Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

TRUYỆN KIỀU - MỘT HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI TỪ THI PHÁP HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.46 KB, 9 trang )

Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 279

TRUYỆN KIỀU - MỘT HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI TỪ THI
PHÁP HỌC
Ths. Nguyễn Thị Hoa
Trường Đại học Thăng Long
Tóm tắt: Trong việc nghiên cứu phê bình Truyện Kiều (Nguyễn Du) - đỉnh cao của
nền văn học dân tộc, một trong những kiệt tác của văn học nhân loại, chúng ta thấy xuất hiện
những tên tuổi Việt Nam lớn như Đào Duy Anh, Trương Tửu, Phan Ngọc… với những
phương pháp tiếp cận khác nhau. Với lối tiếp cận thi pháp học, khác với những người khác,
Trần Đình Sử trong khi xem xét các tác phẩm văn học như một cấu trúc nghệ thuật và hệ
thống các hệ thống thủ pháp nghệ thuật đã đưa ra một cách nhìn mới, chỉ rõ bản chất sáng
tạo của Truyện Kiều, từ đấy cá tính sáng tạo của Nguyễn Du được phát lộ. Trong những
nghiên cứu trước đây Truyện Kiều chỉ được so sánh với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh
Tâm Tài nhân. Đến Trần Đình Sử, biên độ so sánh này được mở rộng ra trên những thang độ
khác nhau: Một mặt, Truyện Kiều được so sánh với Kim Vân Kiều Truyện trong không gian
văn hóa và văn học Việt Nam cũng như trong không gian văn hóa và văn học Trung Quốc;
mặt khác nó cũng được tương phản với các tác phẩm ngâm khúc và truyện Nôm trước nó và
sau nó. Qua cách tiếp cận này, Truyện Kiều hiện ra như một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn,
một sản phẩm sáng tạo của chủ thể. Từ đấy trình độ nhận thức các giá trị Truyện Kiều được
nâng lên ở một tầm mới. Và đây chính là đóng góp mới của Trần Đình Sử đối với công cuộc
nghiên cứu Truyện Kiều ở Việt Nam.
1. Truyện Kiều trong một số cách tiếp nhận
Đào Duy Anh với cuốn Khảo luận về “Truyện Thúy Kiều ” có thể được xem là người
đầu tiên nghiên cứu Truyện Kiều một cách khá toàn diện. Ông nghiên cứu bắt đầu từ tiểu sử
Nguyễn Du đến lai lịch Đoạn trường tân thanh, so sánh Kim Vân Kiều truyện với Đoạn
trường tân thanh từ đó nêu lên giá trị văn chương của Truyện Kiều. Trong cuốn sách này, ông
đã đưa ra được một số vấn đề mới quan trọng về Truyện Kiều. Trước hết là ông đặt lại vấn đề
thời điểm sáng tác Truyện Kiều. Đặc biệt ông đã so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều


truyện bắt đầu từ nội dung: “Sau khi xét qua nội dung sách Đoạn trường tân thanh và so
sánh với sách Kim Vân Kiều truyện , ta nhận thấy đại khái Nguyễn Du giữ đúng sự tích và
tầng thứ của nguyên văn, có nhiều chỗ Nguyễn Du lại dịch sát nguyên văn, không lìa một
chữ.” Nhưng đồng thời ông cũng nêu thêm những nhận định mới như: “ Phải nhận rằng
Nguyễn Du đã hoán cốt đoạt thai Kim Vân Kiều truyện mà tạo thành một tác phẩm hoàn toàn
mới. Nguyên văn thì tự thuật rất tỷ mỷ mà khô khan, chú ý đến những chi tiết không quan hệ
và hay tả thực những cảnh tượng dễ kích động tai mắt người ta. Nguyễn Du thì tự sự rất vắn
tắt, gọn gàng, chỉ kể những việc quan trọng, mà vừa tự thuật vừa nghị luận, khiến văn có
hứng thú luôn. Nguyễn Du tuy không tả thực, nhưng lại là một tay tâm lý học sành sỏi…”
[Trịnh Bá Đĩnh (tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Du, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo
dục, 2008]. Đây là nhận định khá mới mẻ và đã gợi hướng mới cho nhiều người sau. Tuy
nhiên khi bàn về nghệ thuật và giá trị văn chương thì nhiều điểm cũng lặp lại người xưa và đi
theo cái mạch: “tả người, tả cảnh, tả tình, tự thuật, đối thoại, chuyển mạch, cách dùng lời,
dùng tiếng.” Chẳng hạn ông viết “ Vô luận là tả người, tả cảnh, tả tình, Nguyễn Du khéo chọn
những chữ có nhịp điệu thích đáng nhất, có thể gây trong tâm hồn người đọc những rung
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 280

