Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Khảo sát một số chỉ tiêu lâm sàng, huyết học và khả năng sinh sản của đàn nái sinh sản sau khi mắc hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (porcine reproductive and respiratory syndrome) tại một số trang trại vùng phụ cận hà nội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.74 KB, 86 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (Porcine Reproductive and
Respiratory Syndrome – PRRS) hay còn gọi là bệnh “Tai xanh”, là bệnh
truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm ở lợn. Bệnh có tốc độ lan nhanh trên đàn lợn
mọi lứa tuổi với tỷ lệ ốm và tỷ lệ loại thải cao đã gây thiệt hại lớn cho ngành
chăn nuôi nhiều quốc gia trên thế giới.
Về lịch sử, bệnh được phát hiện lần đầu tiên trên thế giới tại Mỹ vào
năm 1987, sau đó nhanh chóng xuất hiện ở các nước có nền chăn nuôi lợn
phát triển như Canada năm 1987, Nhật Bản năm 1989 và Đức năm 1990. Cho
đến nay, bệnh đã xảy ra thành các ổ dịch lớn ở nhiều nước thuộc châu Mỹ,
châu Âu và châu Á, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho các quốc gia này.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên phát hiện được huyết thanh dương tính với
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản trên đàn lợn nhật khẩu từ Mỹ năm 1997
(Tô Long Thành, 2007)[30]. Sau nhiều năm không có dịch, đến đầu tháng 3
năm 2007, lần đầu tiên dịch bệnh đã bùng phát dữ dội tại tỉnh Hải Dương, sau
đó lan nhanh sang các tỉnh lân cận như Hải Phòng, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc
Ninh, Bắc Giang và Quảng Ninh. Cho đến nay dịch bệnh đã bùng phát rộng
khắp trên cả ba miền của cả nước, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cũng như
các vấn đề an sinh xã hội cho các địa phương này. Theo Cục Thú y (2008)
[10], kể từ ngày 12/3/2007 đến ngày 22/8/2008, trên cả nước đã có 1.273 xã
có dịch với số lợn ốm lên tới 379.263 con, trong đó số lợn bị chết và tiêu huỷ
là 320.139 con, tổng thiệt hại lên tới hàng trăm tỷ đồng.
Nhằm khống chế và kiểm soát sự bùng nổ của dịch bệnh, ngày
15/7/2008, Bộ trường Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ra quyết
định số 80/2008/QĐ-BNN về việc phòng chống Hội chứng rối loạn hô hấp và
1
sinh sản. Theo quyết định này, những lợn trong ổ dịch sẽ bị tiêu huỷ hoàn
toàn, đồng thời thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh tiêu độc, kiểm
soát vận chuyển và giết mổ, Tuy nhiên, cũng như tình trạng chung của
nhiều quốc gia khác trên thế giới, cho đến nay các biện pháp đã được áp dụng


vẫn chưa đem lại hiệu quả như mong đợi (Bùi Quang Anh và cs, 2008) [4].
Dịch bệnh vẫn còn xảy ra và diễn biến phức tạp gây thiệt hại không nhỏ cho
ngành chăn nuôi lợn của các quốc gia này.
Trước thực trạng đó, nhằm hiểu rõ hơn về các chỉ tiêu lâm sàng, huyết
học và khả năng sinh sản của những đàn lợn nái sinh sản nuôi trong các trang
trại vùng phụ cận Hà Nội mắc Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được giữ
lại nuôi, để có thêm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các biện pháp xử lý,
giảm bớt thiệt hại do dịch bệnh PRRS gây ra trên đàn lợn nái ở Việt Nam,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khảo sát một số chỉ tiêu lâm sàng,
huyết học và khả năng sinh sản của đàn nái sinh sản sau khi mắc Hội
chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (Porcine Reproductive and Respiratory
Syndrome) tại một số trang trại vùng phụ cận Hà Nội”
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
- Khảo sát một số chỉ tiêu lâm sàng trên các nhóm lợn nái sinh sản sau
khi mắc Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được giữ lại nuôi. Từ đó cung
cấp thêm cơ sở khoa học cho việc chẩn đoán bệnh.
- Xác định các chỉ tiêu sinh hoá máu ở lợn nái sinh sản sau khi mắc Hội
chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được giữ lại nuôi. Cung cấp thêm cơ sở
khoa học cho việc xây dựng các biện pháp khống chế bệnh hiệu quả, phù hợp
với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
- Khảo sát khả năng sinh sản của đàn nái sinh sản sau khi mắc Hội
chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được giữ lại nuôi.
2
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Trước những diễn biến phức tạp và thiệt hại lớn mà Hội chứng rối loạn
hô hấp và sinh sản đã gây ra trên đàn lợn của nhiều quốc gia trên thế giới, cho
đến nay nhiều vấn đề liên quan đến dịch bệnh này đã được nghiên cứu và dần
sáng tỏ. Đặc biệt là các vấn đề về nguyên nhân, cơ chế gây bệnh, triệu chứng,
bệnh tích và các phương pháp chẩn đoán, phòng ngừa dịch bệnh
2.1. Một số hiểu biết cơ bản về Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn

Cho đến nay, trải qua 22 năm kể từ lần đầu tiên phát hiện ra Hội chứng
rối loạn hô hấp và sinh sản trên đàn lợn tại Mỹ, dịch bệnh này đã lan tràn và
lưu hành ở nhiều quốc gia và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế
cho ngành chăn nuôi lợn thế giới.
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (Porcine reproductive and
respiratory syndrome - PRRS) được ghi nhận lần đầu tiên trên thế giới vào
năm 1987 ở Mỹ tại vùng bắc của bang California, bang Iowa và Minnesota.
Năm 1988 bệnh lan sang Canada. Sau đó bệnh xuất hiện ở Đức năm 1990, Hà
Lan, Tây Ban Nha, Bỉ và Anh năm 1991 và ở Pháp năm 1992.
Bệnh bùng phát và gây rối loạn hô hấp, sinh sản ở lợn ở mọi lứa tuổi
với các triệu chứng chủ yếu là bỏ ăn hàng loạt, hắt hơi, sổ mũi, tăng tần số hô
hấp, thở khó, há mồm ra để thở. Lợn con thường có tỷ lệ chết cao, lợn lớn tỷ
lệ chết thấp hơn nhưng thường bị bội nhiễm thêm các loại vi khuẩn gây bệnh
khác, đặc biệt là vi khuẩn gây bệnh ở hệ hô hấp (Phạm Gia Ninh biên dịch,
2000) [25].
Kể từ khi xuất hiện cho đến nay, bệnh đã được gọi với nhiều tên khác
nhau. Thời gian đầu do chưa xác định được nguyên nhân nên người ta đặt tên
gọi cho dịch bệnh này là Bệnh bí hiểm ở lợn (Mystery swine disease – MDS);
một số tác giả khác căn cứ vào bệnh tích ở tai thì gọi là bệnh Tai xanh (Blue
3
Ear disease – BED); hoặc căn cứ vào các hậu quả dịch bệnh gây ra thì gọi là
Hội chứng hô hấp và sảy thai ở lợn (Porcine endemic abortion and respiratory
syndrome – PEARS).
Đến năm 1992, tại Hội nghị Quốc tế về hội chứng này tổ chức tại
Minesota (Mỹ), tổ chức Thú y thế giới (OIE) đã thống nhất tên gọi là Hội
chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn (Porcine reproductive and respiratory
syndrome - PRRS). Kể từ đó cho đến nay, tên này đã trở thành tên gọi chính
thức của bệnh.
Về tình hình diễn biến dịch trên thế giới cho thấy, từ năm 2005 trở lại
đây, đã có 25 nước và vùng lãnh thổ thuộc tất cả các châu lục trên thế giới

