Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bảo vệ nguồn tài nguyên nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.17 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các nhu cầu về
khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng năng lượng ngày càng tăng. Sự
phát triển kinh tế xã hội với sự xuất hiện hàng loạt các nhà máy xí nghiệp,
các công trình xây dựng… đã tác động mạnh mẽ đến hệ sinh thái, môi
trường xung quanh cũng như điều kiện sống của con người. Tài nguyên có
xu thế cạn kiệt dần, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng. Sự
biến đổi theo chiều hướng xấu của môi trường ảnh hưởng ngược trở lại đối
với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi một nước. Và cùng với quá trình
công nghiệp hóa, tốc độ đô thị hóa ngày càng gia tăng. Nhu cầu tài nguyên
và năng lượng phục vụ cho người dân ngày càng lớn, các hoạt động kinh tế
xã hội tạo nên rất nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy vấn đề
quản lý và bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên đã trở thành mối quan
tâm hàng đầu của nhân loại. Và một trong số tài nguyên mà nhân loại đang
đề cập cấp bách nhất hiện nay chính là nguồn tài nguyên nước.
Xuất phát từ vấn đề trên em chọn đề tài “Bảo vệ nguồn tài nguyên
nước ” làm đề tài để nghiên cứu.
1
NỘI DUNG
I. Đặc điểm chung của tài nguyên nước ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên nước xếp vào loại trung bình
khá trên thế giới nhưng có nhiều yếu tố không bền vững. Nước ta có khoảng
830 tỷ m
3
nước

mặt, trong đó chỉ có 310 tỷ m
3
được tạo ra do mưa rơi trong
lãnh thổ, chiếm 37%; còn 63% do lượng mưa ngoài lãnh thổ chảy vào. Tổng
trữ lượng tiềm tàng nước dưới đất có khả năng khai thác, chưa kể phần hải


đảo tính 60 tỷ m
3
/năm. Nếu kể cả nước mặt và nước dưới đất trên phạm vi
lãnh thổ thì bình quân đầu người đạt 4.400 m
3
/người/năm, so với thế giới là
7.400 m
3
/người/năm.
Lượng nước sản sinh từ ngoài lãnh thổ chiếm gần 2/3 tổng lượng nước
có được. Sự phân bố của cả nước mặt lẫn nước dưới đất không đều. Theo
không gian, nơi có lượng mưa nhiều nhất là Bạch Mã 8.000mm/năm; Bắc
Qang, Bà Nà khoảng 5.000mm/ năm, trong khi cửa Phan Rí chỉ đạt xấp xỉ
400mm/năm. Theo thời gian, mủa lũ chỉ kéo dài từ 3-5 tháng, nhưng chiếm
tới 70 – 80% lượng nước cả năm. Mùa lũ, lượng mưa lớn nhất đạt trên
1.500mm/ ngày, song mùa cạn nhiều tháng lại không có mưa.
Sự không thuận lợi của tài nguyên nước trong sử dụng và khai thác.
Nước ta có khoảng 2.360 con sông có chiều dài hơn 10km. Trong số 13 lưu
vực chính và nhánh có diện tích lớn hơn 10.000km
2
thì đến 10/13 sông có
quan hệ với nước láng giềng, trong đó 3/13 sông thượng nguồn ở Việt Nam,
hạ nguồn chảy sang nước láng giềng; 7 sông thượng nguồn ở nước láng
giềng, hạ nguồn ở Việt Nam. Điều này cho thấy Việt Nam không những bị
ràng buộc nguồn lợi về nước của quốc gia thứ hai, thứ ba chia sẻ, mà thường
bị động.
Sự cạn kiệt tài nguyên nước ngày càng tăng. Dân số tăng, chỉ số lượng
nước trên đầu người giảm. Mặt khác, nạn phá rừng ngày một tăng cao để
2
trồng cà phê, phá rừng để lấy gỗ để lấy gỗ, lấy củi, lấy đất làm nương rẫy,…

