Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Kiểm soát rủi ro quốc gia việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 97 trang )




MỤC LỤC

CHƯƠNG I: QUAN NIỆM VỀ RỦI RO QUỐC GIA
1.1 Khái niệm về rủi ro quốc gia: ..............................................................................1
1.1.1 Khái niệm rủi ro quốc gia:...........................................................................1
1.1.2 Phân loại rủi ro quốc gia: ............................................................................3
1.2 Các nhân tố tác động đến rủi ro quốc gia: ...........................................................7
1.2.1 Các nhân tố kinh tế vĩ mô............................................................................8
1.2.2 Môi trường xã hội, chính trị và pháp luật....................................................9
1.3 Vai trò và tác động của đánh giá rủi ro quốc gia:..............................................10
1.3.1 Vai trò của đánh giá rủi ro quốc gia:.........................................................10
1.3.2 Tác độ
ng của việc đánh giá rủi ro quốc gia: .............................................11
1.4 Xếp hạng rủi ro quốc gia: ..................................................................................12
1.4.1 Xếp hạng rủi ro quốc gia:..........................................................................12
1.4.2 Những tồn tại của các hệ thống xếp hạng rủi ro quốc gia hiện nay:.........14
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ RỦI RO
QUỐC GIA
2.1 Nhận định về rủi ro kinh tế: ...............................................................................18
2.1.1 Tăng trưởng kinh tế:..................................................................................18
2.1.2 Lạm phát....................................................................................................22
2.1.3 Thu chi ngân sách nhà nước và chính sách tài khóa .................................24
2.1.4 Chính sách lãi suất.....................................................................................27
2.1.5 Cán cân tài khoản vãng lai: .......................................................................29
2.2 Nhận định về rủi ro tài chính .............................................................................31
2.2.1 Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại hối:........................31




2.2.2 Nợ nước ngoài...........................................................................................35
2.2.3 Hệ thống tài chính – ngân hàng.................................................................37
2.3 Nhận định về rủi ro chính trị:.............................................................................41
2.3.1 Tham nhũng...............................................................................................41
2.3.2 Thủ tục hành chính....................................................................................43
2.4 Các thách thức tăng trưởng................................................................................43
CHƯƠNG III: ĐỊNH LƯỢNG VÀ KIỂM SOÁT RỦI RO QUỐC GIA VIỆT
NAM
3.1 Xây dựng mô hình định lượng rủi ro quốc gia Việt Nam – mô hình beta quốc gia:
..................................................................................................................................45
3.1.1 Nền tảng lý thuyết cho mô hình: ...............................................................45
3.1.2 Xây dự
ng mô hình beta rủi ro quốc gia của Việt Nam: ............................50
3.2 Một số đề xuất về chính sách kinh tế vĩ mô nhằm kiểm soát rủi ro quốc gia Việt
Nam:.........................................................................................................................62
3.2.1 Nhóm đề xuất cho rủi ro tài chính.............................................................62
3.2.2 Nhóm đề xuất cho rủi ro kinh tế................................................................68
3.2.3 Nhóm đề xuất cho rủi ro chính trị .............................................................69



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

DN : Doanh nghiệp
NH : Ngân hàng
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NSNN : Ngân sách Nhà nước
TTCK : Thị trường chứng khoán

XK : Xuất khẩu
XNK : Xuất nhập khẩu
ADB : Asian Development Bank
IMF : International Monetary Fund
WB : World Bank
WTO : World Trade Organization




DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU


Bảng 2.1: Tăng trưởng dịch vụ và công nghiệp chi tiết từng lĩnh vực.......................21
Bảng 2.2: Cán cân tài khóa Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007 (% GDP)....................25
Bảng 2.3: Bù đắp bội chi NSNN (Đơn vị: tỷ đồng)....................................................26





DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình 1.1: Các loại hình đầu tư quốc tế và rủi ro quốc gia............................................3
Đồ thị 2.1: Tăng trưởng GDP từ 2002 đến 2008 ........................................................18
Đồ thị 2.2: Tăng trưởng doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ .....................................19
Đồ thị 2.3: Đóng góp của từng khu vực trong tổng đầu tư.........................................20
Đồ thị 2.4: Đóng góp của từng lĩnh vực vào tăng trưởng GDP..................................20
Đồ thị 2.5: Lạm phát từ 2002 – 2007..........................................................................22
Đồ thị 2.6: Chỉ số giá tiêu dùng biến động theo tháng ...............................................23

Đồ thị 2.7: Tăng trưởng xuất khẩu và các nhóm hàng xuất khẩu...............................30
Đồ thị 2.8: Tăng trưởng nhập khẩu và các nhóm hàng nhập khẩu .............................30
Đồ thị 2.9: Cán cân tài khoản vãng lai (%/GDP)........................................................31
Đồ thị 2.10: Diễn biến tỷ giá hối đoái từ 01/2000 – 05/2007 .....................................32
Đồ thị 2.11: Dự trữ ngoại hối của Việt Nam từ 2003 – 2007.....................................34
Đồ thị 2.12: Nợ nướ
c ngoài và dịch vụ nợ của Việt Nam ..........................................35
Đồ thị 2.13: Diễn biến chỉ số VN-Index từ 2005 đến đầu 2008.................................40
Đồ thị 3.1: Beta quốc gia biến đổi theo thời gian (ước tính từ mô hình)....................60





LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Xu hướng toàn cầu hóa trong các lĩnh vực đang diễn ra mạnh mẽ, trong đó toàn cầu
hóa trong kinh tế là diễn ra mãnh liệt nhất. Với xu hướng này, các luồng vốn quốc tế
sẽ chu chuyển liên tục giữa các quốc gia. Các luồng vốn này có thể là nợ hoặc vốn
đầu tư. Vì vậy, khi quyết định có thực hiện đầu tư hay không thì các nhà đầu tư cần
phải xem xét đ
ánh giá rủi ro, rủi ro này gắn liền với một quốc gia cụ thể, rủi ro quốc
gia. Rủi ro quốc gia sẽ bao hàm tất cả các nhân tố tác động đến đầu tư trong quốc gia
đó.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ. Các luồng vốn đầu tư nước ngoài
đổ vào liên tục trong những năm vừa qua, góp phần phát triển kinh tế Việt Nam. Tuy
nhiên, cùng với tăng trưởng kinh tế cao thì sự phứ
c tạp trong đánh giá và phân tích
rủi ro quốc gia cũng gia tăng. Do đó, vấn đề phân tích rủi ro quốc gia là cần thiết. Vì

lý do này, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Định lượng và kiểm soát rủi ro quốc gia
Việt Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ.

2. Mục tiêu, đối tượng, phương pháp nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu:
• Nhận diện các nhân tố của rủi ro quố
c gia.
• Phân tích và đánh giá các thành tố tác động đến rủi ro quốc gia Việt Nam.
• Trên cơ sở phân tích, đưa ra một số đề xuất về kiểm soát rủi ro quốc gia
Việt Nam
Đối tượng nghiên cứu:
• Các quan niệm về rủi ro quốc gia cũng như tác động của đánh giá rủi ro
đối với nền kinh tế.
• Các nhân tố kinh tế vĩ mô tác động thế nào đối với rủ
i ro quốc gia Việt
Nam.
Phương pháp nghiên cứu:
• Tổng hợp, nghiên cứu lý luận trên thế giới.
• Sử dụng phân tích định lượng (hồi quy tuyến tính).





3. Ý nghĩa của đề tài:
Đề tài cung cấp nền tảng cho việc nghiên cứu chi tiết, định lượng rủi ro quốc gia.
Thông qua kết quả phân tích, các nhà hoạch định chính sách kinh tế có thể đưa ra
những quyết định hợp lý hơn.

