Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 Trường TH 1 Khánh Bình Đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.43 KB, 8 trang )





SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


ĐỀ TÀI:
"KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 1"



I. SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN SÁNG KIẾN:
Nhân dân ta từ rất lâu đã có câu:
“Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
Qua câu nói cho ta thấy ông cha ta đã xác định lời nói rất quan trọng. Trong giao tiếp lời
lẽ phải có sự lựa chọn, cân nhắc vì một khi đã nói ra thì không sao rút lại được. Chính vì
thế để giúp học sinh có được ý thức nói năng rõ ràng, gãy gọn, đủ ý và phù hợp trong mọi
tình huống là rất cần thiết.
Thông qua hoạt động nói các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ mẹ đẻ, nói đúng cấu
trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri thức sau này. Cũng
nhằm hình thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp
phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì ngoài việc cung cấp
cho học sinh hệ thống câu từ, lời nói còn rèn luyện cho các em tính cẩn thận, sự tự tin
trước đám đông, trách nhiệm với bản thân và tôn trọng người tham gia giao tiếp.
Thế nhưng trong thực tế hiện nay ở những giờ luyện nói tình trạng học sinh nói không đủ
ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gic. Nhiều học sinh nhút nhát không muốn
trình bày, chia sẻ với các bạn những điều mình nghĩ, mình biết hoặc có nói thì cũng nói
trống không, không rõ nghĩa. Thậm chí có một số em đã học đến cấp hai mà trước lớp
học diễn đạt vẫn chưa trôi chảy. Đây là vấn đề nhiều giáo viên gặp khó khăn cần có
hướng khắc phục.


II. PHẠM VI TRIỂN KHAI THỰC HIỆN:
Đề tài được áp dụng ở lớp 1A, trường Tiểu học 1 Khánh Bình Đông, năm học 2012-2013.
III. MÔ TẢ SÁNG KIẾN:
1. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh nói chưa tốt:
a. Nguyên nhân chủ quan:
* Về phía giáo viên:
- Xét về nguyên nhân chủ quan đầu tiên cần phải kể đến là quan niệm của giáo viên, một
số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ chú trọng đến kĩ năng
đọc, viết nên trong giờ học tiếng Việt thời lượng dành cho hoạt động nói của học sinh quá
ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học sinh tham gia nói về nội dung bài không được
nhiều mà chỉ qua loa một vài em mà thôi.

- Giáo viên chưa tập trung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý, môi trường sống của học
sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh gặp phải nên khi tiến hành
hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc hay nói trả lời. Không mấy quan tâm
đến những học sinh ít nói, nghèo nàn về ngôn ngữ, vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm
mất nhiều thời gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày
càng trở nên nhút nhát hơn.
- Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu hỏi dễ lại dành
cho học sinh khá, câu hỏi khó đôi khi muốn học sinh yếu trả lời,…
- Có sửa sai nhưng chưa kiên trì, uốn nắn trong mọi tình huống, mọi hoạt động của bài
cũng như ở những giờ học khác.
* Về phía học sinh:
- Chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi giáo viên nêu yêu cầu đến lúc trình bày
thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một số trường hợp chỉ trả lời
một tiếng là “có” hoặc “không” chú chưa giải thích được theo ý mình là vì sao có, vì sao
không ?
- Còn ỷ lại hoặc nói theo các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu trả lời hay cho chính
mình.
* Về phía gia đình:

- Gia đình chưa thấy được tác dụng của việc nói năng lưu loát, gãy gọn trong học tập và
cuộc sống sau này của học sinh mà phần lớn chỉ quan tâm, kiểm tra xem hôm nay con
mình làm toán, viết bài được mấy điểm. Nên cứ để các em phát triển theo môi trường tự
nhiên của xã hội.
b. Nguyên nhân khách quan:
- Do học sinh lớp 1 đa số rất hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc ghi nhớ lời
thầy cô dạy là chưa vững chắc.
- Trường nằm ở vùng sâu, vùng xa học sinh còn nhiều thiếu thốn, điều kiện tiếp cận với
báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng chưa nhiều. Ít có đều kiện tiếp
cận với môi trường mới lạ nên ngôn ngữ diễn đạt phần nào còn hạn chế.
- Phụ huynh đa số sống bằng nghề nông, kinh tế còn khó khăn phải vất vả lo cái ăn, cái
mặc, chưa dành nhiều thời gian ngồi học, trò chuyện hoặc chở con đi chơi, giải trí trong
những dịp cuối tuần để các em có điều kiện giao tiếp với mọi người.
2. Các biện pháp giải quyết vấn đề:

a Biện pháp đối với nguyên nhân chủ quan:
* Đối với giáo viên:
Rèn kĩ năng nói qua môn Tiếng Việt
- Giáo viên cần xác định rõ nói là một trong bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) quan trọng
của môn Tiếng Việt vì vậy cần được quan tâm đúng mức. Trong giờ dạy tiếng Việt lớp
một, giáo viên nên phân chia thời lượng rõ ràng phù hợp với các hoạt động của bài để
đảm bảo nội dung kiến thức được truyền đạt đúng, đủ và vừa sức đối với học sinh.
- Khi tiến hành soạn giáo án cho hoạt động luyện nói nên thiết kế hệ thống câu hỏi theo
cấu trúc từ dễ đến khó phù hợp với năng lực học tập của học sinh trong lớp.
- Khi tổ chức đàm thoại ở lớp trước tiên là giáo viên nên yêu cầu một cách rõ ràng cho
mọi đối tượng đều hiểu được vấn đề mà giáo viên đặt ra. Khi nêu câu hỏi thì phải chọn
học sinh có trình độ phù hợp để trả lời, không chỉ tập trung vào những học sinh khá giỏi
mà phải tạo điều kiện cho mọi đối tượng (giỏi, khá, trung bình, yếu) trả lời.
Ví dụ: Khi dạy hoạt động nói theo chủ đề “bê, nghe, bé” ở bài 25: u – ư giáo viên xây
dựng hệ thống câu hỏi dành cho mọi đối tượng trong lớp như sau:

+ Tranh vẽ gì ? (Tranh vẽ bê, nghe, bé) Dành cho học sinh trung bình – yếu
+ Bê và nghé ăn gì ? (bê và nghé ăn cỏ) Dành cho học sinh trung bình – yếu
+ Bê là con của con gì ? (Bê là con của con bò) Dành cho học sinh khá
+ Nghé là con của con gì ? (Nghé là con của con trâu) Dành cho học sinh khá
+ Ba nhân vật trong tranh có gì chung ? (Ba nhân vật đều còn nhỏ) Dành cho học sinh
giỏi.
- Nếu các em trả lời đúng nhưng chưa thành câu, giáo viên chú ý uốn nắn sửa chữa ngay
và cho học sinh nói lại để các em nhớ.
Ví dụ: Khi giáo viên hỏi: + Bức tranh vẽ gì ?
Học sinh trả lời: + bê (nghé, bé).
Lúc này giáo viên yêu cầu học sinh nói lại cho thành câu như sau:
+ Bức tranh vẽ bê (nghé và bé).
- Cần lưu ý để tạo nên ấn tượng tốt cho các em khi giảng dạy nói chung và khi đàm thoại
nói riêng giáo viên phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng, nói đủ ý, diễn đạt gãy
gọn và trong quá trình rèn luyện cho học sinh qua từng câu, từng bài nên kiên trì, không
nóng vội mà quát nạt, giận dỗi hay trách móc học sinh. Phải hết sức cởi mở, nhã nhặn với

các đối tượng trong lớp tạo không khí vui vẻ, phấn chấn giúp các em có cảm giác thoải
mái thì hoạt động nói mới diễn ra một cách thuận lợi.
- Nên chú trọng tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, những khó khăn, bất hạnh của học sinh
trong lớp để có sự chia sẻ, thông cảm động viên các em nói nhiều và mạnh dạn hơn bắt
đầu từ những điều đơn giản nhất, dần dần tăng mức độ khó lên theo thời gan.
Rèn kĩ năng nói qua các môn học khác, trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
và trong giao tiếp hằng ngày:
- Đối với học sinh lớp một việc ghi nhớ của các em chưa được vững chắc, dễ nhớ nhưng
cũng rất mau quên nên ngoài việc luyện nói trong giờ tiếng Việt ra giáo viên cần duy trì
việc uốn nắn cho các em có được kĩ năng nói thành câu, trôi chảy ở các môn khác.
- Đối với môn Toán cần yêu cầu học sinh nói thành câu, đủ ý vì khi nói đầy đủ người
nghe sẽ hiểu được nội dung một cách trọn vẹn, giữ được ý nghĩa của bài.
Ví dụ: Khi dạy bài Số 7