đều có dịch Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản lưu hành (trừ châu Úc và
Newzeland). Do vậy, có thể khẳng định rằng Hội chứng rối loạn hô hấp và
sinh sản là một nguyên nhân gây tổn thất lớn về kinh tế cho ngành chăn nuôi
lợn của nhiều quốc gia trên thế giới (Nguyễn Bá Hiên và cs, 2007) [13].
Tại Việt Nam, Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được phát hiện
trên đàn lợn nhập từ Mỹ vào các tỉnh phía Nam năm 1997, kết quả kiểm tra
huyết thanh học cho thấy 10/51 lợn giống nhập khẩu đó có huyết thanh dương
tính với Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản. Theo báo cáo của Cục Thú y
quốc gia, kể từ tháng 3/2007 đến nay, trên cả nước dịch tai xanh đã bùng phát
thành 4 đợt lớn:
* Đợt dịch thứ nhất diễn ra từ ngày 12/3/2007 đến 15/5/2007.
Đây là lần đầu tiên dịch Tai xanh bùng phát trên đàn lợn nước ta. Bắt
đầu tại Hải Dương sau đó đã lây lan nhanh và phát triển mạnh trên 146 xã,
phường thuộc 25 huyện, thị xã của 7 tỉnh Đồng bằng sông Hồng, đó là Hải
Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang và Hải
Phòng. Số lợn mắc bệnh là 31.750 con, số lợn chết và xử lý là 7.296 con.
* Đợt dịch thứ hai diễn ra từ ngày 25/06/2007
4
Dịch bắt đầu xuất hiện tại tỉnh Quảng Nam, từ đây dịch lây lan ra 178
xã, phường của 40 huyện, thị xã thuộc 14 tỉnh, thành phố là Cà Mau, Long
An, Bà Rịa – Vũng Tàu, Khánh Hoà, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam,
Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Lạng Sơn, Hà Nội, Thái Bình, Hải
Dương, Tổng số lợn ốm là 38.827 con, số đã chết và xử lý là 13070 con.
Như vậy, trong năm 2007, dịch Tai Xanh đã xuất hiện tại 324 xã, thuộc
65 huyện của 19 tỉnh, thành phố. Tổng số lợn mắc bệnh là 70.577 con, số chết
và phải tiêu huỷ là 20.366 con.
* Đợt dịch thứ ba diễn ra từ ngày 28/03/2008 đến 20/05/ 2008.
Dịch xuất hiện ở nhiều xã thuộc 10 tỉnh Miền bắc trung bộ như Hà
Tĩnh, Lâm Đồng, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Nghệ An, Thanh Hoá, Ninh
Bình, Nam Định, Thái Bình và Thái Nguyên. Số xã, phường có dịch là 821

xã, 59 phường và huyện, thị với tổng số lợn mắc bệnh là 271.439 con, số chết
và phải tiêu huỷ là 270.393 con.
* Đợt dịch thứ tư diễn ra từ ngày 04/6/2008 đến ngày 22/8/2008
Trong đợt này, dịch bệnh xảy ra lẻ tẻ ở 128 xã trên 38 huyện thị của 17
tỉnh thành thuộc cả ba miền Bắc, Trung, Nam nhưng với quy mô nhỏ hơn so
với các đợt trước đó. Số lợn ốm là 37.247 con, trong đó số lợn chết và tiêu
huỷ là 29.383 con.
Năm 2009, dịch PRRS đã xảy ra lẻ tẻ nhiều nơi. Theo thống kê của Cục
Thú y, dịch bệnh đã xảy ra tại 14 tỉnh, thành phố trong cả nước. Dù tình hình
dịch bệnh có giảm hơn so với năm 2008, tuy nhiên, dịch vẩn xảy ra làm 7030
con bị mắc bệnh và phải tiêu hủy là 5847 con.
Như vậy, qua những thông tin nêu trên có thể thấy rằng, những thiệt hại
mà Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn gây ra là vô cùng to lớn. Nó
không chỉ gây thiệt hại nặng nề về kinh tế mà qua thực tiễn ở Việt Nam cho
thấy nó còn để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng khác về môi trường và an sinh
5
xã hội, nhất là đối với các vùng nông thôn, nơi người dân phải sống chủ yếu
dựa vào chăn nuội lợn.
Trong khoa học Thú y, việc nghiên cứu về nguyên nhân gây bệnh và
các đặc tính sinh học của nguyên nhân gây bệnh luôn là những công việc đầu
tiên, đặt tiền đề cho mọi nghiên cứu khác về bệnh và các biện pháp phòng
chống dịch bệnh. Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, cho đến nay đã có nhiều công
trình nghiên cứu công bố về nguyên nhân và các đặc tính sinh học của nguyên
nhân gây ra Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn.
Năm 1990, các nhà khoa học của Viện Thú Y Lelystad – Hà Lan đã tìm
ra nguyên nhân gây Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn là một loại vi
rút có cấu trúc vỏ bọc dạng chuỗi đơn ARN, thuộc giống Arterivi rút, họ
Arteriviridae, bộ Nidovirales. Do đó để ghi nhận công lao này của các nhà
khoa học Viện Thú y Lelystad, người ta đã đặt tên cho vi rút gây Hội chứng
rối loạn hô hấp và sinh sản là vi rút Lelystad.

Dựa vào phân tích cấu trúc gen, người ta đã xác định được vi rút gây Hội
chứng rối loạn hô hấp và sinh sản có 2 nhóm. Nhóm I gồm các vi rút thuộc
chủng châu Âu (tên gọi phổ thông là vi rút Lelystad) gồm nhiều (4) phân nhóm
(subtyope) đã được xác định. Nhóm II gồm các vi rút thuộc dòng Bắc Mỹ (với
tên gọi là VR – 2332). Sự khác nhau về cấu trúc chuỗi nucleotide của vi rút
thuộc hai chủng là khoảng 40%, do đó ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch bảo hộ
chéo giữa hai chủng. (Bùi Quang Anh và cs, 2008) [4].
Qua nghiên cứu giải mã gen của vi rút tại Mỹ và Trung Quốc cho thấy,
các mẫu vi rút gây bệnh tai xanh tại Việt Nam có mức tương đồng về
aminoaxít từ 99 – 97,7% so với chủng vi rút gây bệnh Tai xanh thể độc lực
cao của Trung Quốc và đều bị mất 30 axit amin. Điều này cho thấy chủng vi
rút gây bệnh Tai xanh ở nước ta hiện nay thuộc dòng Bắc mỹ, có độc lực cao
giống ở Trung Quốc.
6
Nghiên cứu về chất chứa vi rút, các nhà khoa học đã xác định, vi rút
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản có trong dịch mũi, nước bọt, phân,
nước tiểu của lợn mắc bệnh hoặc mang trùng và phát tán ra môi trường. Ở các
loại lợn mẫn cảm, vi rút có thời gian tồn tại và được bài thải ra ngoài môi
trường tương đối dài: ở lợn mang trùng và không có triệu chứng lâm sàng, vi
rút có thể được phát hiện ở nước tiểu trong 14 ngày, ở phân khoảng 28 – 35
ngày, ở huyết thanh khoảng 21 – 23 ngày ở dịch hầu họng khoảng 56 – 157
ngày, ở tinh dịch sau 92 ngày; đặc biệt ở lợn mắc bệnh sau khi hồi phục 210
ngày vẫn có thể phát hiện vi rút trong máu.
Ở lợn bệnh hoặc lợn mang trùng vi rút chủ yếu tập trung ở phổi, hạch
amidan, hạch Lympho, lách, tuyến ức và huyết thanh đây là những bệnh phẩm
cần được lấy để gửi đi chẩn đoán, xét nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Các nghiên cứu về cấu trúc vi rút cho thấy, vi rút Hội chứng rối loạn hô
hấp và sinh sản có hình cầu, có vỏ bọc ngoài với đường kính Virion 45 – 55
nm, Nucleocapsid có đường kính từ 30 – 35 nm, là một ARN vi rút, với bộ
gen là một phân tử ARN sợi đơn dương, có những đặc điểm chung của nhóm