4. Kết cấu của luận văn:

Luận văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Quan niệm về rủi ro quốc gia
Chương 2: Tình hình kinh tế Vi
ệt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia
Chương 3: Định lượng và kiểm soát rủi ro quốc gia Việt Nam
Trang: 1




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
CHƯƠNG I:
QUAN NIỆM VỀ RỦI RO QUỐC GIA

1.1 Khái niệm về rủi ro quốc gia:
1.1.1 Khái niệm rủi ro quốc gia:
Đối với bất kỳ hoạt động đầu tư nào, vấn đề rủi ro luôn được đề cập đến khi đánh giá
tính hiệu quả của hoạt động đầu tư đó. Ngày nay, trong quá trình toàn cầu hóa, sự
chu chuyển vốn giữa các quốc gia càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Vấn đề xem xét đánh
giá mức độ rủi ro của từng quốc gia được đặt ra c
ũng trở nên phổ biến như việc đánh
giá rủi ro của bất kỳ hoạt động đầu tư nào đó.
Rủi ro quốc gia đề cập đến rủi ro mà một quốc gia sẽ không thể thực hiện, giữ đúng
được lời hứa đối với các cam kết tài chính của mình. Khi mà một quốc gia không
hoàn thành được nhiệm vụ đề ra thì nó sẽ gây hại đến hoạt động của t
ất cả các công
cụ tài chính khác trong quốc gia đó cũng như đến những quốc gia mà nó có quan hệ.
Rủi ro quốc gia áp dụng cho cổ phiếu, trái phiếu, quỹ tương hỗ, quyền chọn và hợp
đồng tương lai mà được phát hành trong một quốc gia cụ thể. Loại rủi ro này hầu hết

thường được thấy tại các thị trường mới nổi hay các quốc gia bị thâm hụt cán cân
thương mại nghiêm trọng.
R
ủi ro quốc gia còn ám chỉ đến khả năng có thể xảy ra khi mà một chính phủ hay
người đi vay từ một quốc gia cụ thể có thể không có khả năng hay không sẵn sàng để
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nợ của họ đối với một hay nhiều người cho vay nước
ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài.
Rủi ro quốc gia theo Bourke (1990) là khả năng của một quốc gia để tạ
o ra đủ dự trữ
ngoại hối để đáp ứng cho những nghĩa vụ nợ bên ngoài. Những yếu tố quan trọng
của rủi ro quốc gia là tình trạng hoạt động mậu dịch (xuất khẩu trừ nhập khẩu chia
cho GNP) và mức độ nợ nước ngoài. Roy (1994) đã bổ sung định nghĩa này và mô tả
rủi ro nợ của chính phủ. Đây là những khả năng tiềm tàng đối v
ới những mất mát tài
chính mà có nguồn gốc từ các sự kiện kinh tế hay chính trị. Rủi ro này có thể nảy
sinh từ việc nắm giữ những trái quyền công hay tư nhân. Rủi ro quốc gia là một định
nghĩa rộng hơn của rủi ro tín dụng và cho vay xuyên biên giới. Nếu rủi ro này được
xem xét từ khía cạnh một danh mục cho vay thì nó bao gồm cả các yếu tố hệ thống
(rủi ro không thể đa dạng hóa) và các y
ếu tố phi hệ thống (rủi ro có thể đa dạng hóa).
Trang: 2




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
Một quan điểm chủ yếu của lý thuyết tài chính là rủi ro tổng hợp được cấu thành từ
rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống cũng có thể xem như là rủi ro
không thể tránh được hay rủi ro không thể đa dang hóa. Rủi ro phi hệ thống cùng

một lúc có thể được mô tả như là rủi ro chính trị và rủi ro có thể đa dạng hóa. Rủi ro
này là có thể tránh được nh
ưng nó làm giảm tỷ suất sinh lợi và rủi ro này có thể tiến
tới 0 khi một lượng các chứng khoán (các tài sản vay mượn quốc tế) lựa chọn ngẫu
nhiên được thêm vào danh mục. Rủi ro phi hệ thống có thể được giảm thiểu một cách
đáng kể với một lượng vừa phải các chứng khoán được đa dạng hóa.
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xã h
ội, chính trị ở
một quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro quốc
gia cũng bao gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối trả nợ
nước ngoài của chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối, sự đánh giá thấp tiền tệ hay mất
giá, phá giá tiền tệ.
Thuật ngữ rủi ro qu
ốc gia thường được sử dụng gắn với đầu tư xuyên biên giới và
được phân tích từ viễn cảnh của nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro quốc gia là rủi ro đơn
nhất mà nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt khi đầu tư vào một quốc gia khi so sánh
đầu tư vào quốc gia khác. Rủi ro quốc gia là một phần đơn lẻ của rủi ro đầu tư, được
gây ra trong một quốc gia. Việ
c hiểu về thuật ngữ rủi ro quốc gia đến mức độ nào là
phụ thuộc vào dạng đầu tư. Có 3 dạng đầu tư nước ngoài phổ biến: cho vay, đầu tư
vốn cổ phần, và đầu tư trực tiếp FDI. Cho vay bao gồm cho vay trực tiếp, hoặc mua
trái phiếu của chính phủ hay trái phiếu các công ty tư nhân ở quốc gia đó. Vốn cổ
phần bao gồm đầu tư vào những công ty
được niêm yết trên thị trường chứng khoán
hay không được niêm yết trên thị trường chứng khoán ở quốc gia đó. Đầu tư trực tiếp
bao gồm việc đầu tư vào xí nghiệp và tài nguyên như hầm mỏ hay giếng dầu và các
tài sản thực khác. Liên quan đến việc cho vay, người đi vay có thể phân loại thành
hai nhóm: chính phủ vay và vay có bảo đảm của chính phủ, và vay từ các công ty tư
nhân không có bảo đảm. Khi thuật ngữ rủi ro quốc gia
được sử dụng trong cho vay

xuyên biên giới và người đi vay là chính phủ thì rủi ro tín dụng được biết đến như là
rủi ro thể chế (sovereign risk) hay rủi ro tín dụng quốc qia. Rủi ro tín dụng là rủi ro
mà người đi vay sẽ không hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng vay mượn
dẫn đến những mất mát cho người cung cấp tín dụng hay người cho vay. Rủi ro quốc
gia đối với nhà đầu tư bao gồm cả kh
ả năng “tăng giá” tiềm tàng và rủi ro “giảm giá”
và có thể đo lường bằng phương sai của thu nhập. Trong hầu hết các trường hợp khả
Trang: 3




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
năng các sự kiện tiêu cực sẽ làm tăng giá trị đầu tư là rất thấp. Do đó rủi ro quốc gia
có thể xem như là những tác động mang tính quốc gia đến thu nhập từ đầu tư.
Hình 1.1: Các loại hình đầu tư quốc tế và rủi ro quốc gia

1.1.2 Phân loại rủi ro quốc gia:
Có nhiều quan niệm trong việc phân loại rủi ro quốc gia, trong đó có những quan
niệm cơ bản như sau.
a. Đứ
ng trên góc độ đầu tư thì một phân loại khả dĩ đối với rủi ro quốc gia là
rủi ro kinh tế, rủi ro thương mại và rủi ro chính trị.
Rủi ro kinh tế là rủi ro liên quan tới việc phát triển kinh tế vĩ mô của một quốc gia,
như sự phát triển lãi suất và tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng tới khả năng lợi nhuận
của đầu tư.
Rủ
i ro thương mại là rủi ro liên quan đến một đầu tư xác định, chẳng hạn như rủi ro
liên quan đến việc hoàn thành đầy đủ các hợp đồng với các công ty tư nhân hay đối

tác địa phương.
Rủi ro chính trị, đối với nhiều quốc gia là loại quan trọng nhất. Một quốc gia là một
thực thể chính trị với những luật lệ và quy định áp dụng đối với đầu tư
. Thêm vào đó
những điều luật bảo vệ quyền đối với tài sản cá nhân, sự sẵn sàng và khả năng của
Các tác động mang tính quốc gia đối với thu
nhập từ đầu tư

