Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Thực trạng công tác quản lý phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ sở của Phòng GD & ĐT huyện Cát Tiên - tỉnh Lâm Đồng.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.22 KB, 112 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường THCS nhằm góp phần tích cực vào
việc đào tạo, phát triển con người phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, của
quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, trước xu thế toàn cầu hoá, với một
nền văn minh mới, đang là vấn đề quan tâm của các nhà lãnh đạo, các nhà giáo
dục cũng như mọi thành viên xã hội.
Nước ta đang đối mặt với những thách thức lớn, thách thức lớn nhất hiện
nay là vấn đề chất lượng giáo dục và đào tạo. Nếu xem giáo dục là “quốc sách
hàng đầu” thì chúng ta phải hết sức coi trọng nhiệm vụ QL và lãnh đạo nói
chung và QL nhà trường nói riêng. Người được giao phó nhiệm vụ QL nhà
trường chẳng những phải hiểu biết sâu sắc về giáo dục hiện đại mà còn phải có
các kỹ năng trong lao động quản lý, có điều kiện tập trung toàn tâm toàn ý cho
công việc của mình.
Quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta đối với việc xây dựng và
phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD là luôn khẳng định vai trò quyết
định của nhà giáo trong việc nâng cao chất lượng và tầm quan trọng của đội ngũ
cán bộ QLGD trong việc điều hành một hệ thống giáo dục đang ngày càng mở
rộng và phát triển. Do đó, đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD đã luôn nhận được
sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII nhấn mạnh:
“Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt đối với
nước ta khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Nguồn lực
đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt
đẹp được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền
với một nền khoa học công nghệ hiện đại. Giáo dục phải làm tốt nhiệm vụ đào
tạo nguồn nhân lực cho đất nước, đội ngũ lao động cho khoa học công nghệ ”.
[29]
Chỉ thị 40 - CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã
xác định: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
1


được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc
biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay
nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có
hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực,
đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Phải tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt,
vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát
triển giáo dục 2001 - 2010 và chấn hưng đất nước”. [8]
Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục được chuẩn
hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà
giáo. Thông qua việc QL, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp
giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi hỏi
ngày càng cao của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Ngày 11/01/2005 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 09/2005/QĐ -
TTg về việc phê duyệt đề án “Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 – 2010” với mục tiêu tổng quát là: “Xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất
lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức lối sống, lương tâm nghề nghiệp và trình
độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp giáo
dục trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Quyết định số 1109/QĐ - UB của UBND Tỉnh Lâm Đồng phê duyệt kế
hoạch “Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục giai đoạn 2006 – 2010 địa bàn Lâm Đồng ”
Nghị quyết số 27/ NQ - HU ngày 05/8/2005 về việc xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ QLGD; Phòng GD&ĐT đã xây dựng
chương trình hành động số 46 /KH - GD ngày 11/8/2005 về việc xây dựng nâng
2

cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD giai đoạn 2006 – 2010 của
huyện Cát Tiên.
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2006 -
2010) xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đối với lĩnh vực
giáo dục và đào tạo; phát triển nguồn nhân lực:
- “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và
giáo viên cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức; đảm bảo đủ
số lượng và chất lượng ở mỗi cấp học, ngành học. Khắc phục cho được tình
trạng tiêu cực trong việc dạy thêm, học thêm”
- “Xây dựng chiến lược, chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn
nhân lực, tạo môi trường phát huy tối đa năng lực nội sinh; đồng thời chú trọng
thu hút nhân tài từ nơi khác đến, đặc biệt là các nhà khoa học đầu ngành, kỹ
thuật viên lành nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà” [36 ; 55 - 56 ]
Trong những năm qua, Ngành Giáo dục và Đào tạo Lâm Đồng đã nỗ lực
phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng, trong đó có sự đóng góp của 03
huyện phía Nam nói chung và huyện Cát Tiên nói riêng. Với vai trò, chức năng
nhiệm vụ được qui định, cùng với những đặc điểm của địa bàn, đội ngũ cán bộ
QL ở các trường THCS huyện Cát Tiên - tỉnh Lâm Đồng đã có những nỗ lực góp
phần tạo ra hiệu quả giáo dục THCS ở địa phương, từng bước nâng cao chất lượng
giáo dục, góp phần cùng cả tỉnh hoàn thành phổ cập THCS vào tháng 12/2008.
Tuy nhiên, chất lượng và hiệu quả giáo dục THCS ở các huyện phía Nam
tỉnh Lâm Đồng nhìn chung còn thấp, huyện Cát Tiên cũng nằm trong thực trạng
chung đó. Vấn đề này do nhiều nguyên nhân còn bất cập. Một trong những
nguyên nhân còn bất cập đó là một bộ phận không nhỏ đội ngũ CBQL của các
trường THCS trên địa bàn huyện Cát Tiên chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ đặt ra. Vì vậy, việc nghiên cứu để đề xuất các biện pháp QL phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý các trường THCS trên địa bàn huyện Cát Tiên - Lâm Đồng
là vấn đề có tính cấp thiết.
Xuất phát từ những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về công

