Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.22 KB, 133 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước
và của toàn dân.Để phát triển sự nghiệp giáo dục, cần tăng cường hiệu quả
quản lý nhà nước về giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh.
Chương I, điều 2 – Luật Giáo Dục đã được Quốc hội nước Cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005
có chỉ rõ về mục tiêu giáo dục:
“ Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc …”
Đạo đứùc là mặt cốt lõi của nhân cách, nó chi phối quan hệ con người
với con người; con người với xã hội và thiên nhiên, để hình thành và phát
triển nhân cách thì phải hình thành và rèn luyện các phẩm chất đạo đức. Giáo
dục đạo đức là trách nhiệm của toàn xã hội mà nhà trường giữ vai trò trọng
trách. Vì thế giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ là vấn đề cấp thiết, là sứ mệnh
lịch sử mà xã hội đã giao phó cho nhà trường.
“Thiện ác nguyên lai vô định tính
Đa do giáo dục đích nguyên nhân”
(Hồ Chí Minh)
Trong xu hướng toàn cầu hoá diễn ra trong mọi mặt đời sống xã hội,
chúng ta cũng đang phải đối mặt với những thách thức của thời đại: Đó là
hiện tượng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực
dụng trong một số thanh niên, học sinh làm ảnh hưởng tới chất lượng giáo
dục đạo đức của nhà trường. Trước tình hình đó, việc tăng cường giáo dục
đạo đức cho học sinh càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ øhết. Trong các lĩnh


vực giáo dục, giáo dục đạo đức có một ý nghĩa quan trọng. Cho dù ở giai
đoạn nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào, hướng tới cái thiện, chống lại cái ác, hướng về mối quan hệ đẹp đẽ giữa
con người với con người, với tự nhiên và xã hội, đồng thời cũng là kết quả

1
của sự tự giáo dục. Giáo dục đạo đức là mặt quan trọng của giáo dục nhân
cách con người. Nhân cách là sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực (giữa
đức và tài ). Nhân cách là cấu tạo mới do từng người tự hình thành nên và
phát triển trong quá trình sống và giao tiếp, học tập, lao động, vui chơi. Đạo
đức được coi là nền tảng trong phẩm chất, nhân cách con người. Đạo đức là
gốc, là cốt lõi của nhân cách. Do đó trong nhà trường phải luôn chú trọng
giáo dục cả Đức lẫn Tài. Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng dạy:
“ Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả Tài lẫn Đức. Đức là đạo
đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng. ” “ Nếu thiếu đạo đức, con
người sẽ không phải là con người bình thường và cuộc sống xã hội sẽ
không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn định.(37 – tr 65 )
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và nhân dân ta đòi hỏi thế hệ trẻ
thanh niên, học sinh, sinh viên phải trở thành lực lượng tiên phong có tài năng,
đạo đức, có tinh thần trách nhiệm và lý tưởng sống cao đẹp. Họ là lực lượng
nòng cốt tin cậy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành
công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường, kinh tế tri thức đã
tác động trên mọi mặt của đời sống xã hội thì mặt trái của nó cũng len lõi,
xâm nhập vào tầng lớp thanh niên, học sinh làm họ suy giảm phẩm chất, chạy
theo lối sống tầm thường, thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì
tương lai của bản thân và đất nước. Điều đáng lo ngại là những tệ nạn xã hội
đã tác động vào nhà trường làm cho một bộ phận học sinh chậm tiến bộ, khó
giáo dục, thậm chí hư hỏng, phạm pháp. Dư luận đặc biệt quan tâm đến việc
giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ giai đoạn hiện nay.

Nhận thức được giáo dục đạo đức là nhân tố nâng cao giáo dục toàn
diện, trong chỉ thị số 22/2005/CT-BGD & ĐT ngày 29 tháng 7 năm 2005 có
đoạn: …” Triển khai thực hiện luật giáo dục 2005 và giai đoạn 2 của chiến
lược phát triển giáo dục 2001 – 2010; tạo bước chuyển biến cơ bản về
quản lý giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục; thúc đẩy sự nghiệp
giáo dục phát triển toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá
và hiện đại hoá đất nước …” và trong hướng dẫn số 6744/BGD & ĐT –
GDTrH ngày 04 tháng 8 năm 2005 của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo có chỉ
rõ:”…Đẩy mạnh giáo dục toàn diện, tăng cường giáo dục chính trị tư
tưởng, đạo đức cho học sinh …”
Các trường Trung học phổ thông trong huyện Càng Long, tỉnh Trà
Vinh thuộc trường ở vùng sâu vùng xa, cho nên cũng không thoát khỏi những

2
bất cập, mặt trái của nền cơ chế thị trường. Học sinh bỏ học rất nhiều, phần
lớn bỏ học là do vi phạm đạo đức, hạnh kiểm yếu kém, vi phạm tệ nạn xã hội,
pháp luật …Là Hiệu trưởng nhà trường, tôi rất quan tâm và trăn trở. Chính vì
vậy tôi chọn đề tài “Các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh của Hiệu trưởng các trường Trung học phổ thông huyện Càng
Long, tỉnh Trà Vinh”, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học
sinh.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh ở các trường trung học phổ thông trong huyện Càng Long, tỉnh Trà
Vinh. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục đạo đức học
sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1 Khách thể nghiên cứu:
Công tác quản lý giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng trường Trung học
phổ thông.

3.2 Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp quản lý của hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục đạo đức cho học sinh trường Trung học phổ thông.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4.1 Giáo dục đạo đức là vấn đề rất lớn, rất đa dạng và phức tạp. Đồng
thời là vấn đề rất bức xúc hiện nay. Để nâng cao chất lượng giáo dục trong
nhà trường có rất nhiều biện pháp. Ở đề tài này chúng tôi chỉ tập trung chú ý
nghiên cứu một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục đạo đức nói riêng và chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh nói chung.
4.2 Nghiên cứu quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường trung học phổ thông ở huyện Càng Long.
5. Giả thuyết khoa học.
Chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ
thông huyện Càng Long còn nhiều bất cập, còn thấp so với yêu cầu. Nếu như
người Hiệu trưởng trường trung học phổ thông xây dựng được hệ thống các
biện pháp quản lý hợp lý, phù hợp với đối tượng và tình hình thực tế ở địa
phương sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh, góp
phần thực hiện có hiệu quả các mục tiêu giáo dục đào tạo.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu.

3
6.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về biện pháp quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.
6.2.Tìm hiểu, đánh giá thực trạng, biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức ở các trường Trung học phổ thông trong huyện Càng Long, tỉnh Trà
Vinh.
6.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông
trong huyện Càng Long.