RỦI RO QUỐC GIA
Vay mượn của tư
nhân

Vay mượn của
chính phủ


Đầu tư gián tiếp
(đầu tư danh mục)
FPI


Đầu tư trực tiếp
FDI
Trang: 4




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 

một chính phủ thay đổi những luật lệ và quy định này sẽ tạo thành một nguồn rủi ro
đối với đầu tư. Rủi ro chính trị cũng có thể gây ra bởi hành vi của nhà nước hay các
công ty sở hữu nhà nước trên thị trường, hay trong các trường hợp nguy kịch như
chiến tranh và bạo loạn.
b. Một quan điểm thứ hai trong phân tích rủi ro quốc gia là phân loại rủi ro
quốc gia thành rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế, r
ủi ro tài chính.
Cách phân loại này là cách phân loại phổ biến nhất và thường được các tổ chức xếp
hạng sử dụng.
Rủi ro chính trị thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc gia mà có thể
ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của
mình. Rủi ro chính trị tăng lên từ các sự kiện như chiến tranh, xung đột nộ
i bộ hay
xung đột bên ngoài, khủng bố… dẫn đến những thay đổi trong chính phủ. Rủi ro
chính trị còn được thể hiện thông qua những vấn đề bất ổn chính trị của quốc gia
láng giềng. Chẳng hạn, nếu quốc gia đi vay nằm bên cạnh một quốc gia đang có
chiến tranh thì mức độ rủi ro của quốc gia này sẽ cao hơn bởi vì mặc dù quốc gia đi
vay không liên quan trực tiếp đế
n cuộc xung đột nhưng nguy cơ ảnh hưởng từ cuộc
xung đột này là tồn tại.
Rủi ro kinh tế thể hiện sức mạnh hay sự yếu kém hiện tại của nền kinh tế của một
quốc gia.
Rủi ro tài chính thể hiện khả năng của một quốc gia để đáp ứng cho việc thanh toán
các khoản tín dụng chính thức, thương mại… nước ngoài.
Rủi ro kinh tế
và rủi ro tài chính phản ánh năng lực chi trả của một quốc gia đối với
các khoản nợ của mình, trong khi đó rủi ro chính trị lại phản ánh thiện chí trả nợ đó.
c. Quan điểm thứ ba đối với việc phân loại rủi ro quốc gia hướng cụ thể vào
từng loại rủi ro như sau.
Các nhà phân tích có khuynh hướng phân loại rủi ro quốc gia vào 6 loại chính được

chỉ ra dưới đây. Nhiề
u loại trong số các rủi ro này chồng chéo lẫn nhau, dựa trên mối
quan hệ quốc tế của nền kinh tế trong nước với hệ thống chính trị và cộng đồng quốc
tế. Mặc dù nhiều nhà phân tích rủi ro có thể không đồng ý hoàn toàn với cách phân
loại này nhưng các khái niệm này có khuynh hướng thể hiện rủi ro quốc gia. Sáu loại
rủi ro này là: rủi ro kinh tế, rủi ro chuyển giao, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro vị trí hay
vùng lân cận, rủi ro thể chế, rủi ro chính trị.
Trang: 5




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
Rủi ro kinh tế là một sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế hay tỷ lệ tăng trưởng
mà tạo ra một thay đổi chủ yếu trong thu nhập kỳ vọng của một đầu tư. Rủi ro này
phát sinh từ khả năng tiềm tàng của những thay đổi bất lợi trong mục tiêu của các
chính sách kinh tế chủ yếu (chính sách tài khoá, chính sách quốc tế, chính sách phân
bổ của cải hay chính sách sản xuấ
t) hay phát sinh từ một thay đổi đáng kể trong lợi
thế so sánh của quốc gia (như cạn kiệt tài nguyên, suy thoái công nghiệp, dịch
chuyển dân cư). Rủi ro kinh tế thường chồng chéo với rủi ro chính trị trong một vài
hệ thống đo lường vì cả hai có quan hệ đến chính sách của một quốc gia. Sự đo
lường rủi ro kinh tế bao gồm các đo lường truyền thống về chính sách tài khoá và
chính sách tiền tệ, nh
ư quy mô và thành phần của chi tiêu chính phủ, chính sách thuế,
tình trạng nợ của chính phủ, và chính sách tiền tệ và tính vững chắc về tài chính. Đối
với đầu tư dài hạn, sự đo lường nhắm vào các nhân tố tăng trưởng dài hạn, mức độ
“mở cửa” của nền kinh tế, và các nhân tố thể chế mà có thể tác động đến sản xuất
của cải.

Rủi ro chuyển giao là rủi ro phát sinh từ
một quyết định bởi chính phủ một quốc gia
về việc hạn chế sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài. Những hạn chế này có thể là:
gây khó khăn cho việc chuyển lợi nhuận, cổ tức, hay vốn về nước. Rủi ro chuyển
giao cũng có thể hiểu là khả năng mà một tài sản không thể chuyển đổi sang một
đồng tiền thanh toán (đồng tiền có khả nă
ng chuyển đổi) bởi vì quốc gia vay nợ thiếu
ngoại hối cần thiết hay kiềm chế khả năng này. Kiểm soát ngoại hối là một ví dụ của
rủi ro chuyển giao. Định lượng rủi ro này khá khó khăn bởi vì quyết định hạn chế
vốn có thể là một phản ứng hoàn toàn mang tính chính trị nhằm đối phó những khó
khăn nhất định trong những thời kỳ kinh tế nào đó. Ví d
ụ như, quyết định của
Malaysia thực hiện kiểm soát vốn và chế độ tỷ giá hối đoái cố định trong khoảng
giữa cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á là một giải pháp mang tính chính trị đối với
vấn đề tỷ giá. Đo lường rủi ro chuyển giao tiêu biểu thường bao gồm các tỷ lệ:
• Tỷ lệ các khoản thanh toán nợ dịch vụ trên xuất khẩ
u;
• Tỷ lệ các khoản thanh toán nợ dịch vụ trên xuất khẩu cộng đầu tư trực tiếp
nước ngoài thuần;
• Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập;
• Tỷ lệ dự trữ ngoại tệ so với nhập khẩu.
Việc đo lường thường gắn liền với tình trạng của tài khoản vãng lai. Khi các đo
lường định lượng này có xu h
ướng xấu, điều này sẽ bộc lộ sự mất cân bằng tiềm tàng
Trang: 6




