Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây về truyền dẫn tỷ giá (ERPT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.14 KB, 30 trang )



MỤC LỤC
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU 1
I. Tổng quan nghiên cứu: 2
1.1. Mục tiêu nghiên cứu: 2
1.2. Phương pháp nghiên cứu: 2
1.3. Kết quả nghiên cứu: 3
II. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây về truyền dẫn tỷ giá (ERPT): . 5
2.1. Một số nghiên cứu về ERPT đối với các nước phát triển: 5
2.2. Một số nghiên cứu về ERPT đối với các nền kinh tế mới nổi: 6
2.3. Các nghiên cứu giải thích tại sao ERPT là không hoàn toàn: 7
2.4. Vai trò của các chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa: 8
2.5. Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá phụ thuộc vào mức độ lạm phát: 9
2.6. Nghiên cứu về ERPT và mức độ mở cửa thương mại của một quốc gia: 9
III. Đo lường hiệu ứng ERPT: 11
3.1. Mô hình và phương pháp luận: 11
3.2. Mô tả mẫu: 12
IV. Kết quả: 16
4.1. Kết quả thực nghiệm: 16
4.2. Kiểm định Robustness: 19
4.2.1. Mô hình thay thế 1: 19
4.2.2. Mô hình thay thế 2: 21
V. Kết luận: 24
5.1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu: 24
5.2. Hạn chế của nghiên cứu: 24
5.3. Đề xuất từ nghiên cứu: 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO CỦA BÀI NGHIÊN CỨU 26
PHỤ LỤC: NGUỒN DỮ LIỆU 28
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 1

TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Bài viết nghiên cứu mức độ truyền dẫn tỷ giá (ERPT) tới giá cả ở 12 thị trường
mới nổi ở châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Kết quả của bài nghiên cứu này
dựa trên mô hình tự hồi quy véc-tơ, có phần trái ngược với quan điểm truyền thống
(quan điểm truyền thống cho rằng ERPT tác động đến giá nhập khẩu và giá tiêu dùng
tại các quốc gia mới nổi luôn cao hơn các quốc gia phát triển).
Kết quả nghiên cứu đưa ra vấn đề sau: Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá là thấp ở các
nước mới nổi có lạm phát là một con số và không quá khác biệt so với ERPT tại các
nền kinh tế phát triển. Nghiên cứu cũng đưa ra những bằng chứng về mối tương quan
dương giữa hiệu ứng ERPT và lạm phát. Cuối cùng, mối tương quan dương giữa mức
độ mở cửa nhập khẩu và ERPT theo nghiên cứu thực nghiệm thì được cho là yếu.


Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 2

I. Tổng quan nghiên cứu:
Đứng trên khía cạnh chính sách, việc hiểu biết về tác động của biến động tỷ giá
lên mặt bằng giá cả rất quan trọng trong việc đo lường sự tác động của chính sách tiền
tệ lên sự biến động tiền tệ. Nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh rằng biến động tỷ
giá hối đoái và mặt bằng giá cả không đi đôi trong ngắn và trung hạn. theo một tài liệu
lý thuyết phổ biến trong 3 thập kỷ qua, đưa ra những giải thích khác nhau về việc
truyền dẫn tỷ giá đến giá nhập khẩu va giá tiêu dùng là chưa hoàn toàn. Phân tích thực
nghiệm cũng đã cung cấp bằng chứng về sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia trong
vấn đề ERPT. Một tranh luận lớn về vấn đề này đã được đề xuất bởi Taylor (2000),
ông đưa ra giả thuyết là sự phản ứng của giá cả trước biến động tỷ giá phụ thuộc đáng
kể vào lạm phát.

Bài nghiên cứu “EXCHANGE RATE PASS-THROUGH IN EMERGING
MARKETS” của Michele Ca’ Zorzi, Elke Hahn và Marcelo Sánchez trình bày một
cách ngắn gọn kết quả của các tài liệu nghiên cứu trước đây, khám phá tầm quan
trọng của ERPT và sự khác biệt giữa các quốc gia bằng cách áp dụng mô hình (VAR)
cho các nước thị trường mới nổi và các nền kinh tế công nghiệp chủ yếu.
1.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Để biết được mức độ truyền dẫn tỷ giá, bài nghiên cứu xem xét mức độ ảnh
hưởng của tỷ giá hoái đối đến giá cả trên 12 thị trường mới nổi ở châu Á, Mỹ Latinh,
Trung và Đông Âu các vấn đề sau:
 Mức độ truyền dẫn ERPT ở các nền kinh tế mới nổi và ERPT ở các nước này
có khác biệt với các nước phát triển không?
 Mối tương quan giữa ERPT và lạm phát
 Mối tương quan giữa ERPT và mức độ mở cửa
1.2. Phương pháp nghiên cứu:
Bài nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận chủ yếu của McCarthy (2000) trong mô
hình cho các nước tiên tiến và được áp dụng bởi Hahn (2003) khu vực Euro. Nhóm
nghiên cứu sử dụng mô hình VAR, dựa trên các biến cơ bản như các biến sản lượng
đầu ra, tỷ giá hối đoái, giá nhập khẩu và giá tiêu dùng, mức lãi suất ngắn hạn, và giá
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 3

dầu. Cách tiếp cận bằng mô hình VAR cho phép xử lý được hiện tượng nội sinh giữa
các biến mà nhóm tác giả quan tâm. Cơ cấu lựa chọn mô hình là để theo dõi các phản
ứng của các biến với những cú sốc từ bên ngoài theo thời gian.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả áp dụng phương pháp tiếp cận hệ thống
cho các nước trong ba khu vực thị trường mới nổi chính trên thế giới, cụ thể là, châu
Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Đồng thời, tác giả cũng sử dụng cách tiếp cận
tương tự với ba nền kinh tế công nghiệp lớn, cụ thể là khu vực Euro, Mỹ và Nhật Bản
để so sánh hai nhóm nước này với nhau. Bằng cách ước tính mô hình mỗi quốc gia là

