát triển, đâu là những
luận điểm trước kia đúng nhưng nay do hoàn cảnh lịch sử thay đổi nên
không còn phù hợp, bị thực tiễn vượt qua cần phải sửa đổi, bổ sung, và
đâu là những luận điểm đúng nhưng do ta hiểu và vận dụng chưa đúng.
Bởi vậy, yêu cầu đặt ra ở đây là phải quan tâm hơn đến việc học tập và
nghiên cứu lịch sử triết học Mác- Lênin, trong đó có giai đoạn hình thành
những tư tưởng triết học khoa học về lịch sử.
1
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông
Âu làm cho thế lực thù địch càng cố công tìm mọi thủ đoạn để công kích,
bác bỏ Chủ nghĩa Mác với mục đích “chiến thắng mà không cần chiến


tranh”. Chính thực tiễn này đã đặt ra nhiệm vụ cần phải khôi phục và bảo
vệ giá trị thực của triết học Macxit. Đặc biệt sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá hiện nay đang đòi hỏi phải nắm vững một cách có hệ thống
triết học Mác và chủ nghĩa Mác, nhằm xây dựng lối tư duy lý luận có hệ
thống. Vì vậy, không được phép hiểu một cách đại khái hệ thống lý luận
Mác – Lênin, mà phải nghiên cứu để nắm vững, hiểu biết sâu từng học
thuyết, từng quan điểm riêng biệt của nó trong mối liên hệ mật thiết với
nhau. Muốn vậy, không thể không tìm hiểu lịch sử triết học Mác- Lênin,
nhất là giai đoạn hình thành những tư tưởng triết học về lịch sử, vì nó có ý
nghĩa đặt nền móng, làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
2. Tình hình nghiên cứu
Giai đoạn Mác-Lênin trong lịch sử triết học đã được nghiên cứu bởi
nhiều tác giả, thể hiện ở nhiều tác phẩm, trong đó đến cuốn “Lịch sử triết
học Mác- Lệnin” của Viện Hàn Lâm Khoa học Liên xô(1962); “Giáo trình
lịch sử triết học” do GS. PTS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên(1998), PGS.TS
Lê Doãn Tá với cuốn “Triết học Macxit- Quá trình hình thành và phát
triển”(1996); PGS. Bùi Thanh Quất và TS Vũ Tình đồng chủ biên cuốn “
Lịch sử triết học”; Giáo trình “Triết học” do PGS.TS Đoàn Quang Thọ
chủ biên(2006); cuốn “Triết học Mác về lịch sử” của tác giả Phạm Văn
Chung(2007); cuốn “Học thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội và lý luận
về con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta” của tác giả Phạm Văn
Chung…Có thể nói trong phần lớn các công trình trên, các tác giả đã tiếp
cận vấn đề lịch sử của quan niệm duy vật về lịch sử đồng thời với lịch sử
2
triết học Mác – Lênin nói chung. Chính vì vậy vấn đề phân kỳ các giai
đoạn của chủ nghĩa duy vật lịch sử và do đó, việc đi sâu nghiên cứu mỗi
giai đoạn của nó chưa thực sự được quan tâm.
Việc nghiên cứu riêng lịch sử của quan niệm duy vật lịch sử trong
các tài liệu trên đã được nghiên cứu, nhưng các kết quả lại chưa được

trình bày thành chuyên đề riêng một cách cụ thể, trong các giai đoạn khác
nhau, trong đó có giai đoạn hình thành những tư tưởng triết học khoa học
về lịch sử. Cho nên chúng tôi nhận ra sự cần thiết phải tiến hành nghiên
cứu kỹ hơn lịch sử của quan niệm duy vật lịch sử đặc biệt là giai đoạn đầu
tiên của nó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu một số tư tưởng triết học về lịch sử trong các tác phẩm
chủ yếu của C. Mác và Ph. Ăgghen giai đoạn 1842-1845. Từ đó thấy được
sự phát triển của những tư tưởng duy vật về lịch sử trong giai đoạn hình
thành triết học Mác – cơ sở của toàn bộ tư tưởng duy vật về lịch sử của
triết học Mác- Lênin.
3.2. Nhiệm vụ
- Khảo sát tiền đề và cơ sở của sự hình thành triết học Mác về lịch sử.
- Tìm hiểu nội dung của một số tư tưởng duy vật về lịch sử, dựa
trên việc tập hợp các luận điểm triết học tiêu biểu của C. Mác và Ph.
Ănghen trong các tác phẩm cơ bản ở giai đoạn 1842-1845.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn nghiên cứu những tư tưởng duy vật cơ bản về lịch sử
trong một số tác phẩm cơ bản của C.Mác và Ph.Ănghen.
4.2.Phạm vi
3
- Luận văn nghiên cứu một số tư tưởng duy vật cơ bản về lịch sử
của C.Mác và Ph.Ănghen trong khoảng thời gian 1842-1845
- Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu một số tư tưởng duy vật về lịch
sử của C.Mác và Ph.Ănghen trong, thông qua các tác phẩm tiêu biêủ như:
“Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” và “Lời nói đầu”
của nó; tác phẩm “Bản thảo kinh tế- triết học năm 1844”; tác phẩm “Gia
đình thần thánh”; tác phẩm “Luận cương về Phoiơbăc”

5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã dựa trên cơ sở phương
pháp luận Macxit, sử dụng các phương pháp nghiên cứu: kết hợp lôgic và
lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần nhỏ vào nhiệm vụ nghiên cứu, nhận thức đúng
hơn, rõ hơn, đầy đủ hơn nội dung và ý nghĩa của những tư tưởng duy vật
lịch sử trong sự phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và triết học
Mác nói chung. Việc nghiên cứu đề tài còn giúp tôi củng cố thêm vốn
kiến thức chuyên môn cần thiết cho công tác sau này.
- Luận văn cũng có thể được sử dụng trong việc giảng dạy và
nghiên cứu triết học đặc biệt cho việc nghiên cứu những tư tưởng duy vật
về lịch sử giai đoạn 1842- 1845.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 7 tiết.
4
Chương 1
TIỀN ĐỀ VÀ CƠ SỞ CỦA SỰ HÌNH THÀNH
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Những năm 40 thế kỷ XIX được đánh dấu bằng cuộc cách
mạng vĩ đại trong triết học và trong toàn bộ khoa học xã hội. Triết học
Mác đã xuất hiện và bắt đầu phát triển trong thời gian đó.
Sự ra đời của triết học Mác không phải là ngẫu nhiên mà là sự kết
tinh có tính quy luật của quá trình phát triển lịch sử tư tưởng nhân loại
dựa trên các điều kiện kinh tế - xã hội cũng như trình độ phát triển của
khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX. Chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời đã tạo ra
một bước ngoặt cách mạng trong xã hội học, vì nó đã phát hiện ra chân lý
quan trọng “không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ,
trái lại, chính sự tồn tại của họ quyết định ý thức của họ” và “phương thức