động đặc biệt, khiến người đọc có thể thấy người, thấy cảnh, hay cảm động thiết tha, như
chính người trong cuộc vậy. Khi tả ý thì những chữ thích đáng khiến ta đã nhận đúng đắn mà
còn tưởng tượng được thêm bao nhiêu ý tứ ở ngoài lời” [Trịnh Bá Đĩnh (tuyển chọn và giới
thiệu), Nguyễn Du, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2008]. Hay như có đoạn viết: “ Ta
thấy trong cách dùng tỷ dụ, điển cố, thành ngữ, tục ngữ, Nguyễn Du có cái tài biến hóa những
chữ cũ rích thành mới mẻ tươi tắn. Nguyễn Du lại còn có cái tài biến hóa những chữ tầm
thường và thô tục thành ra thú vị, hay thanh tao nữa ”[ Trịnh Bá Đĩnh (tuyển chọn và giới
thiệu), Nguyễn Du, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2008].
Mặc dù vẫn đi theo lối phê bình truyền thống của người xưa nhưng Đào Duy Anh
cũng đã có nhiều phát hiện có giá trị về Truyện Kiều. Đặc biệt, ông đề ra khái niệm “tâm sự”
Nguyễn Du như một chìa khóa để hiểu động cơ sáng tác cũng như nội dung Truyện Kiều. Có

thể nói, đi tìm tâm sự Nguyễn Du, tâm sự hoài Lê ở Truyện Kiều là một xu hướng nghiên cứu
thu hút được nhiều người đi theo, tạo thành một khuynh hướng lớn.
Một cách tiếp cận Truyện Kiều khác cũng gây được sự chú ý của dư luận là của
Trương Tửu với cuốn Nguyễn Du và Truyện Kiều. Đây có thể nói là một bước chuyển đáng
chú ý trong nghiên cứu phê bình Truyện Kiều từ cách phê bình điểm, trực giác sang phương
pháp phân tích khoa học. Theo Trương Tửu: “Bổn phận nhà phê bình không phải chỉ tìm ra
tâm sự nhà văn trong tác phẩm văn chương. Nhà phê bình cần phải tìm hiểu đến cá tính nhà
văn - vì cái này mới là tất cả nhà văn. Cái này mới thành thực, không bị che đậy hoặc xuyên
tạc được. Nó là cái phần sâu thẳm nhất, tiềm tàng nhất, mạnh mẽ nhất của cơ thể, của khối óc,
của tâm hồn. Cá tính đó mới là cái phần cống hiến riêng của nhà văn đem dâng trong linh từ
văn học”[Trương Tửu, Nguyễn Du và Truyện Kiều, Hàn Thuyên, 1942]. Để tìm hiểu cá tính
của Nguyễn Du, Trương Tửu tìm hiểu thông qua huyết thống, quê hương và thời đại mà
Nguyễn Du sống. Mang trong mình dòng máu của một dòng họ nho sĩ thư lại có tài văn
chương, được sự bồi đắp của vùng đất Nghệ anh hùng và đất mẹ - vùng quê văn hóa Kinh
Bắc, lại sống trong một thời đại rối ren nhiều biến động tất cả những điều ấy đã tác động rất
lớn đến Nguyễn Du. Tuy nhiên, sự tác động ấy lại không phải là tác động đến nhà thơ ở các
phần nổi của nó, mà là phần chìm, hay đúng hơn là cái phần chìm đó “kết tinh, ngưng kết
thành cá tính Nguyễn Du”. Cũng theo Trương Tửu, con người đích thực của Nguyễn Du, con
người Nguyễn Du trong Nguyễn Du không phải chỉ là con người xã hội đã nặng mang tâm sự
hoài Lê mà đúng hơn là “ kẻ mang tâm bệnh”. Đặc biệt là cái bệnh đa sầu đa cảm ở Nguyễn
Du. Từ đó, Trương Tửu kết luận Truyện Kiều của Nguyễn Du là kết quả của những “ảo giác”:
“ Ta có thể nói rằng vai chính trong truyện không phải là Thúy Kiều, không phải là Kim
Trọng, không phải là Thúc Sinh, Từ Hải không, vai chính không phải là những người còn
đang sống ấy. Vai chính chỉ là một oan hồn vất vưởng dưới âm ty, của một con ma hiện lên
trong các giấc mơ, bên giường bệnh vai chính của Truyện là Đạm Tiên”[ Trương Tửu,
Nguyễn Du và Truyện Kiều, Hàn Thuyên, 1942].
Từ tất cả những yếu tố ấy, Trương Tửu đi đến kết luận: “ Ngần ấy yếu tố sinh lý và
tâm lý đã tạo nên cá tính Nguyễn Du. Trong đời sống thì cá tính ấy là một tính lãng mạn,
trầm muộn, thích cô liêu, thèm an nhàn, mộng mị, ghét những hoàn cảnh mới lạ. Trong văn
chương thì nó là sự rung động thành thực và mãnh liệt, sự tưởng tượng dồi dào, sự cảm xúc