Arterivi rút. Sợi ARN này có kích thước khoảng 15 kilobase, có 9 ORF (Open
Reading Frame) mã hoá cho 9 Protein cấu trúc. Tuy nhiên có 6 phân tử
Protein chính có khả năng trung hoà kháng thể bao gồm 4 phân tử
Glycoprotein, 1 phân tử Protein màng (M) và 1 Protein vỏ nhân vi rút (N) ,
nhưng hoạt động trung hòa xảy ra mạnh với các protein có khối lượng phân tử
45,31 và 25 KD. (Tô Long Thành, 2007) [30]; M. Spagnoulo – Weaver và cs,
1998) [53].
Ngoài sự khác biệt giữa các phân nhóm Lelystad và VR- 2332, người ta
đã chứng minh rằng có sự biến dị di truyền mạnh trong cả 2 type phân lập,
được khẳng định qua phân tích trình tự nucleotid và amino axít của các khung
đọc mở (ORFs). Trình tự amino axit của VR 2332 so với LV là 76% (ORF2),
7
72% (ORF3), 80% (ORF4 và 5), 91% (ORF6) và 74% (ORF7), phân tích
trình tự cho thấy các vi rút đang tiến hoá do đột biến ngẫu nhiên và tái tổ hợp
trong gen. (Jun Han và cs, 2006) [48].
Nghiên cứu về sức đề kháng của vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và
sinh sản, nhiều nhà khoa học đã khẳng định. Vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp
và sinh sản có thể tồn tại 1 năm trong nhiệt độ lạnh từ – 20
0
C đến -70
0
C; trong
điều kiện 4
0
C vi rút có thể sống một tháng. Cũng giống như các loại vi rút
khác vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản đề kháng kém với nhiệt độ
cao: ở 37
0
C chịu được 48 giờ, 56
0

C bị giết sau 1 giờ. (Nguyễn Bá Hiên và cs,
2007) [13], (Tô Long Thành, 2007) [30].
Với các hoá chất sát trùng thông thường và môi trường có pH axít, vi rút
dễ dàng bị tiêu diệt. Ánh sáng mặt trời, tia tử ngoại vô hoạt vi rút nhanh chóng.
Với pH của môi trường: Vi rút gây bệnh Hội chứng rối loạn hô hấp và
sinh sản vẫn bền vững ở pH từ 6,5 – 7,5; tuy nhiên tính gây nhiễm giảm ở pH
< 6,0 hoặc > 7,65. (Bùi Quang Anh và cs, 2008) [4].
Khả năng gây bệnh là một đặc tính sinh học quan trọng của mầm bệnh,
nó phụ thuộc nhiều vào độc lực càng cao thì khả năng gây bệnh càng lớn và
ngược lại. Các kết quả nghiên cứu về khả năng gây bệnh của Vi rút Hội
chứng rối loạn hô hấp và sinh sản cho thấy:
Vi rút gây bệnh Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản chỉ gây bệnh cho
lợn, lợn ở tất cả các lứa tuổi đều cảm nhiễm, nhưng lợn con và lợn nái mang
thai thường mẫn cảm hơn cả. Loài lợn rừng cũng mắc bệnh, đây có thể coi là
nguồn dịch thiên nhiên. (Tô Long Thành, 2007)[30].
Về mặt độc lực, người ta thấy Vi rút gây Hội chứng rối loạn hô hấp và
sinh sản tồn tại dưới 2 dạng:
Dạng cổ điển: có độc lực thấp, ở dạng này khi lợn mắc bệnh thì có tỷ lệ
chết thấp, chỉ từ 1 – 5% trong tổng đàn.
8
Dạng biến thể độc lực cao: gây nhiễm và chết nhiều lợn. Người và các
động vật khác không mắc bệnh, tuy nhiên trong các loài thuỷ cầm chân màng,
vịt trời (Mallard duck) lại mẫn cảm với vi rút. Vi rút gây Hội chứng rối loạn
hô hấp và sinh sản có thể nhân lên ở loài động vật này và chính đây là nguồn
reo rắc mầm bệnh trên diện rộng rất khó khống chế. (E.Albina, 1997)[43].
Đối với bệnh truyền nhiễm, đường truyền lây là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến tốc độ lây lan và quy mô dịch bệnh. Các kết quả nghiên cứu
về con đường truyền lây bệnh này cho thấy, Vi rút gây Hội chứng rối loạn hô
hấp và sinh sản chủ yếu truyền lây qua hai đường chính đó là truyền lây trực
tiếp và truyền lây gián tiếp.

Các đường truyền lây trực tiếp của vi rút gây Hội chứng rối loạn hô hấp
và sinh sản trong và giữa các quần thể lợn bao gồm các lợn nhiễm bệnh và
tinh dịch bị nhiễm. Vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được phát
hiện từ nhiều loại chất tiết và các chất thải của lợn bệnh bao gồm: máu, tinh
dịch, nước bọt, phân, hơi thở ra, sữa và sữa đầu. Sự truyền lây theo chiều dọc
xảy ra trong suốt giai đoạn giữa đến giai cuối của thời kỳ mang thai cũng
được báo cáo. Truyền lây theo chiều ngang cũng đã được báo cáo qua tiếp
xúc trực tiếp giữa thú nhiễm bệnh và thú mẫn cảm cũng như sự truyền lây qua
tinh dịch từ những lợn đực nhiễm bệnh.
Truyền lây gián tiếp chủ yếu qua các dụng cụ, thiết bị chăn nuôi như:
thức ăn, nước uống, ủng, giầy dép, quần áo bảo hộ, thùng bảo quản lạnh, kim
tiêm,… và các phương tiện vận chuyển có mang vi rút Hội chứng rối loạn hô
hấp và sinh sản là một đường lây lan cơ học tiềm năng. Vi rút có thể theo gió
đi xa tới 3 km, do vậy vi rút có khả năng phát tán rất rộng thông qua việc vận
chuyển lợn ốm, lợn mang trùng.
Trong các con đường lây nhiễm kể trên thì con đường lây nhiễm qua thụ
tinh nhân tạo là nguy hiểm hơn cả vì trong chăn nuôi lợn, công tác thụ tinh nhân
9
tạo là phổ biến hiện nay, trong khi đó công tác kiểm dịch tinh dịch, vận chuyển
tinh dịch có nhiều bất cập. Vận chuyển, mua bán lợn bệnh ra ngoài vùng có dịch.
Nếu một con đực giống bị nhiễm bệnh thì chỉ tính trong một lần khai thác tinh
nhân tạo đã lây bệnh cho 40 – 50 lợn nái. (Nguyễn Văn Thanh, 2007) [29].
Nhằm làm sáng tỏ cơ chế hình thành các tổn thương trên cơ thể lợn
bệnh, nhiều nghiên cứu về cơ chế gây bệnh cho thấy.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể lợn, đích tấn công của Vi rút Hội chứng
rối loạn hô hấp và sinh sản là các đại thực bào. Đây là tế bào duy nhất có
receptor phù hơp với cấu trúc hạt vi rút, vì thế vi rút hấp thụ và thực hiện
quá trình nhân lên chỉ trong tế bào này và phá huỷ nó. Một tỷ lệ lớn tế bào
đại thực bào trong phế nang phổi bị vi rút xâm nhiễm rất sớm. (Nguyễn Bá
Hiên và cs, 2007) [13].