sản xuất quyết định mọi quá trình sinh hoạt khác”[17; 439]. Đây là những
quan điểm cơ bản đặt nền móng cho toàn bộ chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đánh giá về vai trò của chủ nghĩa duy vật lịch sử, Ăngghen viết “Đứng
trên quan điểm đó, nếu người ta hiểu biết đầy đủ về tình hình kinh tế của
xã hội trong một thời kỳ nhất định, điều mà những nhà chuyên môn về
lịch sử của chúng ta không biết một tí gì cả- thì tất cả mọi hiện tượng lịch
sử đều có thể giải thích được rất dễ. Cả những quan niệm và tư tưởng của
mỗi thời đại lịch sử cũng vậy, đều giải thích được một cách dễ dàng bằng
những điều kiện sinh hoạt kinh tế của thời đại ấy và bằng những quan hệ
xã hội và chính trị bắt nguồn từ những điều kiện ấy. Lần đầu tiên, lịch sử
đã được giải thích một cách chính xác nhất” [Trích theo 23; 4]. Sở dĩ chủ
nghĩa duy vật lịch sử có được nội dung và ý nghĩa khoa học như vậy là do
được dựa trên những tiền đề và cơ sở phát triển của chính nó.
5
Tuy nhiên, có những nhà lý luận tư sản đã quan niệm sai lầm rằng
triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung ra đời như một biệt
phái, như một sự độc thoại và tự giành cho mình quyền phát ngôn chân lý
cuối cùng. Thực tế cho thấy sự xuất hiện triết học Mác là một tất yếu lịch
sử, một hiện tượng hợp quy luật. Nó kết tinh tất cả những thành tựu của tư
duy triết học, văn hóa, khoa học và cả thực tiễn của lịch sử nhân loại nói
chung.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là những
học thuyết chủ yếu hợp thành triết học Mác, vì vậy chúng có chung những
tiền đề tư tưởng và cơ sở thực tiễn, lý luận. Song do tính độc lập tương
đối của mình chủ nghĩa duy vật lịch sử hình thành, phát triển dựa trên
những tiền đề, cơ sở mang tính đặc thù. Do đó, khi nghiên cứu lịch sử của
quan niệm này phải tính đến tính đặc thù ấy, kể cả giai đoạn đầu tiên của
nó.
1.1. Hoàn cảnh kinh tế- xã hội những năm đầu thế kỷ XIX
1.1.1 Sự củng cố và phát triển của chủ nghĩa tư bản

Triết học Mác xuất hiện ở Tây Âu nơi mà giữa thế kỷ XIX những
mâu thuẫn của chế độ tư bản chủ nghĩa đã biểu hiện hết sức mạnh mẽ và
gay gắt. Vào những năm 40 thế kỷ XIX, phương thức sản xuất đã thống trị
ở Anh, Pháp và trong một chừng mực quan trọng cả ở Đức. Phuơng thức
sản xuất này đã bộc lộ tính chất tiến bộ lịch sử một cách hiển nhiên so với
phương thức sản xuất phong kiến.
Lúc này, nước Anh đã trở thành quốc gia tư bản lớn nhất, lực lượng
công nghiệp phát triển rất hùng mạnh. Nước Pháp mặc dù còn tàn dư của
chế độ phong kiến nhưng tiến khá nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa.
Nước Pháp đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp với những thành
6
tựu tăng vọt: Từ năm 1830 đến 1847, số lượng máy hơi nước tăng lên 9
lần, các ngành khai thác sản xuất than đá, quặng, sắt thép đã tăng lên
khoảng 3 lần, trong 12 năm, từ 1835 đến 1847 đường sắt tăng lên 12 lần.
Nước Đức, mặc dù còn phụ thuộc vào Anh và Pháp vì về cơ bản
nước này vần còn ở giai đoạn công trường thủ công trong quá trình phát
triển tư bản chủ nghĩa nhưng sản xuất cũng tăng lên rất nhanh. Từ 1800
đến 1840 sản lượng công nghiệp ở Đức tăng lên tối thiểu là 2,5 lần. Cách
mạng công nghiệp ở nước Đức bắt đầu vào những năm 40 của thế kỷ XIX
thì đến năm 1837, riêng Phổ có trên 300 máy hơi nước. Công nghiệp dệt
và khai khoáng phát triển mạnh. Nền sản xuất tư bản đạt được nhiều
thành tựu đáng kể ngày càng tỏ ra mâu thuẫn với chế độ phong kiến.
Trong khoảng từ 1815 đến 1848 cách mạng công nghiệp tiếp tục
phát triển ở các nước thúc đẩy nền kinh tế ở các nước này phát triển lên
một bước. Ở các nước chưa tiến hành cách mạng tư sản, nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa cũng có những bước phát triển đáng kể. Nó đã tạo ra nguồn
của cải vật chất phong phú cho chủ nghĩa tư bản. “ Giai cấp tư sản trong
quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực
lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các
thế hệ trước kia gộp lại”[18; 547]. Những thế lực phong kiến đã buộc phải

rời khỏi vũ đài và thích ứng với những điều kiện lịch sử mới. Vượt qua
thời kỳ phong kiến, sự phát triển mạnh mẽ của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đã chứng minh tính ưu việt so với các chế độ xã hội khác
trong lịch sử. Nước Anh và nước Pháp đã trở thành những quốc gia tư bản
hùng mạnh, là động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu.
Như vậy, dù ở mức độ khác nhau nhưng Châu Âu, đặc biệt Tây Âu
đã trở thành trung tâm của sự phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ
7
nghĩa, làm cơ sở cho sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Điều này
đòi hỏi phải phát triển khoa học kỹ thuật và phương thức tư duy trên cơ sở
thế giới quan triết học mới.
1.1.2. Sự phát triển của những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa
tư bản
Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản đã vạch rõ
mâu thuẫn bên trong vốn có của phương thức sản xuất này.
Sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng ảnh hưởng đến sự phát
triển xã hội, đến đời sống tinh thần. “Các thang bậc giá trị đạo đức, thẩm
mỹ, các chuẩn mực luật pháp được xác lập lại nhằm đap ứng những đòi
hỏi của lực lượng thống trị xã hội. Tính hiệu quả và tính ứng dụng của tri
thức được đề cao. Bên cạnh đó, mặt trái của sự phát triển tư bản cũng
phơi bày ra dưới những sắc thái khác nhau. Trước hết đơn giản hóa quan
hệ xã hội diễn ra song song với chủ nghĩa sùng bái đồng tiền và sự tha
hóa trong quan hệ giữa người với người. Sự cảnh báo của G.G.Rutxô về
tỷ lệ nghịch giữa tiến bộ vật chất và đời sống tinh thần của con người đã
thể hiện trong điều kiện xã hội tư bản. Quan hệ tư bản tiếp tục đào hố sâu
ngăn cách giữa các tầng lớp xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa lao
động trí óc và lao động chân tay. Nó chẳng những không khắc phục được
những mâu thuẫn và xung đột xã hội do trật tự phong kiến để lại, mà còn
làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn và xung đột xã hội đó. C.Mac chỉ
rõ rằng, tích lũy của cải và “tích lũy” sự bần cùng dường như song hành,

