Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Các mô hình lý thuyết về ảnh hưởng tiêu cựu của chính sách tài khóa mở rộng đối với tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 31 trang )

1. GIỚI THIỆU
Những vấn đề liên quan tới mối quan hệ giữa chính sách tài khóa, tài khoản vãng
lai và tỷ giá hối đoái thực luôn được quan tâm cả về mặt phân tích lý thuyết và thực
nghiệm. Từ quan điểm lý thuyết, nhiều mô hình đã cho rằng chính sách tài khóa mở
rộng sẽ ảnh hưởng tiêu cực lên tài khoản vãng lai và làm sụt giảm tỷ giá hối đoái thực
(đồng nội tệ tăng giá). Mối liên hệ này có thể thấy rõ hơn qua những kinh nghiệm của
Mỹ về tình trạng thâm hụt kép vào đầu những năm 1980 và những năm 2000. Sự sụt
giảm lớn cán cân ngân sách của Mỹ (6% GDP thặng dư vào năm 2000 chuyển thành
thâm hụt lớn vào năm 2004) đi kèm với sự thâm hụt lớn của tài khoản vãng lai (đạt
khoảng 5% GDP trong năm 2003 và sau đó tiếp tục chuyển biến xấu hơn về những
năm sau).
Tuy nhiên đó là lịch sử từng có của Mỹ, ta không thể kết luận một cách đơn về sự
lặp đi lặp lại của tình trạng thâm hụt kép và mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ giá hối
đoái thực và cán cân ngân sách chính phủ. Bởi lẽ, phần lớn tình trạng tồi tệ trong thâm
hụt ngân sách chính phủ đầu những năm 1980 có thể là kết quả của cuộc suy thoái
kinh tế 1980-1982, vì khi suy thoái kinh tế xảy ra tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu
ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi Chính Phủ phải chi ngân sách cho trợ cấp thất
nghiệp tăng lên điều đó làm cho Ngân sách Nhà nước bị thâm hụt.
Từ năm 1983, tiết kiệm chính phủ được cải thiện trong khi tài khoản vãng lai trở
nên tồi tệ hơn từ 1982-1986 chủ yếu vì tỷ lệ đầu tư tăng phục hồi trở lại sau cuộc suy
thoái 1980-1982. Bên cạnh đó, trong giai đoạn 1989-1991, tài khoản vãng lai được cải
thiện còn cán cân ngân sách thì lại có xu hướng xấu đi. Quan trọng hơn, từ 1992-2000,
cán cân ngân sách Mỹ đã được cải thiện rõ rệt từ mức - 5% GDP tới mức thặng dư
2.5% GDP, tuy nhiên thâm hụt tài khoản vãng lai lại gia tăng từ mức -1% GDP lên đến
- 4.5% GDP. Khi xem xét tỷ giá hối đoái thực, có thể nhận thấy tình trạng ngân sách
Chính phủ chuyển từ thâm hụt sang thặng dư trong những năm 1990 có liên quan tới
sự sụt giảm hay tăng lên của tỷ giá hối đoái thực. Mặc dù tỷ giá hối đoái thực giảm
(đồng đô la bị định giá cao) vào giữa những năm 2000-2002, là giai đoạn thâm hụt
ngân sách Chính phủ tái diễn. Tuy nhiên từ năm 2002-2004, tỷ giá hối đoái thực lại gia
tăng trong khi thâm hụt ngân sách ngày càng trở nên tồi tệ.
Để đánh giá những vấn đề này, bài viết đưa ra một phân tích thực nghiệm để làm rõ


mối quan hệ giữa cán cân ngân sách, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực của Mỹ
trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi ở Mỹ trong thời kỳ hậu Bretton Woods, cũng như
rút ra được mối liên hệ chung giữa các biến số đó bằng cách:
- Cung cấp những bằng chứng thực nghiệm dựa trên mô hình VAR để nghiên cứu
những tác động của các cú sốc thâm hụt ngân sách lên tài khoản vãng lai và tỷ
giá hối đoái thực và cũng xem xét mối quan hệ tổng quát giữa các biến này. Từ
đây, hai tác giả đã chỉ ra các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ đi kèm
với sự cải thiện tài khoản vãng lai và sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực khi
tác nhân chính chi phối sự biến động trái chiều này là một cú sốc về sản
lượng, và điều này trái ngược với hầu hết các dự báo của các mô hình lý thuyết
trước đây (sẽ được nêu rõ ở phần sau).
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 1/31
- Trình bày một số kiểm định mở rộng về tính thiết thực của nghiên cứu này cho
thấy rõ hơn sự kết hợp các nhân tố, chẳng hạn như đầu tư giảm đi khi lãi suất
thực tăng lên và một biến động cục bộ trong tiết kiệm tư nhân theo học thuyết
Ricardo, mà tính toán trên thực tế có thể cho ra kết quả đối nghịch.
2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
- Các mô hình lý thuyết về ảnh hưởng tiêu cựu của chính sách tài khóa mở
rộng đối với tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực:
+ Mô hình cân bằng kinh tế tổng quát về một nền kinh tế mở quy mô nhỏ với một
sự tối ưu hóa lợi ích cá nhân và không có sự giới hạn tài khoản vốn (General
Equilibrium Endownment Economy Models): như mô hình một loại hàng hóa của
Sachs vào 1982; mô hình một và hai loại hàng hóa của Frenkel và Razin vào năm
1996.
+ Những mô hình chuẩn theo trường phái Keynes như mô hình của Mundell-
Fleming (lý thuyết của ông nói rằng khi thâm hụt ngân sách chính phủ tăng lên sẽ tạo
áp lực gia tăng lãi suất, điều này châm ngòi cho dòng vốn chảy vào quốc gia và làm
tỷ giá hối đoái giảm->xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng->làm cho tài khoản vãng lai
thâm hụt dưới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi) và mô hình những biến thể kỳ vọng hợp
lý của Dornbusch (1976) và các mô hình điều chỉnh chu kỳ kinh doanh quốc tế thực

với hoạt động đầu tư của Baxter (1995); các mô hình của Kollmann (1998); Erceg,
Guerrieri và Gust (2005).
Tất cả những mô hình trên đều có xu hướng đưa ra những dự báo trong hầu hết các
trường hợp về tình trạng thâm hụt kép và mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ giá hối đoái
thực và cán cân ngân sách chính phủ. Mặc dù những ảnh hưởng xác thực còn phụ
thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau như bản chất của thâm hụt ngân sách chính phủ sơ
bộ (ví dụ như những cú sốc tiêu dùng chính phủ, hay những cú sốc thuế ròng và sự
kéo dài của những cú sốc này), và các đặc thù riêng của mô hình (ví dụ, sản lượng đầu
vào lao động), cấu trúc thị trường tài sản quốc tế (ví dụ, thị trường hoàn hảo hay
không hoàn hảo), và đặc tính kỹ thuật của mô hình (ví dụ, sản lượng đầu vào của lao
động là cố định hay là biến nội sinh của mô hình, sự tồn tại của đầu tư, cũng như quá
trình tích lũy vốn).
- Các nghiên cứu thực nghiệm khác:
+ Những thực hành mô phỏng có sử dụng các mô hình cấu trúc quy mô lớn dựa
trên các phiên bản khác nhau của mô hình Mundell-Fleming-Dorbusch (như nghiên
cứu của Bryant, 1988 và Taylor, 1993); hoặc có sử dụng các mô hình cân bằng tổng
quát ngẫu nhiên động (như Baxter, 1995; Kollmann, 1998; Betts và Devereux, 2000;
McKibbin và Sachs, 1991). Tuy nhiên, hầy hết các mô hình trong những nghiên cứu
này đều dựa trên phần lớn giả định hạn chế của lý thuyết. Vì vậy các chứng cứ này
không thể được xem như những chứng cứ thực nghiệm mang dữ liệu định hướng.
+ Một số nghiên cứu của Ahmed, 1986-1987 về mối quan hệ trong dài hạn giữa chi
tiêu chính phủ và tài khoản vãng lai. Họ đã sử dụng phương pháp “phương trình tĩnh
đơn nhất” bằng cách sử dụng chuỗi dữ liệu dài hạn với tần số năm bao gồm nhiều chế
độ tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, những kết quả của các tác giả này có nhiều hạn chế khi
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 2/31
không quan tâm tới mối tương tác động giữa các biến và chuỗi dữ liệu mẫu không
thuộc một chế độ tỷ giá đồng nhất.
+ Một số nghiên cứu sử dụng mô hình VAR mà áp dụng ít hơn các giả định hạn chế
về lý thuyết thì lại không phụ thuộc vào bất kỳ mô hình lý thuyết nào (ví dụ Claria và
Prendergast, 1999; Rogers, 1999). Nhưng các tác giả này đều kiểm định các tác động

