Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀO VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.28 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
LÊ THỊ HOÀI MÂY
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀO
VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
( Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý giáo dục)

HÀ NỘI-2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
LÊ THỊ HOÀI MÂY
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀO
VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
( Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý giáo dục)
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN LIÊN CHÂU
HÀ NỘI-2013
LỜI CẢM ƠN
Sau một quá trình nghiên cứu đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
nguồn nhân lực chất lượng cao vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
giảng viên trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn”, đến nay tôi đã hoàn
thành khóa luận.
Để có được sản phẩm nghiên cứu như ngày hôm nay, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành tới tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên Trung tâm Đảm bảo chất lượng
Đào tạo- Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn; cán bộ thư viện Học viện
Quản lý giáo dục và đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình thực
hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới giảng viên TS. Nguyễn Liên
Châu- người đã hướng dẫn tận tình và cho tôi nhiều ý kiến quý báu trong quá trình
tôi nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.


Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng do kinh nghiệm cũng như thời gian nghiên cứu
còn hạn hẹp nên chắc rằng luận văn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được
sự cảm thông, góp ý và chỉ dạy của thầy cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Lê Thị Hoài Mây
MỤC LỤC
2. Tình hình nghiên cứu 3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo
KHXH&NV : Khoa học xã hội và nhân văn
ĐHQGHN : Đại học Quốc gia Hà Nội
NCKH : Nghiên cứu Khoa học
CB : Cán Bộ
GV : Giảng viên
PHẦN I: MỞ ĐẦU

1.Lý do lựa chọn đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã có biết
bao nhiêu vĩ nhân, anh hùng mà cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và nhân cách của
họ tiêu biểu cho lý tưởng, ý chí, khát vọng của dân tộc và xu hướng phát triển của
thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người như vậy. “Hồ Chí Minh”
- những chữ ấy đã trở thành một biểu tượng, một niềm tự hào của dân tộc ta và của
nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới.
Dân tộc ta sinh ra Hồ Chủ tịch, và chính Người - Anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hoá thế giới - người mà tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn
hóa Liên Hợp quốc (UNESCO) đánh giá là đã “để lại dấu ấn trong quá trình phát
triển của nhân loại”- đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta.
Tư tưởng và lý luận cách mạng mà Người để lại cho dân tộc ta và nhân loại là một
di sản vô cùng quý giá. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản

Việt Nam đã xác định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn
diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá của nhân loại” và “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc
đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta”.
Chính vì vậy, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở
thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân Việt
Nam.
Tư tưởng của Người bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn, phong phú, trong đó
vấn đề nhân lực và cách sử dụng nguồn nhân lực chiếm một vị trí quan trọng.
1
Người xem “vô luận việc gì đều do người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa,
đều thế cả”
.
Con người là chủ thể kiến tạo nên toàn thể xã hội, nếu là con người có
đủ đức và tài thì họ sẽ làm được nhiều việc có ích, và nếu nhân tài tham gia vào
các công việc của nhà nước, được tạo điều kiện để phát huy đạo đức và tài năng,
thì họ sẽ làm được nhiều việc “ích quốc, lợi dân”. Từ quan niệm “vô luận việc gì
đều do người làm ra”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tới kết luận: “cán bộ quyết định
mọi việc”,

“muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là
chân lý nhất định”. Đây là lôgic tư tưởng độc đáo, đặc sắc của Hồ Chí Minh về vấn
đề nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực.
Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế cũng như trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nguồn nhân lực đang trở thành động lực chủ yếu
đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. Vấn đề này đang đặt ra cho nền
giáo dục đại học Việt Nam một nhiệm vụ hết sức to lớn và cấp bách. Nghị quyết

Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và coi đây là một trong những yếu tố quyết
định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội luôn được Nhà nước
Việt Nam coi là một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn lớn
nhất của đất nước. Là một cơ sở giáo dục đầu ngành trong hệ thống trường Đại học
Quốc gia Hà Nội chiếm tỷ lệ Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiễn sĩ nhiều nhất trên cả
nước.
Từ nhận thức một cách sâu sắc vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong xã
hội nói chung và đội ngũ cán bộ giảng viên trong giáo dục đại học nói riêng, cùng
với quá trình thực tập tốt nghiệp tại Trường Khoa học xã hội và nhân văn tôi lựa
chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng
cao vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn.”
2
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản quý báu của Đảng và nhân dân Việt
Nam. Với tính cách nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng,
tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân lực và
nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng đã được nhiều học giả nghiên cứu và phân
tích. Đã có nhiều tác phẩm, đề tài khoa học với nhiều cách tiếp cận khác nhau về
sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất
lượng cao (nhân tài) được tiếp cận thông qua nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức nói chung, về đạo đức của cán bộ, đảng viên nói riêng; hoặc thông qua
nghiên cứu những vấn đề về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; hoặc được vận
dụng nghiên cứu trong sự nghiệp Công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước….
Nói chung, vấn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao đã được tiếp cận,
nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau và cũng đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi
nhận.