tác giáo dục, trong đó đề cập đến vai trò, vị trí của đội ngũ cán bộ QLGD; xác
3
định tầm quan trọng của công tác phát triển đội ngũ CBQL nhà trường nói
chung, trường THCS nói riêng.
Xuất phát từ thực trạng công tác quản lý phát triển đội ngũ cán bộ QL của
các trường THCS trên địa bàn huyện Cát Tiên còn những bất cập, đội ngũ CBQL
các trường THCS chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Việc nghiên cứu đề xuất các biện pháp quản lý phát triển đội ngũ CBQL
các trường THCS huyện Cát Tiên - Lâm Đồng chưa được tác giả nào đề cập
nghiên cứu cụ thể để góp phần giải quyết vấn đề tồn tại trong đội ngũ CBQL
trường THCS hiện nay.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Biện pháp quản lý
phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường THCS của Phòng Giáo Dục và Đào
tạo huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng đội ngũ CBQL các
trường THCS; thực trạng quản lý phát triển đội ngũ CBQL các trường THCS của
Phòng GD&ĐT Cát Tiên; đề xuất một số biện pháp quản lý phát triển đội ngũ
CBQL các trường THCS huyện Cát Tiên - tỉnh Lâm Đồng, nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý phát triển đội ngũ CBQL, đáp ứng yêu cầu chất lượng và hiệu quả
giáo dục THCS của Huyện.
3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ CBQL các
trường THCS của Phòng Giáo Dục và Đào tạo huyện Cát Tiên.
3.2 Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý phát triển đội ngũ CBQL
trường THCS.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp quản lý phát triển đội
ngũ CBQL các trường THCS của Phòng Giáo Dục và Đào tạo huyện Cát Tiên -
tỉnh Lâm Đồng.

5. Giả thuyết khoa học
4
Công tác quản lý phát triển đội ngũ CBQL trường THCS của Phòng
GD&ĐT huyện Cát Tiên –Lâm Đồng đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi
nhận, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cơ bản chưa phát huy hết nội lực của đội
ngũ CBQL; nếu thực hiện những biện pháp quản lý phù hợp thì sẽ khắc phục
được những hạn chế trên, đồng thời nâng cao chất lượng công tác quản lý phát
triển đội ngũ CBQL đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục THCS của Huyện trong
giai đoạn hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1 Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về QL phát triển đội ngũ
CBQL trường THCS.
6.2 Khảo sát, đánh giá thực trạng đội ngũ CBQL các trường THCS của
huyện Cát Tiên và thực trạng quản lý phát triển đội ngũ CBQL trường THCS của
Phòng GD&ĐT Cát Tiên, nguyên nhân của thực trạng trên.
6.3 Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm phát triển đội ngũ CBQL các trường
THCS của Phòng GD&ĐT huyện Cát Tiên - Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng phối hợp 03 nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Để có cơ sở lý luận, làm nền tảng cho việc nghiên cứu đề tài chúng tôi đã
hệ thống, thu thập và phân tích các tài liệu khoa học, các văn bản Chỉ thị, Nghị
quyết của Đảng, Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo về quản lý, phát triển
đội ngũ CBQL và phát triển đội ngũ CBQL trường THCS.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7. 2.1. Phương pháp điều tra viết
Sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến để tìm hiểu, khảo sát nhằm thu thập những
thông tin cần thiết về công tác QL ở các trường THCS huyện Cát Tiên - Lâm
Đồng. Từ đó phân tích tổng hợp, đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn: Trực tiếp tiếp xúc với CBQL các cấp, GV

thông qua một số câu hỏi để tìm hiểu về trình độ, năng lực của CBQL các trường
THCS huyện Cát Tiên - Lâm Đồng (có ghi biên bản)
5
7.2.3. Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động giáo dục ở các
trường THCS huyện Cát Tiên với các hình thức:
- Quan sát không tham dự: Lập phiếu hỏi
- Quan sát có tham dự: Tham quan cơ sở vật chất, trang thiết bị nhà trường;
dự các buổi sinh hoạt chuyên môn, họp hội đồng nhà trường, nghiên cứu sản
phẩm của các CBQL (kế hoạch, các văn bản chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ
QL trong nhà trường THCS…)
7.2.4. Phương pháp chuyên gia: Dùng phiếu trưng cầu ý kiến để xin ý
kiến các chuyên gia hoặc khách thể nghiên cứu để khảo nghiệm tính cần thiết và
khả thi của biện pháp đề xuất trong đề tài.
7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học: Sử dụng một số công thức
toán học như tính tỷ lệ phần trăm, tính hệ số tương quan… để thống kê số lượng,
chất lượng về đội ngũ CBQL, GV, kết quả học tập của HS trường THCS và xử
lý số liệu , định lượng kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra những kết luận phục vụ
công tác nghiên cứu.
8. Đóng góp mới của đề tài.
8.1. Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực trạng của vấn đề QL phát
triển đội ngũ CBQL trường THCS.
8.2. Đề xuất một số biện pháp nhằm quản lý phát triển đội ngũ CBQL
trường THCS ở huyện Cát Tiên - Lâm Đồng để đáp ứng với nhu cầu phát triển
GD & ĐT trong giai đoạn hiện nay.
9. Cấu trúc đề tài
 Phần mở đầu
 Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề quản lý phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý trường trung học cơ sở
 Chương 2: Thực trạng công tác quản lý phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
trường trung học cơ sở của Phòng GD & ĐT huyện Cát Tiên - tỉnh Lâm

Đồng.
 Chương 3: Đề xuất các biện pháp quản lý phát triển đội ngũ cán bộ quản
lý trường trung học cơ sở của Phòng GD & ĐT huyện Cát Tiên - tỉnh
Lâm Đồng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
6
 Kết luận và khuyến nghị
 Danh mục tài liệu tham khảo
 Phụ lục
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG THCS
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Theo luận thuyết “Đức trị” lấy chữ “Tín” làm đầu của Khổng Tử - Nho
Giáo, người lãnh đạo đất nước phải coi trọng 3 vấn đề: "Thứ - Phú - Giáo".
Nghĩa là phải làm cho dân đông lên. Dân đã đông phải làm cho dân giàu, khi dân
đã giàu phải dạy cho có giáo dục. Điều này tương đồng với tinh thần Phật dạy
trong kinh Dược Sư là: “Khi người ta đói thì cho cơm ăn áo mặc. Đã no đủ thì
mới cho giáo pháp”. Đó chính là kích thích để phát triển, người QL nhà nước
phải có các chính sách văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, dân sinh … để quần chúng
nhân dân trăm họ thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
Chủ nghĩa duy vật về lịch sử giải thích rằng lịch sử phát triển của xã hội
trên toàn thế giới là lịch sử thay thế kế tiếp các hình thái kinh tế xã hội mà thực
chất là các phương thức sản xuất. C. Mác lập luận rằng: “Lịch sử xã hội loài
người trải qua 05 phương thức sản xuất tương ứng với 05 hình thái kinh tế và 05
thời đại lịch sử: Cộng sản nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa”. [11;26]
Quan điểm của C.Mác đã mở ra bước ngoặc có tính cách mạng trong nhận
thức của con người về phân chia các giai đoạn lịch sử. Hơn nữa, C.Mác còn chỉ
ra rằng sự biến đổi của xã hội và sự phát triển lịch sử bắt nguồn từ hệ thống sản