trong thời gian trở về trước xa nhất có thể, nhóm tác giả hướng đến mức độ chính xác
cao nhất có thể trong việc ước tính ERPT cho mỗi quốc gia. Theo đó, một thành phần
quan trọng để phân tích là việc tạo ra một cơ sở dữ liệu phù hợp và so sánh cho mỗi
quốc gia ở tần suất hàng quý . Điều này giúp đảm bảo việc tiếp cận hệ thống dựa trên
những biến có tương quan cao để đầy đủ và tránh việc những biến sai lệch bị loại trừ.
Sau đó nhóm tác giả sử dụng các kết quả các nước này để kiểm tra quan điểm
truyền thống rằng có phải ERPT tại thị trường mới nổi cao hơn các nền kinh tế công
nghiệp và nghiên cứu mô hình truyền dẫn tỷ giá trong mối quan hệ tương quan theo
Mc Cathy và Choudhri & Hakura. Việc ERPT cao hay không tại thị trường mới nổi
có ý nghĩa trong việc xác định cán cân thương mại và sự chọn lựa tỷ giá hối đoái của
quốc gia đó. Nếu truyền dẫn tại thị trường mới nổi là thấp thì có thể hiểu rằng sức
mạnh thị trường của các doanh nghiệp ở các nước này ngày càng tăng và không hề
suy giảm. Tuy nhiên, tại các quốc gia có nền kinh tế mới nổi, điều khó khăn là làm
sao ước tính được mức độ tin cậy trong việc ERPT. Một số quốc gia châu Á theo đuổi
những chính sách nhằm kiểm soát tỷ giá hối đoái. Các nước Trung và Đông Âu đã trải
qua một biến đổi triệt để nền kinh tế của họ trong những năm 1990. Cuối cùng, Thổ
Nhĩ Kỳ và một số nước Mỹ Latinh chịu sự bất ổn kinh tế vĩ mô mạnh mẽ đặc trưng
bởi tỷ lệ lạm phát rất cao và / hoặc những biến động mạnh mẽ trong lãi suất và tỷ giá
hối đoái.
1.3. Kết quả nghiên cứu:
Kết quả là ERPT làm sụt giảm trên toàn chuỗi giá cả, tuy nhiên giá tiêu dùng
thì giảm thấp hơn giá nhập khẩu (tỷ giá có tác động không lớn đến lạm phát bằng tác
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 4

động lên giá nhập khẩu). Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy rằng ERPT có tác
động không cao đối với các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ và giá tiêu dùng ở Nhật
Bản. Đối với các nền kinh tế mới nổi với mức lạm phát chỉ ở mức một con số (đặc
biệt là các nước châu Á trong mẫu của nhóm tác giả), ERPT là thấp và không quá

khác biệt với ERPT trong các nền kinh tế phát triển.
Một cách tổng quát, bài nghiên cứu này đưa ra nhận định chung về mối tương
quan dương giữa mức độ ERPT và lạm phát (phù hợp với giả thuyết của Taylor) tại
các thị trường mới nổi. Mối tương quan này có ý nghĩa thống kê trên cả ba mô hình
mà nhóm tác giả đã thực hiện (mô hình cơ bản và hai mô hình thay thế). Kết quả này
trở nên rõ ràng hơn sau khi hai nước Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ được loại trừ do
những khó khăn liên quan đến hàng loạt bất ổn kinh tế vĩ mô nghiêm trọng xảy ra trên
hai nước này (hai quốc gia này đã trải qua áp lực lạm phát mạnh mẽ trong giai đoạn
mẫu được xem xét).
Cuối cùng là tìm thấy mối tương quan dương giữa ERPT và độ mở cửa, tuy
nhiên mối tương quan này là yếu, ngay cả khi đã kiểm soát lạm phát.

Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 5

II. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây về truyền dẫn tỷ giá (ERPT):
Trong hai thập kỷ qua học thuyết kinh tế về truyền dẫn tỷ giá (ERPT) ngày
càng phát triển. Bắt đầu từ việc khác nhau trong các luận điểm, nghiên cứu thực
nghiệm xem xét vai trò của ERPT trong các nền kinh tế nhỏ và lớn.
2.1. Một số nghiên cứu về ERPT đối với các nước phát triển:
Bao gồm các nhóm tác giả như Anderton (2003), Campa và Goldberg (2004),
Campa (2005), Gagnon và Ihrig (2004), Hahn (2003), Ihrig (2006) và McCarthy
(2000).
Anderton (2003): “Extra-Euro Area Manufacturing Import Prices and Exchange
Rate Pass-Through”.
Sự truyền dẫn trong thay đổi tỷ giá đồng Euro tới giá sản phẩm nhập khẩu
trong khu vực ngoài châu Âu thì dao động khoảng 50%-70%. Trong khi giá thị trường
thì ước tính dao động từ 30%-50%.
Các quốc gia thành viên Châu Âu nhưng không phải trong khu vực chung

Châu Âu áp một mức lớn hơn lên giá thị trường trong khi khu vực chung Châu Âu
nhập khẩu từ Mỹ chịu mức độ ảnh hưởng lớn của ERPT.
Campa và Goldberg (2004): “Exchange Rate Pass-Through into Import Prices”
Đánh giá mức độ truyền dẫn tỷ giá vào giá nhập khẩu của 23 nước OECD.
Các nước có tỷ giá hối đoái và lạm phát biến động ít hơn có thể sẽ có tỷ lệ
truyền dẫn tỷ giá hối đoái vào giá nhập khẩu thấp hơn.
Điều quan trọng cho sự thay đổi truyền dẫn là một thay đổi đáng kể trong
thành phần của cơ cấu hàng nhập khẩu quốc gia.
Campa, Goldberg và González-Mínguez (2005): “Exchange Rate Pass-Through
to Import Prices in the Euro Area”
Phân tích thực nghiệm sự truyền dẫn của tỷ giá hối đoái đến giá nhập khẩu,
giữa các nước và các loại sản phẩm, trong khu vực đồng Euro.
Không tìm thấy bằng chứng thuyết phục rằng sự ra đời của đồng Euro gây ra
một sự thay đổi trong sự truyền dẫn của tỷ giá vào giá.
Hahn (2003): “Pass-Through of External Shocks To Euro Area Inflation”
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 6

Việc truyền dẫn là lớn nhất và nhanh nhất đối với cú sốc bên ngoài đó là cú sốc
giá nhập khẩu mặt hàng không phải dầu mỏ, tiếp đến là cú sốc về thay đổi tỷ giá, và
cuối cùng là cú sốc về giá dầu.
Tốc độ và mức độ truyền dẫn của các cú sốc giảm dần dọc theo chuỗi phân
phối.
Ihrig và cộng sự (2006): “Exchange Rate Pass-Through in the G-7 countries”
Có sự sụt giảm giá nhập khẩu và biến động giá tiêu dùng gần như tất cả các
nước G7 trước các biến động tỷ giá hối đoái. Khoảng một nửa các quốc gia này có sự
biến động sụt giảm đáng kể trong các khoảng thời gian từ 1975-1989 và 1990-2004.
Biến động tỷ giá hối đoái cho cả hai giá tiêu dùng và nhập khẩu đã giảm trong
cùng một khoảng thời gian. Phần lớn biến động giá tiêu dùng được giải thích bởi sự