lên tỷ giá hối đoái thực chỉ với những dữ liệu có tần số thấp.
+ Các nghiên cứu chuyên sâu về những thành phần của ngân sách chính phủ:
Blanchard và Perotti (2002), Edelberg (1999), Ramey và Shapiro (1997), Fatas và
Mihov (2001) đã xem xét những tác động của những cú sốc chi tiêu hay mua sắm
chính phủ lên tài khoản vãng lai. Bằng việc nghiên cứu cẩn thận những chi tiết của hệ
thống tài khóa của Mỹ, đã giả định rằng chi tiêu chính phủ là biến ngoại sinh đối với
các biến phi chính phủ khác trong hệ thống.
+ Trong mô hình kinh tế vĩ mô hiện đại (New Open Economy Macroeconomics -
NOEM) gần đây của Obstfeld và Rogoff (1995) và Betts và Devereux (2000), họ cho
rằng sự gia tăng chi tiêu thường xuyên của chính phủ có thể liên quan tới sự cải thiện
trong tài khoản vãng lai và làm tăng tỷ giá hối đoái thực (không đề cập tới đầu tư trong
phân tích). Điều này đặt ra cho hai tác giả Kim và Roubini rằng liệu điều này có phù
hợp với những kết quả thực nghiệm của mình.
Từ việc nghiên cứu kỹ lưỡng các kết quả trước đây của các mô hình lý thuyết cũng
như bằng chứng thực nghiệm mới nhất, hai tác giả đã đưa ra những dự báo phù hợp
nhất nhằm khắc phục những hạn chế của nghiên cứu trước đây. Đồng thời, đây cũng là
cơ sở để hỗ trợ hai tác giả có thể củng cố và xây dựng hoàn thiện hơn cho mô hình
thực nghiệm của mình trong việc xem xét mối quan hệ nhân quả giữa cú sốc thâm hụt
ngân sách chính phủ, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Nguồn dữ liệu được dùng trong nghiên cứu của hai tác giả
3.1.1. Đặc điểm cơ bản về dữ liệu
Để hiểu được sự cùng biến động giữa thâm hụt ngân sách chính phủ, tài khoản
vãng lai và tỷ giá hối đoái thực, chúng ta cần xem xét những đặc điểm cơ bản của các
thành phần nêu trên. Trước tiên, tài khoản vãng lai thường được coi là đầu tư nước
ngoài ròng. Nói một cách khái quát, đó là chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư quốc gia,
mặc dù những dữ liệu thực tế chứa đựng những sai số thống kê đáng kể. Tiết kiệm
được chia thành tiết kiệm tư nhân và tiết kiệm chính phủ (tiết kiệm chính phủ có thể
mang giá trị âm hoặc dương, với tiết kiệm ngân sách chính phủ = thặng dư ngân sách
chính phủ hoặc tiết kiệm chính phủ = - thâm hụt ngân sách chính phủ). Tiết kiệm chính

phủ lại được chia nhỏ hơn nữa thành lãi ròng và cán cân ngân sách cơ bản của chính
phủ (hoặc – thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ). Tức là:
Tài khoản vãng lai = Tiết kiệm – Đầu tư + Sai số thống kê
= Tiết kiệm tư nhân – Thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ
+ Lãi ròng của chính phủ – Đầu tư + Sai số thống kê (1)
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 3/31
• Chi tiết hơn: Tiền thu Lãi ròng của chính phủ (Thu nhập từ Tài sản, Tiền lãi
và các khoản khác – Thanh toán Lãi vay), Đầu tư Tư nhân (Tổng Đầu tư Tư nhân
trong nước - Chi tiêu Vốn cố định, Tư nhân), Đầu tư Chính phủ (Tổng Đầu tư Chính
phủ - Chi tiêu Vốn cố định, Chính phủ, Liên bang - Chi tiêu vốn cố định, Chính phủ,
Tiểu bang và Địa phương). Trong phần “Những thành phần của ngân sách Chính
phủ” xuất hiện thêm yếu tố chuyển nhượng ròng của chính phủ thì nó được tính
bằng cách lấy tiết kiệm ròng chính phủ trừ đi chi tiêu chính phủ.
3.1.2. Nguồn thu thập dữ liệu
- Toàn bộ dữ liệu được thu thập trong khoảng thời gian từ 1973-2004 của nền kinh
tế Mỹ với chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi.
- Dữ liệu sản lượng, tài khoản vãng lai, cán cân ngân sách và những thành phần
của chúng được thu thập từ các bảng National Income and Product Account (NIPA) ở
.
- Dữ liệu tỷ giá hối đoái hiệu lực được thu thập từ hai nguồn, Cục Thống Kê Tài
Chính Quốc tế (International Financial Statistic) của IMF và Cục Thống Kê Liên
Bang (Federal Reserve Statistical Release) từ trang web của Cục Dự trữ Liên bang.
Chỉ số tỷ giá hối đoái thực và danh nghĩa tính theo trọng số mậu dịch so với những
đồng tiền chính ("Major currencies") và so với một nhóm lớn các đối tác thương mại
("Broads") được thu thập từ Cục Thống Kê Liên Bang (Federal Reserve Statistical
Release). Chỉ số tỷ giá hối đoái danh nghĩa có hiệu lực được tính dựa vào phương
pháp chi phí lao động trên một đơn vị sản phẩm (Unit Labor Cost) (111 NEUZF…),
chỉ số tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực được tính dựa vào chi phí đơn vị lao động trên
một đơn vị sản phẩm được chuẩn hóa (111 REUZF…), chỉ số tỷ giá hối đoái thực có
hiệu lực được tính dựa trên phương pháp chi phí lao động trên một đơn vị sản phẩm

(Unit Labor Cost) (11165UM.ZF110) được thu thập từ Cục Thống Kê Tài Chính Quốc
tế (International Financial Statistic). Trong mô hình cơ bản, sử dụng chỉ số tỷ giá hối
đoái thực có trọng số thương mại so với những đồng tiền chính khác được thu thập từ
Cục Thống Kê Liên Bang (Federal Reserve Statistical Release).
- Dữ liệu khác như lãi suất, CPI, GDP tiềm năng, và nợ công được thu thập từ
FRED. Lãi suất thực trong mô hình cơ bản được tính bằng cách lấy lãi suất tín phiếu
Kho bạc kỳ hạn 3 tháng trừ đi tỷ lệ lạm phát tính theo chỉ số hiệu chỉnh GDP hàng
quý. Biên lãi suất được xây dựng bằng chênh lệch giữa lãi suất trái phiếu kỳ hạn cố
đinh 10 năm và lãi suất tín phiếu kho bạc kỳ hạn 3 tháng. Mặt khác, chi tiêu quốc
phòng thực được lấy từ CITIBASE.
- Cuối cùng, dữ liệu cho mô hình VAR - mô hình của các quốc gia ngoại trừ Mỹ
trong phần Kiểm định thực nghiệm mở rộng, được thu thập từ những nguồn sau (lưu
ý rằng dữ liệu của Mỹ được thu thập mới từ những nguồn tương tự để phù hợp với dữ
liệu của các nước còn lại). Tỷ số của cán cân ngân sách chính phủ sơ bộ với GDP
được lấy từ nguồn Triển vọng Kinh tế OECD (OECD Economic Outlook). Số liệu
GDP được tính theo đồng nội tệ hiện tại và cố định, trong khi đó số liệu xuất khẩu và
nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ được tính theo đồng nội tệ hiện tại và chỉ số giảm phát
GDP được lấy từ nguồn Tài khoản Quốc gia hàng quý OECD (OECD Quarterly
National Account) đối với Mỹ, Đức, Anh, và từ Cục Thống kê Quốc tế
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 4/31
(International Financial Statistics) đối với Pháp và Nhật. Lãi suất trái phiếu Kho bạc
kỳ hạn 3 tháng và tỷ giá trao đổi đối với dollar Mỹ (lấy số trung bình trong kỳ) được
lấy từ Cục Thống kê Quốc tế. Ở Nhật, do không có lãi suất tín phiếu Kho bạc kỳ hạn
3 tháng nên lãi suất thị trường được lấy từ Cục Thống kê Quốc tế thay thế. Đối với dữ
liệu thu nhập quốc dân của Đức, dữ liệu về nước Đức thống nhất không tìm được
trong khoảng thời gian trước 1991. Đầu tiên, dữ liệu của Tây Đức được sử dụng để
tính tỷ lệ tăng trưởng. Sau đó, dữ liệu của thời kỳ trước 1991 được ước lượng dựa vào
tỷ lệ tăng trưởng. Số liệu xuất khẩu và nhập khẩu của Mỹ đối với mỗi nước còn lại
trong G5 ngoại trừ Mỹ, được lấy từ FRED. Tỷ giá hối đoái thực được tính bằng cách
nhân tỷ giá hối đoái danh nghĩa với hệ số giảm phát theo GDP. Lãi suất thực được