Tuy nhiên, trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt được áp dụng trong
lĩnh vực giáo dục và cụ thể về đội ngũ cán bộ, giảng viên trong cơ sở giáo dục đại
học tôi thấy việc nghiên cứu trực tiếp vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh
về nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn là vấn đề cần được tiếp tục đi
sâu nghiên cứu. Chính vì thế, tôi đã lựa chọn đề tài nói trên với mong muốn góp
phần tìm hiểu một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn trong công tác nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn sau quá trình trải nghiệm thực tế qua đợt thực tập tại trường này.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực
chất lượng cao để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn.
3
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu
được xác định là nghiên cứu, làm rõ:
-Các quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao
và việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
-Thực trạng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường ĐHKHXH&NV .
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao vào
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất
lượng cao.
4. 2. Khách thể nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu: Cán bộ quản lý, giảng viên, chuyên viên Trường
ĐHKXH&NV.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi về không gian : Cán bộ, giảng viên Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn-Đại học Quốc gia Hà Nội.
Phạm vi về nội dung: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn
nhân lực chất lượng cao.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Phân tích, tổng hợp các tài liệu lý luận và các văn bản có liên quan
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát
4
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
5.3. Các phương pháp bổ trợ xử lý số liệu:
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của việc nghiên cứu
Xét về ý nghĩa khoa học: Khóa luận tốt nghiệp đã giúp tôi trao dồi thêm
kinh nghiệm thực tế, sự vận dụng những kiến thức đã được học trên giảng đường
vào trong quá trình thực tập, đặc biệt nâng cao khả năng nghiên cứu, khả năng tiếp
cận, phân tích vấn đề cho bản thân tôi.
Xét về thực tiễn: Khóa luận tốt nghiệp đã phản ánh rõ được thực trạng đội
ngũ cán bộ, giảng viên và quá trình quy hoạch cán bộ, giảng viên Trường
ĐHKHXH&NV. Đó là kết quả phản ánh của quá trình tiếp cận thực tế trong đợt
thực tập tốt nghiệp của tôi, thông qua việc vận dụng những kiến thức lý thuyết đã
được học trên giảng đường vào thực tiễn, sự tận tình giúp đỡ và chỉ bảo của các
chuyên viên Trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo để tăng thêm sự hiểu biết về
lĩnh vực xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo, bài nghiên cứu
khoa học này còn được cấu tạo gồm 3 chương:

Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của nguồn nhân lực chất lượng
cao và việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
1.1Quan niệm về con người, nhân tố con người, nguồn nhân lực hay nguồn lực
con người.
1.2Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao.
1.3Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
5
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
giảng viên tại Trường Đại học KHXH&NV.
2.1Tổng quan về Trường Đại học KHXH&NV-Đại học QGHN
2.2 Thực trạng về việc nâng cao chất lượng đội ngũ CB, GV Trường Đại học
KHXH&NV.
2.2.1 Sự cần thiết về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên Trường
Đại học KHXH&NV.
2.2.2 Căn cứ về việc nâng cao chất lượng đội ngũ CB, GV Trường Đại học
KHXH&NV.
2.2.3 Thực trạng tình hình và kết quả nâng cao chất lượng đội ngũ CB, GV
Trường Đại học KHXH&NV.
2.2.3.1 Nhà trường có kế hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng phát triển đội ngũ giảng
viên và nhân viên; quy hoạch bổ nhiệm cán bộ quản lí đáp ứng mục tiên chức
năng, nhiệm vụ và phù hợp với điều kiện cụ thể của đơn vị đào tạo đại học; có quy
trình, tiêu chí tuyển dụng, bổ nhiệm rõ ràng minh bạch.
2.2.3.2 Nhà trường có chính sách, biện pháp tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ quản
lý và giảng viên tham gia các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ ở trong và ngoài
nước.
2.2.3.3 Đội ngũ cán bộ quản lý có phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý chuyên
môn, nghiệp vụ và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2.2.3.4 Nhà trường có đủ số lượng giảng viên để thực hiện chương trình giáo dục
và nghiên cứu khoa học; đạt được mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục

nhằm giảm tỷ lệ trung bình sinh viên/ giảng viên.
2.2.3.5 Đội ngũ giảng viên đảm bảo trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo dục
được quy định. Giảng dạy theo chuyên môn được đào tạo; đảm bảo cơ cấu chuyên
môn và trình độ theo quy định; có trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu về
nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học.
6
2.2.3.6 Đội ngũ giảng viên được đảm bảo cân bằng về kinh nghiệm công tác
chuyên môn và trẻ hóa của đội ngũ giảng viên theo quy định.
2.2.3.7 Đội ngũ kỹ thuật viên, nhân viên đủ số lượng, có năng lực chuyên môn và
được định kỳ bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, phục có hiệu quả cho việc giảng
dạy, học tập và nghiên cứu khoa học.
Chương 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng
cao vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên tại Trường Đại
học KHXH&NV.
3.1 Ý nghĩa thực tiễn
3.2 Nội dung và giải pháp
7
PHẦN II: NỘI DUNG
Chương 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀ VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN
LỰC CHÂT LƯỢNG CAO.
1.1Quan niệm về con người, nhân tố con người, nguồn nhân lực hay nguồn
lực con người.
1.1.1 Khái niệm con người
Khái niệm con người là khái niệm gốc có tính chất bao trùm. Theo quan điểm triết
học Mácxít: con người vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội.
Bản chất con người được thể hiện:
-Bản chất con người thể hiện sự thống nhất giữa “cái sinh học” và “cái xã
hội”.
“Cái sinh học” đó là những cái thiên về những yếu tố hữu sinh, hữu cơ, những

cái về mặt phát sinh gắn bó với tổ tiên động vật của con người, những cái làm cho
con người hình thành và hoạt động như một cá thể, một hệ thống phục tùng các
quy luật sinh học.
“Cái xã hội” của con người là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện
do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những quy định về mặt xã hội
tạo nên mỗi cá nhân con người (ý thức, tư duy, tâm lý, phẩm chất đạo đức, năng
lực…) của con người thuộc cái “cái xã hội”.
“Cái sinh học” là cái có trước, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của
“cái xã hội”. Còn “cái xã hội” là cái quyết định, nhờ nó mà “cái sinh học” trong
con người được nâng lên trên trình độ của con vật. “Cái xã hội” được hình thành
và phát triển từ sự tác động qua lại giữa con người và hoàn cảnh thông qua hoạt
động thực tiễn và giao lưu của con người.
-Bản chất con người thể hiện sự thống nhất giữa “cái cá nhân” và “cái cộng
đồng”.
8
“Cái cá nhân” là cái riêng, cái không lặp lại ở người khác, là cơ sở để phân biệt
người này với người khác.
“Cái cộng đồng” là cái chung của mỗi người khi con người cùng sống trong một
thời đại lịch sử-xã hội nhất định.
-Bản chất con người thể hiện sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc và
tính nhân loại.
Khi xã hội có giai cấp, mỗi con người đều thuộc một giai cấp nhất định, có cùng
lợi ích và bảo vệ cho lợi ích chung đó.
Mỗi con người đều là con người thuộc một dân tộc nhất định mang trong đó bản
sắc văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ của dân tộc đó.
Khi con người tham gia giao lưu, hội nhập quốc tế, tiếp thu nền văn hóa nhân loại
sẽ mang tính nhân loại.
-Bản chất con người thể hiện sự thống nhất giữa tính thời đại và tính lịch sử.
Con người mang tính thời đại là con người mang những đặc trưng xã hội của thời
đại đó mà con người đang sống.