ủy mị và bi thương, sự cảm thông với đồng loại đau khổ và thần linh”. Và do đó ‘Truyện
Kiều đã kết tinh được cá tính ấy một cách hoàn thiện cũng như nó đã kết tinh được đẳng cấp
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 281

tính Nguyên Du và phản chiếu đầy đủ xã hội đương thời với Nguyễn Du - một xã hội ốm,
một đẳng cấp ốm, một cá tính ốm - tất cả Truyện Kiều là ở đó” [Trương Tửu, Nguyễn Du và
Truyện Kiều, Hàn Thuyên, 1942].
Ngoài ra trong phần “ Truyện Kiều”, Trương Tửu còn lần lượt xem xét, nghiên cứu
tâm lý và hành vi từng vai trò quan hệ trong truyện để xem mỗi nhân vật ấy đã phản chiếu cá
tính Nguyễn Du ở khía cạnh nào, với những màu sắc đặc biệt nào
Có thể nói với Nguyễn Du và Truyện Kiều của Trương Tửu, nghiên cứu phê bình
Truyện Kiều nói riêng và nghiên cứu phê bình văn học nói chung đã đạt được một cột mốc
mới. Bởi lẽ “ Từ tâm sự đến cá tính là hành trình từ con người xã hội, bề mặt đến con người
tâm lí, bề sâu, từ con người hữu thức đến con người tiềm thức. Với khái niệm - chìa khóa cá
tính Nguyễn Du, một mặt, nhà phê bình Trương Tửu đã lý giải được những động lực sáng tác,
một thứ tâm lí học sáng tạo ở nhà thơ, mặt khác, phát hiện soi sáng một cách khoa học, khách
quan những đặc sắc nghệ thuật ở Truyện Kiều” (Đỗ Lai Thúy).
Mặc dù đóng góp của Trương Tửu ở phương diện phương pháp nghiên cứu là rất lớn
nhưng trong công trình của mình, Trương Tửu nghiêng hẳn về nghiên cứu bệnh lý nên không
tránh khỏi suy diễn, máy móc, áp đặt. Do đó, mặc dù, ông đã nêu được phần nào phẩm chất
thẩm mĩ của Truyện Kiều và giá trị nghệ thuật của nó nhưng vẫn còn lệch lạc, phiến diện.
Một bước tiến mới trong nghiên cứu phê bình Truyện Kiều theo một quan niệm mới
được đánh dấu bằng công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”(1985,)
của Phan Ngọc. Thành công của Phan Ngọc là đã xem xét Truyện Kiều của Nguyễn Du như
một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn trên cở sở lối tiếp cận “thao tác luận”. Ông đã thực hiện
một loạt những đối lập Truyện Kiều với tất cả những gì liên quan đến Truyện Kiều trước đó
để tìm ra bước đổi mới của Nguyễn Du. Trước hết là đối lập với Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân để chứng minh rằng tư tưởng tài mệnh tương đố là của riêng Nguyễn

Du. Bởi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xóa bỏ cái chủ đề tình và khổ của Thanh Tâm Tài
Nhân để thay vào đó triết lý tài mệnh tương đố. Cũng đối lập với Kim Vân Kiều truyện , Phan
Ngọc đã làm nổi bật phương pháp tự sự của Truyện Kiều bằng các biện pháp như gạt bỏ âm
mưu, lập hồ sơ, rút gọn sự việc đây là những nhận xét rất đúng, rất tinh tế của Phan Ngọc.
Đối lập với các truyện Nôm trước đó, Phan Ngọc đã đi sâu vào những cống hiến mới của
Nguyễn Du như bố cục Truyện Kiều theo yêu cầu của kịch, xuất hiện ngôn ngữ tác giả, ngôn
ngữ nhân vật, xuất hiện nhân vật “ngồi một mình”, phương pháp phân tích tâm lý tàn nhẫn
để từ đó đi đến kết luận Truyện Kiều là một cuốn tiểu thuyết tâm lý. Đây quả thực là những
vấn đề hết sức mới mẻ trong Truyện Kiều mà Phan Ngọc là người đầu tiên đề cập đến. Cũng
bằng những đối lập mà Phan Ngọc đã tìm thấy những đặc sắc độc đáo của Nguyễn Du trong
kiến trúc câu thơ, trong ngôn ngữ, trong ngữ pháp. Từ đó Phan Ngọc đi đến khẳng định
Truyện Kiều là một sáng tạo nghệ thuật mới mẻ với những nguyên tắc sáng tạo riêng, chưa
từng có trong truyền thống nghệ thuật của Trung Quốc và cả của Việt Nam. Có thể nói phê
bình phong cách học đã giúp Phan Ngọc phát hiện ra những điều chưa từng được nói đến ở
các nhà nghiên cứu trước đó về Truyện Kiều. Nhưng theo Trần Đình sử, “quan niệm xem
phong cách chỉ như một lựa chọn chưa cho phép thấy hết sự sáng tạo của Nguyễn Du và mặt
khác, sự khái quát của tác giả nhiều chỗ vượt quá yêu cầu chừng mực của những kết luận
khoa học”.

Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 282

2. Thi pháp Truyện Kiều
Một mặt đã tiếp thu tất cả những thành tựu của người đi trước, mặt khác, bằng công
cụ mới là thi pháp học, Trần Đình Sử đã nghiên cứu Truyện Kiều trước hết và chủ yếu ở
phương diện hình thức có tính quan niệm, tức nghệ thuật.
Với Truyện Kiều, theo Trần Đình Sử: “chỉ có khám phá về mặt thi pháp thì mới có thể
vạch ra thực chất sáng tạo của Nguyễn Du trong một tác phẩm mà bề ngoài có vẻ như là
phiên dịch, phỏng tác, chuyển thể Và cũng chỉ có qua nghiên cứu thi pháp mới có thể xác

định cụ thể vai trò, địa vị của tác phẩm Truyện Kiều trên tiến trình văn học cổ điển Việt Nam.
Vai trò tổng kết tập đại thành của nó và ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với đời sau”[Nguyễn
Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi
pháp học, 2000]. Đồng thời, bằng cách tiếp cận của thi pháp học hiện đại, Trần Đình sử đã
thổi một luồng gió mới trong cách tiếp nhận Truyện Kiều.
Nghiên cứu tìm hiểu Truyện Kiều, Trần Đình sử đã xem Truyện Kiều như một đối
tượng của văn học so sánh. Thực ra trước đây, các tác giả Đào Duy Anh, Phan Ngọc cũng đã
có ý thức đặt Truyện Kiều trong mối quan hệ so sánh với Kim Vân Kiều truyện nhưng đó là
cái nhìn chưa thực sự toàn vẹn và hoàn chỉnh. Với Thi pháp Truyện Kiều, một mặt Trần Đình
sử đã so sánh Truyện Kiều với văn hóa, văn học Trung Quốc. Đây là một việc làm có ý nghĩa
quan trọng đặc biệt do mối quan hệ văn hóa lâu đời của hai dân tộc. Tuy nhiên so sánh nghiên
cứu Truyện Kiều hôm nay không thể đóng khung trong phạm vi so sánh tay đôi giữa hai tác
phẩm Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện . Vì thế Trần Đình sử đã xem xét Truyện Kiều
trong mối quan hệ với đạo Phật, Truyện Kiều trong mối quan hộ với Nho giáo, Truyện Kiều
với tiểu thuyết tài tử giai nhân, Truyện Kiều trong mối quan hệ với thơ ca cổ điển Trung
Quốc, ở đây, Trần Đình Sử cũng đã đặc biệt chú ý so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều
truyện . Đây là sự so sánh có ý nghĩa trực tiếp bởi Nguyễn Du đã vay mượn cốt truyện, nhân
vật, tình tiết của nó. Từ chỗ so sánh về chủ đề, về cốt truyện, nhân vật, phong cách học Trần
Đình sử đã chỉ ra rằng Truyện Kiều không hề đơn giản là tác phẩm vay mượn mà “là sản
phẩm của đời sống tinh thần Việt Nam, là kết quả lôgich của quá trình văn học Việt Nam, sự
phát triển nội tại của nhận thức đời sống, của tiếng Việt nghệ thuật, sự chín muồi về thể thơ
lục bát và truyện thơ Nôm”[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB
Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000].
Mặt khác, Trần Đình sử cũng xem xét Truyện Kiều với văn hóa, văn học Việt Nam,
đặt Truyện Kiều trong mối quan hệ với ngâm khúc và thơ Nôm, những thể loại văn học
truyền thống của dân tộc. Về điểm này, Phan Ngọc là người đầu tiên nêu lên ảnh hưởng của
thể thơ song thất lục bát đối với Truyện Kiều, tuy vậy ông thiên về nhận định nhiều hơn là
chứng minh. Đồng thời chỉ nêu mỗi ảnh hưởng của thể thơ song thất lục bát thì e rằng là còn
chưa thấy hết sự tổng hợp và kết tinh các sáng tác trước Truyện Kiều để đạt đến đỉnh cao. Với
Trần Đình Sử, có lẽ ông hơn hẳn những người đi trước, bởi ông đã biết đặt Truyện Kiều trong

dòng chảy của văn học Việt Nam: “ở đây có vấn đề thể loại truyện Nôm trước Truyện Kiều,
những tiền đề nghệ thuật để có bước nhảy vọt về chất ở Truyện Kiều. Ở đây có vai trò của thể
ngâm, không phải chỉ là thể song thất lục bát, mà chính là lời văn vừa tự sự vừa trữ tình của
nó (tự tình), ở đây có đặc điểm của Hoa Tiên trong việc tiếp nhận một ca bản, vừa có yếu tố
tự sự, vừa có yếu tố trữ tình. Và hơn nữa, các sáng tác trước Truyện Kiều đã tạo ra những
dòng cảm hứng văn học , mà theo văn mạch ấy Truyện Kiều đã đạt được đỉnh cao. Truyện
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 283