suy giảm trong biến động tỷ giá hối đoái.
Những nước mà sự suy giảm trong giá cả nhập khẩu và biến động giá tiêu dùng
cũng tương đối lớn, cho thấy giảm biến động giá nhập khẩu có thể giải thích sự thay
đổi trong biến động giá tiêu dùng.
McCarthy (2000): “Pass-Through of Exchange Rates and Import Prices to
Domestic Inflation in Some Industrialized Economies” .
Bài nghiên cứu này xem xét hiệu ứng truyền dẫn vào giá nhập khẩu, PPI, CPI
hàng quý của 9 nước phát triển.
Kết quả chỉ ra rằng hiệu ứng truyền dẫn là rất nhỏ, và cao nhất ở giá nhập
khẩu, tiếp đến là PPI và cuối cùng là CPI. Sự truyền dẫn là lớn hơn ở những nước có
thị phần nhập khẩu lớn và cú sốc tỷ giá hối đoái dai dẳng hơn.
2.2. Một số nghiên cứu về ERPT đối với các nền kinh tế mới nổi:
Như các nghiên cứu của Choudhri và Hakura (2006), Frankel (2005) và
Mihaljek (2000).
Choudri và Hakura (2006): “Exchange Rate Pass-Through to Domestic Prices:
Does the Inflationary Environment Matter?”
Bài nghiên cứu này dựa trên cơ sở dữ liệu của 71 nước phát triển và mới nổi
trong giai đoạn 1979 – 2000 để kiểm chứng mối quan hệ giữa lạm phát, mức độ tuyền
dẫn và sức mạnh định giá của các công ty.
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 7

Mức độ truyền dẫn có mối tương quan đáng kể với tỷ lệ lạm phát trung bình.
Dubravko Mihaljek and Marc Klau: “A Note on the Pass-Through from
Exchange Rate and Foreign Price Changes to Inflation in Selected Emerging
Market Economies”
Jeffrey Frankel, David Parsley, and Shang-Jin Wei: “Slow Pass-Through Around
the World: A New Import for Developing Countries”
Hệ số truyền dẫn cao hơn đáng kể trong một môi trường lạm phát cao. Thường

thì chúng cũng bị ảnh hưởng bởi một môi trường có tỷ giá thay đổi tạm thời.
2.3. Các nghiên cứu giải thích tại sao ERPT là không hoàn toàn:
Các nhà kinh tế thường đưa ra giả định đơn giản là giá cả của hàng hóa có thể
giao dịch – biểu hiện trong cùng loại tiền tệ - được cân bằng giữa các quốc gia, theo lý
thuyết ngang giá sức mua (PPP). Tuy nhiên, giả thiết này không được hỗ trợ nhiều
trong thực nghiệm, ít nhất là trong trường hợp các mẫu nhỏ trong ngắn hạn và trung
hạn. Các tài liệu lý thuyết phát triển trong hai thập niên vừa qua cũng cung cấp lời
giải thích khác nhau tại sao ERPT là không hoàn toàn.
Một vài giả thuyết đã được đưa ra để giải thích sự giảm sút này trong
hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá hối đoái và sự khác nhau của hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá
hối đoái giữa các quốc gia. Trong bài nghiên cứu “Exchange rates and prices” của
Dornbusch (1987), ông cho rằng cho rằng nguyên nhân chủ yếu của sự suy giảm
hiệu ứng truyền dẫn trong tỷ giá hối đoái do có các công ty trong thị trường cạnh
tranh không hoàn hảo sẽ điều chỉnh mark-up tăng lên (không chỉ điều chỉnh mỗi giá
cả) để phản ứng với một cú sốc tỷ giá hối đoái. Burstein (2003) nhấn mạnh vai trò của
yếu tố đầu vào nội địa (hàng hóa được sản xuất và giao dịch trong nước (non-trade))
trong việc phân phối chuỗi hàng hóa xuất khẩu (tradable good). Cũng trong một bài
nghiên cứu của mình (2005), Burstein tập trung vào vấn đề đo lường trong chỉ số CPI,
bỏ qua việc điều chỉnh giá trị của hàng hóa xuất khẩu khi có sự điều chỉnh lớn trong
tỷ giá hối đoái. Cụ thể như sau:
Dornbusch (1987): “Exchange Rates and Prices”
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 8

Nghiên cứu xem những lĩnh vực bị ảnh hưởng nhiều và những lĩnh vực bị ảnh
hưởng ít khi tỷ giá thay đổi.Sự thay đổi của tỷ giá làm cho các ngành công nghiệp bị
ảnh hưởng mạnh.
Dự đoán về sự di chuyển quốc tế của các công ty và sự mất cân bằng tỷ giá hối
đoái trong tương lai.

Burstein và cộng sự (2003): “Distribution Costs And Real Exchange Rate
Dynamics During Exchange-Rate-Based-Stabilizations”
Nghiên cứu vai trò của các lĩnh vực phân phối trong việc hình thành hành vi
của tỷ giá hối đoái thực trong quá trình thay đổi tỷ giá.
Chi phí phân phối là một trong những lý do tại sao PPP thất bại vì chi phí phân
phối thường không được coi là yếu tố quyết định quan trọng của RER.
Burstein và cộng sự (2005): “Large Devaluations and the Real Exchange Rate”
Nguyên nhân chính đằng sau sự sụp đổ lớn trong tỷ giá hối đoái thực xảy ra
sau khi phá giá lớn là sự điều chỉnh giảm trong giá hàng hóa chỉ sản xuất và tiêu dùng
trong nước chứ không phải là sự thất bại của tương quan PPP đối với hàng hoá xuất
khẩu.
2.4. Vai trò của các chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa:
Một luận điểm khác nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa và tiền tệ bù
đắp một phần những tác động của thay đổi tỷ giá lên giá (Gagnon và Ihrig, 2004),
Devereux và Engel (2001) và Bacchetta và Van Wincoop (2003) đã khám phá vai
trò của giá cả nội tệ trong việc giảm mức độ ERPT.
Gagnon và Ihrig (2004): “Monetary Policy And Exchange Rate Pass-Through”
Tìm thấy bằng chứng cho rằng việc điều hành chính sách tiền tệ là yếu tố tác
động tới việc truyền dẫn
Khi doanh nghiệp tín nhiệm và tin vào việc ổn định lạm phát của ngân hàng
trung ương thì ít có sự biến động sẽ làm giảm sự chuyển dịch của tỷ giá vào giá trong
nước.
Devereux và Engel (2001): “Endogenous Currency Of Price Setting In A Dynamic
Open Economy Model”
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 9

Các doanh nghiệp xuất khẩu có thể lựa chọn đồng tiền mà họ được định giá
cho việc bán hàng ra thị trường nước ngoài.