tạo nên bước tranh xã hội với những đường nét tương phản nhau, và điều
đó cũng có nghĩa là việc cải tạo lại các quan hệ xã hội đã trở thành nhu
cầu tất yếu, khách quan” [6; 16].
8
Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản tất yếu tạo
ra trong lòng nó một lực lượng đối lập là giai cấp vô sản hiện đại. Trong
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Những vũ khí
mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay
quay lại đập vào chính giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản không
những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử
dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những người công nhân hiện đại,
những người vô sản”[18; 539]. Qúa trình này cũng đã nảy sinh đầy mâu
thuẫn. Nó không những tiếp tục bộc lộ, phát triển những mâu thuẫn vốn
có tiềm tàng của nó, mà còn hình thành , phát triển những mâu thuẫn mới.
Bên cạnh mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chế độ phong kiến, xuất
hiện mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Đây là mâu thuẫn
cơ bản nổi bật và là một trong những vấn đề trung tâm của tình hình xã
hội các nước lúc bấy giờ.
Khi giai cấp tư sản chưa trở thành giai cấp thống trị về chính trị,
vẫn còn là một lực lượng cách mạng chống chế độ phong kiến, thì sự đối
lập giữa lợi ích của nó với lợi ich của gia cấp vô sản chưa bộc lộ một cách
gay gắt. Nhưng sau khi đã xác lập được sự thống trị của mình rồi, giai cấp
tư sản không còn là giai cấp cách mạng nữa, mà dần dần trở thành lực
lượng bảo thủ, phản cách mạng. Những mâu thuẫn giai cấp vốn có của xã
hội tư bản ngày càng gay gắt, trước hết là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản
và giai cấp vô sản. Mâu thuẫn này là sự biểu hiện về mặt xã hội của mâu
thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa: giữa một bên là
tính chất xã hội hóa và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng
sản xuất tư bản chủ nghĩa với một bên là quan hệ sản xuất tư nhân tư bản
chủ nghĩa[39;468]. Mâu thuẫn này biểu hiện thành sự đối kháng kịch liệt

9
giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, biểu hiện sự tự phủ định của
chủ nghĩa tư bản.
Năm 1825, ở Anh lâm vào khủng hoảng kinh tế sau đó lan rộng ra
lục địa châu Âu, lúc này những nhà tư tưởng phong kiến và những nhà lý
luận của giai cấp tư sản đã bị chủ nghĩa tư bản làm cho phá sản đã kêu gọi
quay trở về thời đại “hoàng kim cũ” nghĩa là quay trở về chế độ phong
kiến. Tuy nhiên, không một nhà chính trị hay bác học nào thời kỳ này
nhìn nhận thấy một sự thực là sự cùng khổ của nhân dân lao động gắn liền
với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Chính hiện
thực chứa đựng khuynh hướng tự phủ định ấy mới thực sự là cơ sở hiện
thực cho sự hình thành hệ thống triết học khoa học.
1.1.3. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Sau khi xác lập vị trí thống trị về chính trị của mình thì giai cấp tư
sản không còn là một giai cấp cách mạng như khi còn là lực lượng cách
mạng chống phong kiến. Bây giờ, mâu thuẫn giai cấp vô sản với giai cấp
tư sản đã bộc lộ hết sức gay gắt. Đây là biểu hiện của mâu thuẫn về mặt
kinh tế giữa trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất với
sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về
mặt xã hội của mâu thuẫn đó là cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản nhưng chính chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cái
lực lượng để giải quyết mâu thuẫn đó. Lực lượng đó là giai cấp vô sản
cách mạng, ngày càng phát triển có tính tự giác và tổ chức cao.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đã trải qua nhiều giai đoạn. Ở
thời kỳ đầu, phong trào công nhân còn mang tính tự phát, thiếu tổ chức. hình
thức đấu tran cơ bản lúc này là bạo động tự phát (nổi loạn), công nhân chưa
hiểu được những nguyên nhân chủ yếu của địa vị thống khổ của mình.
10
Cuối thế kỷ XVIII, công nhân ở Anh và Pháp đã áp dụng những
hình thức đấu tranh mới như bãi công về sau trở thành phương tiện đấu

tranh chính trị mạnh mẽ. Bãi công mang tính chất quần chúng rộng rãi và
kết hợp với biểu tình tuần hành và nhiều tổ chức nghiệp đoàn của công
nhân ra đời.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đã buộc chính phủ tư sản
phải đề ra một số luật nhằm rút ngắn thời gian lao động trong ngày và cải
thiện điều kiện làm việc trong các xí nghiệp tư bản.
Trong những năm 30 - 40 thế kỷ XIX, phong trào công nhân trong
những nước lớn nhất ở Tây Âu mặc dù còn tính chất tự phát nhưng ngày
càng trở thành một lực lượng mạnh mẽ, quan trọng trong đời sống chính
trị - xã hội. Họ bắt đầu cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của chế độ tư
bản, họ chuyển dần từ đấu tranh tự phát , vì mục tiêu kinh tế thuần túy
sang trình độ tự giác có tổ chức, gắn liền cuộc đấu tranh vì lợi ích vật chất
với lý tưởng chính trị, hướng tới ục tiêu nhân văn, dân chủ, công bằng và
tự do. Nơi à các nhà tư tưởng tư sản chỉ nhận thấy có sự bạo loạn, phá
hoại của quần chúng nghèo đói chống nền văn minh, thì C.Mác và
Ph.Ăngghen lại cảm nhận rõ ràng sức sống của tương lai.
Phong trào hiến chương nước Anh những năm 30 – 40 đã tạo ra sự
quan tâm đặc biệt và sự tham gia của các tầng lớp trí thức và tư sản tiến
bộ. Phái hiến chương đòi ban bố và đảm bảo quyền bầu cử cho mọi người
lao động, cho rằng giai cấp công nhân phải có nhiều đại biểu của mình
trong nghị viện và có thể thông qua họ thực hiện những cải cách xã hội
cần thiết cho nhân dân lao động. Phong trào này được Lênin đánh giá cao
coi như phong trào quần chúng đầu tiên đã hình thành về mặt chính trị và
có tính chất cách mạng vô sản.
11
Ở Pháp, cuộc đấu tranh chống tư bản phát triển thành một loạt
những cuộc khởi nghĩa vũ trang. Năm 1831 và 1834, nổ ra cuộc khởi
nghĩa của công nhân Liông. Bàn về cuộc khởi nghĩa này, một tờ báo tư
sản đã viết “cuộc khởi Liông vạch ra bí mật quan trọng tức là vạch ra
cuộc đấu tranh bên trong xảy ra trong xã hội giữa giai cấp có của và giai