xuất, cơ cấu kinh tế của xã hội.
Mặc khác: QL là một thuộc tính bất biến, nội tại của mọi quá trình lao động
xã hội. C.Mác đã viết trong bộ Tư bản: “Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng
trực tiếp nào, được thể hiện ở qui mô tương đối lớn đều cần đến một chừng mực
nhất định đến sự QL, QL xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá thể và hoàn
thành các chức năng chung xuất hiện trong toàn bộ cơ thể sản xuất, khác với các
bộ phận riêng rẽ của nó”.
8
C. Mác đã định nghĩa QL như là “lao động để điều khiển lao động” Như
vậy, QL hay điều khiển lao động là điều kiện quan trọng nhất để làm cho xã hội
loài người hình thành, vận hành và phát triển. Lao động xã hội và QL là không
thể tách rời nhau được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của đội ngũ GV: “Nếu không
có thầy giáo thì không có giáo dục”. Nhưng để thực hiện vai trò vẻ vang của
mình, người thầy giáo phải phấn đấu để: “Thầy phải xứng đáng là thầy, thầy
phải được lựa chọn cẩn thận vì không phải ai cũng làm được thầy”. Vì vậy phải
thường xuyên rèn luyện không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ. Hồ Chí Minh rất coi trọng cả đức và tài (phẩm chất và năng lực), đức
và tài là điều cần thiết và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Người
nói: “Có tài phải có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài làm việc gì
cũng khó”. Trong quá trình chỉ đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan
tâm vấn đề con người. Người nhấn mạnh trong di chúc: “Đầu tiên là công việc
đối với con người” [ 2 ]
Lao động QL là một dạng đặc biệt của lao động, tham gia vào quá trình lao
động trong xã hội để hoàn thành chức năng QL cần thiết cho quá trình đó. Lao
động QL là loại lao động trí óc diễn ra theo qui trình: quyết định - tổ chức thực
hiện quyết định - kiểm tra - điều chỉnh - tổng kết.
Trong xã hội hiện đại, giáo dục ví như: ‘chiếc chìa khoá vàng để mở cánh
cửa đi vào tương lai’. Thật vậy: Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, xem biến đổi xã
hội là một thuộc tính vốn có của xã hội. Bởi vì con người không ngừng hoạt

động nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của mình. Max nói: “Các bộ
phận xã hội không chỉ tác động qua lại với nhau mà còn mâu thuẫn, thậm chí đối
kháng. Đó là nguồn gốc thúc đẩy sự phát triển xã hội. Sự vận động biến đổi của
xã hội tuân theo một quy luật mà con người có thể nhận thức được”. Vậy con
người có khả năng vận dụng các quy luật đã nhận thức được để cải tạo xã hội
cho phù hợp với lợi ích của mình.
Một xã hội hiện đại là xã hội áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật,
công nghệ, trí tuệ để kinh tế phát triển, thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước.
9
Tăng trưởng kinh tế cùng với những biến đổi xã hội đã làm cho mức sống con
người được nâng cao. Giáo dục đóng vai trò chủ yếu trong việc giữ gìn, phát
triển và truyền bá văn minh của nhân loại. Điều này càng thể hiện rõ trong thời
đại của cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay, tiềm năng trí tuệ trở
thành động lực chính của sự tăng tốc phát triển. Giáo dục được coi là nhân tố
tích cực tạo nên nguồn nhân lực, quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia và sự
thành đạt cho mỗi cá nhân trong cuộc sống của mình. Vì thế phát triển giáo dục
đã trở thành “quốc sách hàng đầu” của nhiều quốc gia. Phát triển giáo dục là
phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực.
Sự nghiệp CNH - HĐH đặt ra mục tiêu đến năm 2020 đất nước ta về cơ bản
sẽ trở thành một nước công nghiệp. Nhân tố quyết định sự thắng lợi của công
cuộc CNH - HĐH là nguồn lực con người Việt Nam được phát triển về số lượng
và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Vì vậy muốn đảm bảo
tăng trưởng về kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, củng cố an ninh quốc
phòng, trước hết phải chăm lo việc phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp
người lao động có phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất
nước trong giai đoạn mới. Điều này rất cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông.
Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng ta luôn quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục, trong đó chú trọng việc xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL. Điều đó
được thể hiện qua Chủ trương chính sách, hệ thống văn bản pháp luật. Bộ Giáo
dục và Đào tạo cũng đã xây dựng hệ thống văn bản làm cơ sở cho việc xây dựng