7. Phương pháp nghiên cứu.
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Nghiên cứu tài liệu, văn bản, chỉ thị, nghị quyết, sách báo, tranh ảnh …
có nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu, sàng lọc thông tin, tập hợp
những vấn đề cơ bản làm cơ sở lý luận vững chắc cho đề tài, hỗ trợ cho quá
trình nghiên cứu như: Tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ hoạt động giáo dục
đạo đức, đặc điểm tâm lý, phương pháp giáo dục học sinh trung học phổ
thông, xu thế giáo dục, chương trình đổi mới giáo dục trung học phổ thông.
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
7.2.1 Phương pháp quan sát: Quan sát các cử chỉ, hành vi, thái độ của
học sinh khi tổ chức hoặc tham gia các hoạt động giáo dục đạo đức.
7.2.2 Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Tìm hiểu thực trạng,
nhận thức vai trò hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh và các lực lượng
tham gia giáo dục, việc tổ chức các hoạt động này ở các trường trung học phổ
thông trong huyện Càng Long.
7.2.3 Phương pháp toïa đàm: Trò chuyện, trao đổi với học sinh, giáo
viên, phụ huynh học sinh, chính quyền địa phương để đánh giá nhận thức,
hành vi, thái độ, hạnh kiểm của học sinh, đánh giá các biện pháp tổ chức hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh và ảnh hưởng của nó tới việc hình thành
nhân cách học sinh.
7.2.4 Phương pháp xử lý thông tin: Sử dụng toán thống kê, tin học, xử
lý số liệu thu thập được, lập bảng,vẽ sơ đồ, mô hình hoá … Qua phân tích, so
sánh, tổng hợp rút ra được những nhận định, kết luận.
7.2.5 Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến của cán bộ Sở Giáo Dục &
Đào tạo, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Uỷ ban chăm sóc và bảo
vệ trẻ em, cán bộ pháp lý về việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh.

4
7.2.6 Phương pháp khảo nghiệm tính khả thi của các phương
pháp:Thực hiện thí điểm ở một số lớp, khối lớp để rút ra kết luận và thực

hiện đại trà.
8. Đóng góp mới của đề tài.
Đề tài góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và đề xuất hoàn
thiện các biện pháp quản lý có tính khả thi, hiệu quả về hoạt động giáo dục
đạo đức cho học sinh phổ thông của người hiệu trưởng, đặc biệt phù hợp với
tình hình cấp bách hiện nay.
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Đạo đức là moät hình thái ý thức XH, xuất hiện từ buổi bình minh của
lịch sử xã hội loài người. Những tư tưởng đạo đức, giá trị đạo đức, đạo đức
học đã hình thành hơn 26 thế kỉ trước đây trong triết học phương Đông:
Trung Quốc, Ấn Độ … và triết học phương Tây: Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ
đại …Nó được hoàn thiện và phát triển trên cơ sở các chế đoä kinh tế – xã
hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao, mà đỉnh cao nhất của nó là đạo đức mới:
Đạo đức Cộng sản mà xã hội ta đã và đang xây dựng.
Theo quan điểm học thuyết Mác – Lê Nin: Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội,
nó phản ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Nếu tồn tại xã hội thay đổi
thì đạo đức cũng thay đổi theo. Do vậy đạo đức mang tính lịch sử, tính giai
cấp và tính dân tộc.
Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, qui định, chuẩn mực nhằm
hướng con người tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, chống lại cái giả, cái ác, cái
xấu … Các chuẩn mực đạo đức xuất hiện do nhu cầu của đời sống XH là sản
phẩm của lịch sử XH, do cơ sở KT – XH quyết định. Bất kỳ trong thời đại
nào của lịch sử, đạo đức con người đều được đánh giá theo khuôn phép chuẩn
mực và quy tắc đạo đức. Đạo đức là sản phẩm của XH, cùng với sự phát triển
của sản xuất, các mối quan hệ xã hội, hệ thống các quan hệ đạo đức, ý thức
đạo đức, hành vi đạo đức cũng theo đó ngày càng phát triển, ngày càng nâng
cao, phong phú, đa dạng và phức tạp hơn.


5
Đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống XH, trong đời sống của con
người, đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm
bảo cho các cá nhân và cộng đồng tồn tại phát triển: “ Đạo đức đã trở thành
mục tiêu, đồng thời cũng là động lực để phát triển XH ” [27.tr47 ] và“
Đạo đức cũng như ý thức đã là sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy chừng
nào con người còn tồn tại ” [ 28. tr21 ]
Vai trò, động lực tinh thần to lớn của Đạo đức đối với sự phát triển, tiến
bộ XH được nhiều nhà khoa học ngày nay thừa nhận và được mọi thời đại
quan tâm. Ở nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên tiếp
thu những quan điểm đạo đức Mác - Lê Nin và thật sự làm một cuộc CM
trên lĩnh vực đạo đức.Người gọi đó là đạo đức mới: Đạo đức Cách mạng: “
Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu, nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ
đại, nó không phải là danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc, của loài người.” [ 37. tr377 ]
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người Cách Mạng.
Nội dung cơ bản trong quan điểm đạo đức CM là: Trung với nước, hiếu với
dân; cần kiệm,liêm chính, chí công vô tư; yêu thương con người; tinh thần
quốc tế trong sáng. Quan điểm của Người về đạo đức là những quan điểm
thật sự khoa học, biện chứng. Mác-xít, phù hợp với sự tiến hoá của XH loài
người. Để có được đạo đức CM mỗi người phải chăm lo tu dưỡng, kiên trì
bền bỉ suốt đời: “ Đạo đức Cách Mạng không phải trên trời sa xuống, nó
do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố, cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [ 36. tr10 ].
Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về ĐĐCM, là mẫu mực kết tinh
tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất của người Việt Nam với đạo đức Cộng
sản cao quý của chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Những tư tưởng đạo đức cũng như
tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống di sản tư tưởng của Người. Cho nên, có thể nói toàn bộ sự nghiệp CM

của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với quá trình phát triển tư tưởng đạo
đức và việc xây dựng nền đạo đức CM mà Người là tấm gương tiêu biểu,
sinh động và trong sáng nhất của nền đạo đức cách mạng đó.
Đạo đức CM mà Hồ Chí Minh quan tâm và đề cao không chỉ là đạo
đức theo nghĩa thông thường mà là khẳng định những giá trị đạo đức truyền
thống, đồng thời tiếp thu phát triển tinh hoa đạo đức của nhân loại, đặc biệt là
nội dung tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.

6
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “ Đạo đức cách mạng là bất kì ở cương
vị nào,bất kỳ làm công việc gì đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một
lòng một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm
mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức cách mạng là đạo đức tập
thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân.” [ 37. tr306 ]
Với triết lý nhân văn hành động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:” Nghĩ
cho cùng, mọi vấn đề … là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người
phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ, bị áp bức …” [ 37.
tr291 ] Trong di chúc thiêng liêng, Người đã viết: Đầu tiên là vấn đề con
người. Rõ ràng đối tượng trung tâm trong sự nghiệp xây dựng nền văn
hoá mới là xây dựng con người mới. Con người nói ở đây là mỗi một con
người Việt Nam, là con người trong gia đình, trong xã hội, là người công
dân của nước nhà, nói rộng ra là con người trên hành tinh của chúng ta.
Cho nên chiến lược con người là chiến lược số một . “ Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa.”
Trong sự nghiệp xây dựng con người, điều quan trọng bậc nhất là xây
dựng lý tưởng, đạo đức.Lý tưởng nói ở đây là xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, độc lập thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, tiến lên CNXH.Đạo đức
nói ở đây là suốt đời phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cần kiệm liêm
chính chí công vô tư, đặt công việc, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Đạo
đức ở đây là phải luôn gắn với tài năng, trí tuệ, coi trọng nâng cao dân trí, bồi

dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực. Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH – HĐH
đất nước, thanh niên – cán bộ cần phải dốc lòng học tập, nâng cao vượt bậc
trình độ KH - KT và quản lý rèn luyện tác phong công nghiệp, trong lúc đó
vẫn phải coi trọng đạo đức lý tưởng, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh: “Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.”
Như vậy theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Học tập, rèn luyện đạo đức CM
không chỉ để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù của giai cấp và dân tộc mà
còn để xây dựng chế độ xã hội mới – xã hội XHCN. “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy,
GDĐĐ cách mạng cho thế hệ trẻ là vô cùng quan trọng và cấp thiết. Ở nước
ta hiện nay có một số tác giả nghiên cứu về đạo đức và GDĐĐ cho học sinh.
GS.TS Phạm Minh Hạc, nhà nghiên cứu giáo dục hàng đầu ở Việt Nam đã
nêu lên các định hướng giá trị đạo đức con người Việt Nam trong thời kì
CNH – HĐH đất nước và nêu lên 6 giải pháp cơ bản GDĐĐ cho con người
Việt Nam thời kì CNH – HĐH: “ Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức giáo