Kiều đã được chuẩn bị trước về cấu trúc tự sự và giọng điệu, đến lượt mình Nguyễn Du đã
tạo ra một chất lượng mới về mọi mặt”[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình
Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000]. Xét về nội dung, Truyện
Kiều đã tiếp tục những vấn đề của ngâm khúc và truyện Nôm trước đó để thực sự đạt được
đỉnh cao của thể loại truyện Nôm. Xét về hình thức, Truyện Kiều đã phát triển những nét mới
trong thi pháp truyện Nôm và ngâm khúc lên một trình độ cao chưa từng có.
(
Truyện Kiều là
sự kết tinh kỳ diệu các thành tựu nghệ thuật văn học tiếng Việt của thời đại Nguyễn
Du”[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những
công trình thi pháp học, 2000].
Tiếp đến, Trần Đình sử đi sâu tìm hiểu, khám phá thế giới nghệ thuật của Truyện
Kiều. Với ông, sáng tạo của Nguyễn Du bắt đầu là từ chủ đề tư tưởng mới. Trước đây, Phan
Ngọc đã từng chỉ ra rằng về mặt tư tưởng, “tài mệnh tương đố” là sáng tạo của Nguyễn Du,
không phải vay mượn. Đó là một khám phá mới, hết sức thú vị. Nhưng theo Trần Đình Sử “
bảo rằng tài mệnh tương đố là chủ đề của Truyện Kiều thì chủ đề này không thể có tính phổ
quát được, bởi vì không phải ai ai cũng có tài[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần
Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000]. Vì thế “chủ đề cơ bản
của Truyện Kiều là thân mệnh tương đố và đó là sự phản ánh tình trạng khổ nạn sâu nặng,
phổ biến của kiếp người mà Nguyễn Du đã trông thấy và thể nghiệm”[Nguyễn Đăng Điệp

(biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học,
2000]. Đây là một phát hiện độc đáo và khá chính xác của Trần Đình Sử. Bởi, đặt chữ thân
này vào thời đại Nguyễn Du ta sẽ thấy có một dòng chảy của chủ nghĩa nhân đạo Ìấy chữ
thân làm nền tảng mà Truyện Kiều là đỉnh cao.
Một điểm sáng tạo nữa của Nguyễn Du là ở chỗ, vay mượn hệ thống nhân vật và sự
kiện của Kim Vân Kiều truyện nhưng ông đã có những sáng tạo mới. Đó là ông đã biến nhân
vật chính từ con người đạo lý thành con người tâm lý. Chính điều này làm cho Nguyễn Du
“đổi thay điểm nhìn trần thuật: không phải kể chuyện từ bên ngoài, mà kể theo cái nhìn của
nhân vật, từ tâm trạng nhân vật mà nhìn ra” [Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần
Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000]. Từ đó, Trần Đình Sử
đi đến kết luận: “Bằng cách đổi mới tư tưởng, đổi thay trọng tâm miêu tả nhân vật, đổi mới
điểm nhìn trần thuật, Nguyễn Du đã sáng tạo lại Truyện Kiều, biến một tiểu thuyết tài tử giai
nhân thành một tiểu thuyết tâm lý, đưa vào một người kể chuyện mới, tổng hợp các truyền
thống văn học Việt Nam và Trung Quốc, truyền thống tự sự và nhất là trữ tình, để tạo ra một
kiệt tác vô song trong văn học Việt Nam và văn học thế giới”[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn)
Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000].
Điều đặc biệt trong cách tiếp cận thi pháp học của Trần Đình Sử là đã chỉ ra một hộ
thống các quan niệm nghệ thuật mới trong Truyện Kiểu. Đó là quan niệm nghệ thuật về con
người, không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, mô hình tự sự và ngôn ngữ nghệ
thuật, những quan niệm mà chỉ đến Trần Đình Sử mới được xác lập.
Truyện Kiều trước hết đã đổi mới cái nhìn nghệ thuật về con người, chứ không đơn
giản thay đổi vài nét tính cách nhân vật, tức là có một quan niệm mới về con người làm nền
tảng cho sự miêu tả. Đó là quan niệm con người “đấng bậc”. Ngoài ra, trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du còn cảm nhận con người theo một “cảm quan cây lá hoa trái” của dân tộc nông
nghiệp lâu đời, là sự tiếp thu quan niệm “con người tỏ lòng” nhưng đã chuyển cảm hứng từ
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 284