cấp chỉ có hai bàn tay trắng”[trích theo43;6]
Năm 1844, ở Đức cũng diễn ra cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt
Xilêdi đòi tăng lương, phá hủy nhà cửa của tư sản. Mác đánh giá cao cuộc
khởi nghĩa của thợ dệt Xilêdi: xe đó là một hiện tương có ý nghĩa chính trị lớn
lao, mở đầu cho phong trào công nhân có tính chất quần chúng, chứ không
phải là “ một cuộc khởi nghĩa vì đói” như tư sản cố tình xuyên tạc. Điều này
cho thấy giai cấp vô sản Đức đã tiến công mạnh mẽ vào giai cấp tư sản.
Trung tâm của phong trào cách mạng chuyển sang nước Đức, trong
khi nước này đang phải hoàn thành cuộc cách mạng tư sản. Cuộc cách
mạng tư sản Đức diễn ra trong những điều kiện lịch sử phát triển hơn so
với nước Anh trong thế kỷ XVII và nước Pháp trong thế kỷ XVIII. Giai
cấp tư sản Đức khiếp sợ cách mạng và ngày càng biến thành lực lượng
phản cách mạng. Nó lo sợ trước sự phát triển của giai cấp vô sản Đức và
sự thức tỉnh ý thức cách mạng của giai cấp này. Nó thỏa hiệp với phong
kiến nhằm chống lại phong trào cách mạng của quần chúng lao động.
Các phong trào đấu tranh của công nhân trong những năm 30-40
của thế kỷ XIX đều có đặc điểm chung là: những khẩu hiệu về chính trị đã
được nêu lên bên cạnh những khẩu hiệu về kinh tế, phong trào đã mang
tính chất quần chúng rộng rãi, quy mô đấu tranh ngày càng lớn hơn…
Những đặc điểm này chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ở các nước đã trở
thành một lực lượng chính trị độc lập. Mặt khác, phong trào công nhân
12
những năm 30-40 của thế kỷ XIX, như Ăngghen nhận xét, đã tạo nên
bước ngoặt căn bản trong quan niệm về lịch sử. Một là, vạch trần tính chất
sai lầm của sự khẳng định của các nhà tưởng tư sản về sự hân hoan chung
của tư bản và lao động, sự hài hòa chung, hạnh phúc chung trong xã hội
tư bản. Hai là, nó đề ra nhu cầu xã hội phải giải thích một cách khoa học
những thực tế của cuộc đấu tranh đang phát triển giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản, phải thay đổi những quan niệm cũ về lịch sử bằng những
quan niệm mới, phải trả lời một cách rõ ràng những vần đề mà mọi giai

cấp đều quan tâm: số phận của loài người sẽ ra sao và những lực lượng
nào đóng vai trò chủ yếu trong cuộc đấu tranh cho tương lai của nhân loại:
giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử gì.
Tuy nhiên, sự thất bại của các phong trào chứng tỏ rằng giai cấp vô
sản chưa được giác ngộ đầy đủ, tổ chức chưa chặt chẽ, không được hướng
dẫn bằng một lý luận cách mạng khoa học. Cuộc đấu tranh cách mạng
buộc giai cấp vô sản phải đề ra nhiệm vụ sáng tạo một học thuyết đúng
đắn để đưa phong trào đi đến thắng lợi. Do đó yêu cầu xác lập một cương
lĩnh đấu tranh cho giai cấp công nhân là một yêu cầu cấp thiết của lịch sử.
Hơn nữa, thực tiễn lịch sử nước Đức lúc bấy giờ đòi hỏi phải hoàn thành
cuộc cách mạng tư sản nên giai cấp vô sản Đức đã trở thành lực lượng
tiến hành cách mạng với nước Đức. Điều này đã làm cho nước Đức trở
thành quê hương của chủ nghĩa Mác và hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.
1.1.4. Chủ nghĩa Mác ra đời đáp ứng về mặt lý luận những yêu
cầu của lịch sử xã hội
Những cuộc đấu tranh của công nhân đã cho thấy giai cấp vô sản đã
trưởng thành, họ có thể đứng lên vũ đài chính trị của mình nhưng tính
chất của nó vẫn còn tự phát vì thiếu lý luận khoa học dẫn đường. Họ chưa
13
giác ngộ được địa vị lịch sử của mình, chưa thấy con đường và cách thức
để xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn.
Vào lúc này cũng đã có nhiều trào lưu lý luận về tổ chức xã hội cố
gắng nhân danh lợi ích của giai cấp vô sản nhưng lại không bao giờ thực
sự đặt mình vào địa vị của giai cấp công nhân, cho nên họ không bao giờ
đại diện thực sự cho lợi ích của giai cấp công nhân, không đáp ứng được
yếu cầu của phong trào vô sản, không thể hiện được những lợi ích căn bản
của giai cấp vô sản trong sự nghiệp giải phóng lao động khỏi chế độ tư
bản chủ nghĩa. Yêu cầu tất yếu vào lúc này là phải có một lý luận đúng
đắn dẫn đường cho giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát tới đấu
tranh tự giác vì lợi ích của giai cấp mình. Từ yêu cầu tất yếu đó, triết học