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia

 
của cán cân tài khoản vãng lai, có thể đưa một quốc gia đến việc hạn chế vốn. Ví dụ
như, một sự thâm hụt đang lớn dần lên trong tài khoản vãng lai ngụ ý một nhu cầu
lớn hơn mãi mãi đối với ngoại tệ để bù đắp cho sự thâm hụt đó. Rủi ro này sẽ tăng
thêm nếu không có sự thay đổi nào trong việc bù đắp sự thâm hụt này bằng tài khoản
vốn.
Rủ
i ro tỷ giá là một sự biến động bất lợi không mong đợi trong tỷ giá hối đoái. Rủi
ro tỷ giá bao gồm một sự thay đổi không mong đợi trong chế độ tỷ giá như một thay
đổi từ tỷ giá cố định sang thả nổi. Lý thuyết kinh tế chỉ ra việc phân tích rủi ro tỷ giá
phải trải qua thời kỳ dài (hơn 1 đến 2 năm). Các áp lực ngắn hạn, bị chi phối bở
i các
các nguyên tắc kinh tế cơ bản, có khuynh hướng bị cuốn theo bởi các động lực mua
bán tiền tệ được định giá một cách tốt nhất bởi các nhà kinh doanh tiền tệ. Trong
ngắn hạn, rủi ro đối với nhiều đồng tiền có thể được loại bỏ ở một chi phí có thể chấp
nhận được thông qua các cơ chế phòng ngừa khác nhau và các hợp đồng tương lai.
Phòng ngừa tiền tệ trở
nên phi thực tế đối với tuổi thọ của máy móc thiết bị hay các
tài sản tương tự đầu tư trực tiếp. Vì thế rủi ro tỷ giá tăng lên trừ khi có các phòng
ngừa mang tính tự nhiên (sự sắp xếp doanh thu và chi phí ở cùng một đồng tiền).
Một chính sách tỷ giá hối đoái cố định của một quốc gia có thể giúp cô lập rủi ro rủi
ro tỷ giá. Kiềm chế mức độ th
ả nổi tỷ giá cùng với việc chính phủ cố gắng kiểm soát
đồng tiền trong một phạm vi chật hẹp, có khuynh hướng gây ra rủi ro cao hơn là hệ
thống tỷ giá cố định hay tỷ giá chuẩn tiền tệ. Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi thông
thường duy trì rủi ro thấp hơn đối với việc gây ra một sự dịch chuyển tỷ giá bất lợi
không mong đợi. M
ức độ đánh giá cao hay thấp của một đồng tiền cũng có thể giúp
cô lập rủi ro tỷ giá hối đoái.
Rủi ro vị trí hay rủi ro vùng lân cận bao hàm các hiệu ứng dây chuyền gây nên bởi

những khó khăn trong một khu vực, bởi một nước đối tác của một quốc gia, hay
trong các quốc gia với những tính chất tương tự. Tính chất lây lan thể hiện tiêu biểu
ở các quốc gia Latin vào những năm 1980, s
ự lây lan ở châu Á vào năm 1997-1998.
Vị trí địa lý cung cấp sự đo lường đơn giản nhất về rủi ro vị trí. Các đối tác giao dịch,
các đồng minh thương mại quốc tế (như Mercousur, NAFTA, và EU), quy mô, biên
giới, và khoảng cách đối với các quốc gia quan trọng về kinh tế hay về chính trị hay
các khu vực cũng có thể giúp xác định rủi ro vị trí.
Rủi ro thể chế liên quan đến việc hoặc một chính phủ sẽ
không sẵn lòng hay không
thể đáp ứng được các nghĩa vụ nợ, hoặc là có thể bội ước các cam đoan đối với các
khoản vay nợ. Rủi ro tự chủ có thể liên quan đến rủi ro chuyển giao mà một chính
Trang: 7




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
phủ có thể cạn kiệt ngoại hối do sự tiến triển không thuận lợi trong cán cân thanh
toán. Nó cũng liên quan đến rủi ro chính trị trong trường hợp mà một chính phủ có
thể quyết định không thực hiện đúng hẹn những cam kết vì mục đích chính trị. Rủi ro
này đặc biệt quan trọng đối với người cho vay cá nhân. Khi chính phủ một quốc gia
quyết định không đáp ứng nghĩa vụ nợ c
ủa họ, người cho vay cá nhân thực tế không
thể kiện chính phủ nước ngoài. Đo lường rủi ro tự chủ đối với khả năng chi trả của
một chính phủ là tương tự như đo lường rủi ro chuyển giao. Đo lường thiện chí chi
trả đòi hỏi một sự đánh giá lịch sử thể hiện thanh toán của một chính phủ, đòi hỏi
một sự
phân tích đối với các chi phí tiềm tàng của khoản nợ từ chối thực hiện của

chính phủ vay mượn (quốc gia này sẽ bị ngăn chặn trong việc tiếp cận thị trường vốn
quốc tế, uy tín quốc tế bị huỷ hoại…), và đòi hỏi một nghiên cứu về những tiềm tàng
đối với việc tái lập thời hạn nợ bởi những hiệp hội các nhà cho vay cá nhân hay các
định chế quốc tế.
Rủi ro chính trị liên quan đến một thay đổi trong thể chế chính trị xuất phát từ một
thay đổi trong quyền lực kiểm soát chính phủ, cơ cấu xã hội, hay nhân tố phi kinh tế
khác. Loại rủi ro này bao hàm khả năng tiềm tàng đối với những xung đột bên trong
và bên ngoài, rủi ro sung công. Đánh giá rủi ro này đòi hỏi phân tích nhiều nhân tố,
bao gồm các mối quan hệ của các đảng phái khác nhau trong một quốc gia, quá trình
ra quyết định trong chính phủ, và lịch sử của quốc gia đó. Việc bảo hiểm hiện có đối
với các rủi ro chính trị, có thể đạt được từ một số các cơ quan chính phủ (như Công
ty đầu tư tư nhân hải ngoại ở Mỹ) và các tổ chức quốc tế (như Cơ quan bảo đảm đầu
tư đa phương của Ngân hàng Thế giới). Một vài đ
o lường dịnh lượng hiện nay giúp
đánh giá rủi ro chính trị. Phương pháp đo lường xếp loại từ những phương pháp phân
loại khác nhau (như kiểu cấu trúc chính trị, phạm vi và tính đa dạng của cấu trúc dân
tộc, những rắc rối tranh chấp dân sự hay bên ngoài), được quan sát hay phân tích bởi
các chuyên gia chính trị. Các nhà phân tích của công ty có thể phát triển các ước
lượng rủi ro chính trị cho công việc kinh doanh của họ thông qua các cuộc thảo luận
vớ
i các cơ quan địa phương hay các công ty khác hoạt động trên cùng lĩnh vực trong
quốc gia đó.
1.2 Các nhân tố tác động đến rủi ro quốc gia:
Các cuộc khủng hoảng nợ mà những quốc gia kém phát triển và các thị trường mới
nổi trải qua trong 20 năm gần đây đã hướng sự chú ý đến một số các nhân tố mà có
liên quan đặc biệt tới việc phân tích rủi ro quốc gia.
Trang: 8





Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
1.2.1 Các nhân tố kinh tế vĩ mô
a. Nhân tố đầu tiên trong các nhân tố này là quy mô và cấu trúc của nợ nước ngoài
trong mối quan hệ với nền kinh tế của quốc gia đó. Một cách cụ thể hơn là:
- Mức độ hiện tại của nợ ngắn hạn và khả năng tiềm tàng đưa đến một cuộc
khủng hoảng thanh khoản
- Quy mô nợ nước ngoài của khu vực công, khả
năng của chính phủ để tạo ra
đủ thu nhập, từ thuế và các nguồn khác, để đáp ứng nghĩa vụ nợ.
b. Điều kiện và tính dễ tổn thương của tài khoản vãng lai của quốc gia cũng là một
nhân tố quan trọng, bao gồm:
- Mức dự trữ quốc tế.
- Mức dự trữ nhập khẩu được cung cấp bởi dự trữ
quốc tế của quốc gia.
- Tính quan trọng của hàng hóa xuất khẩu với tư cách là một nguồn thu nhập,
sự hiện hữu của bất kỳ cơ chế ổn định giá, và tính dễ tổn thương của quốc gia
đối với một sự sụt giảm trong thị trường xuất khẩu hay trong giá cả của một
hàng hóa xuất khẩu.
- Khả năng tiềm tàng
đối với những biến động đột ngột trong tỷ giá hối đoái và
tác động lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia.
c. Vai trò của các nguồn vốn nước ngoài trong việc đáp ứng nhu cầu tài trợ của
quốc gia là một sự suy xét quan trọng khác trong việc phân tích rủi ro quốc gia,
bao gồm:
- Việc tiếp cận các thị trường tài chính quốc tế của quốc gia và những
ảnh
hưởng tiềm tàng của một tổn thất trong tính thanh khoản của thị trường.
- Mối quan hệ của quốc gia với các nhà cấp tín dụng của khu vực tư nhân, bao

gồm sự tồn tại của những cam kết vay mượn và thái độ của các chủ ngân hàng
đối với quan hệ trong việc cho vay thêm đối với các nhà đi vay trong quốc gia
đó.
- Vị thế hiện thời của quố
c gia đối với các nhà cấp tín dụng đa phương và chính
thức, bao gồm khả năng của quốc gia để có đủ tư cách và chịu đựng được
những chương trình điều chỉnh kinh tế của IMF hay các chương trình phù hợp
khác.
- Xu hướng trong đầu tư nước ngoài và khả năng của quốc gia trong việc thu
hút đầu tư nước ngoài trong tương lai.
Trang: 9