khó kiểm soát đã làm nhiều sông, suối khô kiệt về mùa cạn; làm tăng tốc độ
xói mòn đất, tăng tính trầm trọng của lũ lụt về mùa mưa. Ô nhiễm nước ngày
một trầm trọng do tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày một
tăng nhanh trong khi nước thải, rác thải chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc
sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón hóa học ngày một tăng, khó
kiểm soát, ô nhiễm nước do nước thải, chất thải của các ao nuôi thủy sản xả
trực tiếp không qua xử lý vào nguồn nước.
Tình trạng ô nhiễm nước do nước thải sinh hoạt và nước thải công
nghiệp đã trở thành vấn đề quan trọng tại nhiều thành phố, thị xã, đặc biệt là
tại các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hải Phong, Hà Nội, vaft ại các khu
công nghiệp. Ô nhiễm nước do hoạt động nông nghiệp cũng là vấn đề
nghiêm trọng tại nhiều vùng nông thôn, đặc biệt tại châu thổ sông hồng và
sông Cửu Long. Hiện tượng nhiễm mặn, hay chua do quá trinhg tự nhiên và
do hoạt động của cong người đang là vấn đề nghiêm trọng ở vùng châu thổ
sông Cửu Long.
II. Thực trạng tài nguyên nước ở Việt Nam hiện nay
1. Tình hình khai thác và sử dụng nước
Việt Nam là nước Đông Nam Á có chi phí nhiều nhất cho thủy lợi. Cả
nước hiện có 75 hệ thống thủy nông, với 659 hồ, đập lớn và vừa, trên 3.500
hồ, đập nhỏ, 1.000 cống tiêu, trên 2.000 trạm bơm lớn nhỏ, trên 10.000 máy
bơm các loại, có khả năng cung cấp 60 - 70 tỷ m3/năm. Tuy nhiên, nhiều hệ
thống thuỷ nông đã xuống cấp nghiêm trọng, chỉ đáp ứng được 50 - 60%
công suất thiết kế.
Lượng nước sử dụng hàng năm cho nông nghiệp khoảng 93 tỷ m
3
, cho
công nghiệp là 17,3 tỷ m
3
, cho dịch vụ là 2 tỷ m
3

, cho sinh hoạt là 3,09 tỷ m
3
.
3
Dự tính tới năm 2030 dân số cả nước đạt 129 triệu trong đó dân thành phố
lên 60 triệu, kinh tế tăng trưởng 10 lần, GDP đầu người tăng 7 lần, diện tích
tưới tăng 3,4%/năm, chuẩn cấp nước tăng gấp đôi, 150 lít/ngày/người, 100%
dân được cấp nước sạch vào năm 2020. Cơ cấu dùng nước sẽ thay đổi theo
xu hướng nông nghiệp 75%, công nghiệp 16%, tiêu dùng 9%. Nhu cầu nước
dùng sẽ tăng gấp đôi, chiếm khoảng 1/10 tổng lượng nước sông ngòi, 1/3
lượng nước nội địa, 1/3 lượng dòng chảy ổn định.
Nước ta có trên 700 đô thị từ cấp I đến cấp V, nhu cầu cấp nước sinh
hoạt trong các đô thị ngày càng gia tăng. Hiện nay, tiêu chuẩn cấp nước đô
thị là 150 đến 200l/người dân. Trong số gần 2 triệu m
3
nước cấp cho dân đô
thị mỗi ngày, khoảng 30% lượng nước này được khai thác từ nguồn đất. Ở
nông thôn, vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đang là vấn đề
nan giải do những khó khăn tự nhiên và kinh tế xã hội của vùng. Có trên
50% hộ dân đang dùng nước giếng khơi, 25% dùng nước sông suối, trên
10% dùng nước mưa. Ước tính, mới có khoảng 30% dân số có nguồn nước
tương đối sạch, trong đó chỉ có khoảng 10% đạt tiêu chuẩn quốc gia. Cả
khu vực nông thôn có khoảng 80% lượng nước được cấp với tiêu chuẩn 50
đến 80l/người dân. Tuy nhiên, cả đô thị lẫn khu vực nông thôn nguồn nước
được cấp chỉ đảm bảo 50 đến 85%. Còn các hộ gia đình, cơ sở sản xuất phải
tự tìm kiếm, khai thác nguồn nước và tự xử lý để sử dụng. Vì vậy sự tổn thất
nước trong các hoạt động này rất lớn.
Do lượng mưa lớn, địa hình dốc, nước ta là một trong 14 nước có tiềm
năng thủy điện lớn. Các nhà máy thủy điện hiện nay sản xuất khoảng 11 tỷ
kWh, chiếm 72 đến 75% sản lượng điện cả nước. Với tổng chiều dài các