Mác ra đời, triết học Mác ra đời mới đáp ứng được nhu cầu là vũ khí tinh
thần của giai cấp vô sản, cũng như giai cấp vô sản đóng vai trò là vũ khí
vật chất của triết học Mác.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, Mác và Ăngghen mặc dù không xuất
thân từ tầng lớp lao động là giai cấp công nhân, nhưng con người xã hội,
con người lý luận khoa học, chính trị, con người cộng sản của các ông lại
được sản sinh ra từ địa vị của giai cấp công nhân. Vì vậy, chính Mác và
Ăngghen đã thực hiện sứ mệnh vẻ vang là sáng tạo lý luận cách mạng cho
phong trào vô sản. Có thể gọi Mác và Ăngghen là yếu tố hay điều kiện có
tính tổng hợp của toàn bộ điều mà chúng ta gọi là cơ sở thực tiễn, cơ sở
hiện thực của sự hình thành phát triển triết học Mác về lịch sử và của chủ
nghĩa Mác nói chung. Có thể thấy những yếu tố điều kiện, tiền đề của sự
hình thành triết học Mác về lịch sử đươc tập trung kết tinh trong giai cấp
công nhân, quy định địa vị lịch sử của nó. Đến lượt mình, nó lại chuyển
hóa, kết tinh trong các đại biểu ưu tú của nó là Mác và Ăngghen. Rõ ràng
toàn thể giai cấp công nhân không trực tiếp tham gia vào quá trình sáng
14
tạo nên nền triết họa mới, mà chỉ có thông qua những đại biểu ưu tú về trí
tuệ, đạo đức và tinh thần nói chung của mình, giai cấp công nhân mới có
thể có được nền triết học mới, có được quan niêm duy vật về lịch sử.
1.2. Những tiền đề lý luận cho sự ra đời triết học Mác
“Lịch sử tư tưởng nhân loại đã chứng minh rằng, không có một hệ
tư tưởng nào ra đời trên mảnh đất trống không mà sự ra đời của nó bao
giờ cũng là kế thừa các tư tưởng trước đó. Lịch sử triết học và lịch sử
khoa học xã hội chứng tỏ hết sức rõ ràng chủ nghĩa Mác không có gì
giống “chủ nghĩa bè phái”, hiểu theo nghĩa một học thuyết đóng kín và
cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế
giới. Trái lại toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp
những vấn đề và tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã đặt ra. Học thuyết của
ông ra đời là sự kế thừa thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại

biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ
nghĩa xã hội”[40;49]. Luận điểm của Lênin đã khẳng định rõ ba tiền đề,
ba nguồn gốc lý luận khách quan tất yếu của chủ nghĩa duy vật lịch sử đó
là: Triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, Anh và
kinh tế chính trị học cổ điển Anh. Với thiên tài của mình, Mác và
Ăngghen đã phê phán, kế thừa những thành tựu vĩ đại của tư tưởng nhân
loại, xây dựng nên một thế giới quan mới là thế giới quan cộng sản chủ
nghĩa, biểu hiện lý luận khoa học về địa vị lịch sử của giai cấp vô sản.
1.2.1. Tiền đề tư tưởng triết học về lịch sử trước Mác.
Tư tưởng triết học về lịch sử trước Mác đã đặt ra hầu hết các vấn đề
thuộc về nội dung mà triết học lịch sử Macxit sau này phải giải đáp như
các vấn đề: con người, xã hội, lịch sử, văn hóa, chính trị, đạo đức, tôn
giáo, sự vận động và phát triển lịch sử. Những tư tưởng triết học về lịch
15
sử gần gũi và trực tiếp nhất đối với triết học Mác về lịch sử là tư tưởng
của các đại biểu trong xã hội tư sản trước Mác. Tiêu biểu là tư tưởng của
một số đại biểu sau:
Khi bàn về con người, trong thời đại Phục hưng, triết học lịch sử đã
nhận thấy cái phân biệt con người với tự nhiên là thế giới văn hóa và nó
đã tìm nguyên nhân của thế giới từ con người. Theo họ con người sở dĩ
tạo ra văn hóa là vì nó là một thực thể độc lập và có trí tuệ. Trí tuệ chính
là cái làm cho con người hoạt động không lệ thuộc vào tự nhiên. Tiếp tục
những tư tưởng của thời đại Phục hưng, Vônte cho rằng đối tượng chân
chính của triết học về lịch sử là trí tuệ con người và xem trí tuệ con người
là động lực của lịch sử.
Nói về xã hội, nhà triết học Ý- Giabatixta Vicô cho rằng xã hội là
những tổ chức được xác lập trong phạm vi dân tộc và do thể chế cai trị,
quyết định. Còn theo tư tưởng của Cantơ tổ chức xã hội, cơ cấu xã hội chỉ
là cái phương thức mà nhờ đó con người thực hiện sự tiến bộ chứ không
phải mục đích của nó. Vì thế ông cho rằng cần phải xây dựng tổ chức xã

hội hoàn thiện để con người phát triển. Hêghen cũng nhận thấy xã hội là
chỉnh thể bao gồm các yếu tố cầu thành cơ bản như: gia đình, xã hội công
dân, nhà nước, tôn giáo, pháp quyền…ông cho rằng chính nhà nước mà
trong đó “ý niệm tuyệt đối” là bản chất của nó, là cơ sở quyết định gia
đình và xã hội công dân”[7; 309-313]. Ta thấy các quan niệm về xã hội
như trên dù khác nhau, hoặc mang tính chất siêu hình, máy móc, hoặc
mang tính chất duy tâm, nhưng đều cho thấy sự cần thiết phải thừa nhận
sự tồn tại khách quan của những tổ chức xã hội, phải nhận thức chúng như
những hệ thống, những chỉnh thể xác định và phải vạch rõ vai trò, chức
năng của mỗi yếu tố của chúng đối với sự tồn tại và phát triển của con
người.
16
Quan niệm về xã hội loài người như một chỉnh thể ở trong quá
trình phát sinh, phát triển, là tư tưởng triết học lịch sử đặc sắc nhất trong
giai đoạn trước Mác.
Giabatixta Vicô là người đầu tiên xây dựng ý niệm về tiến triển
logic của lịch sử, đã quan niệm quá trình phát triển lịch sử loài người về
thực chất là những giai đoạn phát triển của dân tộc. Và ông phân chia các
giai đoạn phát triển căn cứ vào những giai đoạn phát triển của cá thể
người. Theo ông dân tộc trải qua các thời kỳ phát triển là: thời thơ ấu của
dân tộc bị thống trị bởi tầng lớp giáo sỹ, bởi các lý thuyết tôn giáo và thần
thoại, tiếp theo là thời đại anh hùng của dân tộc bị chi phối bởi sự vô thần
về quyền lực, cuối cùng là thời trưởng thành của dân tộc, là thời đại cộng
hòa dân chủ và bình đẳng phổ biến của xã hội. Kết thúc giai đoạn này các
dân tộc lại quay lại thời kỳ đầu tiên và lại phát triển theo chu kỳ đó.
[25;108]. Đây chính là tư tưởng về sự vận động đi lên của lịch sử loài
người. Quan niệm của Vicô cho thấy xu hướng chung của lịch sử nhân
loại là sự phát triển của các dân tộc riêng biệt, mặt khác cho thấy cách
thức chung của phát triển lịch sử với đặc trưng là sự thay đổi về chất của
những tổ chức xã hội toàn vẹn trong phạm vi dân tộc do thể chế cai trị