Giáo viên hỏi: + Có 6 con chim, 1 con chim bay tới. Hỏi có tất cả mấy con chim ?
Nếu học sinh chỉ trả lời là 7 thì chưa đầy đủ, giáo viên cần yêu cầu học sinh sửa lại cho
thành câu như sau:
+ Có 6 con chim, 1 con chim bay tới. Có tất cả là 7con chim.
- Trong các buổi sinh hoạt cuối tuần hoặc các buổi giao lưu văn nghệ , chơi trò
chơi,…khi yêu cầu các em trả lời, hát hoặc tham gia trò chơi không nên đặt nặng vấn đề
thắng thua hay phân loại cao thấp mà cố gắng động viên các em nên hòa đồng thể hiện
hết khả năng của mình trước lớp. Bên cạnh đó giáo viên và các bạn nên kịp thời ghi nhận
và tuyên dương sự tiến bộ để các em cảm thấy tự tin, mạnh dạn hơn.
- Ngoài ra trong giao tiếp hằng ngày giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh
giáo viên cũng phải hết sức chú ý phát hiện và sửa chữa kịp thời khi các em nói trống
không, không đủ ý, xưng hô không phù hợp, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn. Trường hợp
các em nhút nhát không muốn nói thì giáo viên gần gũi, động viên đặt câu hỏi và gợi ý để
các em trả lời từ những điều đơn giản nhất trong cuộc sống.
Ví dụ: + Hôm nay ai đưa em đi học ? (Hôm nay bố đưa em đi học)
+ Em thích học nhất là môn nào ? (Môn Toán là môn em thích học nhất)
b. Biện pháp đối với gia đình:
- Giáo viên thường xuyên tiếp cận và tác động tích cực để gia đình nhận thức một cách
đúng đắn về tầm quan trọng của việc học nói chung và về kĩ năng nói nói riêng. Bên cạnh

việc giáo dục, động viên các em thì phụ huynh phải thực sự gương mẫu trong việc nói
năng có chừng mực, lịch sự, nhã nhặn với mọi người xung quanh để các em học tập, noi
theo.
c. Biện pháp đối với học sinh:
Trong thời gian (khoảng 2 tuần) đầu năm học tôi hướng dẫn rõ ràng quy trình của một
giờ học tiếng Việt gồm những hoạt động nào, yêu cầu của từng hoạt động này ra sao rồi
cho các em thực hiện, đến đâu tôi nhắc nhở, uốn nắn đến đó dần các em đã quen với nề
nếp, cách thức học trong các hoạt động này và chất lượng học tập ngày càng tiến bộ.
Riêng ở hoạt động luyện nói tôi hướng dẫn rất cụ thể các bước tiến hành như: Nhắc học
sinh lắng nghe cô nêu yêu cầu, nêu xong yêu cầu học sinh nhắc lại xem các em có nắm

được nội dung cô yêu cầu chưa, nếu chưa thì giáo viên giải thích thêm cho các em hiểu.
Khi đã hiểu ra vấn đề, giáo viên tiến hành cho các em tập nói theo nhóm nhỏ (nhóm đôi)
trong lúc các em nói, cô đến các nhóm lắng nghe để giúp đỡ, uốn nắn cách nói cho các
em. Khi trình bày trước lớp nên cho các em nhận xét, tham gia sửa chữa để rút kinh
nghiệm lẫn nhau.
- Với những học sinh nói đủ ý, mạch lạc, diễn đạt tốt thì giáo viên khuyến khích các em
duy trì và sáng tạo trong mọi tình huống.
- Khi yêu cầu các em cùng nói về một vấn đề nào đó thì nói có những em chỉ đưa ra câu
trả lời giống y như bạn chứ chưa sáng tạo nói theo suy nghĩ của mình để tranh luận về
vấn đề đó thì giáo viên nên động viên, gợi ý để các em nói khác đi để nội dung bài nói
được mở rộng, sâu sắc và sinh động hơn.
- Đối với những học sinh thiếu tự tin rụt rè, ít nói thì giáo viên chia nhỏ câu hỏi và hỏi
nhiều lần, động viên, ghi nhận những đóng góp dù nhỏ của các em; với những trường hợp
các em nói quá nhỏ cả lớp đều không nghe thấy thì giáo viên sắp xếp cho các em ngồi
bàn ở khoảng giữa lớp và giải thích cho các em hiểu là nói nhỏ như thế thì các bạn không
nghe và không tham gia xây dựng bài tốt được, lớp học sẽ rất buồn chán. Từ đó yêu cầu
các em nói lại, ở mỗi lần nói lại thì yêu cầu các em nói to hơn, to hơn nữa, dần dần các
em sẽ quen với âm lượng nói thế nào là đủ nghe.
- Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ còn lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo viên hướng
dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và nói lại thật phù hợp với
yêu cầu đặt ra.
- Trong khi nói giáo viên phát hiện ra học sinh phát âm sai, hay dùng từ không đúng
trong một số trường hợp thì giáo viên cần sửa chữa ngay và cho các em nói lại để ghi
nhớ.