Lúc đầu, vi rút gây Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản có thể kích
thích các tế bào này, nhưng sau 2 hoặc 3 ngày vi rút sẽ giết chết chúng, các
virion được giải phóng và ồ ạt xâm nhiễm sang các tế bào khác. Ở giai đoạn
đầu của quá trình xâm nhiễm của vi rút gây Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh
sản, hiệu giá kháng thể chống lại các loại vi rút và vi khuẩn không liên quan
khác trong cơ thể của lợn tăng cao do sự kích hoạt của đại thực bào trong hệ
thống miễn dịch. Điều này rất dễ gây ra sự nhầm lẫn trong việc đánh giá mức
độ miễn dịch đối với các bệnh truyền nhiễm ở cơ thể lợn.
Có thể nói rằng cơ thể gây bệnh Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh
sản tương tự như cơ chế gây bệnh AIDS ở người và Gumboro ở gà. Nếu chỉ
có vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản xâm nhập vào cơ thể lợn thì
lợn không có biểu hiện triệu chứng nhưng do có hàng loạt các loại vi khuẩn
khác sẵn có trong các cơ quan hoặc xâm nhập từ bên ngoài vào sau khi hệ
thống miễn dịch của cơ thể bị suy giảm, hoạt động gây bệnh làm cho cơ thể
lợn bệnh xuất hiện hàng loạt triệu chứng của bệnh kế phát.
10
Theo ghi nhận của nhiều nghiên cứu về các triệu chứng lâm sàng ở lợn
mắc Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản cho thấy, lợn bệnh thường có các
triệu chứng đầu tiên là sốt cao, bỏ ăn, mẩn đỏ da, thở khó, táo bón hoặc ỉa
chảy và một số triệu chứng khác tuỳ thuộc vào bệnh kế phát và từng loại lợn:
* Lợn nái:
Các triệu chứng chủ yếu là tím âm hộ, sảy thai, thai chết lưu, thai gỗ
hàng loạt, đẻ non, lợn con đẻ ra yếu ớt, tỷ lệ tử vong cao. Tỷ lệ thai chết tăng
lên theo độ tuổi của thai: Thai dưới 2,5 tháng tuổi tỷ lệ chết 20%, thai trên 2,5
tháng tỷ lệ chết là 93,75% (Phạm Ngọc Thạch và cs, 2007)[28].
Lợn nái trong giai đoạn nuôi con thường lười uống nước, viêm vú,
mất sữa, viêm tử cung âm đạo, mí mắt sưng, có thể táo bón hoặc tiêu chảy,
viêm phổi.
* Lợn đực giống:
Triệu chứng chủ yếu là viêm dịch hoàn, bìu dài nóng đỏ (chiếm 95%),

dịch hoàn sưng đau, lệch vị trí (85%), giảm tính hưng phấn giao phối.(Lê Văn
Năm, 2007) [24].
Lợn đực giống giảm hưng phấn hoặc mất tính dục, lượng tinh dịch ít,
chất lượng tinh dịch kém, thể hiện: nồng độ tinh trùng (C) thường dưới
80.10
6
; hoạt lực của tinh trùng (A) dưới 0,6; sức kháng của tinh trùng (R)
dưới 3000; tỷ lệ kỳ hình (K) tăng trên 10%; tỷ lệ sống của tinh trùng giảm
xuống còn dưới 70% và độ nhiễm khuẩn tăng cao trên 20.10
3
. Lợn đực giống
rất lâu mới hồi phục được khả năng sinh sản của mình. (Nguyễn Văn Thanh,
2007) [29].
* Lợn con theo mẹ:
Thể trạng gầy yếu, triệu chứng phát ra đột ngột, đường huyết hạ thấp
do không bú mẹ, mí mắt sưng, có dử màu nâu, trên da xuất hiện những đám
phồng rộp. (Phạm Ngọc Thạch và cs, 2007) [28].
11
Lợn con thường tiêu chảy hàng loạt và rất nặng, phân dính đầy xung
quanh hậu môn. Đây là triệu chứng đặc trưng của Hội chứng rối loạn hô hấp
và sinh sản ở lợn con chưa cai sữa, biểu hiện này không phổ biến ở lợn lớn.
Phát ban đỏ là biểu hiện phổ biến thứ 2 và xảy ra ngay sau khi bệnh bắt đầu
xuất hiện. Chảy nước mắt, mắt có rỉ và mí mắt sưng húp là biểu hiện phổ biến
thứ 3, kết hợp với triệu chứng lạc giọng, khàn tiếng, thở khó, thở thể bụng,
chảy nước mũi, khớp đau, sưng nên chân thường choãi ra, đi lại khó khăn, tỷ
lệ tử vong cao. (Archie Hunter, 1996) [35]; (Lê Văn Năm, 2007) [24].
* Ở lợn con sau cai sữa và lợn thịt:
Ở lợn thịt, các triệu chứng tập trung chủ yếu ở đường hô hấp. Lợn bị
viêm phổi nặng, ho nhiều, thở rất khó khăn, thở dốc, thở thể bụng, có con
ngồi thở như chó ngồi, có con tựa vào tường để lấy sức thở, hắt hơi, chảy

nước mắt. Do phổi bị viêm nặng nên hiện tượng da xanh (đặc biệt là ở tai xuất
hiện sớm), điển hình và chiếm tỷ lệ lớn ở loại lợn này.
Ở lợn con sau cai sữa, mí mắt thường sưng húp, có màu đỏ thâm, làm
cho mắt lõm sâu tạo nên một quầng thâm xung quanh mắt nên nhìn lợn giống
như được “đeo kính râm”. Tỷ lệ táo bón ở lợn loại này rất cao nhưng tỷ lệ tiêu
chảy thấp hơn lợn con theo mẹ. (Lê Văn Năm, 2007) [24].
Nghiên cứu bệnh tích là một trong những khâu quan trọng để xác định
các tổn thương do bệnh nguyên gây ra. Kết quả nghiên cứu về bệnh tích đại
thể và bệnh tích vi thể ở các nhóm lợn bệnh của nhiều tác giả cho thấy:
* Lợn nái chửa: Đặc biệt là lợn nái chửa kỳ 2 thường bị đẻ non hoặc đẻ
chậm. Trường hợp đẻ non (sảy thai) thì nhiều thai chết, trên cơ thể thai chết
lưu thường có nhiều đám thối rữa. Trường hợp đẻ muộn thì số thai chết lưu ít
hơn nhiều so với đẻ non. Song số lợn con sinh ra rất yếu, nhiều con chết trong
lúc đẻ do thời gian đẻ kéo dài. Mổ khám thấy bệnh tích tập trung ở phổi, phổi
bị phù nề, viêm hoại tử và tích nước, cắt miếng phổi bỏ vào khay nước thấy
phổi chìm.
12
* Lợn nái nuôi con, lợn choai và lợn vỗ béo: Bệnh tích tập trung ở phổi.
Các ổ viêm thường gặp ở thuỳ đỉnh, song cũng thấy ở các thuỳ khác nhưng
hội chứng rối loạn hô hấp hầu như các ổ viêm áp xe đó không xuất hiện đối
xứng. Các ổ viêm, áp xe thường có màu xám đỏ, rắn, chắc. Khi cắt đôi đám
phổi có biến đổi thấy có mủ chảy ra, mô phổi cũng lồi ra và có màu đỏ xám
loang lổ. Trong một thuỳ phổi có nhiều đám biến đổi như mô tả. Cắt miếng
phổi biến đổi bỏ vào nước thấy miếng phổi chìm, chứng tỏ phổi đã bị phù nề
tích nước nặng.
Những lợn bị táo bón thì ruột chứa nhiều phân cục rắn chắc, niêm mạc
ruột bị viêm nhưng ở những lợn bị tiêu chảy thì thành ruột mỏng trên bề mặt
có phủ một lớp màu nâu.
* Lợn con theo mẹ: Xác gầy, da trũng, ruột chứa nhiều nước, đôi khi
thấy có một số cục sữa vón không tiêu, thành ruột mỏng, loét van hồi manh