đóng vai trò quyết định. Đồng thời tư tưởng đó cũng bao hàm quan niệm
về sự phân kỳ lịch sử theo quan điểm phát triển. Mặt hạn chế và sai lầm
của Vicô là ở chỗ ông cho rằng những thể chế cai trị là cơ sở quyết định
những biến đổi của lịch sử dân tộc, cho rằng lịch sử loài người nói chung
chỉ là lịch sử dân tộc và diễn ra theo chu kỳ khép kín. Tuy vậy không thể
phủ nhận tư tưởng tiến bộ của ông về sự phát triển lịch sử với tư cách là
quá trình biến đổi, thay thế nhau của những tổ chức xã hội toàn diện, được
thành lập trong phạm vi dân tộc. Đây là một tư tưởng sâu sắc có ý nghĩa
17
quan trọng đối với nhận thức triết học về lịch sử nói riêng và đối với nhận
thức xã hội, lịch sử nói chung.
Nhà tư tưởng Pháp Rutxô có bước tiến xa hơn trong quan niệm về
sự phát triển lịch sử. Ông đã thấy được mâu thuẫn xã hội và nêu tư tưởng
về xu thế chung của quá trình lịch sử nhân loại thông qua sự phát triển
của các quan hệ xã hội của con người và diễn ra theo quy luật phủ định
của phủ định. Theo Ru-xô, xu hướng của vận động lịch sử là một quá
trình đi từ bình đẳng nguyên thủy, trải qua bất bình đẳng do sự đồi bại gây
lên, sau đó là sự thiết lập bình đẳng ở trình độ cao hơn. Đó là phủ định
của phủ định[25;107]. Ông còn có tư tưởng về tiến bộ và thoái bộ trong
lịch sử. Lý tưởng chính trị của ông là nền dân chủ trực tiếp dựa trên khế
ước xã hội. Tư tưởng này một lần nữa chứng tỏ sự cần thiết phải nhận
thức quá trình có quy luật của lịch sử xã hội loài người nói chung. Tuy
nhiên, trong khi phác họa ra xu hướng chung của sự phát triển lịch sử ông
đã không giải thích được cơ sở khách quan, tất yếu của nó.
Đại biểu của chủ nghĩa xã hội không tưởng- Xanh Ximông đã phân
chia lịch sử loài người thành các giai đoạn phát triển chủ yếu, gắn liền với
các hệ thống xã hội như sau: 1) Thời Cổ đại với những hệ thống xã hội
xây dựng trên cơ sở chế độ nô lệ; 2) Thời trung đại với hệ thống xã hội
xây dựng trên cơ sở lao động bị cột chặt vào ruộng đất; 3) Thời Cận đại
với hệ thống xã hội xây dựng trên cơ sở lao động làm thuê, là hệ thống xã

hội công nghiệp. Ông đã thấy được nhân tố nòng cốt của lịch sử là hoạt
động kinh tế, với những hình thức sở hữu và những giai cấp tương ứng và
cho rằng chỉ có thể xây dựng hợp lý bằng cách ra sức phát triển lực lượng
sản xuất, nhưng lại không thấy sự diệt vong tất yếu của chế độ người bóc
lột người, tính tất yếu của đấu tranh giai cấp trong xa hội. Vì vậy,
Ăngghen nhận xét rằng nhận thức của Xanh Xi mông cho rằng kinh tế là
18
cơ sở của các thiết chế chính trị chỉ mới biểu hiện dưới hình thức phôi
thai.”[12; 285].
Triết học cổ điển Đức là một trong những tiền đề lý luận quan
trọng, cần thiết để chuyển triết học từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang
thế giới quan duy vật biện chứng “…Mác không dừng lại ở chủ nghĩa duy
vật thế kỷ XVIII, mà thúc đẩy triết học tiến lên. Ông làm cho nó phong
phú thêm bằng những thành quả của triết học cổ điển Đức, đặc biệt là của
học thuyết Hêghen, học thuyết này đến lượt nó lại đã dẫn tới chủ nghĩa
duy vật của Phơ bách. Cái chủ yếu trong những thành quả là phép biện
chứng, nghĩa là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức đầy đủ nhất,
sâu sắc nhất và hoàn toàn không có tính chất phiến diện, học thuyết về
tính tương đối của tri thức loài người, tri thức này đem lại cho chúng ta sự
phản ánh của vật chất đang phát triển vĩnh viễn”[42;4]
Không thể phủ nhận, Mác và Ăngghen đã kế thừa yếu tố tích cực
trong toàn bộ lịch sử triết học, tuy nhiên trực tiếp nhất là triết học cổ điển
Đức với hai đại biểu tiêu biểu là Hêghen và Phơ bách.
Hêghen- đại biểu lớn nhất của triết học lịch sử trước Mác, mặc dù
giải thích lịch sử theo quan điểm duy tâm, nhưng đã đưa ra những kết luận
mang tính phỏng đoán thiên tài về tính thống nhất của quá trình lịch sử
nhân loại. Ông coi lịch sử loài người là sự phát triển của “ ý niệm tự do”,
trải qua ba giai đoạn chủ yếu: 1) Thế giới phương đông không có tự do
của nhân dân, chỉ có tự do của một người là nhà vua chuyên chế; 2) Thế
giới Hylap- Roma có tự do hạn chế cho một số người; 3) Thế giới Đức có