7
dục đạo đức trong các trường học, củng cố ý tưởng giáo dục ở gia đình và
cộng đồng, kết hợp chặt chẽ với giáo dục nhà trường trong việc giáo dục
đạo đức cho con người, kết hợp chặt chẽ giáo dục đạo đức với việc thực
hiện nghiêm chỉnh luật pháp của các cơ quan thi hành pháp luật; tổ chức
thống nhất các phong trào thi đua yêu nước và các phong trào rèn luyện
đạo đức, lối sống cho toàn dân, trước hết cho cán bộ Đảng viên, cho thầy
cô các trường học; xây dựng một cơ chế tổ chức vaø chỉ đạo thống nhất
toàn xã hội về giáo dục đạo đức, nâng cao nhận thức cho mọi người ” [
28. tr171-176 ].
GS.TS Đặng Vũ Hoạt đã đi sâu nghiên cứu vai trò của GVCN trong quá
trình GDĐĐ cho học sinh và đưa ra một số định hướng cho GVCN trong việc
đổi mới nội dung, cải tiến phương pháp GDĐĐ cho học sinh trường phổ
thông .

PGS.TS Phạm Khắc Chương, trường Đại học sư phạm Hà Nội nghiên
cứu: Một số vấn đề GDĐD ở trường THPT – Rèn ý thức đạo đức công dân.
PGS.TS Đặng Quốc Bảo – Trường cán bộ quản lý giáo dục – đào tạo:
Một số ý kiến về nhân cách thế hệ trẻ, thanh niên, sinh viên và phương pháp
giáo dục.
Thạc sĩ Võ Huỳnh Ngọc Vân: Một số biện pháp phối hợp giữa Hiệu
trưởng và tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong công tác GDĐĐ cho học
sinh THPT tỉnh Bình Dương.
Thạc sĩ Trần Thị Hải Yến thì nêu lên những giải pháp tổ chức phối hợp
giữa nhà trường, gia đình và XH nhằm GDĐĐ cho học sinh THPT ở thị xã
Thái Bình.
Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu trên đi sâu vào việc xác định các nội
dung GDĐĐ, định hướng các giá trị ĐĐ, các biện pháp GDĐĐ cho học sinh.
Đặc biệt, hiên nay chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu về các biện pháp
quản lý hoạt động GDĐĐ cho học sinh THPT ở tỉnh Trà Vinh nói chung và
huyện Càng Long nói riêng. Vì vậy tôi chọn đề tài này với hy vọng góp một
phần nhỏ bé vào việc nêu ra các biện pháp quản lý hoạt động GDĐĐ cho học
sinh THPT, nhằm nâng cao chất lượng GDĐĐ cho học sinh các trường
THPT trên địa bàn huyện Càng Long hiện nay.
1.2 Một số khái niệm cơ bản.
1.2.1 Khái niệm về đạo đức và giáo dục đạo đức.
Để tồn tại và phát triển, con người phải hoạt động và tham gia các mối
quan hệ XH trong thế giới hiện thực. Trong quá trình thực hiện mối quan hệ

8
ấy, nếu con người có cách giao tiếp, ứng xử phù hợp với lợi ích chung của
mọi người, của cộng đồng XH thì con người ấy được đánh giá là có đạo đức.
Ngược lại, cá nhân nào có thái độ, hành vi không đứng đắn làm tổn hại tới lợi
ích của người khác, của cộng đồng và bị XH lên án, chê trách thì cá nhân đó
bị coi là người thiếu đạo đức. Vậy đạo đức là gì ?

+ Theo giáo trình “ Đạo đức học ” (NXB Chính trị quốc gia Hà Nội -
Năm 2000 ) “ Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những
nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan heä với nhau và quan hệ với xa õhội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội ” [ 24 tr 8 ]
Đạo đức là một hình thái ý thức XH, là một mặt của đời sống XH con
người và là một hình thái chuyên biệt của quan hệ XH, thực hiện chức năng
XH, quan trọng là điều chỉnh hành vi con người trong mọi lĩnh vực của đời
sống XH.
+ Theo quan điểm học thuyết Mác – Lê Nin: “ Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng
đồng xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh và chịu sự
chi phối của tồn tại xã hội. Vì vậy tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức xã hội
(đạo đức ) cũng thay đổi theo. Và như vậy đạo đức xã hội luôn mang tính
lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc.” (Dẫn theo Nguyễn Kim Bôi [ 7.tr
13 ])
+ GS.TS Phạm Minh Hạc cho rằng: “ Đạo đức theo nghĩa hẹp là
luân lý, những quy định và chuẩn mực ứng xử trong quan hệ của con
người. Nhưng bên trong điều kiện hiện nay, chính quan hệ của con người
cũng đã mở rộng và đạo đức bao gồm những quy định, những chuẩn mực
ứng xử của con người với con người, với công việc và với bản thân, kể cả
với thiên nhiên và môi trường sống. ”
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với phạm trù
chính trị, pháp luật đời sống.Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách,
phản ánh bộ mặt nhân cách của một cá nhân đã được xã hội hoá. Đạo đức
được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh trong sáng, ở hành động giải
quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn.
+ Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa học XH ) thì: “ Đạo đức là
những tiêu chuẩn, những nguyên tắc quy định hành vi quan hệ của con

người đối với nhau và đối với xã hội. Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp

9
của con người theo những tiêu chuẩn đạo đức của một giai cấp nhất định”
[ 50.tr 211 ]
+ Theo tác giả Trần Hậu Kiểm: “ Đạo đức là tổng hợp những
nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người trong
mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và tập thể hay
toàn xã hội.” [ 32.tr 31 ]
+ Theo PGS.TS Phạm Khắc Chương:” Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc chuẩn mực xã hội,
nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp
với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội trong quan hệ xã
hội giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.” [ 10.tr51 ]
Như trên đã trình bày, có nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức. Tuy
nhiên ta có thể hiểu khái niệm này dưới hai góc độ:
Một là góc độ XH: ĐĐ là một hình thái ý thức XH đặc biệt, phản ánh
dưới dạng những nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực điều chỉnh hoặc chi phối
hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự mhiên,
giữa con người với xã hội và với chính bản thân mình.
Hai là góc độ cá nhân: ĐĐ chính là những phẩm chất, nhân cách của
con người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng
xử của họ trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với XH, giữa
bản thân họ với người khác và với chính bản thân mình.
ĐĐ biến đổi và phát triển cùng với sự biến đổi và phát triển của các
điều kiện kinh tế XH, cùng với sự phát triển của XH.Khái niệm ĐĐ ngày
càng được hoàn thiện đầy đủ hơn.
Các giá trị ĐĐ trong XH của chúng ta hiện nay là thể hiện sự kết hợp sâu
sắc truyền thống ĐĐ tốt đẹp của dân tộc với xu thế tiến bộ của thời đại, của

nhân loại.Lao động sáng tạo, nguồn gốc của mọi giá trị là một nguyên tắc đạo
đức có ý nghĩa chỉ đạo trong giáo dục và tự giáo dục của con người hiện nay.
ĐĐ có ba chức năng: Nhận thức, giáo dục và điều chỉnh hành vi. Trong
đó, điều chỉnh hành vi hết sức quan trọng vì nó điều chỉnh hành vi con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống XH.
 Chức năng nhận thức: Nhận thức ĐĐ đem lại tri thức ĐĐ, ý thức
ĐĐ cho chủ thể, các cá nhân nhờ tri thức ĐĐ, ý thức ĐĐ XH đã nhận thức
mà tạo thành ĐĐ cá nhân.Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng, giá
trị ĐĐ XH trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện ĐĐ.