Một quốc gia có chính sách tiền tệ có nhiều biến động sẽ thấy rằng giá nhập
khẩu sẽ được thiết lập lại bằng ngoại tệ (theo đồng tiền của người bán), và có sự
chuyển dịch mạnh mẽ từ tỷ giá hối đoái sang giá nhập khẩu.
Một đất nước có chính sách tiền tệ ít biến đổi và thị trường tài chính quốc tế
hoàn hảo có nhiều khả năng thiết lập giá hàng hóa nhập khẩu theo đồng nội tệ và sự
chuyển dịch của tỷ giá là rất thấp.
Bacchetta và Van Wincoop (2003): “Why Do Consumer Prices React Less Than
Import Prices To Exchange Rates?”
Mức độ truyền dẫn của biến động tỷ giá lên giá tiêu dùng thấp hơn nhiều so với
giá nhập khẩu. Các nhà xuất khẩu có xu hướng định giá bằng đồng tiền của nước xuất
khẩu và nhà sản xuất định giá bằng nội tệ, trong trường hợp này sự chuyển dịch hoàn
toàn lên giá nhập khẩu và không có sự chuyển dịch lên giá tiêu dùng.
Các nhà sản xuất hàng hóa cuối cùng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá bên cạnh
chi phí sản xuất, nên họ muốn đặt giá bằng nội tệ để tránh biến động giá lớn so với
hàng tiêu dùng khác.
2.5. Hiệu ứng truyền dẫn tỷ giá phụ thuộc vào mức độ lạm phát:
Một số nghiên cứu thực nghiệm cho các nền kinh tế tiên tiến và các nền kinh tế
mới nổi đã tìm thấy bằng chứng của ERPT không hoàn toàn. Các nghiên cứu này
cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các quốc gia về những
yếu tố cơ bản quyết định đến việc truyền dẫn. Có thể giải thích cho vấn đề này thông
qua các biến số vĩ mô, đặc biệt là lạm phát.
Theo Taylor (2000) thì sự phản ứng của giá cả trước biến động tỷ giá phụ thuộc đáng
kể vào lạm phát. Ông khẳng định rằng môi trường lạm phát càng thấp và ổn định thì
ERPT cũng càng nhỏ.
2.6. Nghiên cứu về ERPT và mức độ mở cửa thương mại của một quốc gia:
Một yếu tố quan trọng quyết định ERPT là mức độ mở cửa thương mại của
một quốc gia. Một quốc gia càng mở cửa, sự biến động trong tỷ giá hối đoái truyền
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 10


dẫn qua giá nhập khẩu vào chỉ số CPI thay đổi càng nhiều. Tuy nhiên, nhóm tác giả
nhận thấy rằng lạm phát có thể tỷ lệ nghịch với sự mở cửa, thực nghiệm chứng minh
mối tương quan nghịch chiều này được tìm thấy trong nghiên cứu của Romer (1993).
Theo cách tiếp cận gián tiếp có thể hiểu như sau sự mở cửa sẽ tương quan
nghịch chiều với lạm phát, tuy nhiên theo giả thiết của Taylor thì lạm phát tương quan
dương với mức độ của truyền dẫn, do đó sự mở cửa sẽ tương quan nghịch chiều với
ERPT. Cách tiếp cận trực tiếp và gián tiếp đi theo hướng ngược nhau và một cách
tổng thể của sự tương quan giữa truyền dẫn và sự mở cửa có thể đồng biến hoặc
nghịch biến.
Romer (1993): “Openness and Inflation: Theory and Evidence”
Việc mở rộng chính sách tiền tệ không được dự đoán trước sẽ làm cho tỷ giá
hối đoái thực sụt giảm và trên thực tế những thiệt hại của sự sụt giảm này sẽ lớn hơn
trong nền kinh tế mở cửa nhiều hơn.

Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 11

III. Đo lường hiệu ứng ERPT:
3.1. Mô hình và phương pháp luận:
Bài nghiên cứu sử dụng một mô hình VAR tiêu chuẩn sau:


=  +









+


(1)
Trong đó: Yt là véc tơ biến nội sinh nghiên cứu
c là véc tơ của các hằng số
Φi biểu thị cho ma trận các hệ số tự tương quan
εt là véc tơ sai số ngẫu nhiên
Việc xác định các cú sốc cấu trúc thực hiện bằng cách sắp xếp thích hợp các
biến quan tâm và áp dụng phân rã Cholesky cho ma trận hiệp phương sai để làm giảm
sai số εt.
Nhóm tác giả phân tích bằng mô hình VAR 6 biến tương tự như trong các mô
hình nghiên cứu trước đây của McCarthy và Hahn. Mô hình VAR cơ bản áp dụng cho
các quốc gia khác nhau, với các biến bao gồm chỉ số giá dầu oilt, sản lượng đầu ra yt,
tỷ giá hối đoái et, chỉ số giá nhập khẩu pimpt, chỉ số giá tiêu dùng cpit, và lãi suất
ngắn hạn it. Tỷ giá hối đoái, chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng là các biến
quan trọng trong phân tích, các biến sản lượng đầu ra và giá dầu được tính đến để nắm
bắt được hiệu ứng thật sự của nền kinh tế. Biến tỷ lệ lãi suất thể hiện việc thị trường
tiền tệ, bao gồm cả chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến mối quan hệ truyền dẫn.
Trong mô hình cơ sở, các biến được sắp xếp theo thứ tự như trên. Việc sử dụng
mô hình nội sinh ngụ ý rằng những cú sốc được xác định ảnh hưởng đồng thời lên các
biến tương ứng của nó và các biến xếp sau nó. Tuy nhiên, không có tác động ngược
trở lại các biến được sắp xếp đứng trước. Trong mô hình của nhóm tác giả, biến được
xếp đầu tiên là giá dầu. Do đó, những cú sốc giá dầu có thể ảnh hưởng đến tất cả các
biến khác trong thời cũng nhưng giá dầu không ảnh hưởng lên chính nó và bởi bất kỳ
các cú sốc khác. Biến tiếp theo là sản lượng và tỷ giá hối đoái. Sự sắp xếp này ngầm
giả định sẽ xảy ra một tác động đồng thời của cú sốc cầu lên tỷ giá hối đoái và tác