tự do cho tất cả[25;108]. Hêghen muốn hướng tới cái căn nguyên thực sự
quy định tính đặc thù về chất của quá trình lịch sử, đó là sự phát triển của
bản thân con người. Ông hiểu lịch sử con người là quá trình con người tự
19
sản sinh ra mình nhờ lao động, song do xuất phát từ quan niệm cho rằng
tồn tại thực chất là tồn tại tinh thần, nên lao động theo ông là lao động
tinh thần. Tuy quan niệm này mang tính chất duy tâm, nhưng cũng đã cho
thấy rằng chỉ có thể vạch ra được bản chất, cách thức và xu hướng chung,
tất yếu của lịch sử xã hội loài người khi chứng tỏ rằng nó là quá trình có
quy luật, là quá trình đặc thù so với tự nhiên.
Đến với Hêghen, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, tư tưởng biện chứng
được xây dựng thành một hệ thống phương pháp biện chứng, quan điểm
biện chứng trong việc nghiên cứu hiện thực. Thực chất, ngay từ thời cổ
đại, tư tưởng biện chứng đã xuất hiện mà Hêracơlít đã được coi là ông tổ
của phép biện chứng. Trong suốt tiến trình lịch sử của nhận thức, việc
nghiên cứu những mối liên hệ, sự vận động phát triển của các sự vật, hiện
tượng đã được thực hiện nhưng tư duy siêu hình vẫn chiếm vị trí thống trị
trong triết học và khoa học do khoa học tự nhiên, đặc biệt là cơ học phát
triển. Bởi vậy, công lao rất lớn của Hêghen là đã xây dựng thế giới quan
biện chứng, phương pháp biện chứng và lôgic biện chứng, mặc dù vẫn
trên cơ sở duy tâm. Ông đã phê phán phương pháp tư duy siêu hình trong
nhận thức về sự vật hiện tượng, từ đó ông tìm ra những nguyên lý, những
quy luật cơ bản của phương pháp tư duy biện chứng, rất tiếc phép biện
chứng của Hêghen là phép biện chứng “lộn đầu xuống đất” nhưng điều
này đã không thể phủ nhận công lao của ông đúng như C.Mác đã nhận
xét: “tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải trong tay Hêghen
tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày
một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép
biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ
cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau

cái vỏ thần bí của nó”[13;494]. Nhiệm vụ lịch sử này đã được Mác và
20
Ănghen hoàn thành một cách xuất sắc mà cho đến nay vẫn không có hệ
tưởng nào vượt qua được.
Khi nghiên cứu về lịch sử triết học Mác ta thấy, thoạt đầu, Mác và
Ăngghen là những nhà biện chứng duy tâm, ủng hộ triết học của Hêgghen.
Mác làm quen với triết học đó vào năm 1837 và Ăngghen là năm 1839.
Những luận điểm biện chứng của Hêghen đã thu hút Mác và Ăgghen thời
trẻ. Hai ông đã tham gia nhóm Hêgghen trẻ và sử dụng triết học của
Hêgghen vào cuộc đấu tranh chống tôn giáo và chế độ chuyên chế.
Nhưng trong nhóm Hêgghen trẻ Mác và Ăngghen đã có một lập trường
riêng: hai ông kiên quyết đấu tranh chống các mối quan hệ xã hội đương
thời. Nếu những người trong phái Hêgghen trẻ cho rằng những biến đổi xã
hội diễn ra dưới ảnh hưởng của những cá nhân biết suy nghĩ một cách có
phê phán và họ là những người sáng tạo ra lịch sử, thì Mác và Ăngghen
ngay từ thời trẻ đã kính trọng sâu sắc quần chúng nhân dân và không bao
giờ nghĩ rằng những biến đổi xã hội lại có thể thực hiện được mà không
cần cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân. Ngay trong
những tác phẩm đầu tiên của mình, hai ông đã cố gắng gắn triết học với
cuộc đấu tranh chính trị- xã hội của nhân dân lao động.
Mác và Ăngghen thời trẻ đã nắm vững phương pháp biện chứng của
Hêgghen. Hai ông đã dùng những tư tưởng cách mạng của phép biện
chứng của Hêgghen để luận giải cho những khát vọng dân chủ- cách mạng
của mình.
Dưới ảnh hưởng của cuộc đấu tranh chính trị- xã hội và của chủ
nghĩa duy vật của Phoibắc, trong quan điểm của Mác và Ăngghen những
năm 1842-1843 đã đánh dấu bước chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ
nghĩa duy vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
21
Bước chuyển đó được hoàn thiện vào cuối năm 1843- đầu 1844. Khi vứt

bỏ chủ nghĩa duy tâm, triết học thần bí của Hêgghen, Mác và Ăngghen đã
xem xét lại một cách có phê phán những tư tưởng hợp lý trong phép biện
chứng của ông. Hai ông hiểu rất rõ rằng, trong những lời tối tăm, cầu kỳ,
thông thái rởm của các bài viết của Hêgghen đã dấu kín những tư tưởng
cách mạng. Mác viết nếu tước bỏ đi các hình thức thần bí thì phép biện
chứng của Hêgghen sẽ là hình thức cơ bản của mọi phép biện chứng. Khi
giải phóng phép biện chứng của Hêgghen khỏi chủ nghĩa duy tâm và thần
bí, Mác và Ăgghen đã xây dựng những nguyên tắc của phép biện chứng
duy vật. Phép biện chứng Mac-xit không chỉ khác mà còn đối lập với phép
biện chứng của Hêgghen. Nó là hình thức lịch sử cao nhất của phép biện
chứng.
Phơ bách có công lao lớn trong việc chống lại chủ nghĩa duy tâm
của Hêghen và các nhà triết học khác, chống lại tôn giáo, khôi phục và
phát triển các học thuyết triết học duy vật trước đó. Ông cho rằng, hạn chế
của Hêghen là ở tính duy tâm của nó trong việc giải quyết vấn đề quan hệ
giữa con người và thế giới, tinh thần và vật chất, coi toàn bộ thế giới hiện
thực chỉ là hiện thân của tinh thần tuyệt đối được hiểu như một lực lượng
siêu nhiên.
Theo Phơ bách, tự nhiên, con người là thực thể duy nhất, không có
gì cao hơn hay thấp hơn nó, không có gì trước hay sau nó. Ông coi tôn
giáo là sản phẩm tất yếu của tâm lý cá nhân và bản chất con người. Người
ta ai cũng sợ chết, cần có niềm tin và an ủi. Bản chất của thần học, do
vậy, chứa đựng trong nhân bản học, là sản phẩm của sự tưởng tượng
phong phú của con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất lực của con
người đối với những điều kiện xã hội. Tôn giáo thực chất chỉ là sự biểu
hiện bản chất của con người dưới hình thức thần bí. Ông nói, không phải
22
chúa sáng tạo ra con người theo hình ảnh của chúa mà chính con người
sáng tạo ra chúa theo hình ảnh của con người.
Về nhận thức, Phơ bách cho rằng chính giác quan, nơi xuất phát của