đội ngũ CBQL giáo dục nói chung và trường THCS nói riêng.
Các cấp QLGD và các nhà khoa học cũng đã có nhiều nghiên cứu, đề xuất
những giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL, GV nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển sự nghiệp giáo dục.
Tại Trường Đại học sư phạm Hà Nội trong một số luận văn thạc sĩ chuyên
ngành QLGD có những tác giả nghiên cứu cùng hướng với đề tài như: Nguyễn
Thế Long (2005), Phùng Quang Thơm (2005), Nguyễn Xuân Trường (2006),
Nguyễn Hữu Chương (2006), Lê Diên Phương (2007), Nguyễn Bích Ngân
(2007). Tại Trường Đại học sư phạm Huế: Trần Trung Triết (2007) …đã đề cập
10
đến công tác xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL ở trường phổ thông. Các
công trình nghiên cứu trên đây, cơ bản giải quyết những vấn đề lý luận cũng như
thực tiễn về xây dựng và phát triển đội ngũ CBQL trường phổ thông ở một số địa
phương. Tuy nhiên, vấn đề quản lý phát triển đội ngũ CBQL các trường THCS
huyện Cát Tiên tỉnh Lâm Đồng thì chưa có tác giả nào đề cập nghiên cứu.
Xuất phát từ những cơ sở lí luận và thực trạng đội ngũ CBQL trường
THCS, thực trạng công tác quản lý phát triển đội ngũ CBQL trường THCS của
PHòng GD&ĐT huyện Cát Tiên - Lâm Đồng cũng như lịch sử nghiên cứu vấn
đề, chúng tôi chọn đề tài “Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
các trường trung học cơ sở huyện Cát Tiên tỉnh Lâm Đồng” để nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1 Quản lý
Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm, để thực hiện mục
tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách cá nhân riêng lẻ, thì cách QL đã là
một yếu tố cần thiết để đảm bảo sự phối hợp của những cá nhân. Vì chúng ta
ngày càng dựa vào sự nỗ lực chung, nhiều nhóm có tổ chức trở nên rộng lớn hơn,
cho nên nhiệm vụ QL ngày càng quan trọng. Hoạt động QL bắt nguồn từ sự phân
công lao động, mục đích của hoạt động quản lý nhằm tăng năng suất lao động,
cải tạo cuộc sống. Để đạt được mục tiêu trên cơ sở kết hợp các yếu tố con
người, phương tiện thì cần có sự tổ chức và điều hành chung, đó chính là quá

trình QL. Trải qua quá trình phát triển, cùng với sự phát triển của xã hội, trình độ
tổ chức và QL cũng được từng bước nâng lên.
Nói đến hoạt động QL, người ta thường nhắc đến ý tưởng sâu sắc của
C.Mác: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành
trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà
những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự
vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan
độc lập của nó. Một nghệ sỹ vĩ cầm thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần
có nhạc trưởng” [ 10 ]
11
Hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều những khái niệm, định nghĩa về QL.
Trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý”, tác giả người Mỹ H.Kootz
đã đưa ra khái niệm “Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp
những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà
quản lý là nhằm hình thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt
được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá
nhân ít nhất. Với tư cách thực hành thì cách quản lý là một nghệ thuật; còn kiến
thức có tổ chức về quản lý là một khoa học” [6;33].
Theo quan điểm chính trị xã hội: ‘ Quản lý là sự tác động liên tục có tổ
chức, có định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý, người tổ chức quản lý)
lên khách thể quản lý (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội,
kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các
phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho
sự phát triển của đối tượng”[ 32]
Theo tác giả Phạm Khắc Chương: “Quản lý là một khái niệm ghép giữa
“quản” và “lý”. “Quản” có hàm nghĩa rất phong phú: cai quản, thống trị, giữ gìn,
theo dõi…Theo góc độ điều khiển, “quản” có thể hiểu là lái, điều khiển, chỉ huy,
kiểm soát, … Do đó, trong đời sống xã hội ngày càng phát sinh những khái niệm
liên quan đến từ “quản” như: quản giáo, quản thúc, quản tượng, quản gia, quản
trị, …. “lý” theo hàm nghĩa là khoa học, khách quan nâng cao hiệu quả hoạt

động “quản” [10;1]
Theo tác giả Bùi Minh Hiền: “Quản lý là sự tác động có tổ chức có hướng
đích của chủ thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra” [ 21;12]
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, song có thể khái quát: Quản lý là
những tác động có tổ chức, có định hướng của chủ thể QL đến đối tượng QL
nhằm bảo đảm cho sự vận động, phát triển của hệ thống phù hợp với quy luật
khách quan, trong đó sử dụng và khai thác có hiệu quả nhất các tiềm năng,
các cơ hội để đạt được mục tiêu đã xác định theo ý chí của chủ thể QL.
12
1.2.1.1. Chức năng quản lý: Chức năng QL là nội dung, phương thức hoạt
động cơ bản mà nhờ nó chủ thể QL tác động đến đối tượng QL thông qua quá
trình QL nhằm thực hiện mục tiêu QL.
Các công trình nghiên cứu về khoa học QL tuy chưa thật đồng nhất, về cơ
bản các nhà khoa học đều khẳng định 4 chức năng QL cơ bản đó là: Chức năng
lập kế hoạch, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo điều hành và chức năng
kiểm tra đánh giá.
* Chức năng lập kế hoạch: Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình
QL . Từ trạng thái xuất phát của hệ thống, căn cứ vào mọi tiềm năng đã có và sẽ
có, dự báo trạng thái kết thúc của hệ, vạch rõ mục tiêu, nội dung hoạt động và
các biện pháp lớn nhỏ nhằm đưa hệ thống đến trạng thái mong muốn vào cuối
năm học.
* Chức năng Tổ chức: Là giai đoạn tổ chức thực hiện kế hoạch đã được xây
dựng. Tổ chức là sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, bộ phận nhằm đạt
được mục tiêu của kế hoạch. Nếu người QL biết cách tổ chức có hiệu quả, có
khoa học thì sẽ phát huy được sức mạnh của tập thể. Lê Nin đã khẳng định:
“Liệu một trăm có mạnh hơn một ngàn hay không? Có chứ! Khi mà một trăm
được tổ chức lại. Tổ chức sẽ nhân sức mạnh lên mười lần”
* Chức năng chỉ đạo: Là huy động lực lượng vào việc thực hiện kế hoạch,
là phương thức tác động của chủ thể QL, điều hành mọi việc nhằm đảm bảo cho
hệ vận hành thuận lợi. Chỉ đạo là biến mục tiêu QL thành kết quả, biến kế hoạch