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
- Những cơ hội của tiến trình tư nhân hóa của các thực thể thuộc sở hữu nhà
nước.
d. Một số các nhân tố kinh tế vĩ mô quan trọng khác, bao gồm:
- Mức độ mà nền kinh tế của quốc gia có thể bị tác động bất lợi thông qua sự
lây lan các vấn đề khó khăn từ các quốc gia khác.
- Quy mô và tình hình của hệ thống ngân hàng của quốc gia, bao gồm hệ
thống
giám sát hoạt động ngân hàng và bất kỳ gánh nặng tiềm tàng của các khoản nợ
bất ngờ mà một hệ thống ngân hàng yếu kém có thể gây ra những hậu quả
nghiêm trọng đối với chính phủ.
- Quy mô của vay mượn trực tiếp từ chính phủ hay sự can thiệp khác của chính
phủ có thể tác động bất lợi đến tính hoàn hảo của hệ thống ngân hàng, hay cơ
cấu và khả n

ăng cạnh tranh của các ngành công nghiệp hay các công ty được
ưu đãi.
- Mức độ tác động mà các điều kiện kinh tế vĩ mô có thể gây ra bất lợi đối với
rủi ro tín dụng của các đối tác của nhà đầu tư trong quốc gia đó.
- Viễn cảnh kinh tế của bất kỳ ngành công nghiệp mục tiêu của quốc gia.
1.2.2 Môi trường xã hội, chính trị và pháp luật
Việc phân tích rủi ro quốc gia c
ũng nên đưa vào xem xét môi trường xã hội, chính
trị, và pháp luật:
- Tiềm lực tự nhiên và nguồn nhân lực của quốc gia.
- Thiện chí và năng lực của chính phủ để nhận biết những vấn đề kinh tế và vấn
đề ngân sách và hành động để sữa chữa bổ sung thích hợp.
- Mức độ tác động của tư tưởng bè phái, chính trị hay xung đột vũ trang đến
chính phủ của qu
ốc gia đó.
- Bất cứ xu hướng nào về việc đánh thuế giá cả, lãi suất, hay kiểm soát ngoại
hối.
- Mức độ mà hệ thống pháp luật có thể bảo vệ một cách công bằng lợi ích của
các nhà tín dụng nước ngoài và nhà đầu tư.
- Các chuẩn mực kế toán trong quốc gia và tính tin cậy, tính minh bạch của
thông tin tài chính.
Trang: 10




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
- Mức độ bảo vệ của luật pháp và các chính sách của chính phủ đối với các giao
dịch điện tử và mức độ đẩy mạnh phát triển công nghệ theo một cách an toàn

và hoàn chỉnh.
- Các chính sách khuyến khích của chính phủ trong việc quản lý hiệu quả rủi ro
của các tổ chức định chế.
- Mức độ gia nhập của quốc gia vào hệ thống pháp luật và các chuẩn mự
c kinh
doanh quốc tế.
1.3 Vai trò và tác động của đánh giá rủi ro quốc gia:
Đánh giá rủi ro quốc gia là việc sử dụng các dữ liệu thống kê hay các nhận xét định
tính của các chuyên gia nhằm đưa ra một xếp hạng cho từng quốc gia ứng với mức
độ rủi ro quốc gia của quốc gia đó.
Một chức năng chính của đánh giá rủi ro quốc gia là để lường trước khả năng bội
ước, không thể trả nợ hay trì hoãn thanh toán của chính phủ đi vay. Đánh giá rủ
i ro
quốc gia cũng là để dự báo các điều kiện tương lai đối với việc đầu tư trong một
quốc gia. Đánh giá rủi ro quốc gia đo lường các nhân tố kinh tế, tài chính, chính trị
và các tác động qua lại giữa các nhân tố này nhằm xác định rủi ro gắn liền với một
quốc gia cụ thể.
1.3.1 Vai trò của đánh giá rủi ro quốc gia:
Đánh giá rủi ro quốc gia có vai trò quan trọng vì nó biểu hiện mứ
c độ rủi ro của một
quốc gia. Do đó nó không chỉ quan trọng đối với chính phủ của quốc gia được đánh
giá rủi ro quốc gia mà còn rất quan trọng đối với các nhà đầu tư và các nhà cho vay
quốc tế.
a. Đối với chính phủ:
Thông qua việc đánh giá rủi ro quốc gia, chính phủ tự đánh giá hay thông qua các cơ
quan xếp hạng tín nhiệm, thì các chính phủ có thể nhận biết được thực trạng nề
n kinh
tế, những yếu kém và triển vọng của quốc gia. Từ đó có thể đề ra các chính sách,
biện pháp mang tính vĩ mô nhằm khắc phục để dần nâng cao mức tín nhiệm trên
trường quốc tế, thu hút nhiều hơn vốn đầu tư quốc tế để đạt được mục tiêu tăng

trưởng kinh tế. Thêm vào đó với việc cải thiện mức rủi ro quốc gia của mình thì
chính phủ mộ
t quốc gia sẽ giảm thiểu được chi phí vay mượn trên thị trường quốc tế
vì nguyên tắc tài chính cơ bản chỉ ra rằng rủi ro càng cao thì phần bù rủi ro càng cao.
b. Đối với các nhà đầu tư:
Trang: 11




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
Các nhà đầu tư trong nước cũng như chính phủ sẽ thông qua việc đánh giá rủi ro
quốc gia để nhận biết được mức độ rủi ro chung của quốc gia từ đó so sánh với mức
độ rủi ro của riêng mình để có các chiến lược đầu tư cụ thể và vững chắc nhằm thu
được tỷ suất sinh lợi cao nhất.
Đánh giá rủi ro quốc gia cung cấp cho các nhà cho vay quốc tế và các nhà đầu tư

quốc tế biết được khả năng thu hồi các khoản vốn vay của mình và mức thu nhập thu
nhập kỳ vọng có được từ đầu tư. Tiến trình đánh giá rủi ro quốc gia nhằm cung cấp
các thông tin tốt nhất cho việc dự báo các khả năng có thể xảy ra, là một công cụ
giúp các nhà cho vay và đầu tư quốc tế ra quyết định cho vay hay đầu tư vào một
quốc gia cụ thể.
1.3.2 Tác động của việc đánh giá rủi ro quốc gia:
Thứ nhất, xếp hạng rủi ro quốc gia ảnh hưởng đến mức lãi suất mà quốc gia có thể
đạt được một khoản tín dụng trên thị trường quốc tế: xếp hạng cao (tức là mức độ rủi
ro thấp) thì lãi suất sẽ thấp và ngược lại. Thực tế đã chứng minh là theo sau một sự
hạ thấp mứ
c xếp hạng, việc vay mượn của chính phủ Nhật đã trở nên đắt đỏ hơn do
lãi suất tăng lên, phản ánh nguy cơ vỡ nợ cao hơn.