động của cú sốc tỷ giá hối đoái lên sản lượng đầu ra chịu một độ trễ nhất định theo
thời gian. Các biến giá được sắp xếp tiếp theo và do đó thời cũng bị ảnh hưởng bởi tất
cả các cú sốc nói trên. Giá nhập khẩu được đặt trước giá tiêu dùng được tính đến là
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 12

một ảnh hưởng hiện thời của những cú sốc giá nhập khẩu trên giá tiêu dùng nhưng
không có chiều ngược lại. Lãi suất được đặt ở cuối cùng, là đại diện của thị trường
tiền tệ, và trong chính sách tiền tệ cụ thể, nó phản ứng lại đồng thời với tất cả các biến
trong mô hình. Các đặc điểm cơ bản trên chỉ đại diện cho một trong những giải pháp
để nhận dạng các biến và cũng mang tính tương đối.Vì vậy, sau đó chúng tôi thực
hiện một phân tích độ nhạy bằng cách sử dụng hai công thức đáng tin cậy khác.
3.2. Mô tả mẫu:
Bài nghiên cứu tập trung phân tích các nước từ ba khu vực lớn trên thế giới:
châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, và Hồng Kông), Trung và
Đông Âu (Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan) cộng thêm Thổ Nhĩ Kỳ, và Châu Mỹ La
Tinh (Argentina, Chile và Mexico). Đây là các nền kinh tế mới nổi chính ở các khu
vực này. Đối với mỗi quốc gia, dữ liệu được lấy theo quý và dữ liệu sẽ được tổng hợp
trong khoảng thời gian trở về trước xa nhất có thể. Giá dầu được thể hiện bằng chỉ số
giá dầu thô tính bằng đô la Mỹ. Các biến sản lượng là GDP, trong một vài trường hợp,
bài nghiên cứu đã sử dụng sản lượng sản xuất công nghiệp để có được một khoảng
thời gian mẫu dài hơn. Tỉ giá hối đoái, đối với tất cả các nước sử dụng một chuỗi tỉ
giá danh nghĩa hiệu lực. Hơn nữa, nhập khẩu bằng đồng nội tệ và chỉ số giá tiêu dùng
cũng được bao gồm, (Ngoại trừ Trung Quốc bị giới hạn trong phân tích cho giá tiêu
dùng và chỉ số giá nhập khẩu bởi vì chúng không sẵn có). Cuối cùng, các công cụ
chính sách tiền tệ được thể hiện bằng lãi suất ngắn hạn.









Bảng 1 tóm tắt các điều kiện kinh tế vĩ mô ở các thị trường mới nổi trong giai đoạn
lấy mẫu dữ liệu.
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 13


Các nước châu Á: lạm phát trung bình tương đối thấp, đặc biệt là Đài Loan và
Singapore. Hai nước này đã quản lý hiệu quả để kết hợp tăng trưởng GDP thực sự
mạnh mẽ, lạm phát thấp và tỷ giá danh nghĩa hiệu lực, cả về giá trị và các điều kiện
biến động.
Các nước Trung và Đông Âu: kết hợp tăng trưởng sản lượng khoảng 2% đến 3% với
tỷ lệ lạm phát giảm nhanh tương ứng. Cụ thể hơn, giảm phát đã đạt được tại Cộng hòa
Séc, mặc dù trong bối cảnh suy thoái kéo dài sau khi cuộc khủng hoảng ngân hàng
năm 1997. Thời kỳ được nghiên cứu là thời kỳ trở lại của hệ thống kinh tế thị trường,
Cộng hòa Séc, Hungary và Ba Lan không những cho phép áp dụng một hệ thống định
giá thực theo hiệu ứng Balassa - Samuelson theo một quy trình thống nhất giữa các
quốc gia mà còn mở rộng cho vay dưới chuẩn trong thời kỳ đầu của việc tái cấu trúc.
Các nước Mỹ-Latinh: một số quốc gia đã trải qua áp lực lạm phát mạnh mẽ trong giai
đoạn mẫu được xem xét. Hai trường hợp nổi bật là Argentina và Thổ Nhĩ Kì (áp lực
lạm phát mạnh mẽ và biến động TGHĐ cao với những khó khăn tài chính xảy ra
nhiều lần tại TNK). Mexico cũng trải qua những khủng hoảng đáng kể, bất ổn thị
trường thể hiện bởi sự biến động tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiệu lực cao. Chile quản
lý giữ lạm phát trung bình thấp hơn khoảng 13% kể từ năm 1980.
Cuối cùng, nhiều thị trường mới nổi trong mẫu được mô tả như các nền kinh tế

mở cửa trong các cơ cấu giao dịch. Lấy tỷ lệ nhập khẩu theo phần trăm GDP, chúng ta
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 14

thấy rằng các nền kinh tế mở cửa nhất trong mẫu (theo thứ tự giảm dần) là Hồng
Kông, Singapore tiếp theo là Cộng hòa Séc và Hungary. Các nền kinh tế lớn hơn,
Trung Quốc và Argentina được thấy là tương đối khép kín so với các thị trường mới
nổi khác trong nghiên cứu này.
Bảng 2 tóm tắt các điều kiện kinh tế vĩ mô trung bình trong ba nền kinh tế tiên tiến và
cũng là điểm chuẩn của nhóm tác giả so sánh. Đó là Mỹ, khu vực đồng Euro và Nhật
Bản.

Các nền kinh tế này có tỉ lệ lạm phát trung bình thấp cũng như điều kiện kinh
tế vĩ mô ổn định hơn so với các thị trường mới nổi. Trên cơ sở lịch sử lạm phát, trong
số các thị trường mới nổi, người ta có lẽ sẽ mong đợi có thể tìm thấy các hệ số ERPT
thấp nhất ở châu Á và cao nhất ở châu Mỹ Latinh, ngoại trừ Chile. Mức độ mở của
nền kinh tế, có thể đóng góp để đóng một vai trò làm cân bằng bằng cách làm giảm
các tác động của ERPT đến chỉ số giá tiêu dùng vì các nền kinh tế Mỹ Latinh có độ
mở không cao, trong khi mang lại một tác động dương, làm tăng ERPT, đặc biệt là
trong các trường hợp của Hồng Kông và Singapore - các quốc gia có độ mở lớn nhất
trong mẫu nghiên cứu.
Mức độ ERPT trong mỗi quốc gia được tính toán bằng cách ước tính một đặc
điểm kỹ thuật của mô hình (1) cho các vector được chọn của các biến nội sinh. Kiểm
định nghiệm đơn vị units root cho thấy hầu hết các biến trong các nước được coi là
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 15

không dừng (chỉ có biến lãi suất đã được tìm thấy là dừng trong một số trường hợp),