thành hiện thực.
* Chức năng kiểm tra: Đây là giai đoạn cuối cùng của chu kỳ QL. Giai đoạn
này làm nhiệm vụ là đánh giá, kiểm tra, tư vấn, uốn nắn, sửa chữa …. để thúc
đẩy hệ đạt được những mục tiêu, dự kiến ban đầu và việc bổ sung điều chỉnh và
chuẩn bị cho việc lập kế hoạch tiếp theo.
1.2.1.2. Bản chất của hoạt động quản lý:
Theo tác giả Bùi Minh Hiền:
- “Quản lý là một loại lao động để điều khiển lao động.
13
- Quản lý là một nghệ thuật tác động vào hệ thống có hướng đích, có mục
tiêu xác định.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận chủ thể quản lý và đối tượng
quản lý, đây là quan hệ ra lệnh – phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc.
- Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người.
- Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với quy
luật khách quan.
- Quản lý xét về mặt công nghệ là xử lý thông tin.
- Quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lý và
ngược lại”. [21; 13]
QL là thực hiện những công việc có tác dụng định hướng, điều tiết, phối
hợp các hoạt động của cấp dưới, của những người dưới quyền. Biểu hiện cụ thể
qua việc, lập kế hoạch hoạt động, đảm bảo tổ chức, điều phối, kiểm tra, kiểm
soát. Hướng được sự chú ý của con người vào một hoạt động nào đó; điều tiết
được nguồn nhân lực, phối hợp được các hoạt động bộ phận.
Như vậy: “Quản lý không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật.
Quản lý là một hệ thống mở mà bản chất của nó là sự phối hợp các nỗ lực của
con người thông qua việc thực hiện các chức năng quản lý. Hoạt động quản lý
vừa có tính chất khách quan, vừa mang tính chủ quan, vừa có tính pháp luật Nhà
nước, vừa có tính xã hội rộng rãi, …chúng là những mặt đối lập trong một hệ
thống nhất. Đó là biện chứng và bản chất của hoạt động quản lý”[ 19]

1.2.2. Quản lý giáo dục
Xã hội tồn tại và phát triển dựa trên yếu tố đầu tiên là sản xuất ra của cải vật
chất Ph. Ăngghen viết: “Các Mác là người đầu tiên đã phát hiện quy luật phát
triển của lịch sử loài người, nghĩa là tìm ra cái sự thật đơn giản…là trước hết con
người cần phải ăn, uống, mặc và ở trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị,
khoa học, nghệ thuật, tôn giáo v.v….” [7;6].
Cùng với việc phát triển sản xuất, xã hội ở một giai đoạn đều tiến hành
chức năng giáo dục. Giáo dục là quá trình chuẩn bị cho con người, trước hết là
thế hệ trẻ, tham gia lao động sản xuất, tham gia vào đời sống xã hội bằng cách tổ
14
chức việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài
người một cách có ý thức, có mục đích. Tham gia quá trình giáo dục có những
phương tiện, điều kiện giáo dục …Tất cả những yếu tố trên quy tụ lại thành “Hệ
thống giáo dục quốc dân”. Đây là một bộ phận của hệ thống xã hội. QLGD chính
là QL bộ phận này của xã hội. QLGD được hiểu là QL quá trình giáo dục và đào
tạo. Tùy theo các cấp độ thì sự QLGD sẽ khác nhau.
Về khái niệm QLGD, hiện nay cũng có nhiều định nghĩa khác nhau. QLGD
là thực hiện việc QL trong lĩnh vực giáo dục. Ngày nay, lĩnh vực giáo dục mở
rộng hơn nhiều so với trước, do mỗi chỗ mở rộng đối tượng giáo dục từ thế hệ
trẻ sang người lớn và toàn xã hội. Tuy nhiên, giáo dục thế hệ trẻ là bộ phận nòng
cốt của lĩnh vực giáo dục cho toàn xã hội.
QLGD có hai nội dung chính: QL nhà nước về giáo dục; QL nhà trường và
các cơ sở giáo dục khác. QLGD là việc thực hiện và giám sát những chính sách
giáo dục, đào tạo trên cấp độ quốc gia, vùng, địa phương và cơ sở.
Trong quá trình nghiên cứu về lĩnh vực QLGD, khái niệm QLGD được
nhiều tác giả diễn đạt như sau:
Theo tác giả Trần Kiểm:
“Quản lý giáo dục (vĩ mô) được hiểu là những tác động liên tục, có tổ chức
có hướng của chủ thể quản lý lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính vượt trội/
tính trồi của hệ thống; sử dụng một cách tối ưu tiềm năng, cơ hội của hệ thống

nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện đảm bảo sự
cân bằng với môi trường bên ngoài luôn luôn biến động ”.[24;10 ]
“Quản lý giáo dục (vi mô) được hiểu là những tác động trực tiếp (có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập
thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh, và các lực
lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện chất lượng và hiệu quả
mục tiêu giáo dục của nhà trường”.[ 24;11]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho
15
hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các
tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất”.
Qua các định nghĩa trên có thể thấy QLGD là tập hợp những biện pháp: tổ
chức, phương pháp, kế hoạch hoá …tác động có mục đích, hợp quy luật của chủ
thể QL đến khách thể QL nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ
quan trong hệ thống giáo dục. QLGD có thể hiểu là sự QL hệ thống Giáo dục và
Đào tạo bao gồm một hay nhiều cơ sở giáo dục, trong đó nhà trường là đơn vị cơ
sở, ở đó diễn ra các hoạt động quản lý giáo dục cơ bản nhất.
Trong QLGD, chủ thể QL chính là bộ máy QL các cấp; đối tượng QL
chính là nguồn nhân lực, cơ sở vật chất - kỹ thuật và các hoạt động thực hiện các
chức năng của quá trình giáo dục và đào tạo.
Nội dung của QL Nhà nước về giáo dục bao gồm các vấn đề cơ bản được
quy định tại điều 99 Luật giáo dục năm 2005 (QĐ số 38/2005/QH11 ngày 14
tháng 6 năm 2005).
Muốn QLGD đạt kết quả tốt thì người QL phải năng động, linh hoạt, tuân
theo các quy luật khách quan đang chi phối sự vận hành của đối tượng QL, có
như vậy thì hiệu quả QL mới đạt được yêu cầu mong muốn.
1.2.3 Quản lý trường học