10
 Chức năng giáo dục: Trên cơ sở nhận thức ĐĐ, chức năng giáo
dục giúp con người hình thành những phẩm chất nhân cách, hình thành hệ
thống định hướng giá trị và các chuẩn mực ĐĐ, điều chỉnh ý thức hành vi
ĐĐ. Hiệu quả giáo dục ĐĐ phụ thuộc vào điều kiện kinh tế XH, cách thức tổ
chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá
trình giáo dục.
 Chức năng điều chỉnh hành vi đạo đức: Sự điều chỉnh hành vi
ĐĐ làm cho cá nhân và XH cùng tồn tại và phát triển, đảm bảo quan hệ lợi
ích cá nhân và cộng đồng. Chức năng này thể hiện bằng hai hình thức chủ
yếu. Trước hết là bản thân chủ thể ĐĐ phải tự giác điều chỉnh hành vi của
mình trên cơ sở những chuẩn mực ĐĐXH. Thứ hai là tập thể cần tạo ra dư
luận để khen ngợi, khuyến khích, đánh giá hoặc phê phán những biểu hiện cụ
thể của hành vi ĐĐ trên cơ sở những chuẩn mực giá trị ĐĐ. Đây là chức
năng XH cơ bản, hết sức quan trọng của ĐĐ: “ Mục đích điều chỉnh của
đạo đức nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển xã hội bằng việc tạo nên sự
hài hoà quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân (và khi cần phải ưu tiên lợi
ích cộng đồng )” [ 24 tr 41 ]
 GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC :
Giáo dục theo nghĩa rộng là giáo dục XH được coi là lĩnh vưcï hoạt

động của XH nhằm truyền đạt những kinh nghiệm XH – lịch sử chuẩn bị
cho thế hệ trẻ trở thành lực lượng tiếp nối sự phát triển XH, kế thừa và phát
triển nền văn hoá của loài người và dân tộc.
Giáo dục theo nghĩa hẹp là giáo dục trong nhà trường, đó là quá trình
tác động có tổ chức, có kế hoạch, có quy trình chặt chẽ nhằm mục đích cung
cấp kiến thức, kỹ năng hình thành thái độ, hành vi cho thiếu niên, xây dựng
và phát triển nhân cách theo quy mô mà XH đương thời mong muốn.
GDĐĐ là hình thành cho con người những quan điểm cơ bản nhất,
những nguyên tắc chuẩn mực ĐĐ cơ bản của XH. Nhờ đó con người có khả
năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng ĐĐXH cũng như tự đánh
giá suy nghĩ về hành vi của bản thân mình. Vì thế công tác GDĐĐ góp phần
vào việc hình thành, phát triển nhân cách con người mới phù hợp với từng
giai đoạn phát triển “ GDĐĐ là quá trình tác động tới người học để hình
thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin ĐĐ, đích cuối cùng quan trọng
nhất là tạo lập được những thói quen hành vi ĐĐ ”
[24 tr 85 ]

11
GDĐĐ về bản chất là quá trình biến hệ thống các chuẩn mực ĐĐ từ
những đòi hỏi từ bên ngoài XH đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên
trong của cá nhân , thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của đối tượng giáo
dục.
GDĐĐ trong trường phổ thông là một bộ phận của quá trình giáo
dục tổûng thể, có quan hệ biện chứng với các quá trình bộ phận khác như
giáo dục trí tuệ, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất, giáo dục lao động,
giáo dục hướng nghiệp … giúp cho học sinh hình thành và phát triển nhân
cách toàn diện. GDĐĐ cho học sinh là giáo dục lòng trung thành với Đảng,
hiếu với dân, yêu quê hương đất nước, có lòng vị tha, có lòng nhân ái, cần
cù, liêm khiết và chính trực, đó là ĐĐ XHCN.
GDĐĐ gắn chặt với giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục truyền

thống tốt đẹp của ông cha ta và giáo dục bản sắc văn hoá dân tộc, giáo dục
pháp luật nhà nước XHCN. GDĐĐ cho học sinh phải được tuân thủ theo các
nguyên tắc: Đảm bảo tính thống nhất, tính thực tiễn trong quá trình dạy và
học, đảm bảo các chuẩn mực XHCN được XH thừa nhận.
Quá trình GDĐĐ bao gồm các tác động của rất nhiều nhân tố khách
quan, chủ quan, bên trong và bên ngoài. Do đó, GDĐĐ chỉ đạt hiệu quả khi
nhà sư phạm biết tổ chức và đưa ra các biện pháp tổ chức các hoạt động giáo
dục một cách có hiệu quả nhằm đaït được mục tiêu giáo dục
1.2.2. Khái niệm về quản lý giáo dục đạo đức.
1.2.2.1.Quản lý.
Theo cách tiếp cận hệ thống thì quản lý là sự tác động của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý (hay là đối tượng quản lý ) nhằm tổ chức,
phối hợp hoạt động của con người trong các quá trình sản xuất, XH để đạt
được mục đích đã định.
Các Mác đã lột tả bản chất quản lý là: “ Nhằm thiết lập sự phối hợp
giữa những công việc cá nhân và thực hiện những chức năng chung, nảy
sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với sự vận động
của các bộ phận riêng lẻ của nó. Một người chơi vĩ cầm riêng lẻ tự điều
khiển mình, còn dàn nhạc thì cần người chỉ huy ” [ 8 tr 342 ]
Như vậy theo Các Mác: Quản lý là loại lao động sẽ điều khiển mọi quá
trình lao động phát triển XH. Các nhà lý luận quốc tế như: Frederich
Wiliam Taylor (1856 – 1915 ) Mỹ; Henry Fayol (1841 - 1925) Pháp; Max
Weber (1864 – 1920 ) Đức … đều khẳng định: “Quản lý là khoa học,
đồng thời là nghệ thuật thúc đẩy sự phát triển xã hội”.