tràng. Hạch màng treo ruột xuất huyết, gan sưng và tụ huyết.
Thận xuất huyết lấm tấm đầu đinh ghim, não xung huyết, hạch hầu,
họng, amidan sưng, sung huyết. (Phạm Sỹ Lăng, Văn Đăng Kỳ, 2007) [17].
Khi quan sát bệnh tích vi thể ở phổi, nhiều tác giả kết luận. Thường
thấy dịch thẩm xuất và hiện tượng thâm nhiễm, trong phế nang chứa đầy dịch
viêm và đại thực bào, một số trường hợp hình thành tế bào khổng lồ nhiều
nhân. Một bệnh tích đặc trưng nữa là sự thâm nhiễm của tế bào phế nang loại
II (pneumocyse) làm cho phế nang bị nhăn lại, thường gặp đại thực bào bị
phân hỷ trong phế nang (Nguyễn Văn Thanh, 2007) [29].
Nghiên cứu phương pháp chẩn đoán Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh
sản ở lợn nhiều tác giả cho rằng Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản có thể
chẩn đoán được bằng hai phương pháp cơ bản đó là chẩn đoán lâm sàng và
chẩn đoán trong phòng thí nghiệm (đặc biệt là chẩn đoán huyết thanh học).
Tuy nhiên, trên thực tế để đảm bảo độ chính xác cao, việc phối hợp cả hai
phương pháp là cần thiết.
13
Về chẩn đoán lâm sàng thường dựa vào hai nhóm triệu chứng đó là các
triệu chứng về rối loạn hô hấp và rối loạn sinh sản.
- Ở lợn nái tăng đột biến tỷ lệ sảy thai, đẻ non, thai chết lưu, tỷ lệ lợn
con sơ sinh chết cao,… các hiện tượng này xảy ra trong khoảng từ 8 – 20%
tổng số lợn nái của cơ sở chăn nuôi.
- Ở các nhóm lợn khác có hiện tượng đồng loạt bỏ ăn hoặc ăn ít, sốt cao
40 – 41
0
C, khó thở, ban đỏ da, táo bón hoặc ỉa chảy, tốc độ lây lan nhanh, đặc
biệt ở một số con lợn bệnh chóp tai bị ứ huyết có màu xanh tím.
Khi thấy lợn có các triệu chứng nêu trên, bước đầu có thể chẩn đoán là
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản. Tuy nhiên, để đảm bảo độ chính xác
cần phải lấy mẫu bệnh phẩm (máu lợn bệnh còn sống hoặc các tổ chức bệnh
phẩm phổi, hạch,… của lợn chết) để làm các xét nghiệm chẩn đoán trong

phòng thí nghiệm:
- Dựa vào phương pháp miễn dịch đánh dấu bằng enzyme (ELISA) hoặc
phương pháp gián tiếp huỳnh quang kháng thể (IFAT) theo quy trình của OIE.
- Phương pháp nhân gen PCR để phát hiện vi rút hoặc phương pháp
phân lập vi rút gây bệnh trên các môi trường phôi gà hoặc các môi trường tế
bào đặc biệt.
Các phương pháp này cho độ chính xác cao (từ 92 – 95%) trong chẩn
đoán xác định Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn. (Bùi Quang Anh
và cs, 2008)[4].
Đối với Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn, hiện nay chưa có
thuốc điều trị đặc hiệu, do vậy việc phòng bệnh bằng vác xin và vệ sinh
phòng bệnh hiện đang là hai phương pháp hữu hiệu ở nhiều cơ sở chăn nuôi.
* Phòng bệnh bằng vác xin
Cũng như nhiều bệnh truyền nhiễm khác, đối với Hội chứng rối loạn hô
14
hấp và sinh sản, việc phòng bệnh bằng vác xin là một trong những biện pháp
quan trọng nhằm hạn chế dịch bệnh xảy ra. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu
này, việc lựa chọn loại vác xin phù hợp và sử dụng đúng quy trình kỹ thuật là
mấu chốt hàng đầu quyết định đến hiệu quả biện pháp phòng ngừa.
Hiện nay, trong danh mục thuốc Thú y được phép lưu hành của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn có ba loại vác xin nhập khẩu gồm có: vác xin
Porcilis PRRS của Intervet – Hà Lan; vác xin Amervac PRRS của Hipra – Tây
Ban Nha; vác xin BSL – PS 100 của Besta – Singapore. Hai loại vác xin đầu được
sản xuất từ chủng vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản thuộc dòng Châu
Âu. Vác xin BSL – PS 100 của Besta – Singapore là loại vác xin sống nhược độc,
được sản xuất từ vi rút dòng JKL – 100 thuộc dòng Bắc Mỹ.
Hiện nay, Cục Thú y quốc gia Việt Nam đang tiến hành sử dụng thí
điểm vác xin chết phòng bệnh thể độc lực cao của Trung Quốc tại một số trại
và một số địa phương. Nếu có kết quả tốt, vác xin này sẽ được nhập khẩu và
sử dụng đại trà cho đàn lợn cả nước.

Trong tình hình dịch bệnh như hiện nay, việc sử dụng vác xin phòng
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản nhằm tạo miễn dịch chủ động cho lợn
chống lại dịch bệnh này là một việc làm cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, bên
cạnh đó cần chú ý thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng bệnh và tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức phòng bệnh cho người chăn
nuôi cũng như các biện pháp kiểm dịch nhằm kiểm soát môi trường và ngăn
ngừa dịch bệnh bùng phát môi trường, lây lan, nhất là trong điều kiện hội
nhập mạnh mẽ như hiện nay.
Chuồng trại phải đảm bảo vệ sinh thú y, ấm áp vào mùa đông, thoáng
mát vào mùa hè, thường xuyên quét dọn, tiêu độc chuồng trại bằng một số
hoá chất như vôi bột, Iodine, chloramin B,(Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, 2007)[]
15
Chăm sóc, nuôi dưỡng tốt cho lợn để nâng cao sức đề kháng cho lợn.
Đối với lợn mới mua về cần cách ly ít nhất 3 tuần để theo dõi.
Tổ chức tuyên truyền thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại
chúng của Trung ương và địa phương để người dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ về
mức độ nguy hiểm của dịch bệnh PRRS và các biện pháp phòng chống dịch
đặc biệt cần phải khai báo khi lợn có biểu hiện của bệnh PRRS.
Tăng cường công tác giám sát từ Trung ương đến cơ sở và từng hộ chăn
nuôi để có thể sớm phát hiện dịch bệnh và có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Thiết lập các trạm, chốt kiểm dịch tại các đầu mối giao thông quan trọng
và cần có sự hợp tác phối hợp hành động đồng bộ giữa nhiều ngành như: công
an, tài chính, quản lý thị trường, đặc biệt là lực lượng Thú y để kiểm soát môi
trường việc vận chuyển lợn các sản phẩm từ lợn ra vào giữa các tỉnh.
Giao trách nhiệm giám sát phát hiện dịch và báo cáo dịch cho chính
quyền cấp xã, khi có dịch xảy ra thì phải bao vây, lấy mẫu xét nghiệm và tiêu
huỷ toàn bộ số lợn bệnh.
Tiêm đầy đủ các loại vác xin phòng các bệnh sau: Dịch tả, Tụ huyết
trùng, Thương hàn, Suyễn heo, Viêm teo mũi, Liên cầu khuẩn,…Lý do là vi

rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản làm suy giảm hệ thống miễn dịch của
lợn bệnh dẫn đến lợn bị mắc bệnh kế phát trên nếu lợn không được tiêm đầy đủ
các loại vác xin trên.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về hội chứng rối loạn sinh
sản và hô hấp ở lợn
Những thiệt hại lớn về kinh tế do Hội chứng rối loạn sinh sản gây ra đã
thu hút nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước quan tâm nghiên cứu.
Nhiều thành quả đã được ứng dụng và mang lại hiệu quả thiết thực trong công
tác phòng chống và kiểm soát dịch bệnh này.
16
2.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Nhiều nhà khoa học trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu về nguyên nhân,
cơ chế truyền lây, các phương pháp chẩn đoán và phòng chống Hội chứng rối
loạn sinh sản ở lợn.
Riera Pujadas Pere và cs, (1997)[56] đã nghiên cứu về chủng vi rút suy
yếu mới gây ra Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (PRRS) trên lợn, cùng
với việc điều chế vác xin phòng ngừa và bộ kít chẩn đoán.
Joo Han Soo, (1997) [46] đã đưa ra phương pháp điều chế vác xin sử
dụng ngay chính vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản được làm yếu đi.
Eichhorn – G, Frost – JM, (1997)[44] nghiên cứu sử dụng sữa non của
lợn nái vào giai đoạn thích hợp để chẩn đoán huyết thanh phát hiện Hội chứng
rối loạn hô hấp và sinh sản (PRRS).
Segales.J và cs (1998)[57] nghiên cứu siêu cấu trúc đại thực bào ở túi
phổi lợn bị nhiễm in – vitro với vi rút gây Hội chứng rối loạn sinh sản đối với
trường hợp có hoặc không có Haemophilus – Parasuis.
Burch Reina Alemany và cs, (1997)[36] tìm hiểu về chủng vi rút suy
yếu gây ra Hội chứng rối loạn sinh sản (PRRS) trên lợn, cùng với việc chế
vác xin.
Van Niewstadt và cs, (2002)[59] nêu ra loại kháng nguyên Hội chứng
rối loạn hô hấp và sinh sản dùng để phát hiện ra chuỗi peptide đồng đẳng của

vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản dùng trong điều chế vác xin hoặc
xét nghiệm chẩn đoán.
Calvert Jay G và cs, (2007)[37] thuộc khoa Thú y trường Đại học
Minesota của Mỹ đã nghiên cứu về những đặc điểm phân loại, cấu tạo, khả
năng gây bệnh của vi rút cũng như những triệu chứng lâm sàng thường gặp
khi lợn bị bệnh ở Mỹ và một số nước Châu Âu thấy rằng các chủng vi rút ở
Mỹ và châu Âu có sự khác biệt nhau về bộ gen, tức là vi rút ở 2 nơi này đã có
sự biến đổi về cấu trúc.
17
Joo Han - Soo và cs (2007)[47], [46] đi sâu vào tìm hiểu về phương
pháp chuẩn bị vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản, Protein lây nhiễm
và bộ kít để kiểm tra và phát hiện nó.
Lunney Joan K và cs (2007)[51], X.J.Meng (2000)[61] chỉ ra các thông
số miễn dịch giúp giải thích được nguyên nhân tại sao một số lợn trên cùng
một đàn lại không bị nhiễm vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản.
Calvert Jay G và cs, (2007)[39] nghiên cứu về trình tự gen của chủng vi
rút cường độc gây Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở Bắc Mỹ cho biết:
ở một số ổ dịch bộ gen của vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản tương
đồng 93,2 – 94,2% với bộ gen của chủng VR
2332
(Bắc Mỹ) nhưng ở một số ổ
dịch khác thì bộ gen của vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản tương
đồng 63,4 – 64,5% với chủng gây bệnh Lelystad (châu Âu) và các vi rút phân
lập được đã có sự đột biến ở một số axit amin.
Pensaert Maurice và cs, (2008)[54] đã nghiên cứu chuỗi Polypeptit mã
hoá axit nucleic bên trong các tế bào nhiễm vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp
và sinh sản.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Mặc dù ở Việt Nam, Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản là một bệnh
mới song với sự quan tâm và nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu trong nước,

hiện nay nhiều vấn đề liên quan đến dịch tễ và nguyên nhân gây bệnh tại Việt
Nam đã từng bước được sáng tỏ, mang lại những giá trị khoa học kinh tế
trong việc phòng chống dịch bệnh.
Tô Long Thành (2007)[30] đã nhận xét, PRRSV chỉ gây bệnh cho lợn ở
tất cả các lứa tuổi đều cảm nhiễm, nhưng lợn con và lợn nái mang thai thường
mẫn cảm hơn cả. Người và động vật khác không mắc bệnh, tuy nhiên trong
các loại thuỷ cầm chân màng, vịt trời lại mẫm cảm với vi rút. PRRSV có thể
nhân lên ở loài động vật này và chính đây là nguồn reo rắc mầm bệnh trên
diện rộng rất khó khống chế.
18
Theo Nguyễn Hữu Nam và cs (2007)[21]; Bùi Quang Anh và cs, (2008)
[4] những loại vi khuẩn gây bệnh kế phát ở phổi khi lợn mắc Hội chứng rối loạn
hô hấp và sinh sản thường gặp là: Mycoplasma hyopneumoniae (Suyễn lợn);
Pasteurella multocida (Tụ huyết trùng); Bordetella bronchiseptica (Viêm teo
mũi); Streptococcus Suis type 2 (Liên cầu khuẩn) và Haemophilus parasuis
(Viêm đường hô hấp).
Phạm Ngọc Thạch và cs (2007)[28] nghiên cứu một số chỉ tiêu lâm
sàng, chỉ tiêu máu ở lợn mắc Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản tại Hải
Dương và Hưng Yên đã thấy rằng: Thời gian nung bệnh là 3 – 7 ngày, tần số
hô hấp, tim mạch, thân nhiệt đều tăng cao so với sinh lý bình thường, chỉ tiêu
sinh lý, sinh hoá máu đều thay đổi, đặc biệt là số lượng bạch cầu, độ dự trữ
kiềm trong máu tăng rất cao trong khi đó hàm lượng đường huyết, protein
tổng số của lợn bệnh lại giảm nhiều so với sinh lý bình thường.
Lê Văn Năm (2007)[24] bước đầu khảo sát các biểu hiện lâm sàng và
bệnh tích đại thể ở lợn mắc Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản tại một số địa
phương thuộc Đồng bằng Bắc Bộ – Việt Nam đã nhận thấy, các biểu hiện lâm
sàng, bệnh tích đại thể ở lợn mắc Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản trong
các đợt dịch năm 2007 là trùng với các tài liệu đã được công bố. Tuy nhiên các
tỷ lệ: tiêu chảy (chiếm 83,25%), lạc giọng (60,50%) ở lợn con theo mẹ và táo
bón ở lợn lớn chiếm (50,50%) là cao hơn so với các tài liệu đã công bố.