1.2.3.1. Trường học: Trường học là một bộ phận của xã hội, là tổ chức
giáo dục cơ sở của hệ thống giáo dục quốc dân. Hoạt động dạy và học là hoạt
động trung tâm của nhà trường.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Trường học là một thiết chế xã hội trong
đó diễn ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố
thầy - trò. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong guồng máy của hệ
thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở” [ ; 63]
16
1.2.3.2. Quản lý trường học
QL trường học là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống
QLGD nói chung. Theo Giáo sư Viện sĩ Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường
là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình,
tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo
dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”.
QL nhà trường về bản chất là QL con người. Điều đó tạo cho các chủ thể
(người dạy và người học) trong nhà trường một sự liên kết chặt chẽ không những
chỉ bởi cơ chế hoạt động của những tính quy luật khách quan của một tổ chức xã
hội – nhà trường, mà còn bởi hoạt động chủ quan, hoạt động QL của chính bản
thân GV và HS.
Theo PGS.TS Trần Kiểm: “Quản lý nhà trường thực chất là việc xác định
vị trí của mỗi người trong hệ thống xã hội, là quy định chức năng, quyền hạn,
nghĩa vụ, quan hệ cùng vai trò xã hội của họ mà trước hết là trong phạm vi nhà
trường với tư cách là một tổ chức xã hội’ [ 24; 259]
Như vậy: QL trường học nói chung và QL trường THCS nói riêng là tổ
chức chỉ đạo và điều hành quá trình giảng dạy của thầy và hoạt động học của
trò, đồng thời QL những điều kiện CSVC và công việc phục vụ cho dạy và học
nhằm đạt được mục đích giáo dục và đào tạo. Xét về bản chất, QL con người
trong nhà trường là tổ chức một cách hợp lý lao động của GV và HS, là tác
động đến họ sao cho hành vi, hoạt động của họ đáp ứng được yêu cầu của việc
đào tạo con người.

1.2.4 Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường học:
1.2.4.1. Phát triển:
Theo từ điển Tiếng Việt: “Phát triển” là sự vận động, tiến triển theo chiều
hướng tăng lên. Phát triển là quá trình biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm này thì tất cả sự vật, hiện
tượng, con người và xã hội hoặc tự bản thân biến đổi hoặc do bên ngoài làm cho
biến đổi tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Đó chính là sự phát triển. Như vậy
“Phát triển” là một khái niệm rất rộng, nói đến “Phát triển” là người ta nghĩ ngay
17
đến sự đi lên của sự vật, hiện tượng, con người trong xã hội. Sự đi lên đó thể hiện
việc tăng lên về số lượng và chất lượng, thay đổi về nội dung và hình thức.
Sự phát triển ở đây theo chúng tôi hiểu là quá trình biến đổi làm cho số
lượng, cơ cấu và chất lượng luôn vận động đi lên trong mối hỗ trợ bổ sung lẫn
nhau tạo nên thế càng bền vững. Xây dựng luôn gắn với sự phát triển, phát triển
phải dựa trên cơ sở của thế ổn định.
1.2.4.2. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
Phát triển đội ngũ CBQL là một bộ phận của phát triển nguồn lực con người
(Human Resousrce) hay còn gọi là phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là
một khái niệm ta thường quen dùng, nguồn nhân lực ở đây ta hiểu là nguồn lực
người. Phát triển nguồn nhân lực có nhiều cách hiểu khác nhau:
Theo PGS.TS Đặng Quốc Bảo: “Nguồn lực con người (Nguồn nhân lực)
được quan niệm là tổng thể tiềm năng lao động của một đất nước, một cộng
đồng, bao gồm dân số cả “trong” độ tuổi lao động và “ngoài” độ tuổi lao động.
Từ góc độ đối với cá nhân con người, nguồn nhân lực cần được quản lý, chăm
sóc và phát triển từ thai nhi, tuổi ấu thơ, tuổi vị thành niên, tuổi lao động và sau
cả thời kỳ sau tuổi lao động”. [2]
“Phát triển con người” đề cập những vấn đề về phát triển năng lực thể
chất và năng lực xã hội của con người, môi trường phát triển con người, nhấn
mạnh đến việc đồng thời nâng cao năng lực lựa chọn và mở rộng cơ hội lựa chọn
nhằm thảo mãn những nhu cầu của con người theo ba tiêu chí cơ bản: Một cuộc