12
Quản lý là một hoạt động thiết yếu: Nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực
cá nhân, nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản
lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt
được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc và sự bất mãn của cá

nhân ít nhất (Harol Koonz -1993 )
Theo Aunapuff: “ Quản lý là một hệ thống xã hội chủ nghĩa, là một
khoa học và là một nghệ thuaät tác động vào hệ thống xã hội chủ yếu là
quản lý con người nhằm đạt được những mục tiêu xác định. Hệ thống đó
vừa động, vừa ổn định bao gồm nhiều thành phần có tác động qua lại lẫn
nhau.” [ 1 tr 54 ]
Theo Nguyễn Minh Đạo: “ Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức,
có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý ) lên
khách thể (đối tương quản lyù ) về các mặt chính trị, xã hội, văn hoá,
kinh tế … bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc,
các phương pháp và các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và
điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [18 tr97]
Có tác giả lại quan niệm: “ Quản lý là tác động vừa có tính khoa học,
vừa có tính nghệ thuật vào hệ thống con người, nhằm đạt các mục tiêu
kinh tế – xã hội, quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ
chức trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm
giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và phát triển tới mục tiêu
đã định ” [ 27 tr 4 ]
Những khái niệm trên về quản lý khác nhau về cách diễn đạt, nhưng vẫn
cho thấy một ý nghĩa chung: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định
hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm
sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được
mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
 Chức năng của quản lý:
Chức năng của quản lý là một dạng hoạt động quản lý chuyên biệt,
thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực
hiện một mục tiêu nhất định. Nhiều nhà khoa học và quản lý thực tiễn đã
đưa ra những quan điểm khác nhau về phân loại chức năng quản lý:
+ Theo truyền thống: Hfayot đưa ra 5 chức năng quản lý: Kế hoạch – tổ
chức – chỉ huy – phối hợp – kiểm tra.

+ Theo quan điểm của tổ chức UNESCO, hệ thống các chức năng quản lý
bao gồm 8 vấn đề sau: xác định nhu cầu – thẩm định và phân tích dữ liệu –

13
xác định mục tiêu kế hoạch hố (bao gồm cả phân cơng trách nhiệm, phân
phối các nguồn lực, lập chương trình hành động ) – triển khai cơng việc –
điều chỉnh – đánh giá – sử dụng liên hệ và tái xác định các vấn đề cho q
trình quản lý tiếp theo.
+ Theo quan điểm quản lý hiện đại, từ các hệ thống chức năng quản lý
nêu trên, có thể khái qt một số chức năng cơ bản sau:
1. Kế hoạch
2. Tổ chức
3. Chỉ đạo (bao gồm cả sửa chữa, uốn nắn và phối hợp )
4. Kiểm tra (bao gồm cả thanh tra, kiểm sốt và kiểm kê ).
Như vậy, tuy có nhiều cách phân loại chức năng quản lý khác nhau (khác
về số lượng chức năng và tên gọi các chức năng ). Suy về thực chất các hoạt
động có những bước đi giống nhau để đạt tới các mục tiêu. Ngày nay còn có
thể có các tác giả trình bày chức năng quản lý nói chung (hoặc chức năng
QLGD nói riêng ) theo những quan điểm phân loại khác nhau, nhưng nền
tảng của vấn đề vẫn là 4 chức năng cơ bản theo quan điểm quản lý hiện đại.

CHƯÙC NĂNG QUẢN LÝ VÀ CHU TRÌNH QUẢN LÝ:



Biểu thị mối liên hệ và tác động trực tiếp
Biểu thị mối liên hệ ngược hoặc thơng tin phản hồi
trong q trình quản lý.
1.2.2.2 Quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục là một bộ phận trong quản lý XHCN Việt Nam.

Vì vậy quản lý giáo dục mặc dù có những đặc điểm riêng biệt, song cũng
chịu sự chi phối bởi mục tiêu quản lý XHCN

14
KẾ HOẠCH
Kiểm Tra
TTQL
Tổ Chức
Chỉ Đạo
 Về nội dung khái niệm quản lý giáo dục có nhiều cách hiểu khác
nhau:
Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối
hợp các lực lượng XH nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu
cầu phát triển XH. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên,
công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi người.Tuy
nhiên, trọng tâm vẫn là giáo dục thế hệ trẻ.Cho nên, quản lý giáo dục được
hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống
giáo dục quốc dân.
Có ý kiến cho rằng: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có
ý thức, hợp quy luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả
các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các
cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở
rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng “.
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo: “Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng XH nhằm thúc đẩy
mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển XH ” [ 2 tr 4 ]
Theo GS. Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là quản lý trường học,
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của
mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới
mục tiêu giaùo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ

và với từng học sinh.” (Phạm Minh Hạc: Một số vấn đề về giáo dục và
khoa học giáo dục - Hà Nội 1986 )
“Quản lý giáo dục thực chất là tác động một cách khoa học đến nhà
trường làm cho nó tổ chức được tối ưu quá trình dạy học, giáo duïc thể
chất, theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, quán triệt được
nhưõng tính chất trường trung học phổ thông xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, bằng cách đó tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất lượng
mới. ” (Những cơ sở khoa học quản lý – NXB Khoa học XH – Hà Nội
1976 )
“Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp
quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho hệ thống vận hành theo
đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà
trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy
học , giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến,

15
tiến lên trạng thái về chất.” (Nguyễn Ngọc Quang – Những khái niệm
cơ bản về lý luận quản lý – Trường CBQL TW 1 – Hà Nội 1989 )
Từ những khái niệm trên, chúng ta có thể khái quát như sau: Quản
lý giáo dục là hệ thống những tác động có kế hoạch và hướng đích của chủ
thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu, các bộ phận của hệ
thống nhằm đảm bảo cho các cơ quan trong hệ thống giáo dục vận hành tối
ưu, đảm bảo sự phát triển mở rộng về cả mặt số lượng cũng như chất lượng
để đạt mục tiêu giáo dục.
1.2.2.3. Quản lý trường học .
Quản lý trường học với tư cách là một tổ chức giáo dục ở cơ sở
vừa mang tính đặc thù của giáo dục vừa mang tính XH, trực tiếp đào tạo
giáo dục thế hệ trẻ, là tế bào chủ chốt của hệ thống giáo dục từ TW đến địa
phương. Do vậy, trường học chính là khách thể cơ bản của mọi cấp quản lý,
Hiệu trưởng và các hoạt động của giáo viên là chủ thể quản lý trực tiếp vận

hành hệ giáo dục. Xét cho cùng, quản lý hệ thống giáo dục là tất cả các cấp
quản lý giáo dục đều phải có những biện pháp tác động tối ưu nhằm đạt mục
tiêu đã định, việc quản lý trường phổ thông thực chất là quản lý quá trình
dạy học, tức là làm sao đưa hoạt động từ trạng thái này sang trạng thái khác
để tiến tới mục tiêu giáo dục.
Công tác Quản lý trường học bao gồm quản lý sự tác động qua lại giữa
trường học và XH, đồng thời quản lý chính nhà trường.Quản lý quá trình
giáo dục – đào tạo trong nhà trường được coi như một hệ thống bao gồm các
thành tố:
- Thành tố tinh thần: Mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, biện pháp
giáo dục.
- Thành tố con người: GV – HS.
- Thành tố vật chất: Cơ sở vật chất, các phương tiện, trang thiết bị phục vụ
cho dạy và học.
Mục tiêu Quản lý trường học chính là những chỉ tiêu cho các hoạt động
của nhà trường được dự kiến trước khi triển khai các hoạt động đó. Đây là
một hệ thống liên quan đến nhiều cấp, do tính đa dạng và phức tạp của công
tác đào tạo thế hệ trẻ. Mục tiêu quản lý nhà trường, kế hoạch năm học chính
là mô hình tư duy của trạng thái sẽ đạt tới của nhà trường vào cuối năm học.
Đó cũng là nhiệm vụ, chức năng mà tập thể cán bộ giáo viên, công nhân
viên và học sinh phải thực hiện trong suốt năm học. Kết thúc năm học, nếu
các mục tiêu đặt ra trong kế hoạch được thực hiện một cách trọn vẹn thì đó