Thứ hai, xếp hạng rủi ro quốc gia cũng ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng của các
ngân hàng và các công ty ở quốc gia đó, và tác động đến khả năng thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài thông qua việc ảnh hưởng đến việc đánh giá chi phí kinh doanh.
Ferri (2001) g
ọi xếp hạng rủi ro quốc gia là “điểm then chốt của tất cả các mức xếp
hạng khác của quốc gia”. Tương tự trong quá khứ các tổ chức xếp hạng luôn biểu
hiện sự miễn cưỡng trong việc xếp hạng một công ty cao quốc gia mà công ty đó
hoạt động. Chẳng hạn, sau khi Moody’s hạ mức tín nhiệm của Nhật vào tháng
11/1998 (từ Aaa xuống Aa1), tất cả các nhà phát hành hạng Aaa ở
Nhật cũng bị hạ
mức tín nhiệm. Điều này dẫn tới việc xếp hạng rủi ro quốc gia được xem là “mức
trần rủi ro tín dụng quốc gia”.
Thứ ba, các định chế đầu tư thường giới hạn mức rủi ro mà họ có thể chấp nhận, điều
này ngụ ý rằng họ không thể đầu tư vào các khoản nợ bị xếp hạng th
ấp hơn một mức
đã định. Ferri (2001) chỉ ra sự tương phản giữa việc xếp hạng các ngân hàng hoạt
động tại các quốc gia thu nhập cao và các quốc gia thu nhập thấp, điều này nghĩa là
hạng mức tín nhiệm của các ngân hàng hoạt động tại các quốc gia thu nhập thấp bị
tác động đáng kể bởi sự biến động của xếp hạng rủi ro quốc gia, trong khi đó hạ
ng
mức tín nhiệm của các ngân hàng hoạt động tại các quốc gia thu nhập cao không có
Trang: 12




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
vẻ phụ thuộc đáng kể vào xếp hạng rủi ro quốc gia. Các nhà nghiên cứu nêu ra rằng
xếp hạng rủi ro quốc gia chủ yếu dành cho các quốc gia đang phát triển, đây là những

quốc gia có một nhạy cảm rất cao đối với những công bố xếp hạng.
1.4 Xếp hạng rủi ro quốc gia:
1.4.1 Xếp hạng rủi ro quốc gia:
Kể từ cuộc khủng hoảng nợ vào đầu thập niên 80, các cơ quan xếp hạng tín nhiệm rủi
ro quốc gia mang tính thương mại như Moody's, Standard and Poor's, Euromoney,
Institutional Investor, Economist Intelligence Unit, International Country Risk
Guide, và Political Risk Services đã cung cấp những hạng mức rủi ro quốc gia mang
tính định tính và định lượng bằng việc kết hợp các thông tin đo lường về rủi ro kinh
tế, rủi ro tài chính và rủi ro chính trị để đạt được m
ột hạng mức tín nhiệm rủi ro quốc
gia tổng hợp.
Có nhiều mô hình đánh giá rủi ro quốc gia: đánh giá định tính, đánh giá định lượng
hay kết hợp cả hai.
Sau đây là một số các tổ chức xếp hạng rủi ro quốc gia:
Institutional Investor thực hiện việc nghiên cứu xếp hạng rủi ro quốc gia theo nửa
năm, dựa trên ý kiến của các ngân hàng quốc tế hàng đầu. Khoảng 75 đến 100 ngân
hàng xếp hạng cho hơn 135 quốc gia với phạm vi từ 0 đến 100 điểm, 100 điểm đại
diện cho mức rủi ro thấp nhất. Các hạng mức đơn lẻ được tính toán với quyền số
bằng cách sử dụng một công thức của Institutional Investor, quyền số lớn hơn được
ấn định dựa trên quy mô hoạt động trên thế giới và mức độ phức tạp của mô hình r
ủi
ro quốc gia của ngân hàng. Tên tuổi của các ngân hàng tham gia được giữ bí mật
hoàn toàn. Các nghiên cứu rủi ro quốc gia của Institutional Investor được phát hành
vào tháng 3 và tháng 9. Trong tài liệu rủi ro quốc gia, đánh giá rủi ro quốc gia của
Institutional Investor được xem như là đánh giá, nhận định của các ngân hàng.
Euromoney cung cấp những đánh giá và xếp hạng rủi ro quốc gia cho 185 quốc gia
và vùng lãnh thổ cứ 6 tháng một lần. Các quốc gia được cho điểm tương ứng dựa
trên 9 thành phần, và sau
đó được xếp hạng theo điểm số này. Để có điểm rủi ro quốc
gia tổng hợp thì mỗi loại trong 9 thành phần sẽ có một quyền số (rủi ro chính trị

25%, mức thể hiện kinh tế 25%, các chỉ số nợ 10%, nợ không thanh toán hay giãn nợ
10%, xếp hạng tín dụng 10%, khả năng tiếp cận đối với tài trợ ngân hàng 10%, khả
năng tiếp cận tài trợ ngắn hạ
n 5%, khả năng tiếp cận thị trường vốn 5%, và chiết
khấu trượt giá 5%). Giá trị cơ sở tốt nhất cho mỗi loại rủi ro đạt được quyền số đầy
Trang: 13




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
đủ, trong khi giá trị tệ nhất là 0. Tất cả giá trị được tính toán tương xứng với điểm số
tốt nhất và tệ nhất. Các nghiên cứu được phát hành vào tháng 3 và tháng 9 trong các
tạp chí tháng.
Standard & Poor’s (S&P) cung cấp các hạng mức tín dụng được cập nhật hàng tuần
của các chính phủ phát hành và vùng lãnh thổ. Hạng mức tín dụng quốc gia (rủi ro
thể chế) không phải là hạng mức quốc gia vì nó chỉ thể hiện rủi ro tín dụ
ng của chính
phủ quốc gia, không phải là rủi ro tín dụng của các nhà phát hành khác trong nước.
Tuy nhiên, xếp hạng tín dụng quốc gia thiết lập điểm chuẩn cho các hạng mức tín
dụng cho các nhà phát hành khác trong nước. S&P cung cấp xếp hạng ngắn hạn và
dài hạn, cũng như một cái nhìn định tính cho 7 phạm vi chính là nợ dài hạn, thương
phiếu, cổ phiếu ưu đãi, chứng chỉ tiền gửi, quỹ thị trườ
ng tiền tệ, quỹ tương hỗ trái
phiếu, và trái quyền của các công ty bảo hiểm. Việc xác định rủi ro tín dụng gắn liền
với rủi ro chính trị (sự sẵn sàng trả nợ của chính phủ) và rủi ro kinh tế (khả năng của
chính phủ đối với nghĩa vụ nợ). Xếp hạng các nhà phát hành ngoại tệ cũng được
phân biệt với xếp hạng các nhà phát hành nội tệ
để xác định các trường hợp mà rủi ro

thể chế làm cho chính phủ khác biệt với các nhà phát hành khác. Các chữ cái được
dùng để xếp hạng từ C (mức thấp nhất) đến AAA (mức cao nhất).
Moody’s cung cấp phân tích rủi ro tín dụng quốc gia cho hơn 100 nước, hầu như là
các nước này đều tham gia vào thị trường vốn thế giới. Đối với mỗi quốc gia,
Moody’s có một số loại xếp hạng khác để nắ
m bắt các rủi ro khác, bao gồm xếp hạng
quốc gia cho cả chứng khoán ngoại tệ ngắn hạn và dài hạn. Khi thiết lập rủi ro quốc
gia, các nhà phân tích của Moody’s đánh giá cả các biến số chính trị và kinh tế để rút
ra hạng mức rủi ro quốc gia, hạng mức này hành động như là một mức trần rủi ro tín
dụng đối với chứng khoán ngoại tệ của bất cứ thực thể nào n
ằm trong sự kiểm soát
của một chính phủ. Xếp hạng rủi ro quốc gia bao gồm rủi ro chuyển giao ngoại tệ và
rủi ro hệ thống trong quốc gia. Bằng cách sử dụng hạng mức từ Aaa đến C của
Moody’s, các trái phiếu ngoại tệ dài hạn của chính phủ và trái phiếu nội tệ dài hạn
của chính phủ được xếp hạng.
Political Risk Service (PRS) cung cấp các báo cáo cho 100 quốc gia. Mỗi báo cáo
đánh giá rủi ro chính trị
, tài chính, kinh tế đối với đầu tư kinh doanh và mậu dịch.
Báo cáo quốc gia chỉ là nguồn dữ liệu cho các phân tích và dự báo rủi ro dựa trên hệ
thống xếp hạng PRS mà đánh giá các kịch bản chính trị khác nhau. PRS cung cấp
một mô hình rủi ro chính trị với dự báo cho 3 ngành công nghiệp là tài chính (ngân
Trang: 14