“tỏ lòng” sang “thế giới tấm lòng”. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã hiểu con người như một

tấm lòng, tức một dòng tâm lý, tâm trạng. Với quan niệm đó nhân vật của Nguyễn Du phong
phú hơn, gần gũi hơn, hiện thực hơn. “Nó cảm nhận được thời gian chảy trôi vô thường, cảm
nhận không gian lưu lạc nổi nênh, cảm nhận được những biến thái của thế giới, từ cảm nhận
màu sắc, hương thơm đến cảm giác đạo đức, cảm giác về ngoại cảnh của con người”[Nguyễn
Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi
pháp học, 2000].
Nguyễn Du đã vượt qua mô hình tự sự thịnh hành trong các tiểu thuyết chương hồi để
xây dựng một mô hình tự sự mới, một cách kể mới theo ngôi thứ ba mang điểm nhìn chủ
quan của các nhân vật. Chính điểm nhìn chủ quan ấy đã làm cho Truyện Kiều trở thành một
loại truyện Nôm mới, hơn hẳn các truyện Nôm trước đó, một “truyện Nôm tâm lý”, “truyện
Nôm tiểu thuyết”, “truyện Nôm nghệ thuật”, “truyện Nôm nghệ sĩ”. Nguyễn Du cũng đã sử
dựng thành công một cách cổ điển lời độc thoại nội tâm (dòng ý thức, lời nửa trực tiếp) trong
tự sự. Từ một tiểu thuyết tự sự, Nguyễn Du đã chuyển thành “một tác phẩm thơ có sức lay
động mạnh mẽ” [Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập
1: Những công trình thi pháp học, 2000]. Đặc biệt, Trần Đình Sử đã phát hiện ra một chủ
nghĩa cảm thương trong Truyện Kiều. Đây có thể nói là một trong số những phát hiện giàu ý
nghĩa mà thi pháp học đã mang lại cho Truyện Kiều: “Truyện Kiều như nhiều người nhận xét,
có yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn, song theo chúng tôi, yếu tố cảm thương mới là cảm
hứng chủ đạo bao trùm của tác giả và tác phẩm, nó làm cho tác phẩm gần gũi với loại hình
sáng tác chủ nghĩa tình cảm trên thế giới, xuất hiện như là một biến thể phương Đông”
[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công
trình thi pháp học, 2000].
Vậy là với Trần Đình Sử, bằng cách tiếp cận thi pháp học, ông muốn tìm hiểu Truyện
Kiều như một chỉnh thể toàn vẹn, nhìn Truyện Kiều vối tư cách là một sản phẩm sáng tạo của
chủ thể, khám phá ý thức chủ thể trong tác phẩm bao gồm cái nhìn, điểm nhìn nghệ thuật, mô
hình tự sự và ngôn ngữ của tác phẩm. Chính vì cái nhìn hệ thống ấy mà trình độ tiếp nhận các
giá trị của Truyện Kiều được nâng lên một tầm mức mới.
3. Truyện Kiều với cuộc sống hôm nay
Thi pháp học đã mở ra một chặng đường mới - chặng đường tiếp nhận Truyện Kiều
như một sáng tạo nghệ thuật. Cái gì rồi sẽ tiếp theo ? Điều này chưa thể biết hết. Bởi “ Truyện

Kiều vẫn còn nhiều ẩn số như ngọn núi cao ẩn tàng trong tầng mây xa, như núi băng đầm
mình trong lòng biển thẳm”. Nhưng có một điều chắc chắn rằng Truyện Kiều sẽ không bao
giờ vắng bóng trên thi đàn và trong tâm thức Việt Nam. Bởi cái hay cái đẹp của Truyện Kiều
không chỉ được tạo nên từ sự tổng hòa của nghệ thuật sáng tạo và nội dung tư tưởng đầy tinh
thần nhân đạo mang tính nhân văn sâu sắc mà còn chính vì các vấn đề mà Truyện Kiều đặt ra
vẫn có giá trị cho đến muôn đời.
Liên hệ Truyện Kiều với cuộc sống, chúng ta nhận thấy nhiều vấn đề mà Nguyễn Du
phản ánh ngày hôm qua chính là vấn đề của ngày hôm nay. Trước hết đó là sự tố cáo gay gắt
sức mạnh của đồng tiền:
- “ Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
- “ Có ba trăm lạng việc này mới xong”
- “ Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê”…
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 285