16
chính là kết quả, thành tích của nhà trường đã thực hiện được trong một năm
học. Như vậy, mục tiêu quản lý thực ra là cái mong muốn, cái dự kiến, cái
phải thực hiện trong quá trình triển khai mọi hoạt dộng giáo dục của nhà
trường.
Theo GS. Phạm Minh Hạc: “Quản lý nha øtrường là thực hiện
đường lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà

trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục,
mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục ” (Phát triển giáo dục, phát triển
con người phục vụ XH phát triển KT – NXB Khoa học – Hà Nội 1996 )
Theo M.I Kôn-đa-cốp: “ Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh,
chúng ta hiểu quản lý nhà trường (công việc nhà trường ) là hệ thống xã
hội – sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý
thức, có khoa học và có hướng của chủ thể quản lý lên tất cả các mặt của
đòi sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội – kinh tế và tổ
chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên ”
(Cơ sở lý luận khoa học giáo dục – Trường CBQL Giáo dục và viện
KHGD – Hà Nội 1984)
Công tác quản lý giáo dục nói chung, quản lý nhà trường nói riêng,
gồm có quản lý các hoạt động giáo dục diễn ra trong nhà trường và các quan
hệ giữa nhà trường với XH trên các nội dung sau:
+ Quản lý hoạt động dạy và học
+ Quản lý hoạt động GDĐĐ
+ Quản lý hoạt động lao động sản xuất
+ Quản lý hoạt động giáo dục thể chất và vệ sinh.
+ Quản lý các hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề
+ Quản lý các hoạt động xã hội, đoàn thể.
Người trực tiếp quản lý trường học và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt
động của trường học là hiệu trưởng và các phó hiệu trưởng giúp việc hiệu
trưởng.

17
Tóm lại: Quản lý nhà trường có thể được minh hoạ bằng sơ đồ sau:


1.2.2.4 Quản lý giáo dục đạo đức.
Quản lý đối tượng GDĐĐ là sự tác động có ý thức của chủ thể quản

lý tới đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động GDĐĐ đạt kết quả mong muốn
bằng cách hiệu quả nhất.
Về bản chất, quản lý hoạt động GDĐĐ là q trình tác động có định
hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố tham gia vào q trình hoạt động
nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu GDĐĐ (nhằm hình thành niềm tin, lý
tưởng, động cơ thái độ, tình cảm, hành vi, và thói quen. Đó là những nét tính
cách của nhân cách, ứng xử đúng đắn trong XH )
1.2.3. Khái niệm về biện pháp và biện pháp quản lý giáo dục đạo đức
học sinh.
1.2.3.1 Khái niệm về biện pháp.
Theo “Từ Điển Tiếng Việt” do Hồng Phê chủ biên thì: “ Biệân
pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.” [ 50 tr 64 ]
Theo cuốn “ Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng ” của tác
giả Nguyễn Văn Đạm: “ Biện pháp là cách làm, cách hành động đối phó để
đi đến một mục đích nhất định ” [ 51 tr 66 ]
Như vậy, nghĩa chung nhất của biện pháp là cách làm, thực hiện một
cơng việc nào đó nhằm đạt được mục đích đề ra.
1.2.3.2. Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức.
Biện pháp quản lý GDĐĐ là cách làm, cách hành động cụ thể để nâng
cao hiệu quả GDĐĐ cho học sinh.
1.3. Vị trí, vai trò của giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thơng

18
Quản lý quá trình
dạy học
Quản lý tài lực ,
vật lực , nhân lực
Quản lý
nhà nước

Quản lý môi trường
giáo dục
1.3.1. Mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục đaọ đức cho học sinh trung học
phổ thông trong giai đoạn công nghiệp hoá – hiện đại hoá.
1.3.1.1. Mục tiêu giáo dục đạo đức.
Mục tiêu GD – ĐT đã được khẳng định trong luật giáo dục cho các
cấp học. trong đó nhấn mạnh mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm
hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN.
Mục tiêu GDĐĐ là giúp cho mỗi cá nhân nhận thức đúng các giá trị
đạo đức, biết hành động theo lẽ phải, biết sống vì mọi người, trở thành một
công dân tốt, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước
Nhà trường phải trang bị cho học sinh những tri thức cần thiết về
chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống đúng đắn, kiến thức pháp luật, văn hoá
XH. “ Nâng cao nhận thức chính trị, hiểu rõ các yêu cầu của sự nghiệp
CNH – HĐH đất nước. Nắm vững những quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề phát triển con người toàn diện,
gắn liền với sự nghiệp đổi mới của nước nhà, có nhân sinh quan trong
sáng, có quan điểm rõ ràng về lối sống, thích ứng với những yêu cầu của
giai đoạn mới .” [ 36 tr 13 ]
Hình thành ở học sinh thói quen, hành vi đạo đức đúng đắn, trong sáng
với bản thân, mọi người trong XH và sự nghiệp cách mạng XHCN của Việt
Nam.Rèn luyện ở học sinh ý thức tự giác thực hiện những chuẩn mực
ĐĐXH, chấp hành nghiêm pháp luật, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, yêu lao
động, yêu khoa học và những thành tựu, giá trị văn hoá tiến bộ của loài người
và không ngừng phát huy những truyền thống cao đẹp của dân tộc Việt
Nam.Giáo dục cho học sinh THPT tình yêu tổ quốc Việt Nam XHCN, gắn
với tinh thần quốc tế vô sản.
1.3.1.2.Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông giai đọan công nghiệp hoá – hiện đại hoá.

 Những phẩm chất con người Việt Nam thế kỷ XXI:
Đảng và Nhà nước ta trong suốt mấy thập kỷ nay, đặc biệt là trong
những năm gần đây khi chúng ta bước vào thời ky øCNH – HĐH đã nhiều
lần khẳng định vai trò của nhân tố con người đối với sự phát triển KT – XH
của đất nước.Hội nghị TW 4 – khoá VII và hội nghị TW 2 - khoá VIII đã
khẳng định một lần nữa: “ Những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của
nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất
và văn hoá, mọi nền văn minh của mỗi quốc gia… ”

19
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX khẳng định tiếp tục: “
phát huy nhân tố con người để đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá
”.
Thời đại công nghiệp và hiện đại, thời đại của nền kinh tế tri thức đòi hỏi
con người nhân văn, con người công nghệ,trên cơ sở phát triển thể lực tốt,
khả năng thích ứng cao.
 Có thế tóm tắt những phẩm chất cơ bản của con người Việt Nam ở
thế kỉ XXI như sau:
+ Con người có bản chất nhân văn – nhân bản – nhân ái trong quan
hệ với con người, với cộng đồng
+ Con người có đầu óc khoa học và duy lý, biết sử dụng các quy
luật để xây dựng cuộc sống.
+ Con người có nhân cách công nhân, ý thức rõ quyền lợi và nghĩa
vụ công dân, có ý thức và hành vi pháp luật, có ý thức bảo vệ Tổ Quốc, giữ
gìn và phát huy truền thống, tinh hoa của dân tộc mình trong quá trình hoà
nhập với nền văn minh nhân loại.
+ Con người lao động có tay nghề cao, sáng tạo ra các giá trị để làm
giàu cho mình, cho XH.
+ Con người có cá tính và bản sắc riêng, thể hiện rõ bản lĩnh, có
hoài bão, có ý chí, năng động, nhanh thích nghi và sáng tạo trong cuộc sống,

ganh đua quyết liệt và từng con người được phát triển cao và hoà hợp với XH
thì tập thể cộng đồng mới có sức mạnh, có chất lượng, mới phù hợp với
những đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới của đất nước ( Giáo trình I:
Đường lối – chính sách trường CBQLGD – ĐT năm 2002 )
 Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
trong giai đoạn công nghiệp hoá – hiện đại hoá.
+ Làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác – Lê
Nin, tư tưởng đạo đức CM Hồ Chí Minh, tính chân lý khách quan của các giá
trị đạo đức, nhân văn, nhân bản của tư tưởng đó, coi đó là kim chỉ nam cho
hành động của mình
+ Trên cơ sở đó, thông qua việc tiếp cận với cuộc đấu tranh CM của
dân tộc và hoạt động của cá nhân để củng cố niềm tin và lẽ sống, lý tưởng
sống, lối sống theo con đường XHCN
+ Thấm nhuần chủ trương, chính sách của Đảng, biết sống và làm
việc theo pháp luật, sống có kỉ cương nề nếp, có văn hoá trong các mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên, với XH và giữa con người