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
hàng và cho vay), đầu tư trực tiếp (bán lẻ, sản xuất,và khai thác mỏ) và xuất khẩu đối
với thị trường các nước. Các báo cáo được thực hiện định kỳ hàng quý.

Economist Intelligence Unit (EIU) xuất bản các báo cáo rủi ro quốc gia từng quý
với dữ liệu cập nhật từng tháng. Những báo cáo này tóm tắt hạng mức rủi ro cho 100
quốc gia đang phát triển và mắc nợ cao được quan sát bởi Country Risk Service
(CRS). Phương pháp xếp hạng rủi ro c
ủa CRS xem xét 2 loại rủi ro: (1) rủi ro quốc
gia, được xác định bởi nhân tố chính trị (22%), chính sách kinh tế (28%), cơ cấu kinh
tế (27%), và thanh khoản (23%); thứ hai là (2) rủi ro đầu tư xác định. Có 3 loại rủi ro
đầu tư xác định là rủi ro tiền tệ (gắn liền với việc chấp nhận mức nhạy cảm đối với
USD), rủi ro vỡ nợ quốc gia (gắn liền với các khoản đi vay của qu
ốc gia), và rủi ro
khu vực ngân hàng (gắn liền với các khoản cho vay ngoại tệ đối với ngân hàng).
Hạng mức rủi ro đầu tư xác định cũng được xác định bởi 4 nhân tố như trên nhưng
với quyền số khác. Đối với rủi ro tiền tệ, chính sách kinh tế có quyền số cao nhất là
65%, các nhân tố cơ cấu kinh tế, chính trị, thanh khoản lần lượt có quyền số là 17%,
14%, và 4%. Trong trường hợp c
ủa rủi ro vỡ nợ quốc gia, thanh khoản có quyền số
cao nhất là 31%, chính sách kinh tế và cơ cấu kinh tế có quyền số là 27%, và nhân tố
chính trị là 15%. Cuối cùng, đối với rủi ro khu vực ngân hàng, cơ cấu kinh tế là nhân
tố có quyền số cao nhất 44%, các nhân tố chính sách kinh tế, thanh khoản và chính
trị có quyền số lần lượt là 35%, 15%, và 6%
1.4.2 Những tồn tại của các hệ thống xếp hạng rủi ro quốc gia hiện nay:
Mục đích của xếp hạng là cô đọng sự đa dạng thông tin về một quốc gia vào một
thông số đơn nhất mà có thể hiểu được một cách dễ dàng, do đó được sử dụng một
cách tiện lợi trong quá trình ra quyết định liên quan đến việc so sánh giữa các quốc
gia khác nhau. Tuy nhiên, việc tập hợp các chỉ tiêu đa dạng và không đồng nhất (tính
ổn định về chính trị, lạm phát…) đã làm cho việ
c giải thích hạng mức rủi ro quốc gia
trở nên phức tạp, dẫn đến một số điểm phê phán sau.
- Tính dễ hiểu: xếp hạng rủi ro quốc gia được phát hành bởi các cơ quan xếp
hạng khác nhau mà nội dung thực sự và ý nghĩa của hạng mức này là không

được giải thích và khó hiểu. Điều này được minh chứng bởi sự bất mãn của thủ
tướng Nhật Junichiro Koizumi về vi
ệc Nhật bị xếp hạng cùng mức với các quốc
gia châu Phi (Botswana) mà đang được Nhật giúp đỡ. Các quan chức Bộ tài
chính Nhật thêm vào rằng các cơ quan xếp hạng đã có những đánh giá định tính
Trang: 15




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
không công bằng, trong khi Moody's phủ nhận và xác nhận rằng những lý do
cho việc hạ thấp mức tín nhiệm là do "gánh nặng nợ tăng thêm" của Nhật.
- Các nhân tố không xác định: thông thường việc xếp hạng đạt được bằng cách
tổng hợp các biến số kinh tế, tài chính và chính trị. Một cách rõ hơn, mục tiêu
chính của bất kỳ hệ thống xếp hạng rủi ro quốc gia là thể hiện tính tin cậy của
các quốc gia, nghĩa là năng lực để thanh toán các khoản vay. Tuy nhiên, thật
không rõ ràng để biết được nhân tố nào trong nhiều nhân tố khả thi ảnh hưởng
thực sự đến năng lực hoàn trả của một quốc gia. Haque (1998) tuyên bố rằng
phạm vi phân tích chỉ giới hạn ở các nhân tố kinh tế và tài chính, trong khi
những người khác (Brewer và Rivoli, 1990) cho rằng cả nhân tố kinh tế, tài
chính và chính trị ảnh hưởng đến xếp hạng rủi ro quố
c gia.
- Những thất bại trong việc xếp hạng: một vài thất bại gần đây đã thách thức sự
tin tưởng đối với việc xếp hạng rủi ro quốc gia. Những phê phán nhắm vào các
định chế xếp hạng đã trở nên đặc biệt dữ dội sau cuộc khủng hoảng châu Á và
Mexico. Thực vậy, cuộc khủng hoảng ở Mexico (1994-1995) đã không được
đến trước bở
i một sự sụt giảm hạng mức tín nhiệm, nghĩa là khủng hoảng đã

không được dự báo. Tương tự là cuộc khủng hoảng châu Á 1997-1999. Mặt
khác, các cơ quan xếp hạng đã sáng suốt trong việc đoán trước các cuộc khủng
hoảng ở Nga (1998), Brazil (1998), và Argentina (2001).
- Khuynh hướng khu vực: các giải thích khác nhau đã được cung cấp cho thất bại
của các cơ quan xếp hạng trong việc báo hiệu tình trạng kh
ủng hoảng trong các
quốc gia khác nhau. Có những xác nhận rằng một cơ quan xếp hạng ưu đãi,
thiên vị một vài khu vực. Chẳng hạn, Haque (1997) lưu ý rằng Euromoney
thường xếp hạng cao hơn đối với các quốc gia châu Á và châu Au so với các
quốc gia Mỹ Latin và Caribê, trong khi Institutional Investors thì thường rộng
rãi hơn đối với các quốc gia châu Á và châu Au so với các quốc gia châu Phi.
- Sự chậm trễ: một tồn tại của hệ thố
ng xếp hạng là thời gian để phản ứng đối với
các sự kiện mới. Theo tờ "The Economist" (1/8/1998), các cơ quan xếp hạng có
vẻ chậm chạp trong việc hạ thấp hạng mức tín nhiệm của Nhật. Thị trường đã
di chuyển trước các cơ quan này.
- Sự phản ứng thái quá: Quỹ tiền tệ quốc tế IMF chỉ trích các cơ quan xếp hạng
rằng họ đ
ã phản ứng trong hoảng loạn suốt cuộc khủng hoảng châu Á. Sau khi
thất bại trong việc dự báo cuộc khủng hoảng châu Á, các cơ quan xếp hạng
Trang: 16