* Công tác kết hợp với thầy cô bộ môn và các thầy cô khác
Đối với giáo viên dạy chuyên các môn Âm nhạc, Mĩ thuật, … tôi thường xuyên gặp và
trao đổi để thầy, cô nhắc nhở, uốn nắn cách trả lời của các em trong từng tiết học để các
em thấy được thầy cô nào cũng quan tâm mong muốn các em tiến bộ từ đó các em sẽ cố
gắng thực hiện một cách tự giác để sớm hoàn thành nhiệm vụ học tập và để thầy cô được

vui.
d. Biện pháp đối với nguyên nhân khách quan:
Tôi gặp gỡ thường xuyên và giúp gia đình hiểu được rằng lo lắng, thương yêu con không
chỉ lo cho con cái ăn, cái mặc là được mà phải sắp xếp thời gian ở bên con động viên,
chia sẻ và giúp đỡ kịp thời những chuyện vui buồn trong cuộc sống thì nhân cách của các
em mới phát triển toàn diện được.
Học sinh lớp 1 còn nhỏ các em mới chuyển từ cấp học mầm non sang cấp học mới, từ
hoạt động chơi mà học sang hoạt động học nghiêm túc, từ tư duy trực quan sang tư duy
trừu tượng nên nhận thức chưa tới nơi, tới chốn về việc học nói chung và về kĩ năng nói
nói riêng. Hiểu được đặc điểm này giáo viên phải hết sức nhẹ nhàng trong giảng dạy và
giáo dục, thường xuyên động viên để các em thấy được việc học là quan trọng và có học
tập tốt mới làm cho cha mẹ, thầy cô được vui lòng.
4. Kết quả, hiệu quả mang lại:
Thế giới ngôn từ không có điểm tận cùng, việc nói để ứng xử, giao tiếp trong xã hội bằng
tiếng Việt phải học tập suốt đời. Vì vậy để giúp học sinh nói tốt ngay từ lớp 1 là điều rất
cần thiết, đáp ứng được mục tiêu của môn tiếng Việt, tạo điều kiện cho các em học tốt
các môn học khác và ở bậc học cao hơn. Nó còn phù hợp với việc đổi mới phương pháp,
nâng cao chất lượng dạy và học hiện nay.
Bằng tâm huyết của mình tôi đã thực hiện tốt các biện pháp đã đề ra, qua thời gian thực
hiện kết quả đạt được rất khả quan. Giờ đây trong hoạt động luyện nói phần lớn các em
đã tự giác giơ tay để phát biểu, nói đủ nghe, diễn đạt vấn đề khá gãy gọn, những em yếu
kém cũng đã nói được thành câu đơn giản và giải thích sự việc theo ý hiểu của mình chứ
không rụt rè, nhút nhát như trước. Đó là điều làm cho tôi cảm thấy rất vui vì đã uốn nắn
được các em phát huy theo hướng tích cực. Càng đáng mừng hơn là thành tích đó cũng
được phát triển theo thời gian.
Sau đây là bảng so sánh chất lượng nói của học sinh trước và sau khi áp dụng sáng kiến:
Năm học TS

Thời
điểm

Số học sinh
nói mạch
lạc, diễn
Số học
sinh nói
Số học
sinh nói
Số học sinh
nhút nhát,

đ
ạt tốt

đ
ủ ý

chưa đ
ủ ý

ít phát bi
ểu

SL % SL % SL % SL %
2011-2012
(Trước khi
áp dụng)
26
Cuối
năm
4

15.4
7
26.9

10
38.5

5
19.2
2012-
2013
(Sau khi
áp dụng)
25
Cuối
năm
7
28
11
44.0

4
16.0

3
12.0
5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng sáng kiến:
Đề tài sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai và ứng dụng khá thành công ở tổ khối 1
của trường Tiểu học 1 Khánh Bình Đông và có thể ứng dụng rộng rãi cho tất cả các
trường Tiểu học khác.

6. Kiến nghị, đề xuất:
Ngày 25 tháng 05 năm 2013
Người viết



Nguyễn Phương Thúy

Ý kiến xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Hiệu trưởng

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………



×