Trong Truyện Kiều, đồng tiền len lỏi vào khắp chốn, khắp nơi, vào mọi tầng lớp xã
hội, chi phối tâm lý một bộ phận lớn những con người trong xã hội này. Ở đây quan lại có kẻ
vì tiền mà hành hạ con người, nho sĩ có kẻ vì tiền mà lưu manh hóa, bọn buôn thịt bán người
tất cả vì tiền mà bày biện ra trăm phương nghìn kế để bẫy người phụ nữ, bắt họ phải đem thân
ra làm món hàng để buôn bán cho chúng kiếm chác. Đồng tiền ăn sâu vào tâm lý con người
đến nỗi mà Mã Giám Sinh trước tài hoa và nhan sắc của Thúy Kiều chỉ biết cân đo trả giá.
Còn Tú Bà thì mừng cuống lên khi thấy Mã Giám Sinh mua được Thúy Kiều, rồi tức đến lộn
ruột khi biết Kiều thất thân với Mã, và run sợ mặt tái mét khi thấy Kiều rút dao ra toan tự tử.
Đặc biệt trong Truyện Kiều, Nguyễn Du lên án gay gắt đồng tiền nhất là lên án đồng tiền
trong tay bọn quan lại, trong tay kẻ xấu đã gây họa cho con người. Đồng tiền ấy với một ma
lực ghê gớm có thể “đổi trắng thay đen”, đày đọa, chà đạp lên hạnh phúc và nhân phẩm của
con người.
Tố cáo xã hội đồng tiền, Nguyễn Du đồng thời bộc lộ sự cảm thông sâu sắc đối với số
phận con người. Có thể nói, Truyện Kiều là bức tranh rộng lớn về cuộc sống, thời đại nhà thơ

đang sống . Trong đó Nguyễn Du muốn làm nổi bật sự đối lập gay gắt giữa quyền sống của
con người, nhất là của người phụ nữ với sự áp bức của chế độ phong kiến trong lúc suy tàn.
Đó là quyền được sống, quyền được yêu, quyền được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ mà
bất cứ thời đại nào cũng là vấn đề nhức nhối. Đây phải chăng chính là vấn đề nữ quyền, là bất
bình đẳng giới mà xã hội hôm nay đang hết sức quan tâm đã được Nguyễn Du đặt ra cách đây
hàng thế kỷ.
Qua tập truyện của Nguyễn Du, dõi theo từng bước đi của Thúy Kiều, người ta thấy
những cảnh đáng thương nhất của người phụ nữ trong xã hội phong kiến : Một gia đình tan
nát dưới chế độ bất công, mối tình duyên đứt đoạn của một cặp đôi trai tài gái sắc, cảnh cô
thiếu nữ bị mua đi bán về trên tay những kẻ buôn thịt bán người, bị đày đọa trong chốn thanh
lâu, hy sinh cho thú tính của một hạng người ích kỷ, cảnh người đàn bà lấy lẽ, đi làm nô tì
dưới một chế độ bán nô lệ. Kiều chính là hiện thân cho hình ảnh những người phụ nữ trong xã
hội cũ bị đày đọa với những cảnh sống éo le, đau đớn. Lời than vãn của Kiều là tiếng nức nở
của tất cả những người đàn bà bị đày đọa và chính cũng là lời cảm thương sâu sắc của
Nguyễn Du :
“ Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Sự xấu xa, tàn bạo của xã hội phong kiến càng được đẩy lên cao hơn khi sống trong xẫ
hội ấy, Kiều, dù biết bao lần bị nhấn xuống bùn đen, vẫn lại là một con người có ý thức làm
người. Có thể nói trong văn học quá khứ của Việt Nam, hiếm có một nhân vật thứ hai nào có
ý thức về cuộc sống, ý thức làm người rõ rệt, sâu sắc như Thúy Kiều. Thúy Kiều là nhân vật
luôn luôn tự ý thức để nhận thức cho đúng mọi quan hệ xã hội, đồng thời không ngừng vươn
lên ở những đỉnh cao của giá trị làm người. Trong tác phẩm của Nguyễn Du, Thúy Kiều
không bao giờ là con rối trong bàn tay định mệnh đã đành, Thúy Kiều cũng không bao giờ
buông xuôi, mặc cho cuộc sống muốn kéo mình đến đâu hay đó, mà Thúy Kiều luôn luôn có ý
thức chống đối.
Nhận thức định mệnh là nghiệt ngã, Thúy Kiều đến với tình yêu của Kim Trọng - một
thứ tình yêu “phá cũi sổ lồng” như là một cách chống đối lại số phận, chống đối lễ giáo phong
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II