Con người mang tính lịch sử là con người đang sống trong một giai đoạn lịch sử
nhất định, vừa kế thừa những tinh hoa của quá khứ và những khuyết tật phản ánh
những nét lạc hậu, tiêu cực của quá khứ.
-Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử.
Con người là sản phẩm của xã hội vì suy cho đến cùng môi trường xã hội (đặc biệt
là giáo dục) có vai trò chủ đạo quyết định việc đinh hướng và phát triển nhân cách
con người.
Con người là chủ thể của lịch sử vì con người biết chủ động tác động trong nhận
thức và cải tạo hiện thực khách quan phục vụ cho mục đích của mình. Con người
tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.
Như vậy, có thể hiểu khái quát về bản chất con người như sau: Bản chất con
người là một chỉnh thể thống nhất biện chứng giữa các mặt: sinh học và xã hội; cá
9
nhân và cộng đồng; tính giai cấp và tính nhân loại; tính thời đại và tính lịch sử;
đồng thời con người vừa là sản phẩm vừa là chủ thể sáng tạo lịch sử. Như Các
Mác đã chỉ ra rằng: trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội.
1.1.2 Khái niệm nhân tố con người
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, cùng với những nhận thức và quan niệm
về vai trò của nhân tố con người trong phát triển, các khái niệm “nhân tố con
người”, “nguồn lực con người”, hay “vốn người”, “tài nguyên con người”, ‘tích
cực hóa nhân tố con người”, “phát triển nguồn nhân lực” hay “đào tạo nguồn nhân
lực” v.v. ngày càng được sử dụng một cách rộng rãi trong các tài liệu lý luận cũng
như trong đời sống xã hội của nhiều nước trên thế giới. Từ các cấp độ và cách tiếp
cận khác nhau, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cũng đưa ra những cách
hiểu khác nhau về nhân tố con người. Song, để làm sáng tỏ khái niệm này không
thể bỏ qua được những đặc điểm tâm lý vì nó liên quan đến bản chất, đến nội dung
khái niệm. trong các khoa học nghiên cứu về nhân tố con người thì tâm lý học luôn
giữ vị trí trung tâm.
Khái quát các tài liệu tiếp cận ở góc độ tâm lý học, xã hội học về nhân tố con

người, phần lớn các tác giả đều thống nhất cho rằng khái niệm nhân tố con người
là sự cụ thể hóa nhân tố chủ quan và được nhìn nhận ở các mặt cơ bản như: tiềm
năng của con người, của từng tập thể hay của nhóm xã hội; tính tích cực xã hội và
ở mặt nhân cách.
Nhìn nhận con người ở góc độ nhân cách, nhà nghiên cứu Liên Xô A.K.Vledov
cho rằng: “Con người trong mọi biểu hiện của nó vốn có những đặc trưng nhân
cách nhất định…Tất cả những phẩm chất đa dạng biểu hiện trong các dạng hoạt
động khác nhau của con người trong quan hệ của nó với người khác, với thế giới
10
xung quanh đều bao hàm khái niệm “nhân tố con người”, khái niệm đó thể hiện
1
tính tích cực xã hội của cá nhân”
1
.
Từ những phân tích ở trên có thể hiểu khái niệm nhân tố con người như sau:
“Nhân tố con người là khái niệm cụ thể hóa của nhân tố chủ quan, là sự tổng hòa
những khả năng phát triển những phẩm chất, thuộc tính, những tri thức, kinh
nghiệm, năng lực và thói quen của con người mà chúng thường được biểu hiện
trong hoạt động và chính nó lại ảnh hưởng đến các quá trình xã hội”
2
.
1.1.3 Khái niệm nguồn nhân lực hay nguồn lực con người
1.1.3.1 Khái niệm nguồn nhân lực
Về khái niệm nguồn nhân lực, trước hết là khái niệm dùng để phân biệt với
các khái niệm khác trong hệ thống các nguồn lực tạo ra phát triển kinh tế - xã hội
(bao gồm vật lực, tài lực, nhân lực).
Các nguồn lực quan trọng phát triển ở nước ta hiện nay bao gồm:
-Nguồn lực con người;
-Tài nguyên thiên nhiên;
-Vị trí địa lý;

-Cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học kỹ thuật;
-Các nguồn lực nước ngoài.
Nguồn nhân lực là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau, tùy theo những cách tiếp cận khác nhau mà có những quan niệm khác nhau
về nguồn nhân lực.
Trên phạm vi quốc gia, nguồn nhân lực là bộ phận dân số trong độ tuổi quy
định và có khả năng tham gia vào quá trình lao động. Nguồn nhân lực của quốc gia
phụ thuộc chặt chẽ vào việc quy định tuổi lao động của nhà nước và khả năng tha
1
Dẫn theo Nguyễn Như Niệm: Nhân tố con người và tích cực hóa nhân tố con người-Khái niệm
và nhập đề, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 1-1989, tr.70
2
Dẫn theo Trần Thị Thủy: Nhân tố con người và những biện pháp nhằm phát huy nhân tố con
người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2000
11
gia lao động của từng cá nhân cụ thể. Để làm sáng tỏ bản chất, nội dung, cấu trúc
của khái niệm nguồn nhân lực cần xem xét nó trong mối quan hệ tương quan với
các khái niệm “yếu tố con người” và “nhân tố con người”.
Khái niệm nhân tố con người có ý nghĩa hẹp hơn khái niệm yếu tố con
người. Nhân tố con người chỉ là những đặc trưng tâm lý-xã hội trong yếu tố con
người. Khi con người tham gia với tư cách là “yếu tố con người”, trở thành một
tiềm năng, một điều kiện cần phát huy, tạo động lực phát triển của một quá trình xã
hội thì được coi là “nguồn nhân lực”. Khái niệm nguồn lực con người bao gồm các
tiêu chí về số lượng, chất lượng con người và quản lý nguồn nhân lực; là việc cụ
thể hóa khái niệm nhân tố con người. Trong các nguồn lực thì nguồn nhân lực là
quan trọng nhất, quyết định nhất.
Khi nói đến nguồn nhân lực, có người thường đồng nhất với sức người trong
sản xuất. Quan niệm như thế dẫn đến ngộ nhận sức người trong sản xuất chỉ là sức
cơ bắp. Nguồn nhân lực con người trước tiên thể hiện ở sức người trong sản xuất,
song không phải chỉ là sức cơ bắp mà là cái cốt lõi, cái chủ yếu trong nguồn lực

con người ở thời đại ngày nay với đặc trưng là xu thế toàn cầu hóa, phát triển kinh
tế trí thức đó chính là hàm lượng trí tuệ, trình độ, năng lực lao động sáng tạo, là
những phẩm chất tâm lý của con người trong nền sản xuất hiện đại; là tập hợp chỉ
số phát triển của con người, là chất lượng văn hóa mà bản thân nó và xã hội có thể
huy động cho phát triển xã hội.
Như vậy, khi nói đến nguồn nhân lực là muốn đề cập đến một tài sản, một
nguồn vốn-vốn người có khả năng sinh sôi, nảy nở và không ngừng phát triển
trong quá trình khai thác và sử dụng.
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng định nghĩa về nguồn nhân lực của
Liên hợp quốc có tính khái quát hơn cả: “Nguồn nhân lực là tổng thể sức dự trữ,
12
những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con
người trong việc cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội”
1
.
Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia hay mỗi tổ chức có một số đặc điểm cơ
bản sau đây:
- Nguồn nhân lực là nguồn lực cơ bản nhất, nó có tính quyết định.
- Nguồn nhân lực chỉ được phát huy hiệu quả thông qua quá trình lao động.
- Nguồn nhân lực là nhân tố trung tâm có ảnh hưởng lớn đến quá trình tổ chức,
quản lý và sản xuất.
Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức được cấu thành bởi ba yếu tố
cơ bản sau đây:
- Số lượng nguồn nhân lực là con số biểu thị sự có nhiều hay ít người lao động
đang làm việc trong nền sản xuất xã hội. Số lượng người lao động cho ta thấy quy
mô sử dụng lao động của xã hội.
- Cơ cấu nguồn nhân lực là cách tổ chức, phân bố lực lượng lao động trong nền sản
xuất xã hội.
- Chất lượng nguồn nhân lực là những yếu tố cấu thành nên những năng lực, giá trị
của nguồn lực lao động ở con người trong quá trình sản xuất.

Lý luận và thực tiễn phát triển xã hội ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam đã
chỉ ra rằng trong nhiều nguồn lực, thì nguồn nhân lực có vai trò quyết định nhất
đối với phát triển kinh tế - xã hội, vì con người vừa là một nguồn lực của phát
triển, vừa là chủ thể chủ động để phát huy một nguồn lực khác. Mặt khác, do tính
đặc thù lao động của con người mang tính sáng tạo và không cạn kiệt, muốn có khả
năng phát triển bền vững thì phải quan tâm phát triển cả về trí tuệ, năng lực và đạo
đức cho con người
1
Dẫn theo: Georget T.Milkovich, John W. Boudreau: Quản trị nguồn nhân lực, Nxb.Thống kê,
Hà Nội, 2005, tr.21
13
1.1.3.2 Các nhân tố tác động tới việc sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực
Theo Từ điển tiếng Việt thì hiệu quả là “kết quả như yêu cầu của việc làm
mang lại”
1
. Trong cuốn Quản lý nguồn nhân lực của tác giả Paul Harsey, Ken Blan
Hard, thuật ngữ hiệu quả được hiểu một cách ngắn gọn đó là đó là sự đạt tới của
các mục đích đã được định hướng
2
.
Từ cách tiếp cận trên, có thể hiểu về hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực là sự
đối chiếu các kết quả đạt được với toàn bộ nguồn nhân lực mà xã hội hay tổ chức
đã sử dụng, nhằm đánh giá mức độ đạt tới các mục đích đã đề ra
Có nhiều nhân tố tác động tới việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực,
song chủ yếu vẫn là các nhân tố sau:
-Chính sách sử dụng nguồn nhân lực;
-Công tác hoạch định nguồn nhân lực;
-Công tác tuyển dụng nguồn nhân lực;
-Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
-Bố trí, sử dụng nguồn nhân lực;