sống có học vấn cao, một cuộc sống vật chất đầy đủ, một cuộc sống khoẻ mạnh
trường thọ.
QL phát triển nguồn lực con người nhân lực không chỉ nhấn mạnh đến
phát triển thể lực (theo quan điểm về sức người), phát triển trí lực (theo quan
điểm vốn người) mà nhấn mạnh phát triển toàn diện con người: Thể lực, trí lực,
tâm lực, thái độ sống, thái độ lao động, hiệu quả lao động.
QL phát triển nguồn nhân lực được xem xét tổng hợp dưới các góc độ: Kinh
tế, giáo dục, chính trị - xã hội:
18
- Dưới góc độ kinh tế: QL nguồn nhân lực tập trung vào công tác
quy hoạch, kế hoạch cơ cấu lao động, cơ cấu nhân lực trong tương quan với cơ
cấu kinh tế.
- Dưới góc độ giáo dục: QL nguồn nhân lực tập trung vào công tác
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, gắn cơ cấu nhân lực với cơ cấu giáo dục.
- Dưới góc độ chính trị - xã hội: QL nguồn nhân lực tập trung vào
việc đưa ra các chính sách đảm bảo quyền tự do dân chủ, sự an ninh đối với đời
sống con người, sức khoẻ của con người, giữ môi trường sống tự nhiên của con
người được trong lành, đảm bảo sự bình đẳng giới, bình đẳng dân tộc…
Trong cuốn “Đầu tư vào tương lai” (Investing the Future) do Chương trình
phát triển của Liên hợp quốc (UNDP - Unied Nations Development Programme)
xuất bản năm 1990,ông Jacques Hallak (Chuyên gia giáo dục công tác tại Viện
Kế hoạch hoá Quốc tế) đã nêu lên 05 nguồn “phát năng” cho sự phát triển con
người. Đó là:
- Giáo dục và đào tạo
- Sức khoẻ và dinh dưỡng.
- Môi trường.
- Việc làm.
- Tự do chính trị và kinh tế
Năm yếu tố này gắn kết với nhau trong đó giáo dục đào tạo được coi là
nhân tố quan trọng nhất, là biện pháp chủ yếu nhất để phát triển nguồn nhân lực.

Sự phát triển của GD - ĐT luôn gắn liền với sự phát triển của nguồn nhân lực, sự
phát triển kinh tế văn hoá của xã hội.
* Phát triển nguồn nhân lực trong giáo dục được thể hiện trong các mặt:
Một là, phát triển đội ngũ CBQL là gây dựng đội ngũ CBQL làm cho đội
ngũ đó được biến đổi theo chiều hướng đi lên, xây dựng đội ngũ đủ về số lượng,
từng bước nâng cao chất lượng, đồng bộ về cơ cấu.
Hai là, thực hiện tốt tất cả các khâu từ việc quy hoạch, tuyển chọn, bổ
nhiệm sử dụng hợp lý, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sàng lọc đội ngũ CBQL. Đó
là quá trình làm cho đội ngũ nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ chính trị,
19
năng lực quản lý, có phẩm chất tốt, có trí tuệ và tay nghề thành thạo, nhằm giúp
họ hoàn thành tốt vai trò, nhiệm vụ của người QL.
Ba là, con người với tư cách là tiềm lực của sự phát triển GD&ĐT, phát
triển xã hội, cải tạo xã hội, làm cho chất lượng cuộc sống ngày càng cao hơn.
* Phát triển đội ngũ QL trường học nghĩa là phát huy năng lực của người
QLGD. Khái niệm “năng lực” đã gần như được nhiều người thừa nhận bao gồm
các thành tố: kiến thức, kỹ năng, thái độ. Trong đó cần phát triển hài hòa giữa 03
thành tố, không nặng về lý thuyết trong quá trình đào tạo và bồi dưỡng mà cần
phải coi trọng thành tố kỹ năng, ý nghĩa của việc thực hành, khả năng làm được
và vận dụng kiến thức vào nghề nghiệp hàng ngày. Thành tố thái độ thể hiện
phẩm chất, thái độ với công việc. Không có đủ các thành tố trên con người
không bao giờ có năng lực.
Theo tài liệu Hội thảo nguồn nhân lực quản lý giáo dục thế kỷ 21: “Hệ
thống năng lực của người QLGD cần phải bao gồm”:
- Năng lực chuyên môn (chuyên môn theo ngành, chuyên môn hỗ trợ và
chuyên môn về QL) .
- Năng lực quan hệ con người (Năng lực quan hệ con người đối với cá
nhân và đối với nhóm)
- Năng lực khái quát (năng lực khái quát dài hạn và năng lực khái quát cập
nhật): Càng ở bậc QL cao, người CBQL cần có năng lực khái quát cao hơn, giúp

người QL đưa ra các phân tích, dự báo và phán đoán trong những bối cảnh phức
tạp, điều hành đảm bảo giáo dục ổn định và phát triển bền vũng. [ 27; 33]
Mặc khác, phát triển đội ngũ CBQL là phát triển sao cho đảm bảo số lượng
(đảm bảo định mức lao động), nâng cao chất lượng đội ngũ nhằm giúp họ hoàn
thành tốt vai trò, nhiệm vụ của người QL. Chất lượng của đội ngũ QL được hiểu
trên bình diện gồm có chất lượng và số lượng. Số lượng luôn gắn chặt với chất
lượng, chất lượng bao hàm số lượng. Khi xem xét đến chất lượng đội CBQL cần
phải xét các mặt:
- Số lượng đội ngũ: Cơ cấu phù hợp.
- Chất lượng đội ngũ: gồm phẩm chất và năng lực
20
Một đội ngũ được đánh giá là có chất lượng khi đội ngũ đó đủ về số lượng
đảm bảo chất lượng và đồng bộ về cơ cấu.
Phát triển đội ngũ CBQL là vấn đề cốt lõi của việc phát triển nguồn lực con
người, nguồn lực quý báu nhất có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội. Nói cách khác, phát triển con người bền vững để phát triển xã hội.
“Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”. [ 28]
1.2.4.5. Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ CBQL trường THCS
* Biện pháp là gì ?
Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa Hà Nội năm
2005: “Biện pháp là cách hành động lựa chọn sao cho phù hợp với mục đích”.
Theo Từ điển Tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học: “Biện pháp là
cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể”
Như vậy biện pháp là một bộ phận tổ thành của phương pháp, có nghĩa là
để sử dụng một phương pháp nào đó phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau và
cùng một biện pháp có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau.