tư duy là nguồn gốc của sự hiểu biết về thế giới bên ngoài. Con người
hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới, và nếu con người có
nhiều hơn năm giác quan thì sự hiểu biết của con người về thế giới cũng
không thay đổi về nguyên tắc.
Từ đây, Phơ bách đưa ra quan điểm có phần hợp lý về thực tiễn và
chỉ rõ tư duy không tách rời hoạt động cảm tính. Tuy nhiên, ông vẫn chưa
vượt qua được tư duy siêu hình cũ ở chỗ cho rằng nhận thức chỉ như sự
tác động của sự vật trong tự nhiên trong ý thức con người mà không thấy
được sự tác động của con người vào sự vật, không thấy được con người
biến đổi tự nhiên và hoạt động thực tiễn là cơ sở của nhận thức bởi ông
không thấy được hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải tạo nhằm biến
đổi thế giới là bộ phận vô cùng quan trọng của hoạt động cảm tính.
Hơn nữa, khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, ông đã
không nhìn thấy hạt nhân hợp lý đó là phép biện chứng mà đã phủ định
sạch trơn, vứt bỏ cả phép biện chứng của Hêghen. Ông phê phán triết học
Hêghen giống như hắt chậu nước có đứa trẻ thì ông hắt bỏ cả đứa trẻ cùng
với nước trong chậu tắm, lẽ ra ông phải giữ lại đứa trẻ vì đó chính là yếu
tố tích cực – chính là phép biện chứng trong triết học Hêghen và chỉ vứt
bỏ yếu tố duy tâm.
Như vậy, mặc dù Phơ bách đã có bước tiến so với các nhà triết học
duy vật trước đó nhưng ông vẫn không thể khắc phục được khuyết điểm,
hạn chế trong triết học của họ là phép siêu hình, quan niệm duy tâm về
đời sống xã hội.
23
Đối với Mác và Ănghen thời trẻ thì Phoiơbắc như một luồng nhiệt
cháy bỏng, một lò luyện của thời gian, Bằng sự phê phán của mình đối với
chủ nghĩa duy tâm, Phoiơbắc đã nhanh chóng giúp Mác và Ănghen thoát
khỏi chủ nghĩa duy tâm và chuyển vững chắc sang lập trường của chủ
nghĩa duy vật. Ảnh hưởng của triết học Phoiơbắc đặc biệt mạnh mẽ đối
với những tác phẩm của Mác và Ănghen viết vào những năm 1844-

1845. Nhưng cần nhấn mạnh rằng, Mác và Ănghen chưa bao giờ là những
người theo Phoiơbắc triệt để, cũng giống như chưa bao giờ theo Hêghen
triệt để. Khác với Phoiơbắc đã vứt bỏ hoàn toàn triết học của Hêghen.
Mác và Ănghen đã giữ lại và biến đổi có phê phán học thuyết về sự phát
triển và phép biện chứng của Hêghen. Chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là
chủ nghĩa duy vật siêu hình, còn Mác và Ănghen đã phát triển chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Hơn nữa, Phoiơbắc còn là nhà duy tâm trong lĩnh
vực xã hội. Trái lại, Mác và Ănghen ngay từ giữa những năm 40 của thế
kỷ XIX đã xây dựng những quan niệm duy vật về lịch sử. Đồng thời,
Phoiơbắc đã không hiểu cuộc đấu tranh chính trị- xã hội, không hiểu vai
trò của thực tiễn. Trái lại, Mác và Ănghen là những nhà cách mạng, là
những nhà duy vật thực tiễn, là những người cộng sản. Hai ông đã gắn
những vấn đề lý luận triết học với cuộc đấu tranh cách mạng của quần
chúng nhân dân, của giai cấp vô sản. Trong tác phẩm “ Luận cương về
Phoiơbắc” và trong nhiều tác phẩm sau này Mác và Ănghen đã phê phán
sâu sắc chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, song hai ông luôn luôn nhấn
mạnh vai trò to lớn của Phoiơbắc trong cuộc đấu tranh chống tôn giáo và
chủ nghĩa duy tâm, trong việc làm hình thành thế giới quan duy vật biện
chứng. Hai ông đã thừa nhận rằng, chủ nghĩa duy vật Phơ bách và phép
biện chứng của Hêghen đã trở thành một trong những tiền đề lý luận cho
sự ra đời triết học Mác.
24
Mặc dù Mác và Ănghen đã kế thừa trực tiếp phép biện chứng của
Hêghen và triết học duy vật của Phơ bách nhưng đây không phải là duy
nhất bởi triết học Mác đã tổng kết có phê phán toàn bộ lịch sử nhận thức
của loài người như Lênin đã nói: “tất cả những gì đã được tư tưởng của
nhân loại sáng tạo ra, ông đều đã cải tạo; phê phán, sau khi đã đem ra
kiểm nghiệm trong phong trào công nhân và ông đã rút ra kết luận mà
những người bị hạn chế bởi khuôn khổ tư sản hoặc bị những thiên kiến tư
sản trói buộc không thể làm được”[trích theo 36;9]

Như đã đề cập ở trên, triết học duy vật của Phơ bách mặc dù tiến bộ
hơn các nhà triết học duy vật thế kỷ 17, 18 nhưng vẫn chưa triệt để. Phơ
bách đã có quan niệm đúng về mặt tự nhiên của con người khi cho rằng
con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần tuyệt đối, mà
là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả phát triển của tự nhiên nhưng ông lại
không thấy được bản chất xã hội của con người mà trước hết chính là hoạt
động lao động, hoạt động thực tiễn của con người trong nhận thức và cải
tạo thế giới.
Cũng vậy, trong quan niệm về tôn giáo, mặc dù đã chỉ ra được
nguồn gốc tâm lý của con người đối với tôn giáo nhưng ông chưa đề cập
tới những điều kiện kinh tế - xã hội – một trong những nguồn gốc quan
trọng cho sự ra đời tôn giáo.
Những hạn chế của chủ nghĩa duy vật cũ sẽ được khắc phục và triết
học duy vật sẽ được hoàn thiện, trở thành triết học duy vật biện chứng với
công lao của Mác và Ăngghen kế thừa những giá trị trong kinh tế chính trị
cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, Anh
Những tư tưởng triết học học về lịch sử nêu trên mang giá trị tiền đề
quan trọng, không thể thiếu được đối với sự hình thành, phát triển của chủ
25

×