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
phản ứng lại bằng cách hạ mức tín nhiệm một cách cay nghiệt đối với các quốc
gia như Thái Lan hay Hàn Quốc, do đó làm tăng thêm sự rút vốn. Trong tình
huống này, các cơ quan xếp hạng đem lại một cảm giác của sự phản ứng thái

quá thay vì là một sức mạnh để tạo sự ổn định.
Hình như tính khách quan và tính tin cậy của xếp hạng rủi ro quốc gia là đáng
ngờ, chủ
yếu bởi vì sự can thiệp cảm tính và mâu thuẫn trong mục tiêu và
quyền lợi.
- Tác động bất lợi của những thay đổi hạng mức tín nhiệm: có một sự lưỡng lự
hay miễn cưỡng của các nhà xếp hạng khi hạ mức tín nhiệm của một quốc gia.
Sự miễn cưỡng này xuất phát từ sự thật rằng một công bố hạ mức tín nhiệm có
thể
dồn một quốc gia vào khủng hoảng. Trong suốt cuộc khủng hoảng châu Á,
các cơ quan xếp hạng đã tạo nên sự bất mãn của thủ tướng Malaysia, tiến sĩ
Mahathir bin Mohamad, người lên án và buộc tội họ với việc đưa cuộc khủng
hoảng thêm phần trầm trọng. "Các cơ quan xếp hạng, khi chúng ta cần vay tiền
thì ngay lập tức họ hạ mức tín nhiệm, vì thế làm cho chi phí vay mượn đến
15%. Họ hoàn toàn chấm dứt việc vay mượn của chúng ta", thủ tướng Malaysia
đã phát biểu (1999). Reisen và Von Maltzan (1999) tuyên bố rằng một sự hạ
thấp mức tín nhiệm thình lình sẽ cản trở các ngân hàng thương mại phát hành
thư tín dụng và buộc các nhà đầu tư trút gánh nặng vào tài sản châu Á để duy trì
danh mục đầu tư ở cấp độ đầu tư. Họ cho rằng các cơ quan xếp hạng luôn chậm
chễ phía sau khi lường trướ
c tình trạng của thị trường tài chính nên khi hạ thấp
mức tín nhiệm họ làm tăng thêm dòng vốn ra và khủng hoảng.
- Các xung đột về lợi ích: các cơ quan xếp hạng đã bắt đầu thu phí đối với các
quốc gia được xếp hạng. Vì vậy có thể hoài nghi về việc miễn cưỡng hạ thấp
mức tín nhiệm của các quốc gia này (bởi vì khả năng gây giảm sút nguồn thu
của các cơ
quan xếp hạng). Chảng hạn, điều này được tuyên bố bởi Tom
McGuire, trợ lý phó chủ tịch Moody's, rằng "áp lực từ phí chi trả của nhà phát
hành (người được xếp hạng) cho mức xếp hạng cao luôn trong một sự cân bằng
mỏng manh với nhu cầu của cơ quan xếp hạng giữ được sự tín nhiệm trong các

nhà đầu tư". Sự cần thiết phải làm hài lòng những người chi trả cho việc x
ếp
hạng, nhà đầu tư cũng như nhà phát hành, dẫn tới việc Robert Grossman, giám
đốc tín dụng của cơ quan xếp hạng Fitch, gọi là "một khuynh hướng được thực
hiện đối với nhà đầu tư - các uỷ ban xếp hạng, viễn cảnh,hội nghị, sau đó là
thông cáo báo chí - tất cả để làm mềm lòng tai họa của việc thay đổi xếp hạng".
Trang: 17




Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia
 
Nghiên cứu việc chuyển tiếp xếp hạng, Altman và Saunders (1998) cho rằng
một sự hạ thấp mức tín nhiệm của một quốc gia thông thường được tiếp nối
theo sau bởi những điều chỉnh đi xuống thêm nữa. Giả thích được đưa ra là các
cơ quan xếp hạng dần dần hạ mức xếp hạng của một quốc gia vì họ không
muốn làm tổn thương quố
c gia đó, vì quốc gia này cũng là khách hàng của họ.
Kunczik (2001) chỉ ra rằng IMF (1999) lo sợ mối nguy hiểm "các nhà phát
hành và các trung gian có thể bị khuyến khích thu hút vào quá trình tranh đua
xếp hạng - một quá trình mà nhà phát hành tìm kiếm cho việc xếp hạng với chi
phí thấp nhất và điều kiện đòi hỏi ít nhất.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Rủi ro quốc gia là các nhân tố trong một quốc gia tác động đến quá trình đầu tư của
nhà đầu tư n
ước ngoài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự chu chuyển vốn
quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Vì thế rủi ro quốc gia trở thành một vấn đề cần phải được

xem xét tại các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Các
phân loại rủi ro quốc gia cũng giúp chúng ta hiểu ro bản chất và sự tác động của các
nhân tố vĩ mô. Thêm vào đó, những hiểu biết về xế
p hạng rủi ro quốc gia sẽ giúp
kiểm soát được những tác động bất lợi do việc xếp hạng mang lại. Tuy nhiên, các
xếp hạng rủi ro quốc gia chủ yếu mang tính chất trình bày thông tin tóm gọn về rủi ro
quốc gia chứ chưa mang tính phân tích rủi ro quốc gia và đôi khi việc xếp hạng phụ
thuộc quá nhiều vào cơ quan xếp hạng. Do đó, một phương pháp có thể sử dụng để
đánh giá rủi ro qu
ốc gia là beta quốc gia mà nền tảng được dựa trên mô hình định giá
tài sản vốn quen thuộc trong lĩnh vực đầu tư. Đề tài sẽ trình bày việc sử dụng mô
hình này trong chương 3.
Trang: 18



Chương II: Tình hình kinh tế Việt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia

CHƯƠNG II:
TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ
RỦI RO QUỐC GIA


Trong thập niên vừa qua, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển nổi bật, trở
thành một địa điểm đáng ý trên bản đồ kinh tế khu vực châu Á. Sau đây, chúng ta sẽ
nhận xét về một số thành quả đáng chú ý về kinh tế - xã hội Việt Nam đạt được trong
thời gian qua dưới góc độ nhận định rủi ro quốc gia.
2.1 Nhận định về rủi ro kinh tế:
2.1.1 Tăng trưởng kinh tế:
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm vừa qua rất ấn tượng. GDP tăng

trưởng bình quân trên 7%/năm, đứng thứ 2 về tốc độ tăng trưởng chỉ sau Trung
Quốc. Chẳng hạn, nền kinh tế đã phát triển 8% trong năm 2006 (so với ước tính của
chính phủ là 8,2%), cao hơn xu hướng tăng trưởng trong 5 năm trước đó.
Đồ thị 2.1: Tăng trưởng GDP t
ừ 2002 đến 2008

Nguồn: Asian Development Outlook 2007 (số liệu 2008 là dự báo)
Cầu lớn đối với xuất khẩu hàng hóa, dầu thô, và hàng sản xuất. Đầu tư tư nhân và
tiêu dùng cá nhân được ghi nhận ở mức tăng cao. Tăng trưởng trong tiêu dùng cá
nhân có được là nhờ sự gia tăng thu nhập và lượng kiều hối khoảng 4 tỷ USD. Doanh
thu bán lẻ hàng hóa dịch vụ cũng tăng 20% trong năm 2006 (tức khoảng 13% sau khi
điều chỉnh cho lạm phát, đồ thị 2.2).

×