trong khi kiểm định đồng liên kết Johansen tổng thể cung cấp bằng chứng yếu của
mối quan hệ cân bằng dài hạn có thể có giữa các biến ở một số nước . Với những đặc
tính của dữ liệu trong phương pháp VAR, việc lấy sai phân bậc một dẫn đến việc đi
ngược với mô hình Vector sửa lỗi (VECM) nếu xuất hiện mối quan hệ đồng liên kết.
Tuy nhiên, sự lựa chọn của nhóm tác giả cũng cho rằng việc phân tích: (i) tập trung
vào ngắn hạn thay vì mối quan hệ cân bằng dài hạn các giữa các biến, và (ii) bị hạn
chế bởi các mẫu có thời gian ngắn có sẵn cho một số các nền kinh tế thị trường mới
nổi. Một sự lựa chọn thay thế khả thi sẽ có được một mô hình VAR ở các cấp độ của
các biến. Tuy nhiên, mấu chốt của vấn đề là không thể ước lượng được mức độ cũng
như không thể chỉ rõ được mô hình. Trong điều kiện có mặt của mối quan hệ đồng
liên kết, phương pháp cũ sẽ chịu ảnh hưởng từ phi tham số và lỗ hiệu quả. Mô hình
VECM sẽ cho kết quả không đồng nhất với dự đoán nếu như mô hình bị tác động
mạnh do vector đồng liên kết không phù hợp.
Cụ thể hơn, mô hình VAR của chúng tôi lấy sai phân bậc 1 của các biến bao
gồm Δoil
t
, Δy
t
, Δe
t
, Δpimp
t
, Δcpi
t
và cuối cùng, tùy thuộc vào kết quả của kiểm định
tính dừng cả i
t
hoặc Δi
t
Tất cả các mô hình được ước tính với cùng một hệ số và số

liệu được điều chỉnh để loại bỏ yếu tố mùa vụ. Độ trễ trong mô hình VAR cho mỗi
quốc gia được xác định bằng cách dựa vào các tiêu chí thông tin khác nhau cũng như
một số kiểm định cụ thể. Tiêu chí thông tin được sử dụng để giúp xác định độ dài trễ
tối ưu, nhưng quyết định cuối cùng dựa trên các kiểm định cụ thể thông qua việc áp
dụng cho các mô hình thay thế khác.
Trong những phần tiếp theo, đầu tiên sẽ đưa ra các kết quả tác động của ERPT
đối với giá cả trong nước tại các nền kinh tế mới nổi và so sánh với nhóm các nước
phát triển. Sau đó, nhóm tác giả thiết lập một mối liên hệ giữa kích thước của ERPT ở
các quốc gia và một số yếu tố khả thi bằng cách tính toán hệ số tương quan. Cuối
cùng kiểm tra lại sự chắc chắn của những kết quả này bằng cách áp dụng hai phương
án xác định thay thế.
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 16

IV. Kết quả:
4.1. Kết quả thực nghiệm:
Các ước tính của ERPT lên giá nhập khẩu và CPI cho tất cả các nước có thị trường
mới nổi trong mẫu của nhóm tác giả được tóm tắt trong bảng 3 và 4 với 2 khoảng thời
gian khác nhau, cụ thể là sau 4 quý và 8 quý. Đối với hầu hết các quốc gia, kết quả
của nhóm tác giả nói chung có vẻ hợp lí cả với CPI và giá nhập khẩu. ERPT được tìm
thấy để giảm dần theo chuỗi giá cả, tức là giá nhập khẩu cao hơn giá tiêu dùng. Đặc
biệt, một năm sau cú sốc ERPT tới giá nhập khẩu được tìm thấy là cao và thống kê
không khác nhau từ một trong các trường hợp của Argentina, Chile, Hungary, hầu hết
các nước châu Á khác. ERPT đối với CPI được tìm thấy là cao nhất ở Hungary và
Mexico. Ở châu Á, ERPT tới chỉ số giá tiêu dùng được tìm thấy là thấp cho cả 2
khoảng thời gian khảo sát 4 quý và 8 quý .Như là Singapore, trong khi các ước tính
điểm của các hệ số được tìm thấy là tương quan âm yếu, chúng xấp xỉ bằng 0.


















Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 17

Sau đó, nhóm tác giả áp dụng cùng một phương pháp cho khu vực đồng tiền
chung châu Âu, Mỹ và Nhật Bản để đánh giá xem mức độ của ERPT có phải là cao
hơn ở các thị trường mới nổi.
Bảng 5 cho thấy các bằng chứng đối với khu vực đồng Euro là phù hợp với dự
toán được tìm thấy bởi các nghiên cứu tương tự (xem Hahn, 2003) cũng như các
phương pháp khác (ví dụ Anderton, năm 2003, và Campa, năm 2005, với giá nhập
khẩu). Các ước tính được tìm thấy ở Mỹ là phù hợp với sự đồng thuận chung rằng
ERPT là rất thấp ở Hoa Kỳ, cả đối với giá nhập khẩu và CPI (xem Gagnon và Ihrig,
năm 2004, đối với CPI). Tại Nhật Bản, ERPT đối với CPI được tìm thấy là rất nhỏ sau
4 quý và 8 quý. Về giá nhập khẩu, ước tính ở Nhật Bản là cao hơn trong khu vực
đồng Euro và Mỹ, và thống kê này là phù hợp với ERPT cho một năm. So sánh hiệu

ứng truyền dẫn ước được ước tính ở các nước phát triển và các nước mới nổi, kết quả
cho thấy không phải lúc nào mức độ của ERPT tại các thị trường mới nổi là luôn cao
hơn so với các nước đang phát triển. Cụ thể hơn, nhóm tác giả thấy rằng trong nền
kinh tế mới nổi có lạm phát thấp (đặc biệt là các nền kinh tế châu Á) hiệu ứng truyền
dẫn đối với giá tiêu dùng là khá thấp.


Bước tiếp theo trong phân tích của nhóm tác giả là để có được một số hiểu biết
về các yếu tố kinh tế vĩ mô có quyết định ERPT. Nhóm tác giả bắt đầu bằng cách xem
xét liệu có phù hợp với giả thuyết của Taylor là có mối tương quan dương giữa hiệu
truyền dẫn và lạm phát. Để minh họa, nhóm tác giả bắt đầu phân tích bằng cách trực
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 18

quan kiểm tra mối quan hệ giữa mức độ ERPT sau một năm và lạm phát cho các thị
trường mới nổi trong mẫu (xem hình 1).