tính bằng cách lấy lãi suất kỳ hạn 3 tháng của trái phiếu Kho bạc trừ đi tỷ lệ lạm phát
tính theo chỉ số giảm phát GDP. Logarit của tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực của Mỹ
so với những nước còn lại trong G5 được tính theo phương pháp trung bình gia quyền
logarit của tỷ giá hối đoái thực của Mỹ đối với những nước còn lại trong G5, trọng số
là phần ngạch mậu dịch. Phần ngạch mậu dịch được tính bằng cách lấy trung bình
tổng xuất nhập khẩu của Mỹ so với từng nước chia cho tính tổng xuất nhập khẩu của
Mỹ so với cả 4 nước trong giai đoạn 1974 -2004. Các trọng số tính toán được như
sau: Pháp (0.1085), Đức (0.2005), Nhật (0.5089) và Anh (0.1821). Đối với các biến
khác của các quốc gia G5 ngoại trừ Mỹ (chẳng hạn như tỷ số thâm hụt ngân sách
chính phủ sơ bộ với GDP, lãi suất thực, và logarit của GDP thực), thì phương pháp
tính trung bình có trọng số được sử dụng. Trọng số được tính toán dựa trên GDP
trung bình (dựa trên PPP) trong cùng kỳ với dữ liệu được lấy từ Các Chỉ báo Phát
triển Kinh tế Thế giới (World Development Indicators). Các trọng số tính được như
sau: Pháp (0.141), Đức (0.203), Nhật (0.505) và Anh (0.151). Các kết quả sử dụng
trọng số mậu dịch đối với những biến này đều tương tự với những con số trên.
3.2. Mô hình thực nghiệm:
Sau khi phân tích các số liệu thực tế, hai tác giả cho rằng lý do quan trọng giải
thích cho sự biến động nghịch chiều giữa tiết kiệm chính phủ và tài khoản vãng lai là
do các phản ứng nội sinh của tiết kiệm chính phủ và tài khoản vãng lai gây ra bởi các
biến động trong sản lượng. Những phản ứng nội sinh này cho thấy nguồn thu của cán
cân ngân sách chính phủ mang tính chu kỳ cao, trong khi những lý thuyết truyền thống
về tài khoản vãng lai và chu kỳ kinh doanh quốc tế hiện đại lại đưa ra dự đoán về hành
vi không theo chu kỳ của tài khoản vãng lai khi có những cú sốc sản lượng đầu ra hay
cú sốc năng suất sản xuất. Vì vậy, để nhận ra các tác động của cú sốc thâm hụt ngân
sách chính phủ lên tài khoản vãng lai, thì điều quan trọng là phải kiểm soát được
những biến động nội sinh của cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai, đặc biệt là khi
có sự xuất hiện của những cú sốc sản lượng đầu ra.
Trong bài nghiên cứu này, hai tác giả đã sử dụng mô hình tự hồi quy véc tơ
“VAR”. Vì mô hình này rất hữu ích khi (1) loại bỏ các thành phần nội sinh của ngân
sách chính phủ và tài khoản vãng lai, đồng thời (2) nhận diện những thành phần ngoại

sinh của cán cân ngân sách chính phủ.
Cấu trúc mô hình này sử dụng thông tin về các biến vĩ mô khác nhau, sự tương tác
và mối quan hệ động của chúng để thiết lập các thành phần ngoại sinh của thâm hụt
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 5/31
ngân sách chính phủ và để phân tích những tác động từ các cú sốc thâm hụt ngân sách
chính phủ mang tính ngoại sinh lên tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực.
• Mô hình nhận dạng cơ bản như sau:
Mô hình cơ bản bao gồm 5 biến, {RGDP, GOV, CUR, RIR, RER}. Trong đó:
1. RGDP: Logarit của GDP thực
2. GOV: Ngân sách chính phủ tính theo % so với GDP
3. CUR: Tài khoản vãng lai tính theo % so với GDP
4. RIR: Lãi suất thực kỳ hạn 3 tháng
5. RER: Logarit của tỷ giá hối đoái thực.
Trong mô hình cơ bản, thâm hụt ngân sách chính phủ cơ bản được ký hiệu là GOV.
GOV, CUR và RER là những biến chính cần quan tâm của bài nghiên cứu này. RGDP
là biến vĩ mô chính yếu đại diện cho tình hình của nền kinh tế. Biến RGDP được sử
dụng nhằm kiểm soát các thành phần mang tính chu kì của thâm hụt ngân sách chính
phủ. RIR cũng là biến vĩ mô quan trọng, là căn cứ xác định các tác động của chính
sách tài khóa. Biến RIR đồng thời cũng liên quan đến chính sách tiền tệ – một trong
những yếu tố mà hai tác giả muốn kiểm soát.
Một chuỗi các biến số gồm {RGDP, GOV, CUR, RIR, RER} trong đó những biến
ngoại sinh tồn tại cùng thời điểm được xếp thứ đầu tiên. Theo mô hình, những cú sốc
thâm hụt ngân sách chính phủ sơ bộ (ngoại sinh) được tính ra bằng cách điều chỉnh
biến số RGDP hiện hành và có độ trễ, và cả các biến số có độ trễ khác. Hai tác giả
điều chỉnh RGDP hiện hành bởi vì ngân sách chính phủ (thâm hụt) thường chịu tác
động nội sinh từ mức độ hoạt động hiện hành của nền kinh tế trong một quý. Cụ thể,
các thành tố trong nguồn thu chính phủ như thuế mua hàng, thuế thu nhập thường phụ
thuộc vào mức độ hoạt động hiện hành của nền kinh tế trong một quý. Thêm vào đó,
thâm hụt ngân sách chính phủ sơ bộ cũng có thể phụ thuộc vào độ trễ của những biến
số khác. Chẳng hạn như một vài thành tố trong nguồn thu chính phủ như thuế thu

nhập, có thể phụ thuộc vào độ trễ hoạt động nền kinh tế. Tuy nhiên, hai tác giả không
điều chỉnh các biến số hiện hành không có độ trễ, ngoại trừ GDP thực hiện hành vì
đây là biến số có tính đến độ trễ của những quyết định quan trọng trong chính sách tài
khóa. Nghĩa là, việc điều chỉnh GDP thực hiện hành là cần thiết để kiểm soát các
phản ứng nội sinh hiện hành của thâm hụt ngân sách chính phủ sơ bộ lên hoạt động
kinh tế hiện hành. Đồng thời, việc không điều chỉnh những biến số hiện hành khác là
hợp lý để xác nhận những thay đổi ngoại sinh hay chủ quan trong thâm hụt ngân sách
chính phủ sơ bộ, vì những thay đổi như vậy ít phụ thuộc vào những biến số hiệnhành
khác, là những biến số không tính đến độ trễ của quyết định chính sách tài khóa.
Bên cạnh đó, bài nghiên cứu đặc biệt sử dụng các phương pháp thử nghiệm mở
rộng khác, các lược đồ nhận dạng thay thế và những mô hình tổng hợp để kiểm định
tính vững chắc của các kết quả chính theo nhiều chiều khác nhau.
Ngoài ra còn có phương pháp phân tích phương sai sai số dự báo tổng thể được
phát triển bởi cùng tác giả Kim (2006) nhằm tìm ra vai trò thực sự của mỗi cú sốc cơ
cấu trong việc giải thích những đặc tính của biến động tổng hợp.
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 6/31
4. NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Các thống kê sơ bộ
Theo phương trình (1) ta thấy, khi các yếu tố khác không đổi thì tài khoản vãng lai
và tiết kiệm chính phủ có mối tương quan dương hay biến động cùng chiều với nhau.
Nghĩa là một sự tăng lên trong tiết kiệm chính phủ sẽ làm cải thiện tài khoản vãng lai
và ngược lại. Đây cũng chính là cơ sở cho luận điểm của các mô hình lý thuyết khi
cho rằng tiết kiệm chính phủ và tài khoản vãng lai (hay thâm hụt ngân sách chính phủ
và thâm hụt tài khoản vãng lai) biến động “cùng chiều kép”. Tuy nhiên, dường như
các số liệu thực tế lại không minh chứng cho điều này. Cùng nhìn vào bảng 1 (chuỗi
chi tiết dữ liệu tham khảo trong phụ lục 9) để xem xét sự tương quan giữa ngân sách
chính phủ, tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực.
“CUR” biểu thị tài khoản vãng lai (tính trên % của GDP) trong khi “RER”
biểu thị tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực. Bảng 1 cho thấy hệ số tương quan giữa
tài khoản vãng lai và tiết kiệm chính phủ bị âm nhẹ tại mức -0.11 trong suốt thời

kỳ mẫu, trong khi đó hệ số tương quan giữa tài khoản vãng lai và cán cân ngân
sách chính phủ sơ bộ lại có mức âm nhiều hơn tại -0.16. Điều này chứng tỏ rằng
ngân sách chính phủ và tài khoản vãng lai không biến động theo cùng một hướng.
Do vậy, cụm từ “bộ đôi đối nghịch” dùng để miêu tả mối tương quan nghịch giữa
tài khoản vãng lai và ngân sách chính phủ thì có vẻ chính xác hơn so với cụm từ
“thâm hụt kép”, hơn nữa “bộ đôi đối nghịch” là mô hình thường xuyên xuất hiện
hơn trong dữ liệu trong suốt thời kỳ mẫu
.