-Chế độ đãi ngộ và khen thưởng;
-Môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến.
Trong chiến lược phát triển và sử dụng nguồn nhân lực của các quốc gia
hiện nay, vấn đề phát hiện, đào tạo, thu hút, trọng dụng nguồn lực chất lượng cao
là then chốt và có ý nghĩa quyết định.
1.2 Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã biết có
bao vĩ nhân anh hùng, mà cuộc đời, sự nghiệp. tư tưởng và nhân cách của họ tiêu
biểu cho lý tưởng, ý chí khát vọng của dân tộc và xu hướng phát triển của thời đại.
1
Hoàng Phê: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2005, tr.324
2
Xem: Paul Harsey, Ken Hard: Quản lý nguồn nhân lực, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.45
14
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người như vậy. Tư tưởng và lý luận
cách mạng Người để lại cho dân tộc ta và nhân loại là một tài sản vô cùng quý giá,
bao quát trên nhiều lĩnh vực, trong đó có vấn đề về lĩnh vực nguồn nhân lực chất
lượng cao. Từ việc nhận thức sâu sắc vai trò của nhân tài trong xã hội nói chung
cũng như trong sự nghiệp cách mạng nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt
trân trọng và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời cũng xây dựng
nên một hệ thống quan điểm về viêc phát hiện đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng những yêu cầu trong từng giai đoạn
cách mạng.
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh mà
hưng thịnh. Nguyên khí suy thì đất nước yếu mà thấp hèn”. Đoạn văn trên do Thân
Nhân Trung soạn và được khắc trên bia đá đặt tại văn miếu Quốc Tử giám đã nói
lên tầm quan trọng của nhân tài – nhân tố quyết định đến sự hưng vong của quốc
gia, sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Tiếp nối và phát huy truyền thoongs
của cha ông, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò và vị trí của nguồn nhân

lực chất lượng cao trong sự nghiệp cách mạng. Người xem “vô luận việc gì đều
do người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Nếu con người làm ra
tất cả, thì con người có tài năng - đức độ (nguồn nhân lực chất lượng cao) lại càng
có vai trò quan trọng.
Để phát hiện đúng những nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước, đầu
tiên phải hiểu rõ khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao. Khái niệm nguồn nhân
lực chất lượng cao không chỉ dùng cho tất cả những người có học vấn cao, hoặc có
bằng cấp cao về mặt chuyên môn mà khái niệm này còn bao hàm nhiều đối tượng
thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, những người thực sự tài năng trong xã hội. Có thể
hiểu nguồn nhân lực chất lượng cao là những người có tài năng trội hơn, có những
đóng góp lớn hơn nhiều so với người bình thường trong xã hội. Nguồn nhân lực
15
chất lượng cao trước hết phải là những người có nhân cách tốt, mang đầy đủ những
giá trị tốt đẹp của một xã hội nhất định, có trí thông minh, trí tuệ phát triển, có một
số phẩm chất nổi bật mà ít người đó, đồng thời phải là người giàu tính sáng tạo, có
những tư duy độc đáo, sắc sảo mà người thường không có, có khả năng dự báo và
suy diễn tốt và giải quyết công việc nhanh, chính xác, mang lại hiệu quả cao, là
người gây được ảnh hưởng lớn trong xã hội… nguồn nhân lực chất lượng cao có
thể xuất hiện ở nhiều lứa tuổi, nhiều địa phương, ở các tầng lớp người trong xã
hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực
chất lượng cao đối với tiến trình phát triển đất nước. Người đã đánh giá rất cao vai
trò, tầm quan trọng đặc biệt của lực lượng trí thức, nhân tài hay còn gọi đó là
nguồn nhân lực chất lượng cao. Người nói: “ Đảng và Chính phủ ta rất quý những
người trí thức của dân, vì dân”. Để hiểu rõ được khái niệm nguồn nhân lực chất
lượng cao, trước hết chúng ta cần đi sâu tìm hiểu khái niệm trí thức và nhân tài.
-Thứ nhất, là về trí thức:
Theo Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học Liên Xô thì “trí thức là một
nhóm xã hội bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên
môn cần thiết cho ngành lao động đó. Sự tồn tại của trí thức với tính cách là một