sông và kênh khoảng 40.000km, đã đưa vào khai thác vận tải 15.00km, trong
đó quản lý trên 8.00km. Những song suối tự nhiên, thác nước, … được sử
dụng làm điểm tham quan, du lịch. Những vùng đất ngập nước, nơi quần tụ
4
các loại động vật hoang dã là những nơi sinh thái lý tưởng… Về nuôi trồng
thủy hải sản, nước ta có 1 triệu ha mặt nước ngọt, 400.000 ha mặt nước lợ và
1.470.000 ha mặt nước sông ngòi, có hơn 14 triệu ha mặt nước nội thủy và
lãnh hải. Tuy nhiên cho đến nay mới sử dụng 12,5% diện tích mặt nước lợ,
nước mặn và 31% diện tích mặt nước ngọt.
2.Tình trạng ô nhiễm nguồn nước
Ở Việt Nam hiện nay, mức tăng dân số nhanh chóng đã đưa nước ta vào
hàng thứ 12 trong số các quốc gia có số dân đông của thế giới. Với mức tăng
dân nhanh như thế, mỗi năm nước ta tăng thêm 1,4 triệu người và dự báo
đến năm 2015 sẽ là 100 triệu người. Dự báo đến năm 2020 sẽ có 50% số dân
sống ở các vùng đô thị. Dân số tăng, nhu cầu nước cho mọi hoạt động sinh
hoạt và phát triển kinh tế tăng lên, các nguồn chất thải tăng lên sự ô nhiễm
môi trường nước cũng tăng lên.
Hiện tượng suy giảm chất lượng nước cũng như số lượng nguồn nước
mặt tăng lên do ô nhiễm từ các chất thải công nghiệp, nông nghiệp, giao
thong vận tải thủy bộ, các khu dân cư, sự xói mòn rửa trôi trên xá bề mặt lưu
vực sông suối. Đặc biệt là một số khu công nghiệp như Hải Phòng, Việt trì,
Đà Nẵng, Biên Hòa,… và các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh gây ô nhiễm nguồn nước đang hàng ngày gia tăng. Tại Hà Nội tổng
lượng nước thải ngày đêm là 300 – 400 ngàn m
3
, trong đó nước thải từ sản
xuất công nghiệp là 85-90 ngàn m
3
,


từ sinh hoạt là 1800-2000 m
3
/ngày đêm.
Nhìn chung, các chất thải đều không qua xử lý nên gây ô nhiễm nặng, chỉ số
ôxy sinh hóa vượt quá chỉ tiêu cho phép hàng trăm lần.
Công nghiệp là ngành làm ô nhiễm nước quan trọng, mỗi ngành có một
loại nước thải khác nhau. Khu công nghiệp Thái Nguyên thải nước biến sông
Cầu thành màu đen, mặt nước sủi bọt trên chiều dài hàng chục km. Khu
công nghiệp Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn m
3
nước thải của nhà máy hóa
5

×