Trường Đại học Thăng Long 286

kiến đương thời. Mắc lừa Mã Giám Sinh, bị đẩy đến nhà chứa của Tú Bà, Thúy Kiều rút dao
tự tử. Đó là một hành động chống đối quyết liệt. Trốn với Sở Khanh, xét cho cùng cũng là
hành động chống đối: chống lại cảnh nhà chứa của Tú Bà. Thất bại, mắc mưu Tú Bà, phải
chấp nhận việc làm đĩ, tiếp khách, phải ngồi nghe mụ dạy cho cái nghiệp mua son bán phấn,
Thúy Kiều thực sự cảm nhận được tất cả cái bỉ ổi, ô nhục, kinh tởm không thể nào chịu được
của nó. Bằng bất cứ giá nào Thúy Kiều cũng phải thoát ra cho được. Không có tình yêu thì
tìm lấy một tình thương, một sự cứu vớt. Thúy Kiều đã tìm thấy tình thương và sự cứu vớt ấy
ở Thúc Sinh, một con người lắm tiền, nhiều của, nhưng “cạn lòng” và có cánh tay quá yếu.
Kết quả là Thúy Kiều bị viên quan xử kiện đánh đòn, bị mẹ con Hoạn Thư hành hạ, để cuối
cùng không cách nào khác lại rơi vào nhà chứa một lần nữa.
Sau bao nhiêu lần Thúy Kiều chống đối và thất bại, không có cách nào thoát khỏi gầm
trời của xã hội phong kiến:
“Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”
nhưng Thúy Kiều vẫn không buông xuôi. Trong hành viện của Bạc Hà, Bạc Hạnh, nàng gặp
một con người “hơn đời trí dũng” đến và yêu nàng. Thúy Kiều đã đi với Từ Hải, đã yêu Từ
Hải tha thiết. Những ngày sống với Từ Hải, Thúy Kiều không phải chỉ được sung sướng, mà
căn bản là được trả lại nhân phẩm. Phiên tòa Từ Hải lập ra Thúy Kiều trực tiếp xét xử, không
phải chỉ có ý nghĩa báo thù và trả ơn, mà còn thể hiện sự đề cao nhân phẩm của Thúy Kiều.
Tiếc thay, Từ Hải đến trong cuộc đời Thúy Kiều quá muộn. Lần cuối cùng Kiều nhảy xuống
sông Tiền Đường tự tử, đó cũng là một cách chống đối khi nàng tự ý thức và không chấp nhận
cái cảnh “giết chồng rồi lại lấy chồng”.
Như vậy là cách đây hơn 200 năm, Nguyễn Du đã đặt ra vấn đề số phận người phụ nữ,
lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho họ. Đó là tiếng nói thể hiện tư tưởng nữ
quyền, đòi hỏi sự bình đẳng cho người phụ nữ. Tiếng nói ấy cất lên ngay chính trong lòng xã
hội phong kiến đã thể hiện được tầm tư tưởng lớn lao vượt thời đại của đại thi hào Nguyễn
Du.
Cuộc sống như một dòng chảy bất tận, rồi cái mới hôm nay sẽ được thay thế bởi cái

mới ngày mai. Điều đó cũng có nghĩa là sẽ còn rất nhiều cách tiếp cận cũng như ý kiến đánh
giá khác nhau về Truyện Kiều. Nhưng dù cuộc sống có đổi thay như thế nào, quan niệm có
khác nhau bao nhiêu thì Truyện Kiều vẫn luôn là một áng văn chương bất hủ của dân tộc bởi
vấn đề mà Truyện Kiều đặt ra không chỉ đúng với thời đại Nguyễn Du mà vẫn còn nguyên giá
trị cho đến tận hôm nay và mai sau.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1:
Những công trình thi pháp học, 2000
[2]. Trương Tửu, Nguyễn Du và Truyện Kiều, Hàn Thuyên, 1942
[3]. Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Khoa học
xã hội, 1985
[4]. Trịnh Bá Đĩnh (tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Du, về tác gia và tác phẩm,
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II

Trường Đại học Thăng Long 287

NXB Giáo dục, 2008
[5]. Lã Nguyên, Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử và giới hạn của những cách
đọc, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9, 2004
Abstract: In the criticism studies on “Truyen Kieu” by Nguyen Du - the zenith of
national literature as well as one of the most outstanding masterpieces of mankind literature,
we can see some well-known Vietnamese faces with their different approaches such as Đao
Duy Anh, Truong Tuu, Phan Ngoc ect.Unlike the others, Tran Đinh Su as a literature
Researcher with his own poetic approach- so called holistic approach, the main spirit of
which considers literacy works as an art structure and as a system of artistic manners has
opened a new view to the studies on Truyen Kieu showing us “The creative nature of Truyen
Kieu” and “Nguyen Du’s creative individual/ character”. In the previous study works by the
other critics, Truyen Kieu is compared only with “Kim Van Kieu Truyen” by Thanh Tam Tai
nhan (a Chinese writer). This comparision enlarged by Tran Đinh Su on the different scales.
Truyen Kieu is viewed and compared with Kim Van Kieu Truyen in the atmosphere of

Vietnam’s culture and literature as well as in the environment of China’s culture and
literature on one hand; it is also contrasted with the other declamation verses and the poem-
narration works at a later and earlier time than it, on the other hand.
Though the unique approach, Truyen Kieu is showed up as a whole art entirety as well as a
creative product of subject-writer; From this the cognition of the values of Truyen Kieu has
been improved and upgraded to a new, higher level. And, that is Tran Đinh Su’s new
contribution to the studies on Truyen Kieu in Vietnam.

×