nhóm xã hội đặc biệt gắn liền với sự phân công lao động xã hội giữa lao động trí
óc và lao động chân tay”
1
.
Từ điển chủ nghĩa khoa học xã hội Việt Nam xác định: “Trí thức là một
nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề lao động phức tạp và có học
vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó”.
1
Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1986,
tr.360.
16
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt câu hỏi
“Trí thức là gì?”. Trả lời câu hỏi này Người chỉ rõ: “Trí thức là hiểu biết. Trong
thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học
tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa
học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó, không có trí thức nào khác”
1
.
Trong bài Đảng Lao động Việt Nam với lao động trí óc, Người xác định tri
thức là “những người lao động trí óc”. Vậy “lao động trí óc là ai?”. Câu trả lời của
Hồ Chí Minh: “Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ,
những người làm bàn giấy, ”
2

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, có đoạn: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao
về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá
và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với
xã hội”.

3
-Thứ hai, về nhân tài:
Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học viết: “Nhân tài là người có tài
năng xuất sắc”. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì “nhân tài là người có tài”.
Nhân tài là bộ phân ưu tú của trí thức. Họ là những người tài giỏi, có những
cống hiến, những công trình về lý luận, chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công
nghệ, có khả năng lãnh đạo quản lý. Đó là những người học rộng, học sâu, giàu óc
sáng tạo, tư duy sâu sắc, có khả năng phán đoán, dự báo tốt, làm việc độc lập, tự
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 275.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 71
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 81-82
17
chủ. Đó là những người có tài năng thực sự, có những cống hiến cho đất nước và
nhân loại.
1
Từ những tìm hiểu trên có thể nhận định nguồn nhân lực chất lượng cao là
những người có phẩm chất cá nhân xuất chúng, hiệu quả công việc của học có tác
động lớn đến xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm nguồn nhân lực chất lượng
cao là những “người tài đức có thể làm những việc ích nước lợi dân”, “là những
người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết dũng cảm nhất”
2
.
Như vậy, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nguồn nhân lực chất lượng cao không phải
chỉ do họ có phẩm chất, năng lực gì, mà quan trọng hơn, là phẩm chất và năng lực
ấy có hướng đến phục vụ lợi ích cho xã hội, cho đất nước hay không. Nếu có năng
lực mà không làm được những việc có lợi cho dân, cho nước, thì không đủ để

được coi là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ở Việt Nam cũng như ở các nước khác, trong quá khứ cũng như trong hiện
tại, nguồn nhân lực chất lượng cao có một vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy,
ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, chính trong lúc phải đối phó với
muôn vàn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cao quan điểm trọng dụng
nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó nổi bật là những bài viết về trí thức, nhân
tài.
Người nói: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế,
ở Việt Nam càng như thế”
3
. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy cái thiếu lớn nhất sau
khi giành chính quyền là trí thức. Người chỉ rõ chương trình kiến thiết của nước
1
Nguyễn Khánh Bật: Xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 9
2
.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 184.
18
Việt Nam trước tiên là làm cho dân khỏi khổ, khỏi dốt. Muốn thế thì phải ra sức
tăng gia sản xuất, muốn tăng gia sản xuất và có kết quả tốt cần có tư bản, trí thức
và lao động. Người khẳng định: Chúng tôi có tài nguyên, dân chúng tôi cần cù
chịu khó, chúng tôi đủ sức lao động. Người kêu gọi các nhà tư bản Pháp và các
nước đầu tư vào Việt Nam làm ăn theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Vấn đề còn
lại, cái thiếu lớn nhất lúc này là trí thức. Người còn nói: “Trí thức phục vụ nhân
dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ nghĩa
càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng cần”
1
. Chính xuất phát từ thực tế ấy