Bùi Quang Anh và cs (2007)[3] nghiên cứu về một số đặc điểm dịch tễ
của Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản tại một số trại lợn ở Việt Nam đã đi
đến kết luận: Lợn nái và lợn con theo mẹ bị mắc Hội chứng rối loạn hô hấp và
sinh sản cao hơn so với những nghiên cứu, đánh giá của Quốc tế về Hội
chứng rối loạn hô hấp và sinh sản.
Theo Phạm Sỹ Lăng và Văn Đăng Kì (2007)[17], một số bệnh tích
thường gặp của lợn bị Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản là phổi viêm tụ
19
huyết hoặc xuất huyết, khí quản, phế quản chứa nhiều bọt và dịch nhầy. Thận
xuất huyết như đầu đinh ghim, não sung huyết; hạch hầu họng, amidan sưng,
sung huyết; gan sưng, tụ huyết; lách sưng và nhồi huyết. Hạch màng treo ruột
xuất huyết và loét van hồi manh tràng.
Trần Thị Bích Liên, Nguyễn Thị Kiều Anh và cs (2007)[18] khi nghiên
cứu về sự biến động của kháng thể mẹ truyền trên lợn con của lợn nái nhiễm vi
rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản cho biết: ở con của những lợn nái
dương tính với Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản, hiệu giá kháng thể giảm
nhiều từ ngày tuổi 19 và tất cả lợn nái dương tính với Hội chứng rối loạn hô
hấp và sinh sản, hiệu giá kháng thể giảm nhiều từ ngày tuổi 19 và tất cả lợn con
đều âm tính ở 60 ngày tuổi. Ngoài ra lợn con của nái dương tính có hiệu giá
kháng thể cao hơn lợn con từ nái âm tính trong vòng 35 ngày sau khi sinh.
Nguyễn Ngọc Hải, Trần Thị Bích Liên và cs (2007)[12] nghiên cứu về
phương pháp chẩn đoán vi rút gây Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở
lợn bằng kỹ thuật RT – PCR đưa ra kết luận: Quy trình RT – PCR sử dụng
trong nghiên cứu có tính ổn định và độ tin cậy cao, hoàn toàn cho phép phát
hiện được ARN của vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản trong mẫu.
Thái Quốc Hiếu, Nguyễn Việt Nga và cs (2006) [14] khảo sát sức sinh
sản của lợn nái dương tính với Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản và dịch
tả lợn tại các hộ chăn nuôi gia đình huyện chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, kết quả
cho thấy: tỷ lệ mẫu dương tính với vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh
sản là 35% và dương tính dịch tả lợn là 11,7%, không có mẫu nhiễm ghép hai

bệnh này. Tỷ lệ mẫu dương tính với vi rút Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh
sản ở nhóm lợn nái bị rối loạn sinh sản chiếm 42,22%, cao hơn so với lợn nái
không rối loạn sinh sản (13,13%). Tương tự, tỷ lệ mẫu dương tính với vi rút
dịch tả lợn ở nhóm lợn nái rối loạn sinh sản chiếm 13,33%, cao hơn nhóm lợn
nái không rối loạn sinh sản (6,76%)
20
Thái Quốc Hiếu và Lê Minh khánh và cs (2007) [15] nghiên cứu ảnh
hưởng của Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản đến khả năng bảo hộ bệnh
dịch tả trên lợn thấy rằng, đáp ứng kháng thể với vác xin dịch tả lợn giảm rõ
rệt trên đàn lợn bị nhiễm Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản.
Hồ Thị Nga, Trần Thị Dân (2008)[24] đã khảo sát sinh hoá máu trên lợn
nuôi thịt nhiễm vi rút gây rối loạn hô hấp và sinh sản được bổ sung
β
- glucan
trong khẩu phần đưa ra kết quả như sau: Lợn được bổ sung
β
- glucan có số
lượng hồng cầu, bạch cầu và hàm lượng Hemoglobin ổn định hơn.
2.3. Một số hiểu biết cơ bản về huyết học
Máu là một thành phần tổ chức của cơ thể rất quan trọng vì máu liên
lạc mật thiết với mọi cơ quan, bộ phận trong cơ thể. Do đó về mặt bệnh lý,
máu không những chịu ảnh hưởng của những bệnh ở riêng các cơ quan tạo
máu mà còn bị ảnh hưởng của tất cả các bệnh ở mọi cơ quan, tổ chức khác
trong cơ thể.
Về phương diện vật lý, máu là một tổ chức lỏng lưu động trong hệ tuần
hoàn nhưng luôn luôn có sự trao đổi mật thiết với các chất dịch gian bào, qua
đó làm nhiệm vụ vận chuyển các chất dinh dưỡng và các sản phẩm chuyển
hoá cho các tổ chức và cơ quan trong cơ thể. Máu gồm 2 thành phần chính là
thành phần vô hình và hữu hình:
Thành phần vô hình: hay còn gọi là huyết tương, chiếm 60% thể tích

của máu. Huyết tương có màu vàng nhạt, có 90 – 92% là nước, 8 – 10% vật
chất khô, trong đó:
Protein huyết tương gồm các thành phần cơ bản là: albumin, globulin
và fibrinogen (chiếm 6 – 8%). Protein huyết tương luôn ở thể cân bằng động,
tức là luôn có quá trình phân giải và tổng hợp nhờ sự điều khiển của hệ thần
kinh. Protein đóng vai trò rất quan trọng:
Albumin tham gia cấu tạo lên các mô bào, là tiểu phần chính tạo nên áp
suất thẩm thấu thể kéo của máu, tham gia vận chuyển các chất như axít béo,
axít mật,…
21
Globulin gồm có 3 loại
α
,
β

γ
- globulin. Trong đó
α

β
-
globulin tham gia vận chuyển các hooc môn steroid, phosphate và axít béo.
Còn
γ
- globulin tham gia vào chức năng miễn dịch của cơ thể (Vũ Triệu An
và cs, (1997)[2]. Để đánh giá mối tương quan giữa Albumin và Globulin
người ta thường tính tỷ lệ A/ G và gọi đây là chỉ số protein huyết thanh. Mối
tương quan này phản ánh tình trạng sức khoẻ của con vật, phẩm chất con
giống và là một chỉ tiêu sinh hoá để chẩn đoán bệnh.
Ngoài các thành phần kể trên, trong huyết tương còn có các chất hoà