20
+ Nhận thức ngày càng sâu sắc nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực và
các giá trị ĐĐ XHCN. Biến các giá trị đó thành ý thức tình cảm hành vi, thói
quen và cách ứng xử trong đời sống hàng ngày.
+ Phát triển nhu cầu đạo đức cá nhân, hình thành và phát triển ý thức
ĐĐ, rèn luyện ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử ĐĐ. Phát triển các giá
trị ĐĐ cá nhân theo những định hướng giá trị mang tính đặc thù dân tộc và
thời đại.
Nhiệm vụ của quá trình GDĐĐ này không những định hướng cho
các hoạt động GDĐĐ mà còn định hướng cho hoạt động dạy học nói chung,
dạy môn đạo đức nói riêng.
1.3.2.Đặc điểm học sinh trung học phổ thông.
Các nhà tâm lý học cho rằng học sinh THPT (15 đến 18 tuổi ) ở giai

đoạn đầu tuổi thanh niên (thanh niên mới lớn, thanh niên học sinh ).Đây là
thời kỳ đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể, nhưng sự phát triển thể lực
của các em còn kém so với người lớn, các em đến trường học tập dưới sự
lãnh đạo của người lớn, phụ thuộc vào người lớn.
1.3.2.1.Đặc điểm hoạt động học tập.
Hoạt động học tập của học sinh THPT đòi hỏi tính năng động và tính
độc lập hơn học sinh THCS,đòi hỏi trình độ tư duy lý luận phát triển.Hứng
thú học tập của các em có những thay đổi rõ rệt, có tính bền vững và gắn liền
với khuynh hướng nghề nghiệp. Đối với các lĩnh vực khoa học, các em đã có
thái độ lựa chọn khá rõ ràng: có em thích học các môn KHXH, có em lại
thích học các môn KH tự nhiên, thái độ học tập của thanh niên học sinh gắn
liền với động cơ thực tiễn, động cơ nhận thức, sau đó là ý nghĩa của môn
học.Ở nhiều em xuất hiện thái độ học lệch: Một mặt các em đó rất tích cực
học một số môn mà các em cho là quan trọng đối với nghề mình chọn, mặt
khác các em sao nhãng các môn học khác.
1.3.2.2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ.
Ở thanh niên mới lớn, tính chủ định phát triển mạnh ở tất cả các quá
trình nhận thức.Tri giác có mục đích đã đạt tới mức rất cao. Quá trình quan
sát đã chịu sự điều khiển của hệ thống tín hiệu thứ hai nhiều hơn và không
tách khỏi tư duy ngôn ngữ.Ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt
động trí tuệ, đồng thời vai trò của ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa ngày một
tăng rõ.Đặc biệt các em đã tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ.
Hoạt động tư duy của học sinh THPT có sự thay đổi quan trọng, các
em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo.

21
Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn, đồng thời tính
phê phán của tư duy cũng phát triển.
Tuy vậy, hiện nay số HS THPT đạt tới mức tư duy đặc trưng cho lứa
tuổi như trên còn chưa nhiều. Khiếm khuyết cơ bản trong hoạt động tư duy

của nhiều em là thiếu tính độc lập. Nhiều khi các em chưa chú ý phát huy hết
năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính
hoặc thiên về tái hiện tư tưởng của người khác.Nhà trường cần đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của
người học.
1.3.2.3. Sự phát triển ý thức.
Sự phát triển ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân
cách của HS THPT với những đặc điểm cơ bản sau:
+ Các em tiếp tục chú ý đến hình dáng bên ngoài của mình, hình ảnh
về thân thể là một thành tố quan trọng của sự tự ý thức của thanh niên mới
lớn.
+ Ở tuổi thanh niên, quá trình phát triển tự ý thức diễn ra mạnh mẽ, sôi
nổi và có tính chất đặc thù riêng. Thanh niên tìm hiểu và đánh giá những đặc
điểm tâm lý của mình theo quan điểm về mục đích và hoài bão của mình
+ Sự tự ý thức của họ xuất phát từ yêu cầu của cuộc sống và hoạt
động: Địa vị mới trong tập thể, những quan hệ mới với thế giới xung quanh.
Các em hay ghi nhật ký, so sánh mình với nhân vật mà họ coi là tấm gương,
là thần tượng.
+ Nội dung của tự ý thức cũng khá phức tạp, các em không chỉ nhận
thức về cái tôi của mình trong hiện tại mà còn nhận thức vị trí của mình trong
XH, hiện tại và tương lai.
+ Thanh niên còn có thể hiểu rõ những phẩm chất phức tạp, biểu hiện
những quan hệ nhiều mặt của nhân cách và biết cách đánh giá nhân cách của
mình trong toàn bộ những thuộc tính nhân cách.
+ Các em có khả năng đánh giá sâu sắc những phẩm chất, mặt mạnh,
mặt yếu của những người cùng sống và chính mình. Đồng thời các em cũng
có khuynh hướng độc lập trong việc phân tích, đánh giá bản thân. Song việc
tự đánh giá bản thân nhiều khi chưa khách quan, có thể sai lầm, cần giúp đỡ
khéo léo để các em hình thành một biểu tượng khách quan về nhân cách của
mình.

+ Trên cơ sở tự ý thức phát triển mạnh mẽ, nhu cầu tự giáo dục ở HS
THPT cũng được phát triển. Tuy các em chưa thật có lòng tin và tự giáo dục

22
hoặc chưa thành công trong tự giáo dục, nhưng vấn đề tự giáo dục của HS
THPT thật sự là cần cho sự phát triển của chính các em: Vừa là đối tượng,
vừa là chủ thể của giáo dục: “ Các em là những nhân cách đang vươn lên
để trở thành người công dân … Các em vừa là đối tượng mang tính đặc
thù của lứa tuổi, vừa là chủ thể của giáo dục đạo đức.Trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách, học sinh trung học phổ thông đã có
đầy đủ các điều kiện cơ bản về nhận thức, ý chí hoạt động… để biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, quyết định kết quả phát triển tài
đức của cá nhân. Tuy nhiên, với kinh nghiệm, vốn sống của cá nhân chưa
nhiều, học sinh trung học phổ thông dễ chao đảo trong hành vi hoạt động
của mình. ”
1.3.2.4. Sự hình thành thế giới quan.
Học sinh THPT – tuổi thanh niên mới lớn là lứa tuổi quyết định sự
hình thành của thế giới quan. Đây là nét chủ yếu trong sự phát triển tâm lý
của tuổi thanh niên HS. Chỉ số đầu tiên của sự hình thành thế giới quan là sự
phát triển của hứng thú nhận thức với các vấn đề tự nhiên, XH thông qua các
môn học ở bậc THPT, ở lứa tuổi mới lớn quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề
liên quan đến con người. Vai trò của con người trong lịch sử, quan hệ giữa
con người và XH, giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa tình cảm và trách nhiệm.
Nói chung các em có khuynh hướng sống một cuộc sống tích cực vì XH.
Trong điều kiện hiện nay, cần đặc biệt giúp các em phân tích, đánh
giá các hiện tượng XH, các thang giá trị đang có những diễn biến không đơn
giản, biết ủng hộ, bảo vệ cái đúng, phản đối ngăn chặn cái sai, biết chống lại
sự xâm nhập của thế giới quan của giai cấp bóc lột, biết chống mê tín dị đoan
và các tư tưởng duy tâm khác.
1.3.2.5.Đời sống tình cảm.