Hãy cùng xem xét mối quan hệ giữa tiết kiệm chính phủ và tài khoản vãng lai
dựa trên bộ số liệu của Mỹ từ năm 1973 đến 2004 qua bài nghiên cứu thực
nghiệm của hai tác giả Kim Soyoung và Noriel Roubini.
Hình 1: Tài khoản vãng lai và các thành phần trong nó, 1973-2004.
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 7/31
“Gov Sav/GDP”, “Sav&SD/GDP”, “CurAcct/GDP”, “Inv/GDP” tương ứng là tỷ lệ giữa “tiết kiệm chính
phủ”, “tiết kiệm quốc gia và sai số thống kê”, “tài khoản vãng lai” và “đầu tư ròng”, tất cả tính theo % so với
GDP.
Như được thể hiện trên Hình 1, trong những năm đầu thập niên 80 và những năm
2000, tiết kiệm chính phủ và tài khoản vãng lai có xu hướng biến động cùng chiều.
Tuy nhiên hiện tượng biến động cùng chiều hay thâm hụt kép lại dường như không là
xu hướng phổ biến hơn hiện tượng biến động trái chiều kép.
Hình 2: Tỷ giá và tiết kiệm chính phủ, 1973-2004
Biểu đồ 2. Tỷ giá và Tiết kiệm Chính phủ, 1973-2004:1. Biểu đồ này thể hiện tỷ giá thực có hiệu
l
ực
("Real Exc Rate"), tỷ giá danh nghĩa có hiệu lực ("Nom Exc Rate"), cân đối ngân sách sơ cấp

nh
theo %
GDP ("Gov Prim Bal/GDP") và tiết kiệm Chính phủ tính theo % GDP("Gov

Sav
/
GDP
"
).
Hình 2 cho thấy đồ thị logarit của tỷ giá thực và danh nghĩa hiệu lực của đồng đô
la Mỹ so với đồng tiền của những nước công nghiệp lớn khác, tiết kiệm chính phủ và
tiết kiệm cơ bản của chính phủ. Tỷ giá hối đoái thực và tỷ giá hối đoái danh nghĩa có
mức tương quan cao. Tương tự, tiết kiệm cơ bản của chính phủ và tổng tiết kiệm
chính phủ cũng có mối tương quan xác định lớn. Tuy nhiên, không dễ dàng quan sát
được rõ ràng mô hình cùng biến động giữa tỷ giá hối đoái thực và ngân sách chính
phủ. Theo bảng 1, hệ số tương quan giữa tỷ giá hối đoái thực và ngân sách chính phủ
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 8/31
(ngân sách chính phủ sơ bộ) là -0.08 (0.03).
Một lý do quan trọng giải thích cho sự biến động nghịch chiều giữa tiết kiệm chính
phủ và tài khoản vãng lai là do các phản ứng nội sinh của tiết kiệm chính phủ và tài
khoản vãng lai gây ra bởi các biến động trong sản lượng. Vì thế thông qua mô hình
VAR cấu trúc như đã được đề cập ở trên, hai tác giả tiến hành đánh giá các vấn đề qua
những kết quả xuất hiện từ mô hình.
4.2. Các kết quả thu được từ mô hình thực nghiệm VAR
4.2.1. Các kết quả cơ bản
Những xung phản ứng của cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ đối với mỗi cú sốc
cơ cấu cho thấy biến động tổng thể của thâm hụt ngân sách chính phủ là từ những cú
sốc khác (không phải là cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ) - đặc biệt là từ cú sốc
sản lượng, lớn hơn nhiều lần do những biến động gây ra bởi những cú sốc thâm hụt
ngân sách chính phủ. (Xem hình 3 – Phụ lục 3)
Việc phân tích phương sai sai số dự báo của thâm hụt ngân sách trong Bảng 2
(xem phụ lục 1) cung cấp những bằng chứng rõ hơn cho những kết quả này. Phần đóng
góp của những cú sốc thâm hụt ngân sách đối với những chuỗi biến động của chính nó
là 42.8% ở chuỗi thời gian 4 quý và thấp hơn trong chuỗi thời gian dài hạn. Nghĩa là,

ảnh hưởng của các yếu tố ngoại sinh lên thâm hụt ngân sách chính phủ cơ bản chiếm
dưới ½ so với các yếu tố khác trong tổng biến động thâm hụt ngân sách chính phủ cơ
bản. Trái lại, ảnh hưởng của các cú sốc sản lượng đầu ra thì chiếm hơn 50% trong tổng
biến động thâm hụt ngân sách chính phủ sơ bộ tại mọi chuỗi thời gian trong bảng 2.
Điều này cho thấy rằng mô hình thực nghiệm này cần tính đến các thành tố nội sinh
quan trọng của thâm hụt ngân sách chính phủ sơ bộ, đặc biệt là các thành tố nội sinh
của cán cân sách đối với các cú sốc sản lượng đầu ra.
Phản ứng lại với các cú sốc sản lượng tích cực, thâm hụt ngân sách chính phủ
chính phủ giảm trong vài năm. Điều này phù hợp với vai trò mang tính tự ổn định và
phản ứng mang tính chu kỳ kinh tế của ngân sách chính phủ. Phản ứng lại các cú sốc
gia tăng sản lượng, tài khoản vãng lai xấu đi, tỷ giá hối đoái thực giảm và lãi suất thực
tăng. Sự biến động ngược chu kỳ kinh tế của tài khoản vãng lai phù hợp với cả hai mô
hình lý thuyết và truyền thống về tài khoản vãng lai. Vì theo lý thuyết truyền thống,
một gia tăng trong sản lượng đầu ra sẽ làm tăng nhu cầu hàng ngoại và tác động tiêu
cực tới tài khoản vãng lai. Theo lý thuyết hiện đại, cú sốc sản lượng đầu ra được xem
tương tự như cú sốc năng suất sản xuất. Ở khía cạnh tích cực, cú sốc năng suất sản
xuất tăng liên tục có thể hỗ trợ làm đầu tư tăng mạnh, nhưng ảnh hưởng xấu đến tài
khoản vãng lai.
Những xung phản ứng này phù hợp với ý tưởng cho rằng cú sốc sản lượng gây ra
mối quan hệ ngược chiều giữa tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách. Đồng thời,
phản ứng lại sự gia tăng thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ thì sản lượng tăng liên
tục và lãi suất thực tăng. Hai tác giả nỗ lực chứng minh về tính bền của các cú sốc này
dựa trên xung động các phản ứng của thâm hụt ngân sách chính phủ sơ bộ, do các dự
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 9/31
báo lấy mô hình lý thuyết làm cơ sở thì đôi khi khác nhau và phụ thuộc vào tính bền
vững thực tế của các cú sốc tài khoá. Khoảng 50% phần giá trị tăng lên ban đầu trong
thâm hụt ngân sách chính phủ được nền kinh tế hấp thụ trong khoảng 4 quý (khoảng
thời gian 4 quý được tính là nửa chu kỳ). Khoảng 75% được hấp thụ trong 6 hay 7
quý. Điều này cho thấy tính bền không ổn định của mô hình AR-1 với hệ số AR-1 0.8.
Bên cạnh đó, cũng có một sự giải thích ngắn gọn về các xung phản ứng đới với cú