tan như: các loại hooc môn, vitamin, enzyme, các hạt mỡ, các muối khoáng
đa lượng, vi lượng,…
Thành phần hữu hình của máu bao gồm các tế bào hồng cầu, bạch cầu
và tiểu cầu. Đây là các thành phần quan trọng quyết định các chức năng cơ
bản của máu đó là vận chuyển, dinh dưỡng và bảo vệ,…
Hồng cầu là loại tế bào máu được biến hoá cao độ, các tế bào hồng cầu
của gia súc có dạng hình đĩa, lõm hai mặt và không có nhân. Vai trò chủ yếu
của chúng là vận chuyển O
2
từ phổi tới tổ chức, mô bào và chuyển khí CO
2
từ
các tổ chức, mô bào tới phổi để thải ra ngoài. Tính chất này do huyết sắc tố
(hemoglobin) quy định.
Hồng cầu là quần thể tế bào đồng nhất ở máu ngoại vi. Thành phần cấu
tạo của hồng cầu gồm có 60% là nước và 40% là vật chất khô, trong đó
Hemoglobin chiếm 90 – 95%, còn 3 – 8% các protein khác: Leucoxitin chiếm
0,5%, Cholesterol chiếm 0,3%, các muối kim loại (chủ yếu là muối kali). Trong
hồng cầu còn có một số enzyme quan trọng đó là anhydraza, cacbonicatalaza.
Trên màng hồng cầu còn có enzyme glucose – 6 photphatdehydrogenaza,
glutationreductaza có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính bền vững, thẩm
thấu của màng và sự trao đổi chất qua màng hồng cầu.
Để tồn tại và đảm bảo chức năng, hồng cầu phải tiêu thụ năng lượng.
22
Nguồn năng lượng này lấy từ glucose sinh ra trong quá trình đường phân của
tế bào. Quá trình này gồm 2 con đường: đường phân yếm khí (90%) và đường
phân hiếu khí (10%).
Bạch cầu là những tế bào máu có khả năng di động theo kiểu amip,
kích thước thay đổi từ 5 - 20
µ

m (tuỳ theo từng loại). Chúng có chức năng
chính là thực bào và tham gia vào các đáp ứng miễn dịch bảo vệ cơ thể.
Hình thái chung của bạch cầu thường có dạng hình cầu, tuy nhiên khi
tham gia vào các quá trình xuyên mạch và thực bào bạch cầu thường thay đổi
hình dạng rất linh hoạt.
Căn cứ vào thành phần cấu trúc đặc biệt trong bào tương, người có chia
bạch cầu ra thành hai nhóm lớn đó là bạch cầu có hạt và bạch cầu không hạt.
Vũ Triệu An [1], Trần Cừ và cs [8], Nguyễn Xuân Tịnh và cs [32]:
Bạch cầu có hạt: là loại bạch cầu bên trong bào tương có các hạt sinh
chất có ái lực cao với các loại thuốc nhuộm. Căn cứ vào tính chất này, bạch
cầu có hạt được chia thành ba loại đó là bạch cầu ái toan, bạch cầu ái kiềm và
bạch cầu đa nhân trung tính:
Bạch cầu ái toan (eosinophil): là loại bạch cầu mà trong tế bào tương có
nhiều hạt bắt máu thuốc nhuộm toan tính (màu đỏ của eosin), đường kính
bạch cầu là 8 - 20
µ
m. Tỷ lệ bạch cầu ái toan là khác nhau giữa các loại:
Ngựa chiếm 3% tổng số bạch cầu, Bò là 6%, lợn là 4 – 8%.
Bạch cầu ái toan (bazophil): Là loại bạch cầu bên trong bào tương có các
hạt bắt màu thuốc nhuộm kiềm tính (màu xanh của xanh methylen). Bên trong
các hạt ái kiềm có chứa nhiều enzyme để hình thành histamine và heparin.
Bạch cầu trung tính (neutrophil): Là loại bạch cầu bên trong bào tương
có nhiều hạt bắt màu cả thuốc nhuộm toan tính và thuốc nhuộm kiềm tính,
nhân bắt màu tím hoặc tím sẫm. Đây là loại bạch cầu có khả năng thực bào
mạnh nhất vì trong các tế bào bạch cầu trung tính có chứa nhiều enzyme phân
23
giải protein như leuco proteaza. Đây là các chất phá huỷ vi khuẩn và trung
hoà độc tố. Tuỳ theo sự thành thục của nhân, người ta chia bạch cầu trung
tính thành tuỷ cầu, ấu cầu, bạch cầu nhân đốt và bạch cầu nhân gậy.
Bạch cầu không hạt: là loại bạch cầu bên trong bào tương không có các

hạt bắt màu thuốc nhuộm như ở bạch cầu có hạt. Bạch cầu không hạt bao gồm
bạch cầu đơn nhân lớn và lympho bào.
Bạch cầu đơn nhân lớn (Monocyte): Là loại bạch cầu có kích thước to
nhất, nguyên sinh chất bắt màu xám nhạt, nhân bắt màu tím đen có hình bầu
dục, hình hạt đậu, hình móng ngựa,… nằm lệnh về một bên của tế bào. Bào
tương nhiều hơn lâm ba cầu, bắt màu xanh nhạt, đôi khi có những hạt trong
suốt. Nhân tế bào này đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình thực bào và
thông tin miễn dịch nằm trong hệ thống lympho lưới.
Tế bào Lympho (lymphocyte): Tế bào Lympho có nguyên sinh chất bắt
màu xanh đậm, nhân tròn, hình hạt đậu, màu tím sẫm, chiếm gần hết tế bào.
Lympho bào bao gồm Lympho B và Lympho T.
Tiểu cầu là những tế bào máu có kích thước nhỏ nhất, hình tròn hay
bầu dục, có đường kính 2 – 4
µ
m, khi mới được phóng thích từ tuỷ xương thì
tiểu cầu lớn, theo thời gian chúng giảm dần kích thước và số lượng. Tiểu cầu
dính vào collagen và những vi sợi trong màng nền thành mạch, một diễn biến
phụ thuộc vào sự trùng phân của collagen và những nhóm II; amin tự do trên
collagen. Để tiểu cầu ngưng tập hữu hiệu chúng phải có canxi, fibrinogen và
những yếu tố đông máu khác.
2.4. Các chỉ tiêu năng suất sinh sản và khả năng sinh sản ở lợn nái
Có nhiều chỉ tiêu sinh học đánh giá năng suất sinh sản ở lợn nái. Theo
Vũ Đình Tôn (2008) [33], năng suất sinh sản của lợn nái được xét trên các
chỉ tiêu: chu kì động dục, tuổi thành thục về tính dục, tuổi có khả năng sinh
sản, thời gian chửa và số con đẻ ra/lứa.
24
Nhiều tác giả cho rằng: để đánh giá khả năng sinh sản lợn nái dựa vào
năng suất sinh sản và do 2 yếu tố cấu thành là: số con cai sữa/lứa và số lứa
đẻ/năm. 2 yếu tố này do nhiều yếu tố khác cấu thành, được tóm tắt theo sơ đồ sau:


Sơ đồ năng suất sinh sản của lợn nái
Theo Mabry và cộng sự, 1997[52], các tính trạng năng suất sinh sản
của lợn nái bao gồm: số con đẻ ra, số con cai sữa, khối lượng cả ổ 21 ngày
tuổi và số lứa đẻ/nái/năm, các tính trạng này có tầm quan trọng về kinh tế và
ảnh hưởng đến lợi nhuận của người sản xuất lợn giống cũng như người nuôi
lợn thương phẩm.
Mục đích của người chăn nuôi là thu được lợi nhuận. Năng suất càng cao
thì lợi nhuận càng cao. Ở các trang trại chăn nuôi lợn nái, ngoài những diễn biến
đột xuất của giá cả thị trường, năng suất sinh sản là yếu tố quyết định giá thành
sản phẩm và lợi nhuận. Trong đó tiêu tốn thức ăn/kg sản phẩm chiếm từ 60 -
70% chi phí sản xuất là yếu tố quan trọng nhất phản ánh đầy đủ nhất năng suất
T.G nuôi
con
T.G chờ
phối
Thời gian
chửa
Số con
SS sống
Số con chết
trước CS
Tỷ lệ thụ
thai
K.C từ
CS-Đ.D
Số trứng
rụng
S.trứng
được T.T
Tỷ lệ

thai chết
Số con cai
sữa/lứa
Số lứa
đẻ/năm

25
Số con
CS/nái/năm

×