(Lưu ý: mô hình sử dụng là mô hình baseline: Các nước được thể hiện trong biểu đồ
gồm Argentina (AG), Thổ Nhĩ Kỳ (TK), Mexico (MX), Cộng hòa Séc (CZ), Hungary
(HN), Ba Lan (PL), Chile (CL), Hàn Quốc (KR), Trung Quốc (CN), Hồng Kông(HK),
Đài Loan (TW), Singapore (SG)).
Như trong hình 1, có 2 nhóm nước được khoanh tròn. Đầu tiên là các nước mà
trong đó lạm phát hàng năm trung bình ít hơn 10% so với mẫu, mức độ ERPT thường
thấp (thường ít hơn 10%). Thứ hai là các quốc gia mà trong đó lạm phát trung bình là
rõ ràng cao hơn - tức là từ 10% đến 20%, với một mức độ cao hơn đáng kể của ERPT
đối với giá tiêu dùng (khoảng 40%). Điều này dường như để cung cấp ít nhất một sự
ủng hộ rõ ràng cho của giả thuyết của Taylor. Hai quốc gia khác trong mẫu này,
Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ, xuất hiện sự chênh lệch rõ ràng, vì họ có tỷ lệ lạm phát

trung bình rất cao (trên 60%) và hiệu ứng truyền dẫn thấp đối với giá cả tiêu dùng.
Kiểm tra trực quan đơn giản từ biểu đồ trên chỉ ra rằng nếu hai nước này được bao
gồm trong phân tích, giả thuyết của Taylor sẽ bị phá vỡ. Phương pháp VAR có thể
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 19

không đầy đủ cho các nước có sự bất ổn định kinh tế vĩ mô được phản ánh trong tỷ lệ
siêu lạm phát hoặc lạm phát rất cao.
Mối tương quan dương giữa ERPT và lạm phát được xác định bằng hai biện
pháp tiêu chuẩn tương quan Pearson và tương quan thứ bậc Spearman giữa hệ số của
ERPT và một số yếu tố tác động chính. Các kết quả xuất hiện trong bảng 6.


Các kết quả này xác nhận rằng có một mối tương quan dương giữa hiệu ứng
truyền dẫn và lạm phát ở cả hai khoảng thời gian khảo sát 4 quý và 8 quý. Hệ số
tương quan là đáng kể cả trong cả kiểm định Pearson và các hệ số tương quan
Spearman khoảng thời gian 4 quý và 8 quý ở mức ý nghĩa 1%. Các biện pháp khác về
sự bất ổn kinh tế vĩ mô cũng cho tương quan dương với ERPT, mặc dù mức độ có ý
nghĩa nói chung là hơi nhỏ. Tương tự như Choudhri và Hakura (2006) và McCarthy
(2000), nhóm tác giả tìm thấy rất ít bằng chứng về mối tương quan dương giữa ERPT
tới giá tiêu dùng và độ mở của nền kinh tế. Kết quả này là khá ngạc nhiên và mối
tương quan dương này được coi như là kết quả của kênh truyền dẫn nhập khẩu vào giá
tiêu dùng. Một cách để hợp lý hoá kết quả trước là xem xét tương quan nghịch chiều
giữa lạm phát và độ mở theo báo cáo của Romer (1993). Sau khi kiểm soát lạm phát,
hệ số tương quan giữa ERPT và độ mở là dương, mặc dù không có ý nghĩa thống kê
đáng kể.
4.2. Kiểm định Robustness:
4.2.1. Mô hình thay thế 1:
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo


Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 20

Trong phần này, nhóm tác giả đánh giá lại kết quả ban đầu của mình. Nhóm tác
giả ước tính lại mô hình với hai cách thay đổi thứ tự của các biến trong xung phân tích
Cholesky. Đầu tiên, nhóm tác giả áp dụng phương trình thay thế với cách sắp xếp sau
đây: oil
t
, i
t
, y
t
, e
t
, pimp
t
, cpi
t
. Ở phương án thay thế này, lãi suất được di chuyển đứng
trước tỷ giá hối đoái, như đề xuất bởi Choudhri (2002). Sự sắp xếp này cho phép cho
một phản ứng cùng lúc của tỷ giá hối đoái khi có sự thay đổi trong chính sách tiền tệ.
Ước tính ERPT theo mô hình thay thế 1 này nói chung là tương tự như những thảo
luận trong phần trước (xem bảng 7 và 8).
Bảng 7 + bảng 8: Phản ứng của IMP và CPI khi có cú sốc tỷ giá hối đoái 1%
theo mô hình thay thế 1
Thời gian
IMP CPI
4 quý

8 quý


4 quý

8 quý

Trung Quốc


0,07

0,76

Hồng Kông
0,53

1,05

0,15

0,41

Hàn Quốc
0.75

0,15

0,21

0,01


Singapore
0,10

0,70

-0,17

-0,09

Đài Loan
0,19

-0,11

0,03

0,02

Cộng hòa Séc
0,73

0,59

0,55

0,72

Hungary
0,75


1,74

0,07

0,06

Ba Lan
0,91

1,21

0,30

0,53

Thổ Nhĩ Kì
0,36

0,85

0,08

0,10

Argentina
0,86

1,30

0,02


0,39

Chi Lê
0,77

0,39

0,11

-0,05

Mexico
1,44

1,81

0,60

1,11


Một ngoại lệ ở đây là Hungary, nơi ước tính của ERPT giá nhập khẩu và chỉ số giá
tiêu dùng là giảm đáng kể. Về giá nhập khẩu, như đã đề cập ở trên, một năm sau cú
sốc hệ số của ERPT được tìm thấy là cao ở Argentina, Mexico và Ba Lan. Trong
trường hợp của Chile, hệ số này được tìm thấy là thấp hơn một chút và gần với các
cấp độ của Cộng hòa Séc và Hàn Quốc (ở khoảng giữa 0,7 và 0,8). Ở châu Á, ERPT
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 21


đối với giá tiêu dùng là thêm một lần nữa tìm thấy là thấp. Tất cả các nước có lạm
phát trung bình thấp hơn 10% thường có mức độ ERPT vừa phải. Điều này cũng
tương tự như kết quả ở phần trên. Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ vẫn có hệ số ERPT đối
với giá tiêu dùng là thấp. Loại trừ hai quốc gia này, sự tương quan giữa ERPT và lạm
phát vẫn còn được tìm thấy là tương quan dương sau khoảng thời gian ước tính là 4
quý và 8 quý, mặc dù mức độ có ý nghĩa là thấp hơn so với kịch bản ban đầu mà
nhóm tác giả đã xem xét (xem bảng 9). Sự bất ổn định kinh tế vĩ mô cũng có tương
quan dương với mức độ của ERPT ở các cấp độ khác nhau và có ý nghĩa ở cả năm
đầu tiên và thứ hai.