chúng ta mới thấu hiểu mong ước của Người có được nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ đắc lực cho sự nghiệp kiến quốc.
Ngày 14/11/1945, Người ra viết bài “Nhân tài và Kiến quốc”, trong đó nhấn
mạnh: “sau 80 năm bị bọn Pháp thực dân giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng
kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của dân là rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập
thì chúng ta phải đem hết lòng hăng hái đó vào con đường kiến quốc. Kháng chiến
phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công.
Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi. Kiến thiết cần có
nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng khéo lựa chọn, khéo phân
phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển nhiều thêm”
2
. Trong kháng
chiến cũng như trong kiến quốc, đặc biệt là trong kiến thiết ngoại giao, kinh tế,
kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục đều cần nhân tài cùng với trí thức là nguồn
nhân lực chất lượng cao chung tay góp sức. Không có sự đóng góp tài năng và sức
lực của nguồn nhân lực chất lượng cao này thì kháng chiến và kiến quốc khó thành
công. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi: “đồng bào ai có tài năng và
sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng hăng hái giúp ích nước nhà thì xin
gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 56, 59.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5. Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 99.
19
cách kỹ lưỡng có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”
1
. Qua bài viết trên của
Hồ Chí Minh, có thể thấy, Người đã đặc biệt đánh giá cao vai trò của nguồn nhân
lực chất lượng cao đối với đất nước, đồng thời cũng thể hiện rõ quan điểm của
Người cho rằng, muốn giải quyết được những vấn đề khó khăn trong bảo vệ, xây

dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước phải thực sự trọng dụng nguồn
nhân lực chất lượng cao, phải tạo điều kiện để đội ngũ này đóng góp tài năng của
họ.
Nói đến vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao, Hồ Chí Minh đặc biệt
nhấn mạnh đến sự cần thiết phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ Nhà nước có
tài, đức. Công việc Nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực, có tác động mạnh mẽ nhất
đến mọi mặt của đời sống xã hội, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, công chức
tốt để thi hành công vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”
2
. Như vậy, theo quan điểm của Người, người
cán bộ có mối quan hệ chặt chẽ với Nhà nước, nhân dân; là cầu nối giữa Đảng,
Chính phủ và quần chúng. Nhiệm vụ của người cán bộ là truyền đạt và tổ chức
nhân dân thực thi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước, đồng thời giúp Đảng và Nhà nước nắm bắt những thông tin phản hồi từ nhân
dân để qua đó Đảng và Nhà nước điều chỉnh chủ trương, đường lối, chính sách. Để
làm được như vậy, người cán bộ phải là người có tài năng và phẩm chất để phổ
biến, truyền đạt cho quần chúng, được quần chúng tin cậy, gửi gắm; nếu cán bộ dở
thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được.
Qua việc xác định vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ cán bộ đối với sự
phát triển của cách mạng, Người khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4. Nxb. CTQG, HN, 2004, tr. 99.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5. Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 269.
20
việc”, “cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có cán bộ mới làm ra lãi. Bất cứ chính
sách,công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi, không có cán bộ tốt

thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”
1
. Xem cán bộ là “gốc”, là “vốn”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh muốn nhấn mạnh cán bộ là lực lượng chủ đạo tiên phong, góp phần rất lớn
đến sự thành bại của phong trào cách mạng, chính vì vậy, họ phải là những người
có đạo đức và tài năng.
Với tinh thần như thế, Hồ Chí Minh cho rằng, Nhà nước phải tập hợp được
vào đội ngũ của mình những người tài đức, và nhân dân cũng phải giúp nhà nước
chọn lọc, phát hiện và giới thiệu người tài đức tham gia các cơ quan quyền lực.
Chúng ta đều biết cuộc Tổng Tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam mới được Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm như thế nào, và thực chất của cuộc Tổng Tuyển cử ấy
đã được Hồ Chí Minh nói rõ: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự
do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà”
2
.
Để làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của nguồn nhân lực chất
lượng cao, chúng ta cần xem xét thêm quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ
giữa trí thức, nhân tài và quần chúng nhân dân.
Cần phải khẳng định ngay rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quần chúng
nhân dân là lực lượng có sức mạnh (tinh thần và vật chất) to lớn nhất, không ai
sánh nổi. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh không chỉ bắt nguồn từ quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân, mà
còn bắt nguồn từ triết học - chính trị truyền thống của phương Đông, và đặc biệt là
từ nhận thức của Hồ Chí Minh về thực tiễn các phong trào của quần chúng nhân
dân trong quá khứ và hiện tại.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4. Nxb. CTQG, HN, 2000, tr. 46.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4. Nxb. CTQG, HN, 2004, tr. 133.
21

×