sốc lãi suất thực phù hợp với những giải thích về chính sách tiền tệ thắt chặt (một sự
gia tăng trong lãi suất thực) đã dẫn tới một sự sụt giảm sản lượng, từ đó làm gia tăng
thâm hụt ngân sách và sụt giảm tỷ giá hối đoái thực. Tài khoản vãng lai sẽ phản ứng
với cú sốc này theo chiều hướng cải thiện ngắn hạn và sau đó xấu đi trong dài hạn; và
phản ứng này tương tự với các tác động của chính sách tiền tệ đã được đúc kết trong
nhiều nghiên cứu trước đây, chẳng hạn như nghiên cứu của Kim (2001). Cuối cùng,
một cú sốc tỷ giá hối đoái thực dương (đồng nghĩa với giá trị nội tệ giảm thấp) sẽ cải
thiện tài khoản vãng lai. Điều này là nhất quán với hiệu ứng điều chỉnh chi tiêu.
4.2.2. Những tác động lên tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực.
Ở phần trước của bài nghiên cứu đã trình bày rõ những kết quả đáng ngạc nhiên
khi cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ cải thiện tài khoản vãng lai và làm tăng tỷ giá
hối đoái thực. Do đó, phần này nghiên cứu sâu hơn tại sao lại có tác động đó và chúng
được nhận dạng như thế nào bằng cách phân tích những tác động của chính sách tài
khóa này lên các thành phần chi tiết của tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực.
Mô hình cơ bản 5 biến ban đầu được mở rộng thêm bằng cách thêm vào 1 biến nữa
là CURA - một thành phần của tài khoản vãng lai. Bằng cách chia đầu tư thành đầu tư
chính phủ và đầu tư tư nhân, công thức (1) trở thành:
Tài khoản vãng lai = Tiết kiệm khu vực tư - Thâm hụt cơ bản ngân sách chính
phủ + Lãi ròng của chính phủ - Đầu tư khu vực tư - Đầu tư công + Sai số thống
kê.
Dựa vào phương trình này, các biến được sử dụng bao gồm: tiết kiệm tư nhân, thu
lãi ròng của chính phủ, đầu tư tư nhân, đầu tư chính phủ, sai số thống kê (tất cả đều
tính trên % GDP) và cả CURA (chú ý rằng thâm hụt ngân sách chính phủ sơ bộ - GOV
có bao gồm thành phần này). Thêm vào đó, để có lập luận sâu sát hơn về hành vi của
hộ gia đình, tác giả đã tính thêm chi tiêu hộ gia đình (theo % GDP) trong CURA. Thứ
hai, tác giả thay thế tỷ giá hối đoái thực có hiệu lực trong mô hình cơ bản bằng tỷ giá
danh nghĩa có hiệu lực để kiểm định vai trò của việc thay đổi tỷ giá danh nghĩa ảnh
hưởng như thế nào đến biến động tỷ giá hối đoái thực (để so sánh với vai trò của việc
thay đổi mức giá tương đối).
Hình 4 (Xem phụ lục 4) minh họa cho những kết quả này. Phản ứng với các cú sốc

thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ (tiết kiệm chính phủ giảm), tiết kiệm khu vực tư
tăng mạnh để bù đắp cho sự sụt giảm tiết kiệm chính phủ. Tuy nhiên, tiết kiệm khu
vực tư tăng ít hơn sự gia tăng trong thâm hụt ngân sách chính phủ. Tiêu dùng tăng nhẹ
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 10/31
trong ngắn hạn. Ngoài ra, các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ chèn lấn đầu tư của
khu vực tư trong ngắn hạn dẫn tới việc việc gia tăng lãi suất thực. Khi tiết kiệm tư
nhân tăng lên và đầu tư tư nhân giảm xuống sẽ đặt áp lực làm cho thâm hụt ngân sách
chính phủ cơ bản tăng trong ngắn hạn. Nhờ đó, tài khoản vãng lai sẽ được cải thiện
trong ngắn hạn. Các thành phần khác như lãi ròng chính phủ và sai số thống kê không
có nhiều thay đổi.
Mặt khác ta cũng thấy rằng tỷ giá hối đoái danh nghĩa cũng gia tăng đáng kể. Do
đó có thể suy luận rắng, tỷ giá hối đoái thực gia tăng theo các cú sốc thâm hụt ngân
sách chủ yếu là vì sự gia tăng tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Cuối cùng sự gia tăng tỷ giá
hối đoái thực làm cải thiện tài khoản vãng lai. Những kết quả rút ra được từ mô hình
thực nghiệm này khác với những dự báo chuẩn của hầu hết các mô hình lý thuyết.
4.2.3. Những thành phần của ngân sách chính phủ.
Bằng việc sử dụng mô hình cơ bản để xem xét tác động của các cú sốc thâm hụt
ngân sách chính phủ. Tuy nhiên, mỗi thành phần của ngân sách chính phủ: cụ thể là
chi tiêu và thu nhập – có thể có những tác động khác nhau mặc dù cả hai có thể làm
tăng thâm hụt ngân sách chính phủ. Trên thực tế, các mô hình phân tích thường dự
đoán các hiệu ứng khác nhau của chi tiêu chính phủ và những cú sốc thuế ròng lên tài
khoản vãng lai. Vì vậy, việc nghiên cứu những tác động của mỗi yếu tố riêng biệt có
thể giúp hiểu được những kết quả nói trên của “sự biến động trái chiều”.
Trước tiên, hai tác giả đã xem xét tác động của cú sốc chi tiêu hay mua sắm của
chính phủ, bằng việc nghiên cứu cẩn thận những chi tiết của hệ thống tài khóa của Mỹ.
Trong đó, giả định rằng chi tiêu chính phủ là biến ngoại sinh đối với các biến phi
chính phủ khác trong hệ thống và để nhất quán với các nghiên cứu trước đây khi sử
dụng giá trị thực của chi tiêu chính phủ thay cho tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP, hai
tác giả đã thực hiện xây dựng mô hình 5 biến {GOV, RGDP,RIR,RER} với GOV là
log của chi tiêu thực của chính phủ.

Thứ hai, bài nghiên cứu này xem xét tác động của các cú sốc chuyển nhượng ròng
(hay cú sốc thuế ròng âm). Như trong mô hình cơ bản, giả định rằng chuyển nhượng
ròng chịu tác động bởi RGDP tức là {RGDP,GOV,CUR,RIR,RER}, sử dụng tỷ số
chuyển nhượng ròng/GDP.
Những kết quả về tác động của cú sốc chuyển nhượng ròng là giống với các cú sốc
thâm hụt ngân sách chính phủ, nhưng với mức độ nhẹ hơn (xem hai cột đầu tiên Hình
5 – Phụ lục 5). Sự gia tăng chuyển nhượng ròng của chính phủ đã tạm thời cải thiện tài
khoản vãng lai và làm tăng tỷ giá hối đoái thực. Kết quả một lần nữa giống như mô
hình cơ bản, tiêu dùng tăng nhẹ nhưng chỉ là tạm thời, tiết kiệm khu vực tư gia tăng đủ
để bù đắp thâm hụt ngân sách trong khi đầu tư giảm.
Đồng thời, ta thấy hai cột cuối cùng của Hình 5, chiều hướng tác động của cú sốc
chi tiêu chính phủ đối với tỷ giá hối đoái thực và tài khoản vãng lai là giống với các cú
sốc thâm hụt ngân sách chính phủ nhưng tác động mạnh hơn, đặc biệt là trong dài hạn.
Sự gia tăng chi tiêu của chính phủ đã cải thiện tài khoản vãng lai và làm giảm tỷ giá
hối đoái thực một cách liên tục và đáng kể. Các khoản tiết kiệm khu vực tư gia tăng
một cách khiêm tốn trong khi đầu tư khu vực tư giảm một cách liên tục và đáng kể. Cả
hai tác động này góp phần cải thiện tài khoản vãng lai.
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 11/31
So với các nghiên cứu trước đây đã được đề cập ở trên, có hai trường hợp đặc
biệt:
+ Đầu tiên, Baxter (1995) chỉ ra cú sốc thuế suất có thể cải thiện tài khoản vãng lai.
Trong mô hình chu kỳ kinh doanh thực tế giữa 2 quốc gia, với giả định cơ hội đầu tư
là có sẵn và nhân công là yếu tố nội sinh, một sự cắt giảm tạm thời thuế suất thuế trực
thu đánh trên thu nhập người lao động – mức giảm này sẽ được bù đắp bằng thuế
khoán trong tương lai - có thể cải thiện tài khoản vãng lai mặc dù làm tăng thâm hụt
ngân sách chính phủ sơ bộ. Khi các cá nhân làm việc nhiều hơn, thu nhập sẽ tăng lên,
sức tiêu dùng sẽ ổn định theo thời gian, thì một sự cắt giảm tạm thời thuế suất sẽ làm
tăng tiết kiệm tư nhân, và sự gia tăng này lớn hơn sự sụt giảm trong tiết kiệm công.
Mặt khác, đầu tư cũng sẽ tăng lên nhờ tiết kiệm tư nhân tăng. Tuy nhiên, mức tăng
trong đầu tư là không lớn vì thuế suất chỉ cắt giảm tạm thời. Nhìn chung, tài khoản