Ở tuổi HS THPT, quan hệ bạn bè chiếm vị trí hơn hẳn so với những
người khác, do lòng khao khát muốn có một vị trí bình đẳng trong cuộc sống,
các em được sinh hoạt với caùc bạn cùng tuổi, cảm thấy mình cần cho nhóm,
có uy tín, có vị trí nhất định trong nhóm.Các em thích giao lưu với bạn bè
cùng lứa tuổi, cùng lớp, cùng tường, hoặc ngoài trường. Trong công tác
GDĐĐ cho HS THPT cần chú ý tới ảnh hưởng của nhóm – hội tự phát ngoài
nhà trường và có thể tránh được hậu quả xấu của nhóm tự phát bằng cách tổ
chức các hoạt động tập thể có tổ chức, đoàn thể để phát huy được tính tích
cực của thanh niên.

23
Đời sống tình cảm của thanh niên mới lớn rất phong phú và nhiều vẻ,
đặc biệt là tình bạn: các em có nhu cầu lớn về tình bạn, các em có nhu cầu
cao hơn về tình bạn (tính chân thật, tin tưởng và giúp đỡ lẫn nhau …). Các
em có khả năng đồng cảm tình bạn. Tình bạn của các em mang tính xúc cảm
cao. Các em thường lý tưởng hoá tình bạn. Ở thanh niên mới lớn, quan hệ
giữa nam và nữ được tích cực hoá rõ rệt. Nhóm bạn ở THPT thường có nam
và nữ. Do vậy, nhu cầu về tình bạn khác giới được tăng lên. Ở một số em,
xuất hiện những sự lôi cuốn đầu tiên mạnh mẽ: tình yêu. Tình yêu ở HS
THPT thường là trong trắng, tươi sáng, hồn nhiên, giàu cảm xúc và khá chân
thành. Nhà trường phải giáo dục cho HS một tình yêu chân chính dựa trên cơ
sở thông cảm hiểu biết, tôn trọng và cùng có một mục đích, lý tưởng chung.
Để GDĐĐ cho HS THPT có hiệu quả, chúng ta cần chú ý xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp với các em, đó là mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau. Chúng ta cần tin tưởng các em, tạo điều kiện để các em phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo độc lập, giúp các em nâng cao tinh thần trách
nhiệm của bản thân và tạo điều kiện thuân lợi cho sự phát triển nhân cách HS
1.3.3.Vai trò của giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đang tiến hành cải cách giáo dục,
đổi mới chương trình giáo dục THPT, hướng vào thực hiện giáo dục có chất

lượng cao, để chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển KT – XH toàn
cầu. Nhà trường có vai trò quan trọng, giữ vị trí đặc biệt trong giáo dục. Đây
là bậc học trang bị những kiến thức phổ thông cơ bản để HS có thể theo học
Đại học, Cao đẳng …hoặc lao động sản xuất ngành nghề.
 GDĐĐ cho thế hệ trẻ là trách nhiệm của toàn XH, song giáo dục ở
nhà trường giữ vai trò vô cùng quan trọng. GDĐĐ trong nhà trường THPT là
một quá trình giáo dục bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, có quan hệ
biện chứng với các bộ phận giáo dục khác.
+ GDĐĐ (Đức dục )
+ Giáo dục trí tuệ (Trí dục )
+ Giáo dục thể chất
+ Giáo dục thẩm mỹ (Mỹ dục)
+ Giáo dục lao động kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp. Trong đó, GDĐĐ
được xem là nền tảng. gốc rễ tạo ra nội lực tiềm tàng, vững chắc cho các mặt
giáo dục khác.
Giáo dục đạo đức tạo ra nhịp cầu gắn kết giữa nhà trường với XH, con
người với cuộc sống.

24
 Nhà trường THPT coi GDĐĐ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Mục đích giáo dục của nhà trường không ngoài mục đích hình thành và phát
triển nhân cách cho thế hệ trẻ.
Ở nhà trường, GDĐĐ cho HS là hình thành ý thức ĐĐ, hành vi thói quen
ĐĐ, tình cảm ĐĐ của HS theo những nguyên tắc ĐĐ dân tộc, ĐĐCM, ĐĐ
XHCN.
Trong lứa tuổi HS THPT “ Những sức mạnh đạo đức của con người
được phát triển mạnh mẽ, bộ mặt tinh thần được hình thành, những nét
tính cách được xác định và thế giới quan được hình thành” [32 tr 59 ]
Ở HS THPT: Thế giới quan của các em đang hình thành và tiến tới
hoàn chỉnh.Nhà trường cầøn giúp đỡ các em xây dựng được thế giới quan

đúng đắn để các em trở thành người công dân chân chính, có ích cho XH.
Dưới sự giáo dục của nhà trường, bản thân học sinh phải có ý thức tu dưỡng,
rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách của mình.Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định: “ Con đường học vấn là lý tưởng cao đẹp ở mỗi con người, để
phát triển nhân cách con người, đó là sự rộng lớn, muốn đạt được học vấn
đích thực thì phải có đạo đức trong sáng, có sự chí tâm, sự thành ý, đem
kết quả học tập của mình phục vụ cho hạnh phúc của nhân dân …” [ 25 tr
179 ]
GDĐĐ ở trường THPT là một hoạt động có tổ chức, có mục đích, có kế
hoạch nhằm biến những nhu cầu, chuẩn mực đạo đức theo yêu cầu của XH
thành những phẩm chất, giá trị ĐĐ của cá nhân HS; nhằm góp phần phát
triển nhân cách của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của XH.
Quản lý tốt hoạt động GDĐĐ học sinh ở trường THPT là góp phần thực hiện
nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của GD – ĐT trong thời kỳ CNH – HĐH là “
Nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc
lập dân tộc và CNXH ”
1.3.4.Nội dung, con đường và phương pháp giáo dục đạo đức trong
trường trung học phổ thông.
1.3.4.1.Nội dung giáo dục đạo đức trong trường trung học phổ
thông.
Nội dung giáo dục đạo đức cho đối tượng HS THPT theo văn bản
mục tiêu và kế hoạch đào tạo THPT: Quyết định 329 do Bộ trưởng Bộ GD –
ĐT ký ngày 31 tháng 3 năm 1990, đó là: “ Giáo dục thế giới quan, tư tưởng,
chính trị, pháp luật, đạo đức và cư xử có văn hoá.”

25

×