Cuối cùng, nhóm tác giả một lần nữa tìm thấy không có bằng chứng về một
mối tương quan dương có ý nghĩa thống kê giữa ERPT và độ mở của nền kinh tế,
thậm chí sau khi kiểm soát lạm phát.
4.2.2. Mô hình thay thế 2:
Mô hình thay thế 2 cho trường hợp mô hình cơ bản ban đầu của nhóm tác giả
bao gồm cả sự thay đổi các biến và thay đổi thứ tự của các biến trong phân tích
Cholesky. Trong các mô hình trước đây, nhóm tác giả đã bao gồm một biến giá dầu
có thể được diễn giải bằng tác dụng phụ của yếu tố cung và cả foreign costs. Từ đó đã
giúp gỡ rối các hiệu ứng tỷ giá ngoại sinh từ những foreign costs đó. Nhóm tác giả
thay thế giá dầu trong mô hình này bằng giá sản suất trong nước PPI (PPI cũng là một
biến trung gian của hiệu ứng truyền dẫn từ giá nhập khẩu đến giá tiêu dùng tương tự
như biến giá dầu). Một biến thay thế khác có thể được sử dụng cho mục đích này là
Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 22

tiền lương. Tuy nhiên, biến này không phải là có sẵn cho một số lượng đủ lớn các
nước xem xét.
Tiếp theo là thay đổi liên quan đến việc sắp xếp các biến trong mô hình thay

thế 2, nhóm tác giả hãy giả định rằng tỷ giá hối đoái không đồng thời bị ảnh hưởng
bởi những cú sốc của bất kỳ các biến khác trong, tức là nó được sắp xếp ở vị trí đầu
tiên: e
t
, imp
t
, y
t
, ppi
t
, cpi
t
, i
t
. Với các giả định của mô hình thay thế 2 đã tính đến tỷ
giá hối đoái bị ảnh hưởng bởi các cú sốc của các biến khác nhưng có độ trễ, ngầm giả
định rằng tồn tại đồng thời ít nhất các yếu tố khác (như thiếu thông tin hoặc thông tin
không hoàn hảo - cả hai điều này đều có tầm quan trọng rất lớn trong bối cảnh thị
trường nới nổi) có xu hướng chiếm ưu thế.
Mặc dù mô hình này tương đối khác nhau, nhưng kết quả mà nhóm tác giả có
được là đáng chú ý tương tự như những thảo luận trong phần trước (xem bảng 10 và
bảng 11). ERPT đối với giá nhập khẩu được tìm thấy gần bằng 1, đối với cả 2 khoảng
thời gian sau 1 năm và 2 năm ở Argentina, Chile, Hungary, Ba Lan, Mexico và Thổ
Nhĩ Kỳ, trong khi được ước tính là thấp hơn nhiều ở các nước châu Á và Cộng hòa
Czech. ERPT đối với giá tiêu dùng được tìm thấy là thấp hơn so với ERPT đối với
giá nhập khẩu cho tất cả các nước và trong trường hợp của một số nước châu Á gần
như bằng 0 sau 1 và 2 năm. Lặp lại việc phân tích tương quan, nhóm tác giả luôn tìm
thấy bằng chứng của một mối tương quan dương giữa ERPT đối với CPI và lạm phát,
sau khi loại trừ Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi mẫu này (xem bảng 12). Hệ số
tương quan giữa ERPT đối với CPI và các thước đo sự bất ổn định kinh tế vĩ mô cũng

là là dương và hầu như luôn luôn có ý nghĩa thống kê cho tất cả các khoảng thời gian
xem xét. Mối tương quan giữa ERPT đối với CPI và độ mở lại một lần nữa là dương,
sau khi kiểm soát lạm phát, nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 10 + bảng 11: Phản ứng của IMP và CPI khi có cú sốc tỷ giá hối đoái 1%
theo mô hình thay thế 2.
Thời gian
IMP CPI
4 quý 8 quý 4 quý 8 quý
Trung Quốc


-0,05

0,07

Hồng Kông
0,54

1,05

0,15

0,41

Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo

Nhóm 6 - TCDN Đêm 4 – K22 Trang 23

Hàn Quốc
0.70


0,46

0,18

0,12

Singapore
-0,30

0,28

-0,25

-0,24

Đài Loan
0,25

0,09

-0,03

-0,04

Cộng hòa Séc
0,58

0,23


0,56

0,50

Hungary
1,50

2,20

0,61

1,20

Ba Lan
0,80

0,99

0,25

0,49

Thổ Nhĩ Kì
0,97

1,70

0,05

0,10


Argentina
1,12

1,65

0,07

0,25

Chi Lê
0,93

0,67

0,31

0,25

Mexico
1,48

1,94

0,72

1,32




Truyền dẫn tỷ giá trong các nền kinh tế mới nổi GVHD: TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo



V. Kết luận:
5.1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu:
Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng thực nghiệm về ERPT đối với giá cả
trong nước dựa trên mô hình VAR cho một số lượng đáng kể quốc gia, bao gồm một
số lượng lớn của các nước thị trường mới nổi từ ba khu vực chính trên thế giới và một
nhóm các nước phát triển. Một cách tổng quát, nhóm tác giả thấy rằng:
- Có một sự suy giảm trong ERPT dọc theo chuỗi giá cả.
- Đối với các thị trường mới nổi có tỷ lệ lạm phát hàng năm là một con số (đặc
biệt là các nước châu Á), ERPT là thấp và không khác biệt là bao với ERPT trong nền
kinh tế phát triển.
- Mối liên hệ giữa ERPT và lạm phát là có ý nghĩa thống kê khi loại trừ 2 nước
Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi mẫu.
- Mối tương quan dương giữa ERPT và độ mở của nền kinh tế là yếu hơn so với
giữa ERPT và lạm phát, ngay cả sau khi kiểm soát mức độ lạm phát và hầu như không
có ý nghĩa thống kê. Kết quả này là tương đồng với giả thuyết của Taylor.
5.2. Hạn chế của nghiên cứu:
Bài nghiên cứu này sử dụng mô hình VAR trên sai phân bậc một của các biến.
Điều này cho thấy nhóm tác giả đã bỏ qua mối quan hệ cân bằng trong dài hạn của
các biến, tập trung vào ngắn hạn. Đồng thời, theo đó mối quan hệ đồng lên kết cũng bị
bỏ qua. Đây là một hạn chế chủ yếu của bài nghiên cứu này.
5.3. Đề xuất từ nghiên cứu:
Các nhà điều hành chính sách có thể xem xét thực hiện các chính sách tiền tệ
từ kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả.
Từ kết quả ước lượng mô hình, nhóm tác giả đã đưa ra được bằng chứng
cho thấy hệ số truyền dẫn ERPT vào giá cả tại các nền kinh tế mới nổi là thấp, do đó,
các nhà điều hành có thể kiểm soát giá cả nhiều mặt hàng, đặc biệt là các mặt hàng có

ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế để không có những biến động tác động đến chỉ số giá
tiêu dùng trong nước. Bên cạnh đó, khi thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu, các

×