vãng lai sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, kết quả phân tích này của Baxter (1995) không
hoàn toàn phù hợp với những kết quả thực nghiệm, vì những kết quả thực nghiệm cho
thấy khi đầu tư giảm xuống, thì mức tăng trong tiết kiệm tư nhân vẫn không đủ bù đắp
mức giảm của tiết kiệm công. Nói chung, kết quả của Baxter không thật sự sát thực vì
trên thực tế, do việc cắt giảm thuế suất chỉ tạm thời và sự thay đổi trung bình trong
mức thuế đánh trên lợi nhuận thì không được theo dõi thường xuyên.
+ Thứ hai, trong những mô hình mới về kinh tế vĩ mô tại các nền kinh tế mở mới
(New Open Economy Macroeconomics - NOEM) của Obstfeld và Rogoff (1995)
và Betts và Devereux (2000a) (trong đó yếu tố đầu tư không được nhắc đến), cho
thấy chi tiêu thường xuyên của chính phủ tăng có thể góp phần vào sự cải thiện tài
khoản vãng lai. Khi chi tiêu thường xuyên của chính phủ tăng, hiệu ứng Ricardo sẽ
gây ra sự sụt giảm theo tỷ lệ 1:1 trong chi tiêu với điều kiện tài khoản vãng lai không
thay đổi và các yếu tố khác cũng không thay đổi. Tuy nhiên, trong các mô hình giá ổn
định, sự gia tăng chi tiêu sẽ có xu hướng kích thích tăng sản lượng đầu ra trong ngắn
hạn vì sản lượng đầu ra bao nhiêu là do nhu cầu quyết định. Vì vậy, tài khoản vãng lai
sẽ cải thiện khi người tiêu dùng ổn định chi tiêu, vì chi tiêu tiêu dùng ổn định làm sản
lượng đầu ra ròng giảm theo thời gian. Ngoài ra, chi tiêu chính phủ tăng có thể làm
giảm tỷ giá hối đoái thực và danh nghĩa. Lý do là vì trong nền kinh tế lớn, chính sách
mở rộng tài khóa sẽ làm tăng lãi suất thực và làm giảm chi tiêu tư nhân. Cầu tiền tệ
được giả định phụ thuộc vào chi tiêu tư nhân trong mô hình này, do đó chi tiêu giảm sẽ
làm giảm tỷ giá hối đoái danh nghĩa cũng như tỷ giá hối đoái thực với giả định giá cả
ổn định.
Tóm lại, từ kết quả thực nghiệm, các cú sốc chi tiêu và chuyển nhượng ròng chính
phủ làm cải thiện tài khoản vãng lai và làm tăng tỷ giá hối đoái thực, phù hợp với các
kết quả ban đầu về cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ. Đồng thời giảm sút trong đầu
tư và gia tăng tiết kiệm tư nhân đã đóng góp vào sự cải thiện tài khoản vãng lai. Các
mô hình phân tích đang tồn tại không thể giải thích những kết quả này dễ dàng.
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 12/31
4.2.4. Phân tích cùng biến động
Trong phần này tác giả sử dụng phương pháp phân tích phương sai sai số dự báo tổng

thể để xác định vai trò của các cú sốc cấu trúc trong việc giải thích các biến động kết
hợp và trả lời cho hai câu hỏi:
- Những loại cú sốc cấu trúc nào có thể gây ra thâm hụt kép, hay biến động trái
chiều kép.
- Sự đóng góp của từng cú sốc vào dãy biến động kết hợp giữa thâm hụt ngân
sách chính phủ, tài khoản vãng lai và tỷ giá thực.
Bảng 3 (xem phụ lục 2) trình bày các kết quả phân tích về biến động kết hợp giữa
tài khoản vãng lai và thâm hụt ngân sách chính phủ sau khi sử dụng phương pháp phân
tích phương sai sai số dự báo tổng thể (xác suất là 68%). Cột 1 thể hiện chuỗi thời gian
dự báo, cột 2 là tương quan vô điều kiện của những sai số dự báo (thể hiện tổng hợp
các cú sốc), cột 3 là tên của những cú sốc, cột 4 là tương quan có điều kiện (của từng
cú sốc), cột 5 là phân tích tương quan cho thấy vai trò của mỗi cú sốc cơ cấu trong
việc giải thích tương quan vô điều kiện (tổng hợp vai trò của mỗi cú sốc cơ cấu tạo
thành tương quan vô điều kiện), cột 6 là phép phân tích thể hiện tỷ lệ phần trăm đóng
góp của mỗi cú sốc cơ cấu trong việc giải thích hiệp phương sai vô điều kiện (vai trò
của các cú sốc cơ cấu cộng lại thành 100%).
Hệ số tương quan vô điều kiện của sai số dự báo về tài khoản vãng lai và thâm hụt
ngân sách là 0.42 và 0.34 tương ứng với chuỗi thời gian 4 và 8 quý. Hệ số tương quan
dương cho thấy trong chuỗi thời gian ngắn hạn và trung hạn, thâm hụt ngân sách chính
phủ và tài khoản vãng lai có xu hướng biến động cùng chiều – tức là khi thâm hụt
ngân sách chính phủ tăng thì tài khoản vãng lai càng được cải thiện và ngược lại. Các
cú sốc RGDP tạo ra tương quan xác định (dương) gần như hoàn toàn lên tới 0.97 và
0.98. Các cú sốc GOV cũng tạo ra một tương quan dương cao tới 0.7 và 0.63. Các cú
sốc CUR và RIR cũng tạo ra tương quan dương trong khi các cú sốc RER lại gây ra
các tương quan âm. Nói chung biến động cùng chiều hay biến động kết hợp vô điều
kiện (gây ra bởi tổng hợp các cú sốc) chủ yếu gây ra bởi các cú sốc sản lượng: trong
hệ số tương quan tổng hợp, các cú sốc sản lượng đóng góp là 0.33 của 0.42 (chiếm
78%) và 0.4 của 0.34 (chiếm 117.5%) tương ứng với các khoảng thời gian 4 và 8 quý.
Các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ cũng đóng góp 0.1 của 0.42 (chiếm 22.7%)
và 0.06 của 0.34 (chiếm 16.4%).

Vì vậy có thể kết luận rằng các cú sốc sản lượng là nguồn phát sinh quan trọng
nhất gây ra hiện tượng biến động trái chiều được quan sát trong dữ liệu. Nhưng trong
một mức độ nào đó, các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ cũng đóng góp vào sự
biến động trái chiều.
Phần 2 của Bảng 3 thể hiện phân tích biến động kết hợp của tỷ giá hối đoái thực và
thâm hụt ngân sách chính phủ, tương quan vô điều kiện của các sai số dự báo là 0.09
và 0.05. Các cú sốc RGDP và GOV gây ra tương quan dương cao – được bù trừ bởi
tương quan âm cao do các cú sốc RIR, RER tạo ra. Kết quả là hệ số tương quan vô
điều kiện gần bằng 0 với độ tin cậy là 68%. Ở trong chuỗi thời gian 4 quý, các cú sốc
GOV và RGDP là quan trọng như nhau trong việc giải thích biến động kết hợp cùng
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 13/31
chiều trong khi đó ở chuỗi thời gian 8 quý thì đóng góp của các cú sốc RGDP lớn hơn
sự đóng góp của các cú sốc GOV.
4.3. Những thử nghiệm mở rộng và các kiểm định tính vững chắc
4.3.1. Đo lường các biến bằng các phương pháp khác, các lược đồ nhận dạng
thay thế và những mô hình mở rộng:
Tác giả kiểm định tính vững chắc của các kết quả theo nhiều chiều khác nhau:
- Kiểm tra xem liệu những kết quả có đứng vững dưới những cách xác định khác
nhau của thâm hụt/cán cân ngân sách chính phủ và của các thành phần của ngân sách
chính phủ hay không.
- Thử nghiệm với những cách xác định khác của tỷ giá hối đoái thực.
- Xem xét các giả định nhận dạng khác bằng cách thay đổi thứ tự của các biến
trong hệ thống.
- Xem xét những phương pháp khác để tính toán lãi suất thực.
- Thử nghiệm với các cách đo lường tài khoản vãng lai khác nhau.
Trong tất cả các trường hợp, tài khoản vãng lai được cải thiện, tỷ giá hối đoái thực
gia tăng, và những hiệu ứng ngắn hạn khác 0 với xác suất 68%. Trong nhiều trường
hợp, thậm chí trong dài hạn, sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực khác 0 với xác suất 68%.
Hai tác giả cũng xem xét thêm một số mô hình mở rộng:
- Mô hình 1: mô hình 6 biến bao gồm biến bổ sung như nợ công (“Dept” ở Hình