* Biện pháp quản lý phát triển đội ngũ CBQL trường THCS
Từ khái niệm về biện pháp, chúng ta có thể hiểu: Biện pháp QL phát triển
đội ngũ CBQL trường THCS là cách tổ chức thực hiện, chỉ đạo điều hành của
chủ thể QL (Phòng GD&ĐT) đối với các hoạt động của đội ngũ CBQL trường
THCS nhằm đạt được mục tiêu phát triển giáo dục hiện nay.
1.3. Vị trí, mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục trung học cơ sở trong hệ thống
giáo dục quốc dân với tình hình phát triển hiện nay.
1.3.1 Vị trí của trường trung học cơ sở:
Luật Giáo dục năm 2005 - khoản b, Điều 26 quy định: “Giáo dục trung học
cơ sở được thực hiện trong bốn năm học, từ lớp sáu đến lớp chín. Học sinh vào
học lớp sáu phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là mười một tuổi”.
21
Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số: 07/2007/QĐ -
BGDĐT ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định tại
điều 2:
“Trường trung học là cơ sở giáo dục phổ thông của hệ thống giáo dục quốc
dân. Trường có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng”.
1.3.2 Mục tiêu của giáo dục phổ thông (Điều 27 - Luật GD 2005)
- “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- “Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và
những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học
phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”. [ 5 ]
1.3.3 Nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học cơ sở
Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ

thông có nhiều cấp học quy định trường trung học có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây (điều 3):
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác của Chương
trình giáo dục phổ thông.
- Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên; tham gia tuyển dụng và điều động
giáo viên, cán bộ, nhân viên.
- Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh, vận động học sinh đến trường, quản lý
học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trong phạm vi cộng đồng.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Phối
hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục.
22
- Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định
của Nhà nước.
- Tổ chức cho giáo viên, nhân viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội.
- Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo
dục của cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục.
- Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy giáo dục THCS là cấp học nối tiếp cấp học cấp tiểu học, đây là cấp
học tạo sự liên thông và đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục THCS không chỉ nhằm mục tiêu học lên cấp THPT mà còn phải chuẩn
bị cho sự phân luồng sau khi HS học xong cấp THCS; có học vấn phổ thông ở
trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục
học THPT, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động sản xuất. Vì vậy,
giáo dục THCS phải đảm bảo cho HS có những giá trị đạo đức, có những kiến
thức phổ thông cơ bản về tự nhiên, xã hội và con người, gắn bó với cuộc sống
cộng đồng và thực tiễn địa phương, có kỹ năng vận dụng những kiến thức đã học
để giải quyết những vấn đề thường ngày trong cuộc sống. Tại điều 28 - Luật Giáo
dục 2005 quy định về yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông:
- Nội dung giáo dục phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn

diện, hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm
sinh lý lứa tuổi của HS, đáp ứng mục tiêu giáo dục ở mỗi cấp học.
- Giáo dục THCS phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở tiểu học,
bảo đảm cho HS có những hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử
dân tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học,
ngoại ngữ; có những hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp.
- Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho HS.
23
Để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nội dung, phương pháp
phải đảm bảo theo hướng: Giảm tính lý thuyết hàn lâm, tăng tính thực tiễn thực hành
đảm bảo vừa sức khả thi, tăng thời gian ngoại khoá. Như vậy học vấn trung học cơ sở
rất cần thiết và là nền tảng cơ bản để tiếp thu các kiến thức khoa học – công nghệ và
nghề nghiệp trong các hoạt động đời sống xã hội. Do đó giáo dục THCS là nhu cầu
tất yếu cho mọi tầng lớp dân cư, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu niên.
1.4 Yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ sở trong
giai đoạn hiện nay.
1.4.1 Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng
trường trung học cơ sở
Điều lệ Trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Quyết định số: 07/2007/QĐ - BGDĐT
ngày 02/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) quy định tại điều 19:
* Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng
- Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường;
- Thực hiện các Nghị quyết, Quyết nghị của Hội đồng trường ;
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
- Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công tác,

kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực hiện công tác khen thưởng,
kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên theo quy định của Nhà nước; quản lý hồ sơ
tuyển dụng giáo viên, nhân viên;
- Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức;
xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận
hoàn thành chương trình tiểu học vào học bạ học sinh tiểu học (nếu có) của
trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh
theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường;
- Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân
viên, học sinh; tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà
trường; thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường.
24
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và
hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật;
- Chịu trách nhiệm trước cấp trên về toàn bộ các nhiệm vụ được quy định
trong khoản 1 Điều này.
* Nhiệm vụ và quyền hạn của phó Hiệu trưởng
- Thực hiện và chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng về nhiệm vụ được Hiệu
trưởng phân công;
- Cùng với Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trước cấp trên về phần việc được giao;
- Thay mặt Hiệu trưởng điều hành hoạt động của nhà trường khi được Hiệu
trưởng uỷ quyền;
- Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và
hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
1.4.2 Những yêu cầu của việc quản lý phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
trường trung học cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về “con người”, “Phát triển con
người”, Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng và
bảo vệ Tổ Quốc đã nhất quán coi con người là trung tâm của quá trình phát triển

đất nước.
Phát triển giáo dục với phát triển kinh tế - xã hội có mối quan hệ biện
chứng và có tính “cân bằng cộng”, nên giáo dục nói chung và nhà trường nói
riêng phải luôn điều chỉnh để nâng mình lên nhằm đáp ứng được các yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của thời đại và tận dụng được những điều kiện mới mà
kinh tế - xã hội mang lại cho giáo dục.
Các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang có sự
chuyển đổi nhanh từ nền văn minh vật chất sang nền văn minh tinh thần, từ nền
kinh tế hậu công nghiệp sang nền kinh tế trí thức với sự phát triển như vũ bão
của khoa học và công nghệ, đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa và cơ chế thị trường
đã tạo ra một số đặc trưng mới của thời đại ngày nay. Sự hình thành những trung
tâm kinh tế, khoa học trên thế giới, sự thay đổi trong lao động sản xuất, sự hợp
tác và lòng tin, sự mạo hiểm, là những nhân tố cấu thành sự thành công trong
25

×