6 – Phụ lục 7) và biên lãi suất (“Spread”). Nợ công được thêm vào vì nó là một biến
chỉ báo quan trọng có thể ảnh hưởng tới thuế và chi tiêu chính phủ. Biên lãi suất
thường được xem như là một chỉ báo biểu thị quan điểm chính sách tiền tệ của chính
phủ. Tác giả đưa yếu tố biên lãi suất vào để nhận dạng các cú sốc thâm hụt ngân sách
chính phủ sau sự xác định rõ ràng quan điểm chính sách tiền tệ.
Ngoài ra hai tác giả xem xét 2 loại lược đồ nhận dạng:
- Lược đồ 1: một biến bổ sung được giả định là yếu tố tác động ngoại sinh đồng
thời lên thâm hụt chủ yếu ngân sách chính phủ.
- Lược đồ 2: thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ được giả định như yếu tố tác
động ngoại sinh đồng thời đối với biến được thêm vào.
- Mô hình 2: mô hình trong đó đưa vào một phương pháp đo lường khác của
thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ mang tính cấu trúc (đã loại bỏ những thành phần
mang tính chu kỳ của thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ).
Mặc dù mô hình VAR đang xem xét được giả định là loại trừ những biến động có
tính chu kỳ của thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ bằng cách đặt điều kiện lên các
cú sốc sản lượng, hai tác giả muốn kiểm tra tính bền vững của các kết quả bằng cách
xem xét những tiêu chuẩn đo lường khác của thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ
mang tính cơ cấu. Thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ được hồi quy theo sản lượng
chu kỳ và những phần dư từ phép hồi quy này được sử dụng là thành phần mang tính
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 14/31
chu kỳ của thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ. Để thiết lập sản lượng chu kỳ, chúng
tôi sử dụng 2 phương pháp đo lường sản lượng xu hướng:
+ Một từ cơ quan hoạch định ngân sách (CBO)
+ Sử dụng phương pháp lọc Hodrisk Presscott (HP)
Cuối cùng tỷ giá hối đoái thực và tài khoản vãng lai của Mỹ đại diện cho quan hệ
kinh tế giữa Mỹ và phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, mô hình VAR cơ bản có thể
không mô tả một cách phù hợp các điều kiện kinh tế nước ngoài vì nó không bao gồm
các biến số nước ngoài. Để kiểm soát các biến số nước ngoài, tác giả xây dựng 2 mô
hình mở rộng. Trước hết, tác giả xây dựng một mô hình mà mỗi biến đưa vào là độ
lệch của các biến cũ với các biến tương ứng từ tập hợp các nước G5 (“Deviation”).

Mô hình bao gồm các biến sau {RGDP – RGDP*, GOV-GOV*, TB5, RIR-RIR*,
RER5}
Trong đó:
1. RGDP* là logarit RGDP của các nước G5 trừ Mỹ (gọi tắt là nhóm nước G5)
2. GOV* là tỷ lệ thâm hụt cơ bản ngân sách chính phủ trên GDP của nhóm
nước G5
3. TB5 là tỷ số giữa cán cân thương mại của Mỹ đối với các nhóm nước G5
(nghĩa là cán cân thương mại xét trên giao thương giữa Mỹ và G5) trên
GDP của Mỹ (cán cân thương mại ở đây được sử dụng đại diện cho tài
khoản vãng lai)
4. RER5 là tỷ giá hối đoái thực hiệu lực của Mỹ so với nhóm G5.
Và các biến ngoại sinh đồng thời được xếp trước.
Thứ hai, mô hình trước đó hữu ích nhưng lại bị hạn chế đó là mô hình không tách
biệt tác động của các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ Mỹ với các cú sốc thâm hụt
ngân sách của các nước còn lại.
Vì vậy tác giả xây dựng mô hình khác bao gồm thâm hụt ngân sách chính phủ Mỹ
và thâm hụt ngân sách chính phủ các nước G5 một cách tách biệt (7 biến). Những biến
trong mô hình này là {RGDP, RGDP*, GOV*, GOV, TB5, RIR – RIR*, RER5) trong
đó các biến ngoại sinh đồng thời được xếp đầu tiên. Chú ý rằng GOV* được đặt trước
GOV để xác định rằng các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ Mỹ không tương quan
với những sự thay đổi thâm hụt ngân sách của các nước còn lại. Hơn nữa, RGDP và
RGDP* cũng được tách biệt để thiết lập những cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ
Mỹ bằng cách đặt điều kiện thích hợp lên các cú sốc RGDP.
Hình 6 trình bày các kết quả của những mô hình mở rộng này. Hai cột đầu tiên của
các đồ thị thể hiện những phản ứng trong tài khoản vãng lai trong khi đó hai cột cuối
cùng thể hiện những phản ứng của tỷ giá hối đoái thực. Trong hầu hết các trường hợp,
tài khoản vãng lai được cải thiện trong khi tỷ giá hối đoái thực tăng. Hầu hết các
trường hợp trong ngắn hạn, những tác động này xảy ra với xác suất 68%.
4.3.2. Những kiểm định sâu hơn đối với các thành phần của “ngân sách chính
phủ”

Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 15/31
Trong phần này, tác giả kiểm định sâu hơn những tác động của chi tiêu và thuế
ròng - hai thành phần của ngân sách chính phủ bằng cách sử dụng những phương pháp
khác nhau. Đầu tiên, tác giả xem xét lược đồ bất đệ quy (“Non-recursive”) trong đó cả
hai thành phần tiêu dùng chính phủ và chuyển nhượng ròng đều được đưa vào cùng
một mô hình. Mô hình bất đệ quy rất có ích bởi vì nó cho phép một cách xử lý khác
của hai thành phần ngân sách chính phủ. Bên cạnh đó mô hình bất đệ quy có thể giải
quyết một hạn chế quan trọng của những mô hình đệ quy trước bởi vì nó cho phép mối
quan hệ phản hồi đồng thời giữa sản lượng và thâm hụt ngân sách chính phủ mà cấu
trúc mô hình đệ quy không giải quyết được.
{GOV1, GOV2, RGDP, CUR, RIR, RER} được đưa vào mô hình trong đó GOV1
là chi tiêu thực chính phủ và GOV2 lả tỷ lệ chuyển nhượng ròng trên GDP. Trong mô
hình này, những tác động đồng thời của tiêu dùng chính phủ và chuyển nhượng ròng
lên các mức sản lượng được cho phép, cũng như là các tác động đồng thời của các
mức sản lượng lên chuyển nhượng ròng. Cấu trúc của mô hình giống như mô hình
Blanchard và Berotti (2002). Lược đồ nhận dạng chính xác được trình bày trong phụ
lục 9.
Thứ hai, nhiều nghiên cứu trước đây đã sử dụng những biến giả để xác định các cú
sốc của chi tiêu chính phủ. Ramey và Shapiro (1997) đã sử dụng phương pháp thuyết
minh (narrative approach) để tách biệt 3 sự kiện ngoại sinh gây tranh cãi về sự tăng
cường mở rộng quân sự (chiến tranh Triều Tiên, Việt Nam và Carter-Reagan-1950:3,
1965:1, 1980:1). Dựa trên mô hình của Ramey và Shapiro (1997), Edelberg và các
cộng sự đã xây dựng một mô hình VAR và nhận dạng các cú sốc ngoại sinh đối với
chi tiêu chính phủ với những biến giả lấy từ những phần nghiên cứu của Ramey và
Shapiro
Tác giả sử dụng mô hình của Edelberg, Eichenbaum và Fisher (“EEF”) để kiểm tra
các tác động của các cú sốc chi tiêu chính phủ đối với tài khoản vãng lai. Tác giả đưa
vào 2 biến khác, chi tiêu chính phủ và tài khoản vãng lai, bên cạnh bốn biến cơ bản
(logarit cả GDP thực, lãi suất tín phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 3 tháng, logarit của chỉ sô
giá sản xuất dầu thô, logarit của chỉ số Ramey-Shapiro về chi tiêu quốc phòng) được

Fisher sử dụng. Biến “chi tiêu chính phủ” được Fisher sử dụng để suy ra bản chất của
các cú sốc bằng cách xem xét những phản ứng của chi tiêu chính phủ. Tài khoản vãng
lai được đưa vào để nghiên cứu tác động của các cú sốc lên tài khoản vãng lai- đây là
vấn đề quan tâm chính của bài nghiên cứu này. Khoảng thời gian ước lượng (1948-
1996) giống với mô hình EEF.
Hình 7 (xem phụ lục 8) minh họa những kết quả của mô hình trên. Trong tất cả các
trường hợp chúng tôi thấy rằng có sự cải thiện tài khoản vãng lai và một sự gia tăng tỷ
giá hối đoái thực. Như trong những mô hình trước, tác động của các cú sốc chi tiêu
chính phủ lên tài khoản vãng lai có xu hướng liên tục hơn tác động của các cú sốc
chuyển nhượng ròng. Trong mô hình EEF, tài khoản vãng lai trở nên xấu đi trong giai
đoạn đầu. Điều này dường như là kết quả từ sự sụt giảm ban đầu của chi tiêu chính
phủ (thể hiện ở hàng thứ 1). Từ những thời kỳ tiếp theo trở đi, chi tiêu chính phủ bắt
đầu tăng và tài khoản vãng lai cũng bắt đầu được cải thiện. Vì vậy những kết quả này
dường như phù hợp với những kết quả trước. Tức là sự gia tăng chi tiêu chính phủ (các
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 16/31
cú sốc chi tiêu chính phủ tích cực) cải thiện tài khoản vãng lai một cách mạnh mẽ và
liên tục.
Song, những nghiên cứu gần đây của Monacelli và Perotti (2006) đã phê phán mô
hình cơ bản của hai tác giả vì hai nguyên nhân chính:
- Những tác động đồng thời của các cú sốc thâm hụt ngân sách
chính phủ lên sản lượng là không được thừa nhận trong hệ thống này. Điều này có thể
làm chệch những kết quả thực nghiệm, đặc biệt là các cú sốc chi tiêu chính phủ có khả
năng tác động đồng thời đến sản lượng.
- GDP là một biến nội sinh và không nên xuất hiện trong mẫu số
của các biến tài khóa – các biến mà tác giả đang nghiên cứu những cú sốc của chúng.
Tuy nhiên những kết quả của tác giả đứng vững trước những lập luận này vì kết
quả thực nghiệm của tác giả là vững chắc về mặt định tính dưới nhiều cách xác định
thực nghiệm khác nhau cho phép những tác động đồng thời của cú sốc thâm hụt ngân
sách chính phủ lên sản lượng và sử dụng những cú sốc đối với những thang đo thực
của các biến tài khóa (không đo lường theo GDP).

5. KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, hai tác giả đã nghiên cứu những tác động của các cú sốc
thâm hụt ngân sách chính phủ lên tài khoản vãng lai và tỷ giá hối đoái thực của Mỹ,
dựa trên mô hình VAR, trong giai đoạn tỷ giá hối đoái thả nổi. Mô hình thực nghiệm
xác định các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ sau khi đã kiểm soát các nguồn gây
ra các biến động nội sinh của ngân sách chính phủ như các cú sốc sản lượng.
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 17/31
Các kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng các cú sốc về thâm hụt ngân sách chính phủ
(gia tăng thâm hụt ngân sách) xảy ra làm cải thiện tài khoản vãng lai và làm gia tăng tỷ
giá hối đoái thực trong ngắn hạn. Những kết quả này là trái ngược với dự đoán của hầu
hết các mô hình lý thuyết. Phát hiện này đứng vững qua nhiều cách xác định khác
nhau, các phương pháp đo lường thâm hụt ngân sách chính phủ khác nhau, các giả
định nhận dạng thay thế, các thành phần khác nhau của ngân sách chính phủ, và các
mô hình thực nghiệm khác nhau.
Phân tích thực nghiệm chi tiết chỉ ra rằng sự cải thiện tài khỏan vãng lai bắt nguồn
từ hành vi Ricardian không hoàn chỉnh (tức là, tiết kiệm khu vực tư gia tăng) và một
sự sụt giảm trong đầu tư (tác động chen lấn dường như là kết quả của sự gia tăng lãi
suất thực), trong khi đó sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực chủ yếu được gây ra bởi sự gia
tăng của tỷ giá hối đoái danh nghĩa. Mặc dù một số ít các mô hình phân tích cũng đề
xuất rằng các cú sốc thâm hụt ngân sách chính phủ có thể dẫn đến sự cải thiện tài
khoản vãng lai và sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực nhưng họ không thể đưa ra các bằng
chứng cụ thể như đã trình bày trong nghiên cứu này. Những nghiên cứu lý thuyết
trong tương lai nếu cố gắng chứng minh các phát hiện thực nghiệm trong nghiên cứu
này sẽ có nhiều khả năng thành công, cũng như các nghiên cứu thực nghiệm trong
tương lai cố gắng làm sáng tỏ nhiều hơn nữa cơ chế truyền động này.
Những kết quả trình bày ở trên đây cũng đề xuất rằng sự biến động trái chiều
dường như là mẫu hình phổ biến hơn trong dữ liệu so với thâm hụt kép. Sự biến động
trái chiều của cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai là điều được kỳ vọng khi xảy ra
các cú sốc mang tính chu kỳ của sản lượng hay năng suất. Thực sự, hầu hết sự biến
động cùng chiều của cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai dường như được dẫn dắt

bởi các cú sốc sản lượng /năng suất. Dù vậy sự biến động trái chiều cũng xuất hiện
ngay cả khi tác giả xem xét các cú sốc tài khóa “ngoại sinh”. Trong khi sự đóng góp
của các cú sốc tài khóa ngoại sinh vào hiện tượng biến động trái chiều này là tương
đối nhỏ so với các cú sốc sản lượng, những kết quả này đề xuất một sự cần thiết trong
việc xem xét phân tích lại về các tác động của chính sách tài khóa ảnh hưởng như thế
nào trên tài khoản vãng lai.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bảng 2 - Phân tích phương sai sai số dự báo của GOV
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 18/31
Phụ lục 2. Bảng 3 – Phân tích biến động kết hợp
Phụ lục 3: Hình 3
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 19/31
Phụ lục 4: Hình 4
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 20/31
Phụ lục 5: Hình 5
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 21/31
Phụ lục 6. Hình 6
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 22/31
Phụ lục 7: Hình 7
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 23/31
Phụ lục 8. Mô hình bất đệ quy
Lược đồ bất đệ quy được trình bày bởi phương trình sau:
Tham khảo thêm trong những bài viết của Kim (2001) hay Kim và Roubini (2000)
Phụ lục 9. Phân tích biến động kết hợp
Sự phân tích bắt đầu từ việc trình bày vector cơ cấu trung bình trượt (để loại bỏ yếu tố ngẫu
nhiên), trong đó những cú sốc cơ cấu không tương quan lẫn nhau theo chuỗi:
yt=Ψ0εt+Ψ1εt−1+Ψ2εt−2+Ψ3εt−3+…, Et(εtεt′)=Σ
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 24/31
với y là vectơ k chiều của các biến, ε là vectơ k chiều cúa các phần nhiễu cơ cấu. Ψj là ma
trận k x k của những tham số cơ cấu, và Σ là ma trận vuông k x k. Để đơn giản, hằng số và

biến giả được loại ra.
Phương sai của sai số dự báo của thành phần thứ i của y, y
i
của thời kỳ i, yi tiếp theo, là:

Với VAR
s,l
(y
i
)≡Σ
ll
((Ψ
0,il
)
2
+(Ψ
1,il
)
2
+(Ψ
2,il
)
2
+…+(Ψ
s−1,il
)
2
) là sự đóng góp của cú sốc cấu trúc thứ
l , Σ
ll

là thành phần chéo thứ l của Σ (phương sai của thành phần thứ l của ε) và Ψ
j,il
là thành
phần của Ψ
j
tại hàng i cột l. Đây là phương pháp "Phân tích phương sai sai số dự báo".
Tương tự, hiệp phương sai giữa sai số dự báo của y
i
và y
j
trong thời kỳ s tiếp theo có thể được
phân tích thành một phần dựa trên kết quả từ mỗi sai số như sau:
Với COV
s,l
(y
i
,y
j
)≡Σ
ll

0,il
Ψ
0,jl

1,il
Ψ
1,jl

2,il

Ψ
2,jl
+…+Ψ
s−1,il
Ψ
s−1,jl
). Hơn nữa, bằng cách chia
hiệp phương sai cho độ lệch chuẩn của sai số dự báo, hệ số tương quan có thể được phân tích
như sau:
Vì vậy, đóng góp của từng nhiễu cơ cấu đế sự tương quan được chia làm ba phần: hệ số tương
quan có điều kiện lên từng cú sốc cơ cấu, căn bậc hai của những đóng góp tương đối của từng
cú sốc cơ cấu vào phương sai sai số dự báo của y
i
và căn bậc hai của những đóng góp tương
đối của từng cú sốc cơ cấu vào phương sai sai số dự báo của y
j
.
Những phương pháp tương tự có thể được áp dụng để phân tích moment bậc 2 bất kỳ như
hiện tượng tương quan chéo và tự tương quan (hay tự hiệp phương sai). Đây là phương pháp
"Các phân tích tổng quan phương sai của sai số dự báo" của Kim (2006).
Phụ lục 10. Dữ liệu
Phần phụ lục này mô tả những định nghĩa về biến và nguồn dữ liệu. Dữ liệu về sản lượng, tài
khoản vãng lai, cán cân ngân sách, và những thành phần của chúng được lấy từ các bảng
National Income và Product Accounts (NIPA) tại trang web của Cục Phân tích Kinh tế của
Mỹ (). Những biến sau được sử dụng như là thành phần của tài khoản
vãng lai và cán cân ngân sách cũng xuất hiện trong công thức (1) và (2). Phần trong ngoặc
đơn là tên chính xác của những thành phần được liệt kê trong bảng NIPA: tài khoản vãng lai
(Tiết kiệm ròng - Đầu tư ròng + Sai số thống kê), Tiết kiệm (Tiết kiệm ròng), Đầu tư (Đầu tư
ròng), Sai số thống kê, Tiết kiệm khu vực tư (Tiết kiệm khu vực tư ròng), Thâm hụt ngân sách
cơ bản (- Tiết kiệm ròng Chính phủ + Thu nhập trên tài sản chính phủ, tiền lãi và thu nhập

khác - lãi trả), lãi ròng của Chính phủ (Thu nhập từ tài sản, lãi và thu nhập khác - lãi trả), Đầu
Môn Tài Chính Quốc Tế - Đề tài 1 Trang 25/31

×